Pages

Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Sống không phải là ký sinh trùng của thế gian, sống để mưu đồ một công cuộc hữu ích gì cho đồng bào tổ quốc. (Phan Chu Trinh )Mở mang dân trí , Chấn động dân khí.Vun trồng nhân tài. Kỳ vọng ở những người làm quan, lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ được nhiều người xem là có giá trị về phương diện cổ động nhân sĩ và giới cầm quyền có tâm huyết đem tài sức ra giúp nước.(Khi Phan Bội Châu viết tập "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" )"Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn và vô trách nhiệm."“Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc [độc lập, tự do] thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?”“… đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thứ này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.”(Fukuzawa Yukichi) .Tôi tư duy nên tôi hiện hữu; nghĩa là: Vì tôi tư duy nên tôi biết mình hiện hữu.( René Descartes) John Paul II xưng thú tội lỗi tổng quát trong 7 mục sau đây:1. Xưng thú “tội lỗi chung”.2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý”.3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”

My Blog List

Blogger templates

Friday, August 23, 2013

Tinh thần kinh doanh (theo quan điểm của Weber)


Trần Hữu Quang

Để tìm hiểu khái niệm tinh thần kinh doanh, trước hết chúng ta cần trở lại với những tư tưởng độc đáo của Max Weber, nhà xã hội học Đức, người thường được coi là một trong những ông tổ của ngành xã hội học, khi ông viết về tinh thần của nhà kinh doanh để giải thích sự ra đời của xã hội tư bản chủ nghĩa.

Thoạt tiên, Weber nhấn mạnh rằng, trái ngược với quan niệm ngộ nhận thông thường, chủ nghĩa tư bản hoàn toàn không phải là hệ quả của ham muốn chiếm hữu hay ham muốn chạy theo tiền bạc, vốn là hiện tượng có thể bắt gặp ở bất cứ xã hội nào vào bất cứ thời đại nào. “Lòng hám lợi vô độ không hề giống chút nào với chủ nghĩa tư bản, và lại càng không mảy may liên quan gì tới tinh thần của nó”. Ngược lại, chủ nghĩa tư bản, theo Weber, “chính là sự chế ngự, hay chí ít là sự điều tiết bằng lý tính, cái bản năng phi lý tính ấy” [8].
Theo Weber, trên khắp thế giới ở đâu cũng có thương nhân, những người cho vay, những nhà kinh doanh trong chế độ thực dân, những ông chủ đồn điền sở hữu nô lệ, những kẻ đầu cơ, những “kẻ phiêu lưu tư bản chủ nghĩa”… Nhưng phần lớn hoạt động của những loại người này “đều mang tính chất thuần túy phi lý tính và đầu cơ, hoặc là thiên về cách chiếm hữu bằng bạo lực, nhất là chiếm đoạt chiến lợi phẩm thông qua chiến tranh, hay dưới hình thức chiến lợi phẩm tài chính, nghĩa là thông qua việc bóc lột những người bị trị” [8]. Theo Weber, đấy chỉ là những loại hình chủ nghĩa tư bản thương mại, chủ nghĩa tư bản hướng đến chiến tranh, hoặc là một thứ chủ nghĩa tư bản phiêu lưu mà thôi.

Weber cho rằng chủ nghĩa tư bản đúng nghĩa chỉ bắt đầu xuất hiện ở xã hội Âu châu thời cận đại. Ông định nghĩa “hành vi kinh tế tư bản chủ nghĩa” là “hành vi dựa trên hy vọng đạt được doanh lợi bằng cách tận dụng những cơ hội trao đổi, nghĩa là dựa trên những cơ may chiếm hữu một cách hòa bình (về mặt hình thức)”. Và ông định nghĩa chủ nghĩa tư bản chính là sự tồn tại và sự hoạt động của những doanh nghiệp mang mục đích làm ra lợi nhuận “luôn luôn tái sinh” và có lối tổ chức thuần lý đối với lao động và sản xuất [8]. Từ xưa tới nay, thương nhân nào cũng muốn kiếm lời tối đa qua mỗi vụ buôn bán. Nhưng nét đặc trưng của nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa không phải là đi tìm “lợi nhuận tối đa”, mà là ở chỗ ông ta luôn nung nấu ham muốn tích lũy không ngừng ngày càng nhiều, và do vậy mà ý chí sản xuất-kinh doanh của ông ta cũng trở nên không có giới hạn. Chính là sự kết hợp giữa ham muốn lợi nhuận với tính kỷ luật thuần lý và lối tổ chức sản xuất thuần lý mới tạo nên nét đặc trưng của chủ nghĩa tư bản Tây phương [1].

Ngoài việc nhìn nhận vai trò tác động quan trọng của những yếu tố như thị trường và kỹ thuật, Max Weber còn đặc biệt nhấn mạnh tới sự tồn tại hết sức cần thiết của một nền luật pháp và một bộ máy hành chính được xây dựng trên cơ sở thuần lý, vì chỉ có như vậy mới có thể hình thành được một nền kinh doanh hiện đại và một tinh thần kinh doanh lành mạnh. Ông viết: “Chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp thuần lý hiện đại đòi hỏi phải có sự tiên liệu có tính toán, không chỉ về mặt kỹ thuật sản xuất, mà cả về mặt luật pháp, cũng như một bộ máy hành chính với những quy tắc hình thức rõ ràng. Không có những yếu tố này, thì chắc chắn sẽ có thể nảy sinh thứ chủ nghĩa tư bản phiêu lưu và thương mại đầu cơ, cũng như đủ mọi loại chủ nghĩa tư bản chịu sự chi phối của chính trị, chứ không thể nảy sinh loại hình doanh nghiệp thuần lý được điều khiển bởi sự chủ động của cá nhân với một số vốn thường trực và sự tiên liệu vững chắc” [8].

Khái niệm “tinh thần của chủ nghĩa tư bản” (the spirit of capitalism) của Weber, theo nhà xã hội học Mỹ Talcott Parsons, không phải chỉ nói về sự chiếm hữu như nhiều tác giả thường lầm tưởng, mà trước hết và chủ yếu bao hàm tư duy lý tính (rationalism) - hiểu như là một tâm thế mở luôn hướng đến những cách giải quyết vấn đề mới, đối lập với óc thủ cựu (traditionalism); và một thái độ tận tâm và chuyên cần đối với công việc vì chính công việc chứ không vì mục đích nào khác, thái độ mà Weber diễn giải trong một khái niệm mang ý nghĩa kép là “Beruf” (tiếng Đức, có nghĩa là nghề nghiệp-thiên chức, hay nghề nghiệp-bổn phận) [4]. Giả thuyết nổi tiếng của Weber là chính quan niệm đạo đức và tinh thần “khổ hạnh” (Askese) duy lý của đạo Tin lành đã tạo ra một tâm thế và một môi trường xã hội thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Con người có bổn phận lao động một cách cần cù và duy lý nhằm tạo ra doanh lợi và phải có một lối sống cần kiệm - đây chính là lối ứng xử cần thiết cho sự hình thành của nhà kinh doanh, bởi nó có nghĩa là phải lao động cật lực và không ngừng tái đầu tư số lợi nhuận mới được tạo ra nhằm có thể tiếp tục phát triển các phương tiện sản xuất [8].

. . . .


Tài liệu tham khảo:

[1] Raymond Aron, Les étapes de la pensée sociologique (1967), Paris, Gallimard, 1993.

[2] Peter Drucker, Innovation and Entrepreneurship (1985), New York, Harper&Row Publ., Perennial Library, 1986.

[3] Peter Drucker, The Effective Executive, HarperCollins, 1966.

[4] Talcott Parsons, “Introduction”, trong Max Weber: The Theory of Social and Economic Organization (1947), New York, The Free Press, 1964.

[5] Joseph Schumpeter, Théorie de l’évolution économique (1911).

[6] Joseph Schumpeter, Capitalisme, socialisme et démocratie (1942), Paris, Petite Bibliothèque Payot, 1963.

[7] Trần Văn Thọ, “Nếu không có tinh thần doanh nghiệp…” (bài thuyết trình do Công Thắng lược ghi), TBKTSG, 10-10-2002, tr. 34.

[8] Max Weber, Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (1904-1905), bản dịch của Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng và Trần Hữu Quang, Nhà xuất bản Tri thức, tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới (sắp xuất bản).

Nguồn: http://www.saigontimes.com.vn/tbktsg/detail.asp?muc=97&sobao=867&sott=16

0 comments

Post a Comment