I. DẪN NHẬP
Trong cuộc sống, ai ai cũng muốn mình được sống trong một thế giới hoà bình, một quốc gia hưng thịnh, hạnh phúc. Có những người còn mơ ước cao xa hơn như xây dựng cuộc đời này thành một cảnh giới “thiên đàng trần thế” hay “bồng lai tiên cảnh”. Những tư tưởng đó, như ta thấy, được thể hiện từ rất xưa như ở Trung Quốc thì có lí tưởng “thế giới đại đồng” của Nho Giáo; một “nước chúa” của Thiên Chúa giáo; hay một “nhân gian tịnh độ” của Phật giáo v.v… Tuy tên gọi không giống nhau nhưng với những tư tưởng như vậy phần nào nó đã thể hiện một ước muốn chung nhất, một ước muốn đem lại hạnh phúc hoà bình cho toàn nhân loại nói chung và cho đồng bào dân tộc trong một đất nước nói riêng.
Cũng với những tâm tư và nguyện vọng ấy, Platon, một triết gia cổ Hy lạp đã vạch ra một con đường để xây dựng một “quốc gia lý tưởng”, một quốc gia theo ông là hoàn hảo nhất mà con người có thể đạt được. Platon được xem là một trong những triết gia cổ đại xuất sắc nhất với rất nhiều ý tưởng vĩ đại. Nói về ông như nói về một bộ bách khoa toàn thư. Suốt một cuộc đời đầy khó khăn gian khổ, ông đã hy sinh tất cả để rao giảng những vấn đề triết học, những đạo lý trong cuộc sống làm người. Tuy nhiên, vấn đề xây dựng một xã hội lành mạnh, ấm êm là mong muốn mãnh liệt và to lớn nhất của ông. Có lẽ vì vậy nên ông đã dành phần lớn những trang sách trong thiên đối thoại Republic (nền Cộng Hoà) để trình bày, mô tả những phương cách và ý tưởng ấy.
Chính vì thế, để hiểu biết về triết học phương Tây, chúng ta không thể không tìm hiểu sơ về tư tưởng Chính trị xã hội của ông, tư tưởng mà đã gây nhiều ảnh hưởng cũng như bàn cãi nhất. Tất nhiên, với một bài viết ngắn của một kỳ thi cuối mùa ắt không thể nào trình bày đầy đủ những vấn đề trong đó. Do vậy, ở đây chỉ xin trình bày sơ lược như là tiền đề cho những lần nghiên cứu về sau.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
Hy Lạp là một quốc gia rộng lớn nằm ở cực nam châu Âu với điều kiện mưa thuận gió hoà rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, và với lợi thế các mặt gần như tiếp giáp với biển nên Hy Lạp rất thuận lợi trong công việc buôn bán, phát triển kinh tế, thủ công nghiệp và các ngành khoa học khác. Ngay từ cổ đại, Hy Lạp đã phát triển mạnh về thủ công, nông và thương nghiệp làm tiền đề cho văn minh Hy lạp ra đời.
Sau khi chế độ Công xã nguyên thuỷ tan rã, chế độ Chiếm hữu nô lệ ra đời, trong đó, giai cấp chủ nô có toàn quyền còn dân nô lệ chỉ là hạng người phục dịch sản xuất. Đây là chế độ xã hội tàn bạo và khốc liệt nhất trong các xã hội loài người. Sau khi chế độ đẳng cấp này ra đời, đời sống xã hội bắt đầu phát triển, rồi dần dần các tỉnh thành của Hy Lạp cũng được thành lập với mục đích làm nơi điều khiển, bảo vệ những quyền lợi của giai cấp thống trị. Và là cơ sở cho văn hoá, khoa học, nghệ thuật, triết học Hy Lạp phát triển.
Đồng thời với các sự phát triển các mặt của xã hội thì nền chính trị cũng bắt đầu có những xáo trộn, mâu thuẩn tạo nên sự đấu tranh, tranh giành quyền lực của các giai cấp Chủ nô dân chủ và Chủ nô quý tộc. Những cuộc đấu tranh này được phản ánh rõ rệt trong lịch sử triết học Hy Lạp.[1] Và từ đó xã hội Hya Lạp được phân thành hai giai cấp chính đó là Giai cấp quý tộc và gia cấp dân chủ.
III. CÁC QUAN NIỆM VỀ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TRƯỚC PLATON
Như chúng ta được biết, trước Socrate, các triết gia cổ đại Hy Lạp chỉ chuyên nghiên cứu về những vấn đề tự nhiên, nguồn gốc của vạn vật vũ trụ mà chưa mấy quan tâm tới vấn đề cuộc sống xã hội loài người. Thỉnh thoảng ta mới bắt gặp một vài khái niệm về chính trị xã hội. Chỉ từ Socrate trở về sau, nền triết học Hy Lạp mới thực sự nghiên cứu về loài người trong đó có những vấn đề về chính trị xã hội. Tuy nhiên, ta hãy thử nghe những triết gia đó nói như thế nào về chính trị xã hội.
1. Quan Niệm Của Héraclite (530-470 tr.cn)
“Đấu tranh là nguồn gốc của sự hiện hữu và khởi nguyên của sự sống và tồn tại”.[2] Ông cho rằng đấu tranh là điều kiện để hài hoà. Chiến tranh phân hoá xã hội làm cho người này thành thế này, người kia thành thế kia. Thông qua đấu tranh, bản chất của sự vật được bộc lộ và nhờ đó con người mới nhận chân được sự vật. Về chính trị xã hội ông đứng trên lập trường của chủ nô quý tộc mà chống đối quyết liệt tầng lớp chủ nô dân chủ. Ông cũng tỏ ra khinh miệt tầng lớp quần chúng và yêu cầu đàn áp triệt để bất cứ cuộc khởi nghĩa nào của quần chúng nhân dân. Ông đề cao vai trò của cá nhân xuất sắc, đối với ông, một người ưu tú thì hơn cả vạn người bình thường.
2. Quan Niệm Của Pythagore (571-497 tr. cn)
Bản chất của trường phái do ông sáng lập không chỉ là triết học mà là một tổ chức chính trị. Cũng giống như của Héraclite, ông chủ trương chống đối giai cấp chủ nô dân chủ. Bởi trước đó, giai cấp chủ nô quý tộc bị giai cấp chủ nô dân chủ đánh chiếm và thành lập chính quyền do đó ông thành lập một tổ chức chính trị và triết học để kêu gọi đấu tranh giành lại chính quyền.
3. Quan Niệm Của Démocrite (460-370 tr.cn)
Ông cho sự phát triển của xã hội thông qua nhu cầu sinh tồn của con người. Tuy nhiên ông không cho nhu cầu là động lực phát triển xã hội mà chỉ là động lực để sản xuất. Về chính trị thì ông lại đối lập với hai nhà triết gia trên nghĩa là chống phái chủ nô quý tộc mà ủng hộ chủ nô dân chủ, bởi theo ông, như vậy là bảo vệ quyền lợi về kinh tế và gắn liền với sự phát triển công nghiệp, thương mại. Ông cũng ca ngợi tính ôn hoà, tình thân ái và bảo vệ quyền lợi, lợi ích cũng tầng lớp dân tự do. Một cuộc sống được gọi là hạnh phúc khi mình cảm thấy được tự do trong chế độ dân chủ, ngược lại nếu giàu có mà sống trong chế độ quân chủ cũng như không. [3]
4. Quan Niệm Của Socrate (469-399 tr. cn)
Có thể nói Socrate là người ảnh hưởng lớn đến cả cuộc đời và tư tưởng của Platon. Từ những vấn đề học hỏi cho đến cái chết bất công của Socrate đã hình thành nên tư tưởng chính trị xã hội của ông. Thực ra Socrate cũng như những triết gia trước, không có đề cập gì nhiều đến vấn đề chính trị xã hội mà chỉ nói đến đạo đức và lí trí. Ông nói: “một xã hội sáng suốt là một xã hội mà trong đó ngừơi dân cảm thấy được hưởng quyền lợi thì nhiều, mà bị hạn chế tự do thì ít. Trong xã hội ấy, ăn ngay ở thẳng là giữ đúng quyền lợi và nghĩa vụ mình và an ninh trật tự cũng như thiện chí trong xã hội”.[4]
Về phần chính quyền theo ông, là giai cấp lãnh đạo thì phải lo an dân, chăm sóc đời sống và bảo vệ họ, còn ngược lại thì đó chỉ là một nhóm ô hợp hỗn độn và không xứng đáng. Do vậy ông chủ trương chống chế độ chủ nô dân chủ mà ủng hộ chủ nô quý tộc và đó là lí do mà ông đã bị kết án tử hình sau khi đám chủ nô dân chủ lên nắm quyền. Để xây dựng một xã hội lớn mạnh tốt đẹp thì mọi người phải nhận thức được đâu là quyền lợi chính đáng, thấu triệt được luật nhân quả, kiểm soát được lòng ham muốn và chịu trách nhiệm đối với bản thân mình (cái chết của ông là một lời khẳng định về tính trách nhiệm đó) để khỏi cảnh hỗn độn tự diệt và đi đến một xã hội kỷ cương. Và tất nhiên, con người phải luôn cố gắng học hỏi và phát triển trí tuệ để ngăn ngừa những tham vọng, si mê bởi tất cả tội lỗi từ vô minh.
IV. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA PLATON
1. Cuộc Đời.
“Nếu ai đạt được danh hiệu là người thầy của nhân loại thì người đó là Platon”.[5]
Platon[6] (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý tộc tại đô thị Nhã điển (Athènes). Cha là Ariston, thuộc dòng dõi vị vua cuối cùng của vương quốc Codre, Mẹ là bà Périctione thuộc dòng dõi con cháu nhà lập pháp Solon, một trong bảy vị hiền triết Hy Lạp.
Ngay từ nhỏ ông đã có một vóc dáng to cao khoẻ mạnh và thân hình vạm vỡ, bảnh bao. Nghe nói đâu ông đã từng ở trong quân ngũ và đã hai lần đoạt giải quán quân về các cuộc thi sức khoẻ. Lúc đầu ông theo học với một triết gia không mấy danh tiếng Cratile, sau đó, năm 20 tuổi ông theo học với Socrate và nhanh chóng trở thành một người đệ tử, một người bạn trung thành đắc lực cho Socrste. Nhưng khoảng thời gian hầu hạ, học hỏi được không bao lâu thì Socrate mất, năm ấy ông mới 28 tuổi. Biến cố này đã tác động mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông.
Vì có mối quan hệ mất thiết với Socrate, để tránh sự nghi ngờ của chính quyền thành Athènes nên ông đã ra đi chu du khắp mọi nơi. Ban đầu ông đến Ai Cập, rồi lần lượt đến Sicie, rồi qua Ý gia nhập nhóm triết gia do Pythagore sáng lập, có nơi còn nói ông đã đến khu vực sông Hằng để học hỏi triết lý. Thời gian ông chu du này mất hết 12 năm. Ông trở về Athènes năm 387, lúc ông đã 40 tuổi. Ông mở trường dạy dạy học và trường ấy được đặt tên là Académie (Hàn lâm viện) trong đó có bốn khoa: toán, thiên văn, âm nhạc và phép biện chứng. Đó cũng chính là ngôi trường đại học Tổng hợp đầu tiên và lâu đời nhất trên thế giới, kéo dài đến 915 năm. Những năm cuối đời của ông được xem là giai đoạn hạnh phúc nhất.
Ông mất năm 347, lúc 80 tuổi sau một buổi tiệc của một người học trò. Ông có rất nhiều học trò nổi tiếng, có người đã thành đạt làm quan to chức lớn nhưng nổi tiếng nhất vẫn là Aristote. Ông vừa là một triết gia, vừa là một thi sĩ, lối văn của ông khúc chiết như một bài luận triết học, vừa đẹp đẽ như một bài thơ: đó là lối văn đàm thoại. Chưa bao giờ triết học trải qua một thời gian sáng lạng như vậy. Văn thể của ông chói sáng ngay cả trong những bản dịch.[7]
2. Sự Nghiệp Trước Tác
Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Các tác phẩm của ông bao gồm trong một Tập định nghĩa, 13 bức thư mà người ta còn lưu giữ được và 35 thiên đối thoại trong đó tập hợp những đoạn đối thoại về bản chất của tình yêu, của cái đẹp, về nhận thức luận, về hồi tưởng và phê phán quan niệm nhận thức cảm tính. Trong những tác phẩm của ông, nổi tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic).
Đó là “một công trình lớn dưới hình thức một cuốn sách nhỏ trong đó tập trung những tư tưởng của Platon”. Ông Emerson, một triết gia Mỹ, cho rằng “người ta có thể đốt tất cả thư viện, vì tinh hoa của các thư viện đều nằm trong cuốn sách này”.[8] Có thể nói đó là một cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
V. TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA PLATON
1. Quan Niệm Về Quốc Gia lí tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong mô hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời. Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy nghĩ.Vậy quốc gia lí tưởng đó như thế nào?
Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc, đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra: “người ta sẽ sản xuất lúa, rượu, áo quần, giày dép, nhà cửa. Họ sẽ làm việc lưng trần trong mùa hạ và mang áo ấm trong mùa đông. Họ tự nuôi sống bằng lúa mì, xay bộ, bánh nướng, họ ngồi ăn trên chiếu hoặc trên lá, ngả lưng vào giường hoặc vào thân cây. Họ ăn uống với gia đình, uống rượu do họ làm lấy, mang những vòng hoa trên đầu, hát những điệu ca tụng thần linh, sống trong hoà nhã êm ái không để cho nhân khẩu vượt quá phương tiện sinh nhai vì họ biết lo xa, sợ đói nghèo và chiến tranh…”.[9]
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, và tất nhiên họ không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá nghèo.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
2. Những Vấn Đề Chính Trị Xã Hội
Với một “quốc gia lí tưởng” đơn giản và trong sáng như thế vậy thì tại sao nó chưa bao giờ “nằm trên bản đồ”, chưa bao giờ được con người thực hiện? Để giải đáp, Platon đã chỉ ra rằng sở dĩ n1o chưa có điều kiện hiện hữu là bởi tư tưởng chính trị và xã hội trong mỗi quốc gia còn quá nhiều bất ổn và chồng chéo.
a. Về Chính Trị. Ông đã nêu hai lí do chính gây ra sự rối loạn.
- Vấn Đề Giai Cấp Lãnh Đạo: Như chúng ta được biết thời đó, xã hội Hy Lạp được phân chia thành ba chế độ nhà nước: một là nhà nước quân chủ, hai là nhà nước chủ nô quý tộc và ba là nhà nước chủ nô dân chủ. Ba hình thức này về mặt lãnh đạo thường phát sinh những biến tướng hay “kẻ sinh đôi biến chất” của nó: chế độ quân chủ biến thành nền bạo chính, chế độ quý tộc thành chế độ đầu sỏ, chế độ dân chủ thành chế độ mị dân. “Những biến chất diễn ra vì các nhà cầm quyền có thiên hướng quan tâm nhiều hơn bản thân và đến lợi ích vị kỷ của mình, chứ không phải đến lợi ích của công dân. Nhân tố làm biến chất cũng là tự do thái quá, tự do này tất yếu kéo theo thói mị dân là cái làm huỷ hoại đạo đức”.[10] Và một khi những chính thể quốc gia đó không còn giữ được hình ảnh ban đầu hay đi vào con đường quá khích thì sự suy sụp và đào thải chắc chắn phải xảy ra. Đó là một điều khó tránh khỏi.
Từ đây ông vạch ra những sai lầm trong các chế độ. Thông thường, giới cầm quyền quý tộc hay có thiên hướng tự cô lập và và tập hợp quyền lực vào cho mình chính vì thế mà thường gây mất lòng dân nên dễ mất nước. Ngược lại chế độ dân chủ sẽ tự huỷ hoại mình cũng chỉ vì quá dân chủ. Thực ra, Platon không tin tưởng gì vào chế độ dân chủ bởi theo ông thì “mới xem qua thì nó (chế độ dân chủ) là một lí tưởng quá tốt đẹp nhưng thực ra nó trở nên vô cùng nguy hiểm vì dân chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và ấn định đường lối thích hợp… để cho dân chúng cầm quyền không khác gì cho con thuyền quốc gia vượt qua vùng bão tố, miệng lưỡi của bọn chính trị gia làm nước nổi sóng và lật hướng đi của con thuyền. Không chóng thì chầy một chính thể như vậy sẽ đi vào con đường độc tài”.[11] Ông viện dẫn rằng từ việc đóng giày mình cũng biết chọn lựa những thợ lành nghề, chuyên nghiệp; khi bị bịnh ta cũng tìm tới bác sĩ giỏi chứ không bao giờ tìm tới những vị lương y đẹp trai hay miệng lưỡi. Thế thì tại sao ta không chọn những vị minh triết, khôn ngoan và đức hạnh và loại bỏ những người ngu dốt, bịp bợm trong việc trị nước?
- Vấn Đề Kinh Tế: Con người luôn bị chi phối bởi lòng tham lam và ích kỷ do vậy họ thường không cam phận trong những cái gì họ đã có mà luôn tìm cách sở hữu những cái họ chưa có, kể cả những vật của người khác. Nhưng có một điều là lòng tham không bao giờ được thoã mãn, được cái này họ lại muốn thêm cái khác. Từ đó mới có những vấn đề như cướp giựt, chiến tranh, xâm lấn đất đai, chiếm giữ tài nguyên v.v… Đó là một sự thật. Platon đã nhận ra vấn đề này nhưng ông còn đi xa hơn khi thấy rằng kinh tế còn tác động tới nền chính trị và quốc gia khi ông cho rằng: “những việc thay đổi trong việc phân phối lợi tức gây nên những sự thay đổi về mặt chính trị: khi lợi tức của bọn thương gia vượt quá lợi tức của bọn địa chủ, chính thể phú nông nhường chỗ cho chính thể phú thương”.[12] Và lịch sử cho thấy khi một nền kinh tế phát triển hay suy sụp thì nó cũng kéo theo sự phát sinh ra những giai cấp mới.
Từ đó ông cho rằng trong một nhà nước tuy có nhiều giai cấp nhưng thực chất chỉ hai giai cấp về kinh tế đó là giàu và nghèo. Trong mỗi quốc gia cũng vậy đều có hai quốc gia cùng tồn tại ở bên trong đó là quốc gia của những người nghèo và quốc gia của những người giàu. Nó cùng tồn tại và xung đột nhau gay gắt.
b. Vấn Đề Xã Hội: Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người buôn bán và sản xuất lương thực.[13] Sở dĩ ông phân chia ba giai cấp xã hội như vậy bởi ông căn cứ vào học thuyết ý niệm của ông, nó tương ứng với phần lí trí, dũng cảm và bản năng hay dục vọng. Với những đức tính như vậy con người cần có những biện pháp cư xử khác nhau thì những giai cấp trong xã hội cũng cần phải phân biệt rạch ròi trong từng địa vị của mình.
Sự nhập nhằng, xáo trộn và bất phân biệt giữa các tầng lớp dẫn đến sự rối loạn xã hội và cũng là nguyên nhân của sự mất nước. Hạng người thương nhân thì thích hợp với buôn bán; quân nhân thì thích hợp ở chiến trường nhưng tất cả họ sẽ là tai hại nếu làm chính trị bởi công việc trị nước vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, trong đó cần nhiều sự tận tâm và học hỏi nhưng với họ thì chỉ có sự vụng về và những thủ đoạn. Do vậy, chỉ có hạng người triết gia, nhân đức mới thích hợp và đủ khả năng lãnh đạo đất nước.
3. Các Giải Pháp Cho Nền Chính Trị Xã Hội
Bất cứ nền chính trị xã hội nào cũng đều lấy con người làm nền tảng hay con người là “chất liệu cấu tạo triết lý chính trị”.[14] Vì thế đề cập tới chính trị mà không nói tới con người cấu tạo xã hội chính trị là một điều không tưởng.
a. Về Phương Diện Giáo Dục. Trước nhất, phải giáo dục tất cả những trẻ em mới lớn bằng cách đưa chúng về vùng thôn quê và tách khỏi gia đình để không bị ảnh hưởng xấu bởi cha me của chúng. Tất cả bọn chúng phải được học về tất cả các môn, ít nhất cũng phải biết về thể dục và âm nhạc. Những ai có học thức và trình độ cao hơn sẽ được cho học về toán học, nghệ thuật và phép biện chứng. Độ tuổi thích hợp để chúng bắt đầu đi học là 10 tuổi rồi tiến lên theo từng cấp độ tuổi mà học những cái khác nhau.
Trong thời gian học đó sẽ có ba kỳ thi tuyển ứng với trình độ và ngành nghề sau này của chúng. Kỳ đầu được tổ chức vào năm chúng 20 tuổi. Trong đó, nếu người nào rớt sẽ được đưa về làm công việc kinh tế, thợ, hay làm nông. Kỳ thi thứ hai vào năm 30 tuổi. Ở kỳ này người nào rớt sẽ được phân làm công tác phụ tá, sĩ quan, tham mưu trong quân đội chính phủ, những người còn lại này tất nhiên là những tinh hoa của xã hội và tất nhiên được rèn luyện cho đến năm 40 tuổi khi học có đủ năng lực và kinh nghiệm . Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo “chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hộ không còn là chuyện khó.
b. Về Phương Diện Chính Trị. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Tuy nhiên, người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng. Có như vậy họ mới dốc toàn tâm toàn ý cho quốc gia xã hội. Ngược lại họ chỉ là những người vơ vét tài sản, là những chủ đồn điền trang trại, thương chủ chứ không phải là nhà lãnh đạo. Khi họ thực hiện như vậy thì đời sống của họ phải được bảo đảm bởi các quân nhân và những người buôn bán.
Trong ba giai cấp trên thì chỉ có giai cấp thương nhân mới được sở hữu tài sản và có vợ con riêng, bởi họ là những người còn tham lam vơ vét nên không thể nào sống một cuộc đời hoàn toàn trong sạch như những giai cấp trên được. Họ có nhiệm vụ làm ra những của cải vật chất để cung cấp cho đời sống của toàn xã hội và cung cấp lương thực, thực phẩm để nuôi sống đời sống những giai cấp trên. Tuy nhiên, họ cũng có quyền không cung cấp thực phẩm cho những giai cấp nếu những người lãnh đạo không hết mình chăm lo đời sống của dân.
Về vấn đề an ninh thì cần phải chống thù trong giặc ngoài, nhưng quan trọng hơn cả là giặc ở bên trong vì nó chia rẻ tàn sát những người trong cùng một nước. Vấn đề an ninh đã được giai cấp chiến binh gìn giữ, nhưng thật ra biện pháp giữ gìn trật tự hoàn hảo nhất là trật tự từ tâm hồn của mọi người. Trong một số trường hợp nhất định, nếu không có cảnh sát, binh lính thì không giải quyết, ngoài cần phải xây dựng luật pháp ở tính tự nguyện, tự giác của mỗi người bởi trật tự nhà nước được rút ra từ “trật tự tự nhiên” của các vật, và siêu hình học của bản thân. Hơn nữa, trong nhà nước ấy phải gắn liền với lí tưởng tối thựơng của pháp luật, ở đó “luật pháp là bất di bất dịch và chiếm vai trò hàng đầu”.[15] Mọi ngừơi trong quốc gia đó đều phải tuân hành như nhau, không có sai khác.
Ngoài ra ông cũng chủ trương cần phải tin vào một đấng tối cao mặc dù đấng tối cao theo ông chưa chắc là có thật nhưng nó có tác dụng làm kích thích tinh thần của tất cả mọi người từ làm việc cho tới chiến đấu, khiến họ có thể dằn nén lòng ích kỷ, kiềm hãm sự đam mê mà phục vụ cho quốc gia ngay cả đối với cái chết. Và trong các trường hợp ấy, theo ông, chỉ có thượng đế. Dẫu sao, theo ông “tín ngưỡng không đem lại những điều gì có hại mà chỉ đem lại những điều lợi cho con em chúng ta”.[16]
c. Về Phương Diện Kinh Tế. Có một điều chúng ta thấy lạ là ông không mặn mà lắm về phát triển kinh tế mà chỉ chú trọng vào mỗi một nghề nông. Ông không thích thương buôn, đôi khi còn cho đó là những mối hoạ của quốc gia, xã tắc. Bởi vì sự cạnh tranh buôn bán là một hình thức của chiến tranh, lâu ngày nó sẽ biến tướng, sự mua bán đổi chác làm con người quen với tánh tham và gian xảo. Theo ông khi buôn bán thì cần phải có cả một hạm đội bảo vệ và đó là mầm móng của chiến tranh. Vì vậy ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công nghiệp là đủ. Và tất nhiên sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không được có sự quá chênh lệch giữa mọi người. Giai cấp lãnh đạo cần phải theo dõi và phân bố một cách đồng đều những vấn đề này cho tất cả mọi giai cấp.
Ngoài ra ông cũng còn đề cập tới vấn đề dân số. Nhằm xây dựng một xã hội lớn mạnh thì cần phải có những những người con được sinh cần phải khoẻ mạnh chứ không được èo uột. Những cặp vợ chồng nào khoẻ mạnh và đầy đủ năng lực thì nên cho sinh sản nhiều, ngược lại thì không nên. Nếu “những hài nhi ra đời một cách bất hợp pháp và tàn tật thì cần phải thủ tiêu”.[17] Dân số lúc nào cũng phải được kiểm soát, không để vượt quá khả năng sinh sống của xã hội, vì dân số đông cùng với buôn bán đều là nguyên nhân của sự chiến tranh, giết chóc.
Và một điều nữa đó là xã hội phải công bằng. Để bảo đảm mọi chức vụ hoạt động suôn sẽ không dẫm chân lên nhau thì mọi người cần phải ý thức rõ nhiệm vụ và giai cấp của mình đang đứng, không được lấn tuyến vựơt rào. Nếu một trong ba giai cấp không còn nhận thức được vị trí của mình thì chiến tranh nhất định sẽ xảy ra. Từ những nhận định đó ông đã nói về công bằng như sau: “công bằng là có hoặc làm cái gì thuộc về ta”. Điều đó có nghĩa là mỗi người phải nhận đựơc những cái gì mình đã làm ra và làm những công việc đúng với chức năng trách vụ của mình không trái. Hay nói theo ngôn ngữ ngày nay chính là bình đẳng trên năng lực. “Một xã hội gồm những ngừời công bằng là một xã hội điều hoà và hữu hiệu vì mỗi phần tử ở đúng vị trí của họ, làm theo đúng bản tính của họ giống như những nhạc khí trong một ban nhạc toàn hảo”.[18]
VI. NHẬN ĐỊNH
Bàn về nhà nước lí tưởng của Platon thì người khâm phục cũng nhiều mà người chê bai cũng không ít. Cái được với ông là mặc dù nhiều người cho nó là một xã hội “không tưởng” thế nhưng nó đã có cả một cơ sở về sau đó là giáo hội Thiên Chúa giáo La mã sống theo tinh thần của ông suốt hơn một ngàn năm ở châu Âu và gần đây nhất có nhà nước Cộng Sản Liên Xô hay như nhà nước cộng sản Việt Nam.
Nhưng cái mất là xã hội chính trị lí tưởng của ông mặc dù được che đậy bằng những ý tưởng rất tốt đẹp như công bằng hạnh phúc nhưng nó đã không bảo đảm được những vấn đề cơ bản của cá nhân bởi “những mối nguy hiểm đều bắt nguồn từ những ý định rất tốt đẹp là xác lập sự công bằng chung cho mọi người”.[19]
Thứ nhất ông đã phạm một sai lầm trầm trọng khi ông đã quá xem thường những giai cấp dưới trong việc phân chia giai cấp. Ông đã quá lí tưởng vấn đề trật tự mà quên đi rằng con người rất cần và rất quan trọng vấn đề tự do vì họ không phải là những con robot để có thể đặt định như thế nào cũng được. Thật ra, những giai cấp dưới không phải không biết làm chính trị, chỉ tại bởi lằn ranh giai cấp đã bó buộc và ngăn cản bước tiến của họ. Nếu có điều kiện, họ cũng làm chính trị rất giỏi và rất xuất sắc. Chúng ta cũng từng nghe ông Abraham Lincoln, một tổng thống Mỹ, vốn xuất thân là một anh đánh giày đó thôi. Vì thế, việc phân chia giai cấp của ông “không khác gì nhà côn trùng phân loại các côn trùng. Ông tạo ra các huyền thoại để bắt dân chúng tin tưởng vào sự phân loại ấy”.[20]
Đối với vấn đề bế môn toả cảng ngăn chận phát triển kinh tế để bảo vệ nhà nước là một sai lầm nghiêm trọng bởi chúng ta đâu có cản ngăn được những cái từ bên ngoài đưa vào mà quan trọng là ta phải củng cố nội lực để nó không làm mình biến chất. Xã hội càng ngày càng toàn cầu hoá thì làm sao mà đóng cửa trong nhà dạy nhau.
Ngoài ra ông đã không nhận thấy được sự quý giá và thiêng liêng trong tình cảm vợ chồng, cha mẹ với con cái, ông đã không tiên liệu được tính ghen của người đàn ông và kể cả tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà vì thế ông mới chủ trương chồng chung vợ chung, con cũng chung và như vậy ông đã xúc phạm đến phong tục tập quán và đạo đức sơ đẳng của con người. “khi ông muốn phá vỡ đời sống gia đình, ông đã phá vỡ điều kiện cho của một nếp sống đạo đức. Chế độ cộng sản chẳng qua chỉ là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn dân, khi đã kích gia đình, Platon không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã hội lí tưởng mà ông sắp xây cất”.[21] Do vậy, Will Durant mới nhận xét: “Quốc gia của Platon là một quốc giai thủ cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị mềm dẽo, nó đề cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp mà không biết nuôi dưỡng nghệ sĩ”.[22]
VII. KẾT LUẬN
Xây dựng một nhà nước lí tưởng ở trong ý tưởng, đối với nhiều người, có thể là không khó khăn nhưng để có thể xây dững một đất nước lí tưởng thật sự ở trong thực tế thì không phải dễ mà nếu không khéo thì sẽ chuốc lấy những hậu quả nặng nề từ ý tưởng mộng mơ đó. Điều này chúng ta cũng dễ thấy ở nhà nước cộng sản Việt Nam trong những năm dưới thời bao cấp và giáo hội Thiên chúa giáo trong thời Trung Cổ. Tất cả đều là những vết nhơ đáng gớm, đáng quên đi khỏi lịch sử. Mỗi lần nhắc tới những vấn đề liên quan đến nó khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng.
Ở đây ta nhận ra một điều là dù muốn xây dựng quốc gia lí tưởng theo bất cứ chủ trương đường lối cũng được nhưng tuyệt đối phải đặt nền móng trên người dân, tất cả phải “do dân và vì dân”. Lịch sử đã cho thấy, chưa có quốc gia nào xa rời với người dân mà thành công và tồn tại lâu dài. Và có một điều cần phải lưu ý là xã hội là một thực thể sống động, luôn luôn biến chuyển và đổi thay vì thế, khi xây dựng phát triển nền chính trị xã hội chúng ta cũng cần phải linh động và uyển chuyển theo từng thời điểm mà có những việc làm thích hợp. Chúng ta không thể lấy cái cố định mà ràng buộc cái bất định, đó là việc làm phi lí, không hợp với quy luật, không hợp với tự nhiên thì không thể nào thành công là một điều dễ dàng nhận ra.
Và cuối cùng, chúng ta phải có những lời khen ngợi với Platon, dẫu ông không đưa ra được những đừơng hướng đúng đắn nhất, nhưng không ai đòi hỏi một triết gia có những kế sách cho mấy ngàn năm cả. Với những ý tưởng của ông trong một xã hội cổ đại Hy Lạp thì qủa thật đáng kính và đáng phục rồi. Có lẽ nếu ông sống vào thời đại ngay nay thì không những chỉ có bấy nhiêu vấn đề và tư tưởng và biết đâu “quốc gia lí tưởng” của ông sẽ thực hiện thành công?
(Theo Thích Nguyên Tuấn)
0 comments
Post a Comment