I. Sự thành lập
1. Hoàn cảnh ra đời của Quốc tế III
Có hai điều kiện dẫn đến sự thành lập Quốc tế III.
Một là. sự
phá sản của Quốc tế II làm cho phong trào công nhân bị chia rẽ về tổ
chức, giai cấp công nhân không còn một tổ chức thống nhất để chỉ đạo
phong trào. Quốc tế II phân liệt thành phái hữu, phái giữa, phái tả
khiến cho trong nội bộ một số Đảng cũng có sự phân liệt như vậy.
Hai là, phong
trào cách mạng thế giới phát triển thành cao trào mới do ảnh hưởng
trực tiếp của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Năm 1918, đã xuất
hiện một loạt các đảng cộng sản như Đảng Cộng sản Áchentina, Phần Lan,
Áo, Hungari, Ba Lan, Đức. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu
sự chiến thắng của giai cấp công nhân trực tiếp tạo điều kiện thúc
đẩy việc thành lập Quốc tế Cộng sản.
2. Quá trình chuẩn bị thành lập Quốc tế III
Trong
những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, phái tả trong Quốc tế II tổ
chức hai hội nghị quốc tế tại Dimmecvan (9-1915) và Kienta (4-1916),
do vậy phái này được gọi là phái tả Dimmecvan. Họ “đã lên tiếng chống
chiến tranh đế quốc đòi hòa bình, giành chủ nghĩa xã hội''. Phái tả
Dimmecvan chủ trương đoạn tuyệt với Quốc tế II, đoàn kết các lực lượng
cách mạng lại trong một tổ chức quốc tế mới. Đó là bước chuẩn bị cho
sự ra đời của Quốc tế III, mặc dù còn nhiều hạn chế như không chấp
nhận đường lối đấu tranh triệt để của Lê nin và Đảng Bônsêvích Nga:
''Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng, làm thất bại các
chính phủ trong chiến tranh''.
Ngày
1-1-1914, Đảng Bônsêvích Nga, dưới sự lãnh đạo của Lênin, ra tuyên
ngôn: biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng'' và ''tuyên
bố đoạn tuyệt với Quốc tế II''. Tại các cuộc hội nghị của những người
xã hội quốc tế, Lê nin đã tập hợp phái tả đề ra cương lĩnh riêng (thư
trên). Phái tả gồm Đảng Bônsêvích Nga, đại biểu những người xã hội
phái tả ở Đức, Bungari, Ba Lan, Lituyani, Thụy Điển, Na Uy, Thụy Sĩ,
Hà Lan. Mặc dù trong phái tả Dimmecvan chỉ có Đảng Bônsêvích có lập
trường đúng, nhưng phái này đã góp phần đoàn kết các chiến sĩ quốc tế
chủ nghĩa trong phong trào công nhân. Cuối năm 1916, khi sa vào lập
trường chủ nghĩa hòa bình tư sản của phe đa số Dimmecvan, Liên hiệp
Dimmecvan đã kìm hãm việc mở rộng phong trào công nhân. Lê nin đặt ra
một cách rất kiên quyết vấn đề lập tức đoạn tuyệt với Liên hiệp
Dimmecvan và thành lập Quốc tế III.
Tại
Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội - Dân chủ Nga
(4-1917), Lê nin đề nghị Đảng Bônsêvích đảm nhận sứ mệnh lập Quốc tế
cách mạng. Tháng 1-1918, Hội nghị đại biểu phái tả trong các Đảng xã
hội – dân chủ họp ở Pêtơrôgrát thông qua nghị quyết về sự cần thiết
lập Quốc tế mới, Hội nghị nêu rõ điều kiện tham gia Quốc tế mới là tán
thành con đường đấu tranh chống Chính phủ tự sản nước mình; ủng hộ
Cách mạng Tháng Mười và chính quyền Xô viết. Tháng 11-1919, Hội nghị các
tổ chức và Đảng cộng sản (Nga, Ba Lan, Hungari, Đức, Áo, Lát via,
Phần Lan và Liên hiệp cách mạng Ban căng) họp ở Mátxcơva dưới sự chỉ
đạo của Lê nin đã thông qua thư kêu gọi thành lập Quốc tế Cộng sản.
Tháng 2-1919, Quốc tế II họp Hội nghị ở Bécnơ (Thụy Sĩ) tìm cách ngăn
cản Quốc tế III thành lập nhưng không đạt kết quả. Yêu cầu thành lập
tổ chức Quốc tế cách mạng trở thành nhiệm vụ cấp bách.
3. Đại hội thành lập quốc tế III
Đại
hội thành lập Quốc tế III tổ chức ở Mátxcơva từ ngày 2 đến 6-3-1919,
có 51 đại biểu thay mặt cho 30 nước tới dự. Ngoài đại biểu phương Tây
còn có đại biểu các nước phương Đông: Triều Tiên, Trung Quốc, Thổ Nhĩ
Kỳ, chứng tỏ Quốc tế III là tổ chức của giai cấp lao động của cả các
nước thuộc địa và phụ thuộc. Đại hội được tiến hành dưới sự lãnh đạo
của Lê nin. Đề cương Về dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản của
Lê nin đã được thông qua. Đề cương vạch trần bản chất giai cấp của
dân chủ tư sản, giải thích ý nghĩa của chính quyền Xô viết - một hình
thức chuyên chính vô sản. Lê nin khẳng định: chỉ có nền dân chủ tư sản
và dân chủ vô sản, không có nên dân chủ thứ ba. Dân chủ vô sản là nền
dân chủ cao nhất, do vậy nhiệm vụ của Quốc tế III là phải xác lập
được dân chủ vô sản.
Đại
hội I thông qua Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản, trong đó trình bày
những nguyên lý quan trọng nhất của chủ nghĩa Lê nin về chủ nghĩa đế
quốc và lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác định nhiệm vụ trước
mắt của giai cấp vô sản và phương pháp đấu tranh. Đại hội thông qua Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản gửi những người vô sản trên thế giới. Lời kêu “gửi công nhân tất cả các nước'' và
một số nghị quyết khác. Nguyên tắc tổ chức của Quốc tế Cộng sản là
tập trung dân chủ. Một ban chấp hành được bầu ra gồm đại biểu cộng sản
nhiều nước.
Sự
thành lập Quốc tế Cộng sản cớ ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó góp phần đẩy nhanh sự
hình thành các Đảng cộng sản ở nhiều nước, Quốc tế III ra đời đánh dấu
thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin với chủ nghĩa cơ hội - xét lại. Tất
cả các đảng cách mạng chân chính đã đoàn kết dưới ngọn cờ Quốc tế III
– trung tâm lãnh đạo của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà
hạt nhân là Đảng Bônsêvích Nga và Lê nin.
Trong
thời gian tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành 7 kỳ đại
hội. Từ Đại hội I đến Đại hội IV do Lê nin trực tiếp lãnh đạo. Đại hội
V đến Đại hội VII do Xtalin lãnh đạo.
II. Hoạt động của Quốc tế III qua các kỳ Đại hội
l.
Đại hội II Quốc tế Cộng sản họp từ 19-7 đến 7-8-1920 tại Pêtơrôgrát
và Mátxcơva, có 217 đại biểu của 67 tổ chức ở 37 nước tham dự. Ảnh
hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đã thúc đẩy cao trào cách mạng đạt
tới đỉnh cao. Một loạt đảng cộng sản ra đời: Đảng Cộng sản Mỹ (1919),
Tây Ban Nha (1920), Anh (1920). Tuy nhiên, phong trào cách mạng đã bộc
lộ những hạn chế do thiếu những lãnh tụ có uy tín và kinh nghiệm lãnh
đạo.
Tuy
nhiều đảng cộng sản đã ra đời, nhưng phong trào cộng sản quốc tế chịu
ảnh hưởng của xu hướng tả khuynh và hữu ''khuynh của các lãnh tụ cơ
hội trong Quốc tế II. Đặc biệt, các đảng non trẻ thường dẫn tới ''tả''
khuynh. Đứng trước tình hình đó, Lê nin đã viết tác phẩm Bệch ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản nêu
rõ nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, nhất và khuynh hướng tả''
biểu hiện rõ trong phong trào cộng sản Đức và Anh. Người đã phân tích
tính tất yếu của chính đảng vô sản trước và sau khi giai cấp vô sản
giành thắng lợi, cự tuyệt tham gia hoạt động trong công đoàn phản
động, chống việc tham gia nghị viện tư sản.v.v.
Tại
Đại hội II, báo cáo về tình hình thế giới và nhiệm vụ cơ bản của Quốc
tế Cộng sản của Lê nin là văn kiện, đặt cơ sở mang tính nguyên tắc
cho các nghị quyết của Đại hội. Đại hội thông qua các văn kiện quan
trọng như Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa; Điều kiện
kết nạp vào Quốc tế Cộng sản; Vấn đề thành lập và củng cố các Đảng
cộng sản kiểu mới. Đại hội thông qua 21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản. Cơ
sở của 21 điều kiện là học thuyết Mác-Lênin về đảng kiểu mới của Quốc
tế Cộng sản, những nguyên tắc, tổ chức cách mạng quốc tế của Quốc tế
Cộng sản đảm bảo sự đoàn kết quốc tế, chống phần tử hữu khuynh, trước
hết là phái giữa chui vào Quốc tế Cộng sản để phá hoại. Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa xác
định lập trường giai cấp vô sản với nông dân và nhân dân bị áp bức ở
các thuộc địa, xác định ''cương lĩnh ruộng đất của chuyên chính vô
sản''. Đề cương kêu gọi đảng cộng sản các nước giúp đỡ phong trào giải
phóng dân tộc và với sự giúp đỡ của các nước vô sản tiên tiến, các
nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa.
Đại
hội thông qua Điều lệ Quốc tế Cộng sản, khẳng định nguyên tắc tập
trung dân chủ. Về cơ cấu tổ chức của Quốc tế III, đảng cộng sản mỗi
nước là chi bộ cơ sở.
Đại
hội II của Quốc tế III đã củng cố và đoàn kết hàng ngũ đảng cộng sản,
vũ trang cho các đảng về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp đấu tranh,
góp phần làm cho các đảng cộng sản ở các nước được hình thành và phát
triển.
2. Đại hội III Quốc tế cộng sản họp từ 22-6 đến 12-7- 1921 tại Mátxcơva, có 605 đại biểu của l03 tổ chức ở 52 nước tham dự.
Đại
hội nhận định giai cấp vô sản tạm thời bị thất bại trong đấu tranh
giai cấp do chính sách chia rẽ của bọn lãnh tụ xã hội - dân chủ. Đại
hội đề ra nhiệm vụ cho cuộc đấu tranh mới là tranh thủ đa số công
nhân, loại trừ ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội. Đại hội coi sách lược
lập Mặt trận thống nhất là phương pháp chủ yếu để mở rộng ảnh hưởng
của đảng cộng sản trong quần chúng. Mặt trận công nhân thống nhất có
nhiệm vụ động viên quần chúng công nhân đấu tranh đòi quyền lợi trước
mắt, gắn với mục tiêu xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, thiết lập nền chuyên
chính vô sản. Lê nin đọc báo cáo Sách lược của Đảng Cộng sản Nga trình bày đường lối của Đảng và nhiệm vụ trong giai đoạn thực hiện Chính sách kinh tế mới đưa
nước Nga lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội tán thành sách lược của Đảng
Cộng sản Nga (B). Kiên quyết lên án, bác bỏ 1ý luận phiêu lưu của phái
tả”, đề ra kế hoạch phát động tấn công trong bất kỳ tình huống nào,
kêu gọi các đảng cộng sản tham gia cuộc đâu tranh thường xuyên cùng
với Quốc tế Cộng sản. Đại hội III thảo luận thông qua Đề cương về vấn đề tổ chức, nêu nhiệm vụ cải tổ các đảng cộng sản theo nguyên tắc lãnh thổ - sản xuất, lập ra các chi bộ và liên công xưởng.
Các
nghị quyết của Đại hội III đã giúp cho các đảng cộng sản khắc phục
tàn dư xã hội - dân chủ, công đoàn vô chính phủ và chủ nghĩa bè phái,
do đó giúp cho các đảng trở thành những chính Đảng cách mạng có tính
chất quần chúng, biết hành động trong điều kiện thoái trào.
3.
Đại hội IV Quốc tế Cộng sản diễn ra từ ngày 5-11 đến 5- 12-1922, đúng
vào dịp kỷ niệm 5 năm Cách mạng tháng Mười thành công. Tham gia Đại
hội có 408 đại biểu của 58 nước, đại diện cho gần 2 triệu đảng viên.,
Đây là Đại hội cuối cùng Lênin tham dự. Đại hội xác nhận đề cương về
Mặt trận thống nhất công nhân do Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản soạn
thảo và thông qua Luận cương và nhiệm vụ của những người cộng sản trong các tổ chức công đoàn Đại
hội đề ra khẩu hiệu ''Mặt trận thống nhất chống đế quốc và phong
kiến'', coi đó là khẩu hiệu cơ bản đối với các nước thuộc địa. Lê nin
đọc báo cáo Năm năm cách mạng Nga và triển vọng của cách mạng thế giới, trong
đó nêu bật ý nghĩa quan trọng của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với
phong trào cộng sản quốc tế, nhấn mạnh tính chất phức tạp của việc xoá
bỏ chủ nghĩa tư bản, học cách tiến công và học cách rút lui để chuẩn bị
tiến công, học tập kinh nghiệm cách mạng nga. Sau Đại hội, Lê nin lâm
bệnh nặng, Người đã đọc cho thư ký viết những bài cuối cùng Những trang nhật ký, Bàn về chế độ hợp tác, Về cuộc cách mạng của chúng ta, Cải tổ Bộ Dân ủy và Thanh tra công nhân thế nào và Thà ít mà tốt. Với những tác phẩm đó, Lê nin đã vạch kế hoạch tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Lênin từ trần ngày 21-1-1924
4.
Đại hội V Quốc tế III họp ở Mátxcơva từ ngày 17-6 đến ngày 8-7-1924,
có 504 đại biểu thay mặt cho 49 đảng cộng sản tham dự Nhiệm vụ chủ
yếu của Đại hội là xây dựng các Đảng cộng sản có tính chất quần chúng,
tiếp thu kinh nghiệm Đảng Cộng sản (B) Nga. Đại hội chú trọng vấn đề
dân tộc thuộc địa, đặc biệt là đối với cách mạng Trung Quốc. Đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã đọc tham luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa, lên án
chủ nghĩa thực dân, phê phán một số đảng cộng sản Tây Âu, trước hết là
Đảng Cộng sản Pháp, chưa chú ý đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Đại hội
lên án chủ nghĩa Tơrốtxki, cho đó là khuynh hướng tiểu tư sản. Cương
lĩnh Tơrốtxki – Dinôviép bị lên án kịch liệt, Dinơviép bị cách chức
Chủ tịch Quốc tế Cộng sản. Lần đầu tiên tại Đại hội V, thuật ngữ chủ
nghĩa Mác – Lênin được sử dụng chính thức, nói lên đầy đủ tầm quan
trọng của chủ nghĩa Lê nin trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa xã hội
khoa học.
5.
Đại hội VI Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-7 đến ngày 11-9-1928, có
532 đại biểu đại diện cho 57 đảng cộng sản, công nhân và 9 tổ chức
quốc tế tham dự. Đại hội phân tích tình hình quốc tế và nhận định sẽ
nổ ra chiến tranh đế quốc với đế quốc, chiến tranh của các đế quốc
chống Liên Xô, chiến tranh giải phóng dân tộc. Đại hội định ra nhiệm
vụ của các đảng cộng sản là đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh đế quốc
chủ nghĩa, chống nguy cơ phát xít, bảo vệ Liên Xô, cách mạng Trung
Quốc, đấu tranh giành chính quyền, chống chủ nghĩa cơ hội hữu và
“tả''. Đại hội thông qua Cương lĩnh mới, tổng kết kinh nghiệm đấu
tranh của giai cấp công nhân trong các điều kiện cụ thể.
Cương
lĩnh cho rằng: cách mạng vô sản có thể thắng lợi trước tiên ở một vài
nước. Các nước lạc hậu, khi giai cấp vô sản giành được chính quyền,
có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với điều kiện là
có sự giúp đỡ của nhà nước chuyên chính vô sản và phong trào công nhân
quốc tế. Cương lĩnh đề cập ba loại hình cách mạng cơ bản:
+ Ở những nước tư bản phát triển cao, có thể làm cách mạng vô sản, thiết lập ngay chuyên chính vô sản.
+
Ở những nước tư bản phát triển trung bình, có thể làm cách mạng dân
chủ nhân dân, thiết lập chuyên chính công nông quá độ lên chuyên chính
vô sản.
+
Ở những nước thuộc địa và phụ thuộc, có thể làm cách mạng phản đế,
phản phong, thiết lập chuyên chính vô sản khi cách mạng dân chủ tư sản
kiểu mới đã thắng lợi.
6.
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp từ 25-7 đến 25-8-1935, có 510 đại
biểu của 65 Đảng, đại diện cho 3,141 triệu đảng viên, trong đó có 785
nghìn đảng viên ở các nước tu bản chủ nghĩa tham dự.
Tình
hình thế giới trước Đại hội cho thấy nửa đầu thập niên 30 của thế kỷ
XX, chủ nghĩa tư bản tổng khủng hoảng, kinh tế suy thoái nghiêm trọng.
Trong khi đó, kinh tế Liên Xô và Mông Cổ, là các nước xã hội chủ
nghĩa, tăng trưởng rất mạnh; năm 1932 so với năm 1925, công nghiệp
tăng hai lần. Chủ nghĩa phát xít ra đời được chủ nghĩa đế quốc khuyến
khích và nguy cơ của chiến tranh thế giới thứ hai đã đến gần. Trước
tình hình đó, những người cộng sản, đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải
tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của các đảng cộng sản; định ra một
đường lối chiến lược, sách lược mới của phong trào cộng sản thế giới
Đại hội VII họp để thực hiện nhiệm vụ đó.
Nội
dung cơ bản nhất của Đại hội là vấn đề chống chủ nghĩa phát xít và
nguy cơ của một cuộc chiến tranh đế quốc đang đến gần. Đại hội xác
định hai nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa phát xít:
Một là,
các đảng cộng sản chưa đủ sức mạnh để phát động quần chúng đấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít, cá biệt có một số đảng còn có thái độ thoả
hiệp.
Hai là, do
sự phản bội của các đảng xã hội - dân chủ, các đảng này đã hợp tác
với giai cấp tư sản. Đại hội ra nghị quyết về việc lập Mặt trận thống
nhất chống chủ nghĩa phát xít. Mặt trận đoàn kết giữa nông dân, công
nhân, tiểu tư sản thành thị và giai cấp lao động thuộc các dân tộc bị
áp bức, trên cơ sở mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân.
Nghị
quyết Đại hội hướng dẫn các đảng cộng sản khi đề ra cương lĩnh mặt
trận phải bảo vệ yêu sách của nông dân, thợ thủ công, trí thức. Trong
quá trình đấu tranh cho mặt trận nhân dân, có thể phải thành lập chính
phủ của mặt trận đó. Chính phủ này có thể là chính phủ quá độ lên
chuyên chính vô sản. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp chính phủ của
mặt trận nhân dân phải đấu tranh chống lực lượng phản động và phát
xít. Những người cộng sản tham gia chính phủ mặt trận nhân dân không
giống chính sách hợp tác giai cấp do các lãnh tụ xã hội - dân chủ thi
hành mà với mục đích đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Đại
hội thông qua nghị quyết về vấn đề sự thống nhất của phong trào, coi
đó là nhiệm vụ chủ yếu để củng cố Mặt trận thống nhất. Đại hội chú
trọng đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chống chủ nghĩa phát xít, chống
nguy cơ chiến tranh đế quốc và âm mưu gây chiến tranh chống Liên Xô.
Đại hội kêu gọi các đảng cộng sản trong trường hợp chiến tranh nổ ra
hãy lợi dụng cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị để ''biến chiến
tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng''.
Với
những nội dung chủ yếu nêu trên, Đại hội VII xác định khẩu hiệu trung
tâm của các Đảng cộng sản lúc đó là ''đấu tranh cho hòa bình'' nhằm
động viên tất cả các lực lượng dân chủ sẵn sàng tham gia phong trào
chống chiến tranh đế quốc.
Đại
hội vạch rõ, vì thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp chống giai cấp
tư sản nên cần thiết phải có sự thống nhất về chính trị của giai cấp
công nhân, có đảng thống nhất của giai cấp vô sản, độc lập hoàn toàn
với giai cấp tư sản và các lực lượng xã hội dân chủ; thực hiện sự
thông nhất hành động. Đại hội thừa nhận phải dùng cách mạng để lật đổ
giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản dưới hình thức các Xô
viết; không ửng hộ giai cấp tư sản trong cuộc chiến tranh đế quốc; xây
dựng đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ v.v..
Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản đã định ra phương hướng sách lược mới, đó
không phải là sự phủ nhận sách lược mặt trận thống nhất mà là phát
triển sách lược đó trong điều kiện mới.
Đại
hội VII có,vị trí đặc biệt trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Nghị quyết của Đại hội VII
đã phát triển những vấn đề lý luận về chiến lược và sách lược cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định phương hướng cho cuộc đấu tranh
của Mặt trận thống nhất công nhân và nhân dân chống chủ nghĩa phát
xít và chiến tranh đế quốc.
Những
nghị quyết đúng đắn của Đại hội đã góp phần buộc chính phủ tư sản ở
một số nước phải thực hiện chính sách chống phát xít, Ví dụ. ở Anh, phong trào cộng sản và công nhân đã buộc Đảng Bảo thủ Sớcsin phải thực hiện chính sách chống chủ nghĩa phát xít. Ở Mỹ, Tổng thống Rudơven cũng phải ủng hộ chính sách chống chủ nghĩa phát xít.
III. Quốc tế cộng sản tự giải tán
Có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc Quốc tế Cộng sản giải tán:
Nguyên nhân trực tiếp: Do
chiến tranh thế giới nổ ra và lan rộng, có 61 nước với 170 triệu
người bị động viên vào chiến tranh, trong đó có tới 110 triệu người
cầm súng. Chiến tranh đã cản trở hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Việc
lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế từ một trung tâm duy nhất không
còn thích hợp nữa.
Nguyên nhân sâu xa: Quốc
tế Cộng sản đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình là tuyên truyền
chủ nghĩa cộng sản, thiết lập chuyên chính vô sản ở một số nước Quốc tế
Cộng sản đã thúc đẩy sự ra đời của một loạt đảng cộng sản ở các nước.
Các đảng cộng sản đó đã trưởng thành về lý luận cũng như về chính trị,
đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng ở từng nước mà không cần sự
lãnh đạo từ một trung tâm.
Ngày
15-5-1943, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra quyết định giải tán
Quốc tế Cộng sản. Ngày 8-6-1943, Hội nghị cuối cùng của Ban Chấp hành
Quốc tế Cộng sản ra nghị quyết từ 10-6-1943, tất cả các hoạt động của
Quốc tế Cộng sản kết thúc.
Quốc tế Cộng sản đã đóng vai trò lịch sử lớn lao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, Quốc
tế Cộng sản có công lao to lớn trong việc bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin, chống lại mọi sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin từ hai
phía “tả'' và ''hữu''.
Hai là, Quốc tế Cộng sản đã thực hiện được sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân trên phạm vi thế giới.
Ba là, Quốc tế Cộng sản đã phát triển lý luận mác xít như phát triển chiến lược, sách lược của đảng cộng sản.
Bốn là, giúp
cho các đảng cộng sản, nhất là các đảng cộng sản trẻ tuổi động viên
quần chúng đứng lên bảo vệ lợi ích của nhân dân và chống chiến tranh
đế quốc.
Năm là, củng cố tình đoàn kết giữa giai cấp công nhân các nước trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Sáu là
Quốc tế Cộng sản định ra chiến lược, sách lược đúng cho phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc
các nước thuộc địa.
Bảy là, Quốc tế Cộng sản đã tạo ra tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và các nước châu Á.
Trong tác phẩm Quốc tế thứ ba và địa vị lịch sứ của nó viết
vào tháng 4-1919, Lênin cho rằng, Quốc tế Cộng sản là người thừa kế,
kế tục sự nghiệp của Quốc tế I. ''Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của
Quốc tế III là ở chỗ nó đã bắt đầu đem thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất
của Mác, khẩu hiệu tổng kết bước tiến trong một thế kỷ của chủ nghĩa
xã hội và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện thành khái
niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản''.
Tuy
nhiên, Quốc tế Cộng sản cũng còn những hạn chế và sai lầm nhất định.
Quốc tế Cộng sản đặt ra nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng sau khi Lê
nin qua đời, chủ trương và hoạt động của nó lại chỉ thiên về tập
trung. Ban lãnh đạo Quốc tế Cộng sản có những quyết định thiếu dân
chủ, chẳng hạn trong việc giải thể Đảng Cộng sản Ba Lan năm 1938. Quốc
tế Cộng sản cũng phạm sai lầm tả ''khuynh khi đánh giá các đảng xã
hội - dân chủ, coi họ là kẻ thù như chủ nghĩa phát xít. (Đại hội V năm
1924, khi Lênin mất, Xtalin lãnh đạo Quốc tế III, đã coi chủ nghĩa
phát xít và những người dân chủ xã hội là những đứa con sinh đôi, là
con dao hai lưỡi, vì thế Quốc tế Cộng sản không liên minh với những
người xã hội dân chủ). Đồng thời, Quốc tế Cộng sản đã đánh giá không
đầy đủ khả năng tự điều chỉnh và tiềm năng phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Ví dụ: Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản (1928) coi sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản chỉ là “hồi quang phản chiếu'' trước lúc giãy
chết.
Mặc dù vậy, Quốc tế Cộng sản vẫn tạo nên một cột mốc chói lọi trong
lịch sử phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sau
khi giải tán (1943), Quốc tế Cộng sản vẫn còn ảnh hưởng lớn đến các
đảng cộng sản châu Âu, châu Á, châu Phi, và Mỹ Latinh.
BVK (sưu tầm)
|
0 comments
Post a Comment