Pages

Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Sống không phải là ký sinh trùng của thế gian, sống để mưu đồ một công cuộc hữu ích gì cho đồng bào tổ quốc. (Phan Chu Trinh )Mở mang dân trí , Chấn động dân khí.Vun trồng nhân tài. Kỳ vọng ở những người làm quan, lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ được nhiều người xem là có giá trị về phương diện cổ động nhân sĩ và giới cầm quyền có tâm huyết đem tài sức ra giúp nước.(Khi Phan Bội Châu viết tập "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" )"Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn và vô trách nhiệm."“Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc [độc lập, tự do] thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?”“… đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thứ này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.”(Fukuzawa Yukichi) .Tôi tư duy nên tôi hiện hữu; nghĩa là: Vì tôi tư duy nên tôi biết mình hiện hữu.( René Descartes) John Paul II xưng thú tội lỗi tổng quát trong 7 mục sau đây:1. Xưng thú “tội lỗi chung”.2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý”.3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”

My Blog List

Blogger templates

Sunday, August 18, 2013

1. Khái niệm và những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân gia đình việt nam






CHƯƠNG 1.
KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM

I. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN VỀ NHỮNG HÌNH THÁI HÔN NHÂN GIA ĐÌNH TRONG LỊCH SỬ.

Hôn nhân gia đình đó là những hiện tượng xã hội luôn luôn được các nhà Triết học, Xã hội học, Luật học, Sử học ... nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội, trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa lợi ích của các công dân với lợi ích nhà nước. Vì vậy, trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thảo luận dự thảo Luật hôn nhân - gia đình 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại thì mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình". Trong cuốn "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" C. Mác và Angghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, hôn nhân và gia đình là một phạm trù phát triển theo lịch sử ; giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối quan hệ chặt chẽ, trực tiếp với nhau. Hai ông đã phân tích nguồn gốc của Hôn nhân và gia đình từ giai đoạn thấp nhất của xã hội loài người, khi con người chỉ mới tách khỏi thiên nhiên, săn bắn hái lượm để kiếm sống. Trong thời kỳ này tồn tại quan hệ tính giao bừa bãi, không có sự chọn lọc ngôi thứ, thích thuộc. Lúc này chưa có khái niệm Hôn nhân và gia đình trong xã hội mà bộ tộc được coi như một đơn vị duy nhất không tách rời của xã hộ cộng sản nguyên thủy.

Từ trạng thái nguyên thủy đó, bước tiếp theo là chế độ quần hôn xuất hiện. Chế độ quần hôn có hai thời kỳ phát triển chính tương ứng với hai hình thái hôn nhân. Do vậy, việc nghiên cứu chế độ quần hôn có ý nghĩa quan trọng để tìm hiểu quan hệ hôn nhân gia đình trong thời kỳ sơ khai của lịch sử xã hội loài người .

1. Chế độ quần hôn :

a. Gia đình huyết tộc: Quan hệ hôn nhân xây dựng theo thế hệ (cha mẹ - con cái) tạo thành nhóm hôn nhân nhất định mà chỉ trong giới hạn đó mới cho phép có quan hệ tính giao. Trong gia đình huyết tộc, cấm quan hệ tính giao giữa những người có cùng dòng máu trực hệ mà chủ yếu là giữa người mẹ và những người con trai của họ, còn người cha rất khó xác định được vì quan hệ tính giao bừa bãi. Trong gia đình này thì anh chị em cùng một mẹ sinh ra có thể quan hệ tính giao với nhau như những người khác.

b. Gia đình pu-na-lu-an:

Thực tế của gia đình này thể hiện quan hệ tính giao hạn chế hơn nữa. Không những cấm quan hệ tính giao giữa cha, mẹ và con (trực hệ) mà còn cấm quan hệ tính giao giữa anh em trai với các chị em gái trong cùng một "gia đình" mà chủ yếu do cùng một mẹ sinh ra. Do vậy, lúc này một nhóm các chị em gái là "vợ" của một nhóm các anh em trai của một "gia đình" khác, loại trừ anh em trai của họ do cùng một mẹ sinh ra; ngược lại một nhóm các anh em trai la "chồng" của một nhóm các chị em gái của một "gia đình" khác, loại trừ các chị em gái của họ do cùng một mẹ sinh ra. Các ông chồng này gọi nhau là pu-na-lu-an nghĩa là bạn thân (assocíe: người cùng hội).

Trong chế độ quần hôn không thể xác định được ai là cha của đứa trẻ, nên đứa trẻ sinh ra mang họ mẹ, trong thời kỳ này còn gọi là "gia đình không cha". Vai trò của người phụ nữ trong xã hội rất lớn, họ là lao động chính trong nền kinh tế của thị tộc, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của thị tộc nên thị tộc lúc này là thị tộc "mẫu quyền".

2. Hôn nhân - gia đình đối ngẫu.

Bước phát triển tiếp theo của gia đình là ở chỗ trong một nhóm những người có thể có quan hệ tính giao ngày càng thu hẹp lại. Từ chổ chỉ cấm quan hệ tính giao giữa các anh em trai với các chị em gái do cùng một mẹ sinh ra thì bây giờ loại trừ tất cả anh chị em họ hàng chú bác và những người họ hàng xa khác. Do vậy, gia đình pu-na-lu-an được thay thế bằng gia đình đối ngẫu. Trong gia đình đối ngẫu thì mỗi người đàn bà và mỗi người đàn ông chọn cho mình một người đàn ông và người đàn bà khác là "vợ - chồng" hay còn gọi hôn nhân theo từng cặp. Tuy nhiên, hôn nhân đối ngẫu chưa phải là một đơn vị kinh tế độc lập mà nó chỉ là một đơn vị hôn phối, còn thị tộc vẫn là một đơn bị kinh tế toàn bộ. Hôn nhân đối ngẫu là bước phát triển để tiến tới hình thành hôn nhân một vợ, một chồng.

3. Hôn nhân một vợ một chồng và các biến thể.

Hôn nhân một vợ, một chồng là một hình thức hôn nhân mới trong lịch sử đặc trưng cho một chế độ sở hữu khác. Bước chuyển từ hôn nhân đối ngẫu sang hôn nhân một vợ, một chồng là dựa trên cơ sở kinh tế đó là xuất hiện chế độ tư hữu nên gia đình đối ngẫu đã trở thành một đơn vị kinh tế độc lập trong thị tộc và cuối cùng thì chế độ thị tộc tan rã. Trong thời kỳ này xuất hiện một hình thức trung gian là gia đình gia trưởng với đặc trưng: Sự tổ chức của một số người tự do và không tự do thành gia đình dưới quyền lực gia trưởng của người chủ gia đình. Hình thức gia đình đó đánh dấu bước chuyển từ chế độ hôn nhân đối ngẫu sang chế độ "một vợ, một chồng". Như vậy, đã diễn ra việc chuyển từ gia đình đối ngẫu sang gia đình cá thể. Trong gia đình cá thể thì con của người vợ đẻ ra lấy họ chồng bà ta, thừa kế tài sản của người cha, nên thời kỳ này chế độ mẫu quyền đã được thay thế bằng chế độ phụ quyền. Song trong giai đoạn này thì việc một vợ, một chồng chỉ đối với đàn bà chứ không phải đối với đàn ông. Angghen chỉ rõ: Chế độ một vợ, một chồng mà trực tiếp là gia đình cá thể không phải là tình yêu nam nữ mà gia đình cá thể là hình thức đầu tiên của mối quan hệ có tính toán về kinh tế, nghĩa là một việc có tính toán lợi hại do cha mẹ thu xếp. Đề cập vấn đề này trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước" , Người viết: "Rõ ràng hôn nhân - gia đình của chế độ một vợ, một chồng mà đầu tiên là gia đình cá thể và các biến thể của nó trong xã hội có giai cấp đối kháng (chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản) không phải là sự liên kết trên cơ sở tình cảm mà dựa trên cơ sở tài sản. Hiện nay chỉ có giai cấp vô sản thì tình yêu nam, nữ mới trở thành một trong các quy tắc trong các quan hệ đối với người phụ nữ".

4. Hôn nhân và gia đình dưới chế độ XHCN.

Khác với các hình thức hôn nhân trước đó, hôn nhân và gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa tiến bộ hơn dựa trên nguyên tắc một vợ, một chồng đối với mọi cá nhân. Trong quan hệ vợ chồng bình đẳng nhằm xây dựng gia đình ấm no, dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc và bền vững.

BÀI VIẾT TƯƠNG TỰ:
Khái niệm nhà nước pháp quyền
Những giá trị tích cực của nho giáo trong bộ luật hồng đức
BÀI VIẾT MỚI HƠN :
2. Quan hệ pháp luật hôn nhân - gia đình - 17.04
3. Kết hôn và hủy kết hôn trái pháp luật theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam - 17.04
4. Quan hệ giữa vợ chồng theo pháp luật hôn nhân - gia đình Việt Nam - 17.04
5. Quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên trong gia đình - 17.04
6. Nghĩa vụ cấp dưỡng theo luật hôn nhân - gia đình Việt Nam - 17.04
Vinh quang lớn nhất đời người không phải là không bao giờ vấp ngã, mà là biết đứng dậy sau những lần vấp ngã.
Dien Dan Luat Hoc - CafeLuat.com - Diễn đàn Luật học
II. Khái niệm hôn nhân và các đặc trưng của hôn nhân XHCH
1. Khái niệm hôn nhân.

Khoản 6, điều 8 Luật Hôn nhân - gia đình quy định: "Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn". Như vậy, so với các văn bản pháp luật trước đây thì khái niệm hôn nhân chính thức quy định trong Luật 2000 - đó là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà xác lập quan hệ trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng và các điều kiện khác do pháp luật quy định nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.

2. Các đặc trưng của hôn nân XHCN:

- Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà theo quy định của pháp luật xác lập quan hệ vợ chồng. Việc kết hôn giữa nam - nữ phải tuân thủ các điều kiện pháp luật quy định và phải đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (điều 9, điều 10 và điều 11 của Luật Hôn nhân - gia đình 2000).

- Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà - đó là hôn nhân một vợ, một chồng. Pháp luật quy định việc kết hôn giữa một bên là nam và một bên là nữ nhằm hình thành gia đình; hôn nhân phải tuân thủ nguyên tắc một vợ, một chồng (điều 4, điều 10 Luật Hôn nhân - gia đình 2000).

- Hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa một người đàn ông và một người đàn bà trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện (điều 9 Luật Hôn nhân - gia đình năm 2000).

- Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm chung sống với nhau suốt đời xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững (điều 1 Luật Hôn nhân - gia đình 2000). Như vậy, so với Luật Hôn nhân - gia đình 1986 thì Luật Hôn nhân - gia đình 2000 bổ sung thêm mục đích "ấm no" đây là tiền đề của các mục đích khác, bởi lẽ khi gia đình có đầy đủ các điều kiện kinh tế thì mới thực hiện tốt mục đích bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Luật Hôn nhân - gia đình 1986 quy định mục đích xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc và bền vững (điều 1). Tuy nhiên, phải phối hợp hài hoà các mục đích trên, nếu quá coi trọng mục đích kinh tế thì cũng có thể dẫn đến sự tan vỡ của gia đình.


III. Khái niệm và các chức năng của gia đình
1. Khái niệm gia đình:

Khái niệm gia đình rộng hơn khái niệm hôn nhân. Nếu hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn làm tiền đề xây dựng gia đình thì gia đình là sự liên kết của nhiều người có quan hệ với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng; các chủ thể có các quyền, nghĩa vụ nhân thân và tài sản do pháp luật quy định (quan hệ nhân thân, tài sản giữa vợ - chồng, giữa cha mẹ - con cái...).

Luật Hôn nhân - gia đình 2000 định nghĩa gia đình như sau: Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, do quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân - gia đình.

Xuất phát từ định nghĩa trên thì gia đình được hình thành dựa trên những căn cứ sau:

- Hôn nhân: nam nữ kết hôn hợp pháp xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật.

- Quan hệ huyết thống: dựa trên sự kiện sinh đẻ làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ - các con bao gồm con trong giá thú và ngoài giá thú (điều 63, 64 Luật Hôn nhân - gia đình 2000).

2. Các chức năng của gia đình.

Các chức năng của gia đình được nhiều ngành khoa học nghiên cứu trong phạm vi khác nhau. Theo pháp luật HNGĐ thì gia đình có ba chức năng chủ yếu: chức năng kinh tế, chức năng giáo dục và chức năng sinh đẻ.

Trong bất kỳ xã hội nào thì gia đình cũng có ba chức năng cơ bản này, song tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các chức năng trên được giai cấp thống trị chú trọng hơn trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn trong xã hội phong kiến thì chức năng sinh đẻ được chú trọng để con cháu nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên...


IV. Kháni niệm hôn nhân gia đình Việt Nam
Khái niệm luật hôn nhân gia đình có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:

+ Là một ngành luật.

+ Là một môn học.

+ Là một văn bản pháp luật cụ thể

Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật hôn nhân - gia đình là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thể chế hoá nhằm điều chỉnh các quan hệ về hôn nhân và gia đình (quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản).

Luật hôn nhân và gia đình với ý nghĩa là một môn học đó là hệ thống những khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá mang tính chất lý luận về pháp luât hôn nhân và gia đình cũng như thực tiễn áp dụng thi hành pháp luật hôn nhân - gia đình.

Với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể đó là kết quả của công tác hệ thống hoá pháp luật, xây dựng pháp luật trong đó có chứa quy phạm của nhiều ngành luật, nhưng nội dung chủ yếu là Luật hôn nhân - gia đình.

Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hôn nhân - gia đình có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng.

1. Đối tượng điều chỉnh:

Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân - gia đình đó là những quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cụ thể là quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và giữa những người thân thích ruột thịt khác.

Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình đó là các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Tuy nhiên, các quan hệ này thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác như Luật Dân sự (điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản), luật Kinh tế (điều chỉnh quan hệ tài sản). Để phân biệt chúng phải dựa vào các đặc điểm của đối tượng điểu chỉnh trong Luật Hôn nhân và gia đình như sau:

+ Quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết định trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong đối tượng điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình thì các quan hệ nhân thân không mang tính chất tài sản là chủ yếu như quan hệ nhân thân giữa vợ - chồng, giữa cha mẹ - con cái.... Trong nhiều trường hợp các quan hệ nhân thân có ý nghĩa quyết định chi phối các quan hệ tài sản (nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ - các con, giữa vợ - chồng...).

+ Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là một đặc điểm trong quan hệ hôn nhân - gia đình. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình yếu tố tình cảm giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nhiều trường hợp nó quyết định việc phát sinh quan hệ giữa các chủ thể (việc kết hôn, nhận nuôi con nuôi), hoặc sự tồn tại giữa các thành viên trong gia đình (tình nghĩa vợ chồng). Nếu không còn yếu tố tình cảm thì gia đình có thể tan vỡ hay không đạt được mục đích của nó.

+ Quyền và nghĩa vụ hôn nhân - gia đình bền vững lâu dài, không mang tính chất đền bù ngang giá. Khác với quan hệ dân sự dựa trên cơ sở hàng hoá - tiền tệ giữa các chủ thể thì các quan hệ hôn nhân và gia đình dựa trên yếu tố tình cảm nên không mang tính chất đền bù ngang giá, chẳng hạn: cấp dưỡng nuôi con, cấp dưỡng giữa vợ và chồng tồn tại ngay cả khi vợ chồng đã ly hôn. Bên cạnh đó thì các quyền, nghĩa vụ hôn nhân gia đình tồn tại bền vững và chỉ chấm dứt khi có những điều kiện pháp luật quy định chặt chẽ (ly hôn, chấm dứt việc nuôi con nuôi). Ngược lại, các quyền và nghĩa vụ trong luật dân sự lại chấm dứt trên cơ sở thoả thuận hoặc do pháp luật quy định: chấm dứt hợp đồng dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

+ Các quyền và nghĩa vụ hôn nhân - gia đình gắn liền với nhân thân các chủ thể không thể chuyển giao cho người khác được. Khác với quan hệ dân sự, các chủ thể có thể uỷ quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ thì trong quan hệ hôn nhân và gia đình các chủ thể phải bằng chính hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Chẳng hạn: tình nghĩa vợ chồng "chung thuỷ, thương yêu, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ nhau" (điều 11 Luật Hôn nhân - gia đình 1986, điều 18 Luật Hôn nhân - gia đình 2000).

2. Phương pháp điều chỉnh:

Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh và các đặc điểm của nó, Luật Hôn nhân và gia đình có phương pháp điều chỉnh đặc biệt phù hợp.

Phương pháp điều chỉnh của luật Hôn nhân- gia đình là những cách thức, biện pháp mà các qui phạm pháp luật hôn nhân - gia đình tác động lên các cơ quan xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân - gia đình hết sức mềm dẻo, chủ yếu là khuyến khích các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ và quyền hôn nhân - gia đình. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt mới dùng biện pháp cưỡng chế: hũy hôn nhân trái pháp luật, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên ... (điều 16, điều 14, điều 41 Luật Hôn nhân - gia đình 2000).

Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân - gia đình có những đặc điểm sau:

+ Trong quan hệ hôn nhân và gia đình quyền đồng thời là nghĩa vụ của chủ thể: quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất (điều 27), quyền yêu cầu cấp dưỡng của con chưa thành niên và nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ và ngược lại... (điều 56, điều 57).

+ Các chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Do vậy, khi thực hiện các quyền nhân thân, quyền tài sản, đặc biệt là tài sản chung phải vì lợi ích các thành viên trong gia đình. Việc sử dụng tài sản chung của gia đình không được vì lợi ích riêng tư của một hoặc một số thành viên nào đó, kể cả tài sản riêng trong một số trường hợp nhất định. "Tài sản chung được chi dùng để đảm bảo những nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng", "tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ đáp ứng" (điều 28 khoản 2 và điều 33 khoản 4).

+ Các chủ thể không được phép bằng sự thoả thuận làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định, bởi lẽ những quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của mỗi chủ thể không thể chuyển giao cho người khác được.

+ Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó mật thiết với các quy phạm đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp. Do vậy, trước hết khuyến khích các chủ thể thực hiện phong tục tập quán tiến bộ cũng chính là thực hiện các quy phạm pháp luật hôn nhân - gia đình một cách tự giác.

Ngược lại có những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời đã ăn sâu vào nhận thức của nhân dân thì phải tuyên truyền, thuyết phục xoá bỏ dần dần. Chẳng hạn: tập tục cấm không được đa thê, đa phu của người Bana, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dưỡng giáo dục con .... nếu không thực hiện thì bị phân xử, giáo dục trước dân làng (người Ê đê, M'nông) hoặc nam nữ quan hệ với nhau không phải là vợ chồng thì phạt 3 con bò mẹ hoặc 3 con trâu mẹ (người Chăm); tập tục cấm bỏ nhau, nếu bỏ thì một trong hai người phải bỏ sang buôn khác sinh sống (người Bana).


V. Nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân - gia đình
1. Nhiệm vụ của Luật Hôn nhân - gia đình:

Điều 1 của Luật hôn nhân - gia đình xác định rõ nhiệm vụ của Luật Hôn nhân - gia đình đó là nhằm:

- Góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ.

- Xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình.

- Kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

2. Các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân - gia đình:

Những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân - gia đình là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo quán triệt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Nội dung của những nguyên tắc cơ bản thể hiện quan điểm pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ và các chức năng của các thành viên trong gia đình, của các cơ quan hữu quan trọng trong việc thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình, của các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa. Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình phải thể hiện đúng nội dung của các nguyên tắc đó. So với Luật Hôn nhân - gia đình 1986, Luật Hôn nhân - gia đình 2000 kế thừa các nguyên tắc cơ bản, đồng thời bổ sung thêm một sô nguyên tắc mới.

a. Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ một, một chồng, vợ chồng bình đẳng: Đây là nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Nhà nước ta, nguyên tắc này có tính kế thừa và khẳng định trong các Luật Hôn nhân - gia đình được ban hành từ 1959 đến nay (điều 1 Luật Hôn nhân - gia đình 1959, 1986 và 2000).

b. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ: Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền tự do kết hôn của nam nữ, thể hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc khác nhau trên đất nước Việt Nam trong quan hệ hôn nhân. Nguyên tắc này trước đây đã được thể hiện tại điều 1 Luật Hôn nhân - gia đình 1986, song Luật Hôn nhân - gia đình 2000 khẳng định lại đây là một trong những nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình.

c. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình: Nguyên tắc này kế thừa và phát triển các quy định của Luật Hôn nhân - gia đình 1986 "vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện sinh đẻ có kế hoạch" (điều 2). Việc quy định nguyên tắc này khẳng định rằng việc thực hiện chính sách kế hoạch hoá của vợ chồng là thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm giảm tỷ lệ dân số. Có như vậy thì mới thực hiện được mục tiêu xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững góp phần xây dựng xã hội công bằng văn minh. Tuy nhiên, việc thực hiện vấn đề này cần phối hợp với nhiều biện pháp, phương thức khác nhau mới có thể đạt được yêu cầu đặt ra. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật dân số có hiệu lực pháp luật ngày 01/ 5/ 2003 quy định mỗi cặp cợ chồng có quyền: quyết định thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạngh sức khỏe,diều kiện học tập, lao động, thu nhập và nuôi dạycon của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng; lựa chọn, sử dụngcác biện pháp kế hoạch hóa gia đình ( Điều 10, khoản 1)

d. Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ, các con cũng như các thành viên khác trong gia đình: (khoản 4, 5 điều 2). Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà; các thành viên khác trong gia đình có nghĩa vụ chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con. Nguyên tắc này được thể hiện trong rất nhiều các quy phạm của Luật Hôn nhân - gia đình 2000: đièu 4, chương IV (từ điều 34 đến điều 49).

đ. Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em:

Kế thừa nguyên tắc quan trọng của Luật Hôn nhân - gia đình 1986 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em, điều 2 - khoản 6 quy định: "Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ". Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong các điều 41, điều 42, điều 85 của Luật. Chẳng hạn: "Trong trường hợp người vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn" (khoản 2 điều 85).


VI. Nguồn của luật hôn nhân - gia đình
Nguồn của Luật Hôn nhân - gia đình là các văn bản quy phạm pháp luật trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Một văn bản là nguồn của Luật Hôn nhân - gia đình phải đảm bảo các yêu cầu của một văn bản quy phạm pháp luật nói chung đó là: được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, có chứa đựng các quy phạm pháp luật hôn nhân - gia đình và được ban hành theo trình tự thủ tục luật định.

Căn cứ vào hiệu lực pháp lý của các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành có thể phân loại nguồn của Luật Hôn nhân - gia đình như sau:

1. Hiến pháp: Hiến pháp 1992 là nguồn của nhiều ngành luật trong đó có Luật Hôn nhân và gia đình.

2. Các Bộ luật, Luật:

- Bộ luật Dân sự 1995 (có hiệu lực thi hành 01/7/1996).

- Bộ luật Hình sự 1985, 1999 (các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình).

- Luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em (có hiệu lực thi hành 12/8/1991).

- Luật phổ cập giáo dục tiểu học (có hiệu lực thi hành 12/8/1991).

- Luật Hôn nhân - gia đình 1959 (có hiệu lực thi hành 13/01/1960)

- Luật Hôn nhân - gia đình 1986 (có hiệu lực thi hành 03/01/1987) và Luật Hôn nhân - gia đình 2000 (có hiệu lực thi hành 01/01/2001)

Trong các văn bản trên thì Luật Hôn nhân - gia đình 2000 là nguồn chủ yếu của ngành Luật Hôn nhân và gia đình. Luật bao gồm 13 chương, 110 điều điều chỉnh tương đối đầy đủ các quan hệ nhân thân, tài sản trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

3. Pháp lệnh: Pháp lệnh do UBTV Quốc hội ban hành (trước đây theo Hiến pháp 1980 là Hội đồng nhà nước) một số pháp lệnh là nguồn của Luật Hôn nhân - gia đình bao gồm:

- Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (02/12/1993).

- Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài (17/4/1993).

- Pháp lệnh dân số được Quốc hội thông qua ngày 09/ 01/2003 (có hiệu lực ngày 01/ 05/2003)

4. Các Nghị định, Thông tư của các Bộ, liên bộ, liên ngành:

- Nghị định số 184/CP của Chính phủ ngày 30/11/1994 quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi...

- Nghị định 70/ NĐ - CP ngày 03/ 10/ 2001 của chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân - Gia đình.

- Nghị định 77/ 2001/ NĐ - CP ngày 22 / 10 / 2002 của chí phủ quy định chimtiết về đăng ký kết hôn theo nghị quyết 35.

- Nghị định 87/ 2002/ NĐ - CP ngày 21/ 3/ 2002 của chính phủ quy định xử phạt hành chính do vi phạm lĩnh vực Hôn nhân và gia đình.

- Nghị định 32/ 2002/ NĐ - CP ngày 27/ 3 / 2002 của chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia dình đối với dân tộc thiểu số.

- Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch (sinh tử, kết hôn).

- Thông tư liên tịch số 01/2001 của Toà án tối cao - Viện kiểm sát tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết 35/2000/QH10.

5. Nghị quyết của UBTV Quốc hội và nghị quyết của Hợp đồng Thẩm phán - Toà án nhân dân tối cao:

- Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 2000.

- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000.

- Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân - gia đình 1986.

Ngoài ra trong từng thời kỳ để phục vụ kịp thời công tác xét xử các tranh chấp hôn nhân và gia đình Toà án nhân dân tối cao có các văn bản hướng dẫn chung hoặc các trường hợp cụ thể như công văn, báo cáo tổng kết... Đây là những văn bản hướng dẫn áp dụng không chứa đựng các quy phạm pháp luật hôn nhân - gia đình. Các văn bản hướng dẫn áp dụng này phải dựa trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật như Công văn 16/KHXX của Toà án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết ngành hàng năm, Kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

Trả Lời Với Trích Dẫn

0 comments

Post a Comment