Chương I
Khi ta muốn tìm hiểu về bản chất và đặc tính của các mô hình chính quyền khác nhau, thì việc đầu tiên phải làm là xác định xem "nhà nước là gì?" Cho đến nay đây vẫn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi. Một số người cho rằng nhà nước [là tác nhân] thực hiện một số công việc nào đó; những người khác thì lại cho rằng không phải là nhà nước mà là chính quyền theo quả đầu hoặc cai trị bởi một bạo chúa. Cũng có người lại cho rằng, một cách tổng quát, mọi hoạt động của nhà lập pháp đều liên quan đến nhà nước; cuối cùng, có người cho rằng một hiến pháp hay một chính quyền là cách thức sắp xếp cơ cấu quyền lực của những người cư ngụ trong nhà nước đó.
Nhưng nhà nước là một hỗn hợp do nhiều bộ phận tạo thành; những bộ phận đó chính là công dân. Hiển nhiên, ta phải bắt đầu bằng câu hỏi, "ai là công dân và từ này có ý nghĩa gì?" Bởi vì, một lần nữa, từ ngữ này cũng có những quan điểm khác nhau. Một người là công dân của thể chế dân chủ thì lại thường không phải là công dân của chế độ quả đầu. Hãy bỏ qua trường hợp những người đã được xem là công dân, hay là những người trở thành công dân vì một hoàn cảnh ngẫu nhiên nào đó, ta có thể nói rằng, trước hết, người công dân không trở thành công dân chỉ vì người đó sinh sống ở một chỗ nào đó, bởi vì ngoại kiều và nô lệ cũng sinh sống trên cùng chỗ đó; cũng như y không trở thành công dân vì có được những quyền do pháp luật quy định như đi kiện hoặc bị kiện mà thôi, bởi vì ngoại kiều cũng có được những quyền này do hiệp ước [giữa hai nước] tạo nên. Nói cho đúng hơn, ngoại kiều ở nhiều nơi cũng không hoàn toàn có được những quyền này, vì họ buộc phải có người bảo trợ, cho nên họ cũng không hoàn toàn được tham gia với đầy đủ tư cách công dân, vì thế ta gọi họ là công dân chỉ với nghĩa hạn chế mà thôi, cũng như khi ta dùng từ này để chỉ những người trẻ chưa đến tuổi ghi danh hay những người già đã được miễn các nghĩa vụ đối với quốc gia. Những người này ta không gọi họ một cách đơn giản là công dân, nhưng phải thêm vào cụm từ vị thành niên trong trường hợp đầu tiên, và lão niên trong trường hợp sau. Từ ngữ chính xác ta dùng thật ra không quan trọng, vì ý nghĩa ta nói đến thật rõ ràng rồi. Còn có những khó khăn tương tự trong những trường hợp mà tôi đã nhắc đến, đó là những người bị tước quyền công dân hay bị lưu đầy. Nhưng công dân, người mà ta đang tìm cách định nghĩa, phải là người công dân theo nghĩa chính xác, tuyệt đối nhất, chứ không phải như những trường hợp ngoại lệ như đã nói ở trên.
Và người công dân chỉ cần có một đặc tính duy nhất là người có quyền tham gia vào việc thực thi công lý và đảm nhiệm các chức vụ trong chính quyền. Các chức vụ chính quyền có nhiều loại; có loại không liên tục (có nhiệm kỳ) và một người không được giữ một chức vụ hơn một lần, hoặc chỉ có thể giữ chức vụ trong một thời hạn cố định nào đó; có loại không có nhiệm kỳ như chức vụ quan tòa hay thành viên quốc hội. Người ta, thực ra, cũng có thể lý luận rằng những chức vụ đó không phải là quan chức, và chức năng của họ không liên hệ gì đến chính quyền. Nhưng nói như vậy thì cũng nực cười như khi ta bảo kẻ có quyền lực lại không phải là người cai trị.[1] Nhưng ta cũng không nên bàn cãi nhiều ở đây, vì đó chỉ là vấn đề chữ nghĩa. Điều ta cần là tìm được một từ ngữ chung nào đó bao gồm cả vị quan tòa và đại biểu quốc hội. Cho nên, để cho dễ phân biệt, ta hãy gọi chức vụ đó là những chức vụ "bất định" và giả định rằng những ai giữ chức vụ đó phải là công dân. Đó là định nghĩa bao hàm và thích hợp nhất cho những ai thường được gọi là công dân.
Nhưng ta không được quên rằng những nguyên lý căn bản tự bản chất khác nhau, cũng như các loại chính quyền khác nhau, hầu như không có điểm nào chung. Ta thấy chính quyền có nhiều loại khác nhau, có loại có phẩm chất tốt hơn, có loại phẩm chất kém hơn, nhất là những loại có cơ cấu khiếm khuyết hay hư hỏng thì chắc chắn phải kém hơn những loại chính quyền được xây dựng hoàn hảo. (Tôi sẽ giải thích thêm thế nào là cơ cấu bị bại hoại trong phần dưới). Công dân, do vậy, nhất thiết phải khác nhau dưới những chế độ khác nhau; và định nghĩa của chúng ta chỉ thích hợp với nền dân chủ, chứ chưa chắc đã phù hợp với các chế độ khác. Bởi vì ở những nước không phải dân chủ, người dân không được công nhận, cũng không có quyền tham dự các cuộc họp định kỳ, mà chỉ trong những trường hợp đặc biệt, và những vụ kiện tụng được phân bố cho các quan chức. Thí dụ tại Sparta, các Giám sát viên lo xử những vụ kiện tụng liên quan đến giao kèo và họ chia nhau xử những vụ kiện này; các trưởng lão thì chuyên về các vụ án mạng, còn những việc khác thì chia cho các quan chức khác. Một nguyên tắc tương tự cũng thịnh hành ở Carthage; ở đó một số quan chức quyết định mọi việc. Thành thử, ta có thể phải điều chỉnh định nghĩa về công dân để bao gồm cả những nước này nữa. Trong những nước này, quan chức là những người giữ những chức vụ được xác định rõ rệt, chứ không giữ nhiều chức vụ một lúc; họ là những nhà lập pháp hay thẩm phán, và những ai giữ các chức vụ xác định thì đều có quyền thảo luận và phán xét về một số việc hay về tất cả mọi việc. Khái niệm về công dân đã bắt đầu trở nên rõ ràng sau khi ta xem xét thêm các trường hợp kể trên.
Ta có thể nói như sau: những ai có quyền tham dự vào các cuộc nghị luận việc công hay về tư pháp [bất kể có nhiệm kỳ hay không] của bất kỳ nước nào, thì phải được coi là công dân của nước đó. Nói một cách tổng quát, một nhà nước là một cơ cấu gồm tất cả những công dân hợp lại nhằm đạt tới mục đích của đời sống.
[1] Chức vụ quan tòa và thành viên của quốc hội đại diện cho quyền tối thượng của nhà nước.
Chương II
Nhưng trong thực tế, một người công dân được định nghĩa là người có cha mẹ là công dân; nhưng có người đòi điều kiện này phải lâu hơn tới hai hay ba đời ông cha mới được. Đây là một định nghĩa ngắn gọn và thực tế nhưng cũng còn có người đặt thêm vấn đề nữa: Tổ tiên đời thứ ba hay thứ tư trở thành công dân như thế nào? Gorgias, người xứ Leotini, một phần thấy những khó khăn do đòi hỏi này gây ra, một phần muốn mỉa mai, đã nói, "Vữa để xây tường do người thợ hồ tạo ra, và công dân của Larissa là những người do các quan chức tạo nên, vì nghề của họ là tạo ra những người dân xứ Larissa." Nhưng vấn đề này thực ra rất đơn giản, vì, căn cứ trên định nghĩa vừa nêu ở đoạn trên, [không cần biết tổ tiên mấy đời,] nếu tổ tiên được tham dự vào chính quyền, thì họ là công dân. Định nghĩa này chính xác hơn định nghĩa đòi phải có cha mẹ là công dân, vì câu "con của cha hay mẹ là công dân" không áp dụng được cho những cư dân đầu tiên hay những người đầu tiên thành lập quốc gia.
Còn một vấn đề khó hơn khi xác định công dân là ai; đó là trường hợp của những người trở thành công dân sau một cuộc cách mạng, như Cleisthenes[1] đã làm tại Athens sau khi trục xuất những kẻ cầm quyền bạo ngược. Đó là cho nhập vào các bộ tộc cơ hữu của Athens những ngoại kiều thường trú và cả những kẻ thuộc giai cấp nô lệ. Vấn đề được đặt ra trong trường hợp này không phải là xét xem ai sẽ là công dân, mà là người được coi là công dân có xứng đáng hay không. Lại còn một vấn đề sâu xa hơn liên quan đến nhà nước; đó là khi nào một hành vi được coi là một hành vi của nhà nước, bởi vì một hành vi không chính đáng chẳng phải là một hành vi sai lầm? Nhưng nếu có kẻ giữ một chức vụ nào đó, dù không xứng đáng, ta vẫn gọi y là một quan chức. [Tương tự như vậy,] một công dân được định nghĩa bởi sự kiện người đó giữ một chức vụ trong chính quyền, dù là tư pháp hay lập pháp, thì người đó, theo định nghĩa phải là một công dân. Như vậy, những ai giữ chức vụ trong chính quyền sau khi cách mạng xảy ra, phải được coi là công dân.
[1] Cleisthenes là một nhà quý tộc thành Athens và cũng là người lật đổ bạo chúa Hippias. Sau đó Cleisthenes cho nhập thêm những người khác vào bốn bộ tộc cơ hữu của Athens (dựa trên liên hệ gia đình) thành mười bộ tộc dựa theo nơi sinh sống. Những bộ tộc thêm vào này có người là ngoại kiều thường trú, có người thuộc thành phần nô lệ
Chương III
Vấn đề khi nào công dân được coi là một công dân chính đáng lại liên quan đến một vấn đề đã được tìm hiểu trước đây [ở phần đầu của Chương 1]. Vì có một vấn đề song song liên quan đến nhà nước: khi nào một hành vi được coi là một hành vi của nhà nước. Thí dụ như hành vi thay đổi từ thể chế quả đầu hay độc tài cá nhân (bạo chúa) sang dân chủ. Trong những trường hợp như vậy người dân từ khước thực hiện các bổn phận đã được giao ước [trong hiến pháp], trên căn bản là nhà độc tài, chứ không phải nhà nước, buộc họ phải tuân theo giao ước. Họ lập luận rằng có những hiến pháp được thiết lập bởi sức mạnh, chứ không vì lợi ích chung. Thế nhưng lý luận này cũng đúng trong chế độ dân chủ, vì chế độ dân chủ cũng có thể được thiết lập nên bởi bạo lực, và như thế một hành vi của chế độ dân chủ có thể cũng không hơn hay chẳng kém gì hành vi của chế độ quả đầu hay độc tài cá nhân. Vấn đề này lại dẫn đến một vấn đề khác: ta dựa trên nguyên tắc nào để cho rằng nhà nước vẫn giống như cũ, hay đã bị đổi khác đi? Nếu ta chỉ xét đến lãnh thổ hay cư dân, thì đó là một cái nhìn thiển cận, vì lãnh thổ có thể bị phân cách và dân cư có người sống ở vùng này, người ở vùng khác. Điều này, coi vậy cũng không phải là vấn đề quá khó; ta chỉ cần nhận định rằng từ ngữ "nhà nước" là một từ ngữ mơ hồ, chưa được định nghĩa đúng đắn.
Cũng có người đặt vấn đề: Khi nào người dân cùng sống tại một nơi được xem là tạo nên một quốc gia?-giới hạn của nó ở chỗ nào? Chắc chắn không phải là bức tường thành bao quanh lãnh thổ, vì ta có thể xây một bức trường thành bao quanh cả vùng Peloponnesus.[1] Tương tự như vậy, ta cũng có thể liệt kê Babylon[2] và mọi thị-quốc có tầm vóc của một quốc gia; nhưng Babylon, lịch sử kể lại, đã bị địch quân chiếm đóng cả ba ngày rồi, mà nhiều người dân còn chưa biết. Vấn nạn này [một nước nên lớn đến chừng nào (gồm nhiều phần lãnh thổ khác nhau) mà vẫn được coi là một nước duy nhất], tốt hơn, nên để dịp khác ta sẽ bàn tới, bởi đây đơn giản chỉ là nhiệm vụ của nhà lãnh đạo phải quyết định xem quốc gia nên rộng lớn tới cỡ nào và có nên bao gồm nhiều lãnh thổ khác nhau hay không.[3]
Bây giờ hãy trở lại vấn đề người dân cư trú trên lãnh thổ. Liệu ta có xem những người dân cùng một giống, cư ngụ trên cùng một nơi từ đời này sang đời khác không có gì thay đổi, cho nên quốc gia cũng không thay đổi, dù người dân có sinh ra và chết đi, như ta bảo dòng sông hay ngọn núi bao giờ cũng vẫn như thế dù nước cứ chảy trôi đi mãi? Hay là ta lại bảo rằng các thế hệ người dân cũng thay đổi giống như nước của dòng sông, cho nên nhà nước cũng thay đổi? Vì nhà nước là một sự hội tụ và hợp tác của công dân theo một hiến pháp và một cơ cấu chính trị nào đó, cho nên, khi hình thức chính quyền thay đổi và trở nên khác đi với hình thức cũ, thì ta có thể nói là nhà nước đó không còn giống như cũ nữa; cũng giống như ban đồng ca của hài kịch khác với ban đồng ca của bi kịch, dù cả hai ban đều có cùng các ca công.[4] Tương tự như vậy, ta bảo mọi sự hội tụ hay phối hợp các phần tử sẽ khác đi khi hình thức phối hợp đó bị thay đổi; thí dụ, một hợp âm có cùng những nốt nhạc sẽ khác đi khi được kết hợp theo âm thể Dorian hay Phrygian.[5] Và nếu điều này được xem là đúng, thì hiển nhiên một nhà nước có còn giống như trước hay không là do hiến pháp có được giữ nguyên hay không, và ta vẫn có thể gọi bằng cùng một tên, còn cư dân của nước đó có thay đổi hay không, điều đó không quan trọng. Còn một vấn đề nữa là một nhà nước có nên hay không nên tiếp tục giữ các giao ước sau khi thay đổi hình thức chính quyền.
[1] Peloponnesus là vùng bán đảo thuộc miền trung Hy lạp ngày nay. Vùng này thời xưa gồm nhiều quốc gia (còn gọi là thị-quốc, city state), ngay cả thành Athens cũng được coi như một nước vào thời của Aristotle.
[2] Babylon là một thị quốc thuộc khu vực Mesopotamia, Iraq ngày nay. Babylon cũng đuợc coi là một trong 7 kỳ quan của thế giới thời cổ.
[3] Theo Ernest Barker, đoạn văn này có nghĩa: việc ấn định ranh giới và kích thước lãnh thổ thuộc về nghệ thuật lãnh đạo và cai trị, chứ không thuộc vấn đề được nêu ra trong chương này là lý thuyết về các đặc tính tạo nên quốc gia.
[4] Ca kịch cổ Hy lạp có hai thể loại: bi kịch hoặc hài kịch. Những vở kịch này được trình diễn tại những hý viện lớn ngoài trời (amphitheater). Ngoài các nhân vật chính trong kịch, trong cả hai loại hình bi kịch và hài kịch, ca kịch cổ Hy lạp còn có ban đồng ca đóng vai trò dẫn giải câu chuyện, bình luận về tâm lý và diễn biến của vở kịch, giữa những màn của vở ca kịch.
[5] Dorian và Phrygian là hai âm giai trong âm nhạc cổ Hy lạp.
Chương IV
Có một điểm liên quan đến vấn đề vừa được bàn đến ở trên: Liệu đức tính của một người tốt và một công dân tốt có giống nhau hay không? Nhưng trước khi thảo luận vấn đề này, ta phải có được một số khái niệm tổng quát về đức tính của công dân. Cũng như một người thủy thủ, công dân là thành viên của một cộng đồng. Những thủy thủ có những chức năng khác nhau; người này thì chèo, kẻ kia thì lái, người này thì quan sát khí tượng hay các thuyền bè khác, kẻ khác thì được gọi bằng chức năng mà họ được giao phó. Dù tên chính xác để chỉ đức tính của mỗi thủy thủ là do chức năng riêng của mỗi người, nhưng cũng có một định nghĩa chung dùng cho tất cả mọi người. Bởi vì tất cả cùng có chung một mục tiêu là thực hiện cuộc hải trình được an toàn. Tương tự như vậy, công dân này thì khác với công dân kia, nhưng mục đích chung là sự an toàn của cộng đồng. Cộng đồng này chính là cơ cấu chính trị; đức tính của công dân, do đó, phải liên quan đến cơ cấu chính trị mà họ là thành viên. Vậy thì, nếu có nhiều hình thức chính quyền, thì hiển nhiên, đức tính của một người công dân tốt sẽ không thể nào được xem là tuyệt đối; trong khi đó, một người được gọi là tốt phải có đức tính mà ai cũng phải công nhận. Như thế, một người công dân tốt không nhất thiết phải có những đức tính của một người tốt.
Ta cũng có thể lý giải vấn đề này theo một hướng khác, đó là xét từ quan điểm của một cơ cấu chính trị tuyệt hảo. Nếu một nhà nước không thể được tạo nên bởi tất cả những người tốt, nhưng mỗi công dân thực hiện thật tốt nhiệm vụ được giao phó, thì nhà nước đó vẫn được coi là tốt; nhưng bởi vì tất cả các công dân không thể nào giống nhau, do đó, đức tính của người tốt và của công dân không thể trùng nhau. Tất cả mọi người phải có đức tính của người công dân tốt, thì khi đó, và chỉ khi đó, nhà nước mới được coi là tuyệt hảo; nhưng không hẳn tất cả mọi người sẽ có đức tính của người tốt, trừ trường hợp ta giả thiết là trong một nhà nước tốt (tuyệt hảo), mọi công dân đều là những con người tốt.
Thêm nữa, ta có thể so sánh nhà nước, một tổng thể gồm nhiều phần tử khác nhau, với một con người: gồm có thể xác và tinh thần, tinh thần lại có lý trí và lòng ham muốn; thể xác gồm có gia đình, chồng vợ, của cải, chủ nhân và nô lệ, và những phần tử khác nhau. Như thế đức tính của tất cả mọi công dân không thể nào giống nhau, cũng như sự xuất sắc của người ca trưởng không giống như của các ca viên. Từ những nhận xét này, tôi đã chứng minh rằng đức tính của công dân tốt và của người tốt không thể hoàn toàn và tuyệt đối giống như nhau.
Thế nhưng liệu có trường hợp nào mà đức tính của một công dân tốt và của một người tốt trùng hợp với nhau? Ta có thể trả lời rằng một nhà cầm quyền tốt là một người "tốt" và "khôn ngoan," và những ai muốn trở thành nhà cầm quyền phải là người khôn ngoan. Ta cũng thấy rằng nhà cầm quyền được giáo dục theo cách đặc biệt; chẳng phải các hoàng tử được huấn luyện chuyên môn về thuật kỵ mã và quân sự? Như thi hào Euripides[1] đã cho nhân vật của mình, là một ông vua, nói về giáo dục cho hoàng tử:
"Đừng dạy những gì cao siêu, nhưng là những gì đất nước cần hơn cả."
Câu này cho thấy nhà cai trị được huấn luyện đặc biệt. Như vậy, ta có thể cho rằng, trong trường hợp nhà cai trị, đức tính của công dân và đức tính của một người tốt hoàn toàn giống nhau. Nhưng vì đối tượng là công dân thường, cho nên, đức tính của một công dân và của một người tốt không thể nào hoàn toàn giống nhau, dù có thể giống nhau trong một vài trường hợp đặc biệt [khi công dân trở thành nhà cai trị], vì đức tính của nhà cai trị khác với đức tính của công dân. Cũng chính vì sự khác nhau này mà Jason,[2] người xứ Pherae, đã nói: "Ta cảm thấy đói khi ta không còn là một bạo quân,[3]" câu nói này cho thấy ông không biết sống đời sống thường dân như thế nào. Nhưng, trên mặt khác, người ta cũng có thể lý luận rằng người ta thường được ca ngợi vì có được cả hai đức tính: biết cai trị và biết phục tùng, và công dân là người có cả hai đức tính này. Cho nên, nếu ta cho rằng đức tính của một người tốt là biết cai trị,[4] và đức tính của công dân gồm cả hai, thì ta không thể xem hai đức tính này ngang nhau. Bởi vì, có nhiều khi người cai trị và kẻ bị trị phải học những điều khác nhau; thí dụ như trường hợp của chủ nhân là người phải biết những gì liên quan đến những công việc lao động chân tay, không có nghĩa là chủ nhân phải biết làm những việc đó, nhưng biết điều khiển nhân công làm những việc đó (làm những việc lao động chân tay là tự hạ giá trị của chủ nhân). Còn những kẻ làm những công việc lao động chân tay đó thuộc nhiều loại khác nhau, thí dụ như những người thợ thủ công, đúng như tên gọi, là những người sống bằng sức lao động của bàn tay, hay những người thợ máy. Đó là lý do tại sao vào thời cổ, tại vài nước, giai cấp lao động không được tham gia vào chính sự-một đặc quyền mà họ chỉ có được dưới một chế độ cực kỳ dân chủ. Hẳn rằng một người tốt, một chính trị gia, và một công dân tốt không cần phải học những nghề của giai cấp hạ tiện trừ trường hợp thỉnh thoảng phải chính tay làm; nếu họ cứ tiếp tục làm những việc này thành thói quen, thì chẳng còn phân biệt được đâu là chủ nhân đâu là nô lệ.
Nhưng ở đây ta không bàn đến luật lệ kiểu này (quy định quan hệ giữa chủ nhân và nô lệ); còn có một loại luật lệ khác áp dụng trên những công dân tự do và bình đẳng về giai cấp; luật lệ đó là sự phục tùng luật pháp, nghĩa là người cai trị phải học tuân lệnh, giống như muốn học các bổn phận của một tướng kỵ binh hay bộ binh, thì trước hết phải phục vụ trong kỵ binh hoặc bộ binh và tuân lệnh của các vị tướng này, và rồi mới nắm quyền chỉ huy đại đội hay trung đoàn. Tục ngữ có câu: "Kẻ nào chưa từng học vâng lời, không thể trở thành một người chỉ huy giỏi." Hai đức tính đó không giống nhau, nhưng người công dân tốt phải có khả năng thực hiện cả hai: biết cách cai trị như một người tự do và biết cách vâng lời như một người tự do. Đó là những đức tính của một công dân. Và, mặc dù đức tự chủ và công bình của người cai trị có khác với đức tính đó của người bị trị, đức tính của một người tốt bao gồm cả hai đức tính này; bởi vì đức tính của một người tốt vừa là một người tự do và là một người dân, tức là đức công bình, bao gồm các loại đức tính khác nhau,[5] một loại giúp cho y cai trị, và một loại giúp cho y vâng lời, các đức tính này khác nhau như thể đức tự chủ và công bình của đàn ông khác với các đức tính đó của đàn bà. Một người đàn ông sẽ bị xem là nhu nhược nếu anh ta không can đảm hơn một người đàn bà dũng cảm, và một người phụ nữ sẽ bị xem là lắm chuyện nếu không tự kiểm soát được cách ăn nói của mình bằng một người đàn ông. Vai trò của đàn ông và đàn bà trong gia đình cũng khác nhau; bổn phận của đàn ông là đem về của cải, còn đàn bà thì tích trữ những của cải đó. [Trong tất cả các đức tính,] Trí[6] là một đức tính chỉ dành cho người cai trị; ngoài ra, các đức tính khác cả người cai trị cũng như thần dân đều nên có như nhau. Người dân không cần tới đức Trí, nhưng cần có quan điểm đúng. Ta có thể so sánh người dân giống như là người thợ chế tạo sáo, còn nhà cai trị thì giống như người thổi sáo hay người sử dụng sáo.[7]
Từ những nhận định trong chương này, ta có thể tìm được câu trả lời cho câu hỏi liệu đức tính của một người tốt và của một công dân tốt có giống nhau hay không, và nếu giống nhau thì giống ở phương diện nào và đến mức độ nào.
[1] Euripides là một trong ba thi hào trứ danh của cổ Hy Lạp (hai thi hào kia là Aeschylus và Sophocles). Ông đã trước tác 95 vở bi kịch. Lúc còn sinh tiền, Euripides luôn thua sút hai thi hàoAeschylus và Sopholces trong các cuộc thi trình diễn bi kịch Dionysia được tổ chức hàng năm. Tuy nhiên, văn phong giản dị của Euripides và bi kịch của ông lại tạo được ảnh hưởng sâu rộng đến các kịch tác gia La Mã đời sau, và ngay cả các kịch tác gia cổ điển của Pháp thời hiện đại.
[2] Jason, người Pherae, trở thành vua xứ Thessaly và mở mang Thessaly thành một thị-quốc thời cổ Hy lạp.
[3] Bạo quân, dịch từ Hy lạp tyrannos (tiếng Anh là tyrant), không có nghĩa là một nhà vua tàn bạo hay người cai trị chuyên chế theo nghĩa hiện đại. Tyrannos chỉ những người nắm quyền cai trị một cách bất hợp pháp không theo hiến pháp quy định. Các "ngụy vương" thời cổ Hy lạp thường là những nhà quý tộc bất mãn với chế độ và tìm cách nắm quyền qua mưu toan với các thành phần dân chúng không được tham gia vào chính quyền như thành phần thương nhân; từ tyrannos không có nghĩa xấu là tàn ác, bạo ngược như ta hiểu ngày nay (theo Jona Lendering tại http://www.livius.org/tt-tz/tyrant/tyrant.html).
[4] Một người tốt, theo Ernest Baker, là người có được sự khôn ngoan đạo đức, nghĩa là có khả năng chế ngự (cai trị) những sự ham muốn, biết cách ứg xử trước những khó khăn về đạo lý thể hiện qua những sự chọn lựa khôn ngoan, và đó là đức tính của nhà cai trị.
[5] Theo người Hy lạp thời đó, đức tính của một người tốt vừa là một công dân gồm có bốn thể: tự chủ, công bình, can đảm, và khôn ngoan.
[6] Bản dịch của Barker dùng từ "prudence" và Jovett dùng "practical wisdom" để chỉ đức tính chủ đạo của mọi đức tính. Người dịch dùng Trí để dịch hai từ này. Sự cẩn trọng (prudence) đòi hỏi có sự khôn ngoan, hiểu biết và kiến thức, đồng thời đưa ra được những phán đoán đúng đắn và thực dụng trong cách xử thế. Tuy nhiên, việc thi hành những phán đoán khôn ngoan đó cần tới dũng (can đảm) và công bình vì kết quả của những phán đoán này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới mọi thành phần liên can. Thí dụ, một vị tướng có trí là người phải biết cân nhắc các chiến thuật dựa trên kiến thức thu thập được, sự hiểu biết về lực lượng ta và địch để quyết định lấy một chiến thuật, sau đó vị tướng còn cần có can đảm để thi hành quyết định của mình mà ảnh hưởng của nó sẽ liên quan đến sự an nguy của ba quân.
[7] Ta có thể hiểu sự so sánh này như sau: người thợ làm sáo chỉ cần biết làm sáo cho đúng cách, người thổi sáo mới cần biết lúc nào khoan, lúc nào nhặt, và đó là đức tính của nhà cai trị. Thí dụ này, thật ra khá khó hiểu, như Barker trình bày là ta không nhận thấy mối quan hệ giữa nhà cai trị và người dân tương ứng với người làm sáo và người thổi sáo.
Chương V
Vẫn còn một vấn đề nữa về công dân, đó là, nếu những công dân thực thụ
là những người được tham chính, thế còn những người thợ máy thì sao? Nếu
ta coi những người thợ máy-những người vốn dĩ không được tham chính-là
công dân, thì không phải công dân nào cũng có được khả năng cai trị và
bị trị. Nhưng nếu những giai cấp thấp hơn không được xem là công dân,
thì họ ở chỗ nào trong quốc gia đây? Họ không phải là ngoại kiều thường
trú, cũng chẳng phải là người ngoại quốc. Không coi thợ máy là công dân
không phải là một lập luận vô lý, vì chẳng phải thành phần nô lệ và
những nô lệ được trả tự do không được bao gồm trong các giai cấp hay
sao? Thêm nữa, ta cũng không thể xem tất cả những phần tử cần thiết cho
sự hiện hữu và tồn tại của quốc gia là công dân; thí dụ như trẻ con
không thể được xem là công dân tương đương như người lớn. Trẻ con chỉ là
công dân trong một chừng mực nhất định nào đó mà thôi. Thật vậy, vào
thời cổ, tại một số nước, giai cấp thợ thuyền thường là nô lệ hay ngoại
kiều, và hiện nay cũng vậy. Một nhà nước được xây dựng theo mô hình hoàn
hảo nhất sẽ không nhận giai cấp này làm công dân; nhưng, nếu họ được
coi là công dân, thì định nghĩa của ta về đức tính công dân sẽ không áp
dụng được cho mọi công dân hay những người tự do, mà chỉ áp dụng cho
những ai không phải làm những việc lao động chân tay. Những người thuộc
loại cần thiết cho sự tồn tại của xã hội có hai loại; đó là những nô lệ
phục vụ cho nhu cầu của chủ nhân, còn thợ máy và người lao động khác
phục vụ cho cả cộng đồng. Nếu ta tiếp tục suy tư theo chiều hướng này
thì vị trí xã hội của những người này sẽ được giải thích rõ ràng; thực
ra những điều cần thiết đã được trình bày hết cả rồi.
Vì chính quyền có nhiều dạng khác nhau, cho nên cũng phải có nhiều loại công dân khác nhau, nhất là những công dân không thuộc thành phần cai trị. Dưới một thể chế chính trị nào đó thì thợ thuyền và thành phần lao động chân tay được xem là công dân, nhưng dưới một thể chế khác thì lại không được, thí dụ như trong chế độ quý tộc, bởi vì đó là một chế độ mà các chức vụ và danh vọng được dành cho những phần tử ưu tú có đức, có tài mà đời sống vất vả của những người thợ hoặc lao động chân tay khiến cho họ không thể nào rèn luyện được đức độ và tài năng cai trị. Trong các chế độ quả đầu, tiêu chuẩn chọn lựa quan chức là phải có của cải, cho nên, giới lao động chân tay không thể nào được xem là công dân, nhưng giới thợ thuyền thì lại có thể được vì thực ra đa số bọn họ là những người giàu có. Tại Thebes có một đạo luật chỉ cho phép những ai đã nghỉ không còn làm ăn buôn bán được mười năm mới được tham chính. Còn tại những nước khác, luật lệ lại cứu xét trường hợp nhận ngoại kiều vào làm công dân; như tại một số nước dân chủ, một người chỉ cần có mẹ là công dân cũng được xem là công dân; tại một số nước khác, ngay cả con ngoại hôn cũng được xem là công dân. Khi dân số bị suy giảm, luật lệ về công dân còn được nới lỏng hơn nữa. Nhưng khi dân số gia tăng trở lại, thì trước hết con cái của cha-nô lệ hay mẹ-nô lệ bị loại ra, rồi đến trường hợp chỉ có mẹ là công dân (cha là ngoại kiều), và cuối cùng là quyền công dân chỉ dành cho những ai có cả cha mẹ là công dân. Như thế, ta thấy có nhiều loại công dân; và công dân, hiểu theo nghĩa cao nhất của nó là những ai được tham chính. Hãy thử so sánh với vần thơ của Homer "như một ngoại nhân chẳng được dự phần vào chính sự," thì ta thấy tư cách của kẻ nào bị loại ra không được tham chính cũng chẳng khác gì của một ngoại kiều. [Một người có thể bị từ khước tư cách công dân vì một lý do chính đáng nào đó,] nhưng nếu nguyên do dùng để từ khước quyền công dân của một người bị che đậy, thì đó chẳng qua chỉ là thủ đoạn của giới quý tộc dùng để đánh lừa đồng bào của họ mà thôi.
Còn về câu hỏi liệu đức tính của một người tốt và của một công dân tốt có tương đồng với nhau hay không, thì những dẫn chứng ta đã đưa ra đủ để chứng minh rằng tại một số nước, người tốt và công dân tốt là một, còn ở một số nước khác thì không hẳn như vậy. Khi ta nói giống nhau, không có nghĩa là mọi công dân đều là người tốt mà chỉ có những người lãnh đạo quốc gia là có cả hai đức tính tốt mà thôi.
Chương VI
Sau khi đã xác định được các câu hỏi này, bước kế tiếp ta phải xét xem có một hay có nhiều hình thức chính quyền, và nếu mà có nhiều loại thì đó là những hình thức nào, có bao nhiêu loại và chúng khác nhau ra làm sao.
Một hiến pháp là sự sắp xếp cơ cấu quan chức trong một nước, nhất là cơ cấu [có quyền lực] cao nhất. Chính quyền có uy quyền tối thượng trong cả nước, và hiến pháp thực ra chính là chính quyền. Thí dụ, trong chế độ dân chủ, người dân là tối thượng, nhưng trong chế độ quả đầu, chỉ có một thiểu số là tối thượng; như thế, ta nói rằng hai hình thái chính quyền kể trên khác nhau, và cũng tương tự như vậy cho các trường hợp khác.
Trước hết, hãy xét xem mục đích của nhà nước là gì, và xã hội loài người đã được vận hành theo bao nhiêu hình thái chính quyền khác nhau. Như đã nói trước đây trong phần đầu của luận cương này, khi ta thảo luận về sự quản trị hộ gia đình và sự cai trị của người chủ gia đình, ta thấy con người là một sinh vật chính trị. Và do đó, người ta, dù khi không cần đến sự giúp đỡ của kẻ khác, vẫn mong muốn được sống quần tụ và gắn kết lại với nhau bởi những lợi ích chung mà khi sống với nhau trong một cộng đồng ai cũng được hưởng. Điều này chắc chắn là mục đích chính của cả cá nhân cũng như nhà nước. Thêm vào đó, cũng đơn giản chỉ vì sự sống thôi (trong đó con người có được những yếu tố cao nhã khi mà những điều xấu xa được cân bằng với những điều tốt đẹp của sự sống chung) mà con người tụ hội lại với nhau trong một cộng đồng chính trị. Và ta cũng thấy người ta sẵn sàng chịu đựng những đau khổ lớn lao chỉ để được sống còn, điều này cho thấy đời sống tự nó có sẵn những điều ngọt ngào và hạnh phúc.
Phân biệt các loại quyền uy không phải là một điều khó khăn vì ta đã thường định nghĩa các loại này trong những cuộc bàn luận công cộng. Uy quyền của người chủ đối với nô bộc, dù bản chất của chủ và tớ trong thực tế có cùng quyền lợi, vẫn được người chủ thi hành nhắm đến quyền lợi của mình là chính, nhưng nô bộc cũng được hưởng lợi theo, vì nếu mà nô bộc không còn nữa thì uy quyền của chủ nhân cũng mất theo. Còn quyền uy của người chủ gia đình mà ta vẫn thường gọi là quản trị gia đình, trước hết được thực thi nhắm đến quyền lợi của vợ và con hay vì quyền lợi của cả chủ gia đình lẫn vợ con, nhưng bản chất của uy quyền này vẫn là lo cho vợ và con trước, cũng giống như trong trường hợp thầy thuốc, huấn luyện viên thể dục, hay các ngành nghề khác là những nghề mang lại lợi ích cho người thực hiện một cách ngẫu nhiên.[1] Bởi vì không có lý do gì mà huấn luyện viên lại không chính mình tập luyện, và người lái thuyền lại không phải là một thành viên của thủy thủ đoàn. Huấn luyện viên và người lái thuyền quan tâm đến phúc lợi của những người mà họ có thẩm quyền, nhưng vì họ cũng là một thành viên trong số đó, cho nên họ cũng được hưởng quyền lợi do thẩm quyền của họ mang lại. Tương tự như vậy trong chính trị: khi một nhà nước được thiết lập trên nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng, thì họ coi việc luân phiên giữ chức vụ trong chính quyền là việc làm tự nhiên và đúng đắn. Trước đây, ai cũng xem đó là một bổn phận tự nhiên khi thay nhau tham gia chính sự, vì khi mình nắm quyền và lo cho phúc lợi của người khác, thì khi họ nắm quyền cũng lo lại cho mình như vậy. Nhưng ngày nay không còn như thế nữa vì những lợi lộc do chức vụ mang lại, người ta cứ muốn ngồi mãi trên chiếc ghế quyền lực. Ta có thể ví những kẻ cai trị đó như những kẻ bệnh hoạn mà chiếc ghế quyền lực là phương thuốc giữ cho họ được khỏe mạnh. Và như thế thì đương nhiên họ phải tranh giành quyền chức. Kết luận của ta thật là rõ ràng: những chính quyền nào mà quan tâm đến phúc lợi chung của mọi người là những chính quyền được thiết lập đúng theo công lý, hiểu theo nghĩa nghiêm nhặt nhất, và đó là những chính quyền đúng đắn; còn những loại chính quyền nào mà chỉ lo cho quyền lợi của kẻ cai trị là những loại chính quyền đầy rẫy khuyết điểm và bại hoại, chính quyền của bạo quân và thần dân, [tương phản với] nhà nước là một cộng đồng của những người tự do.
[1] Quyền uy của người thầy thuốc đối với con bệnh là để chữa cho bệnh nhân khỏi bệnh, nhưng khi "làm lợi" cho bệnh nhân, người thầy thuốc cũng được hưởng lợi cho chính mình qua tiền công chữa bệnh. Tương tự như vậy đối với các ngành nghề khác.
Chương VII
Sau khi đã xác định những điểm này, ta phải xét xem có bao nhiêu loại hình chính quyền, và đó là những loại nào, và khi đã xác định được ngay từ đầu loại nào là đúng đắn thực sự, thì ta sẽ thấy ngay những loại chính quyền đã bị thoái hóa là những loại nào. Hai từ hiến pháp và chính quyền có cùng một nghĩa, và chính quyền, tức là quyền uy tối thượng trong một nước, phải nằm trong tay của một người, hay của một vài người, hay thuộc về nhiều người. Những dạng thức đúng đắn của chính quyền, do đó, thuộc một trong ba loại kể trên, được tổ chức nhằm phục vụ lợi ích chung; còn những loại chính quyền được thiết lập nhằm phục vụ quyền lợi riêng tư của một người, một nhóm người, hay của cả nhiều người, đều là những loại chính quyền đã bị hủ bại. Bởi vì những thành viên của một nước, nếu họ là công dân thật sự, thì họ phải tham gia vào chính sự. Trong loại hình chính quyền do một người cai trị, theo cách gọi thông thường là quân chủ; loại hình một thiểu số cai trị là quý tộc; gọi như vậy là vì hoặc những người cai trị thuộc thành phần ưu tú, hoặc là họ chuyên tâm đến những quyền lợi tốt đẹp nhất của quốc gia và công dân. Nhưng khi mà đa số công dân tham gia chính sự và quan tâm đến lợi ích chung, thì chính thể đó được gọi bằng một cái tên chung là "chính quyền." Sở dĩ ta dùng tên gọi chung này vì một người hay một số người có thể vượt trội hơn những người khác về tài đức, nhưng khi gom nhiều người lại, ta khó lòng phân biệt được ai là kẻ vượt trội về mọi mặt, ngoại trừ về phương diện quân sự, [vì những người can trường, dũng cảm và mưu trí khi chiến đấu sẽ hiển hiện trong đám đông]. Vì thế trong những chính quyền như vậy, chiến sĩ là những người nắm giữ quyền lực và người lính được coi là công dân.
Trong các loại hình kể trên, loại hình hủ bại của quân chủ là bạo chúa, loại hình hủ bại của quý tộc là quả đầu, và của loại thứ ba là dân chủ.[1] Bạo chúa hủ bại là vì nhà vua chỉ chăm lo quyền lợi của vương thất; quả đầu chỉ lo cho quyền lợi của kẻ giàu; và dân chủ chỉ lo cho quyền lợi của dân nghèo. Không có loại nào lo cho quyền lợi chung của quốc gia.
[1] Dân chủ hiều theo nghĩa của thời Aristotle khác với cách ta dùng ngày nay.
Chương VIII
Nhưng có những khó khăn [trong việc phân loại] các hình thức chính quyền và ta cần phải bàn sâu thêm về bản chất của từng loại, bởi vì những ai muốn nghiên cứu thấu đáo theo phương pháp triết học, chứ không phải chỉ về phương diện thực dụng mà thôi, cần phải xem xét mọi khía cạnh và không được bỏ sót một điều nào, và tìm cho ra chân lý trong từng trường hợp cá biệt. Chế độ bạo quân, như tôi đã nói, là một quân vương áp dụng quyền lực của chủ nhân trên xã hội; chế độ quả đầu là khi giai cấp tư sản nắm chính quyền trong tay; chế độ dân chủ, ngược lại, là khi những kẻ bần cùng nắm chính quyền. Và tại điểm này ta gặp một vấn nạn liên quan đến sự phân định ta vừa nêu trên. Vì chế độ dân chủ còn được hiểu là chính quyền thuộc về số đông, nhưng nếu số đông đó lại là những người có tài sản thì đó là loại chế độ gì? Tương tự như vậy, chế độ quả đầu thường được hiểu là chính quyền nằm trong tay một thiểu số, nhưng nếu thiểu số này lại thuộc thành phần nghèo thì sao? Trong hai trường hợp này sự phân định các loại chính quyền ta đề ra trước đây không còn đúng nữa. Hãy giả thiết thêm một lần nữa là nếu ta cho thành phần thiểu số có tài sản và thành phần đa số là dân nghèo và đặt lại tên như sau: quả đầu là chế độ thành phần thiểu số giàu có nắm quyền, còn dân chủ là chế độ do đa số dân nghèo nắm quyền, thì ta cũng vẫn còn gặp một vấn nạn. Bởi vì ta vẫn không biết gọi như thế nào một chế độ mà trong đó đa số là người giàu và thiểu số là người nghèo.
Lý luận trên cho thấy một điều là trong trường hợp quả đầu hay dân chủ, con số những người nắm quyền, đa số trong trường hợp dân chủ và thiểu số trong trường hợp quả đầu, chỉ là một yếu tố ngẫu nhiên vì theo lệ thường không có nhiều người giàu còn người nghèo thì đông vô số. Nhưng nếu đúng như vậy thì đó chính là yếu tố tạo nên sự lầm lẫn trong việc phân biệt sự khác nhau giữa hai loại này. Sự khác biệt thật sự giữa dân chủ và quả đầu nằm ở chỗ nghèo và giàu. Do đó, bất kỳ ở đâu khi những người cai trị là những người giàu có, bất kể đó là số ít hay nhiều, đó chính là chế độ quả đầu; còn nếu người nghèo cai trị, thì đó là chế độ dân chủ. Sự kiện trong một xã hội có ít người giàu và có đông người nghèo là một thực tế, nhưng cả hai thành phần này đều là những người tự do, và như thế, tài sản cũng như sự tự do mới là căn bản thực sự cho hai phe quả đầu và dân chủ dùng để tranh thủ quyền lực chính trị.
Chương IX
Ta hãy bắt đầu xem xét những định nghĩa chung của quả đầu và dân chủ, và sự khác biệt trong khái niệm về công bằng và công lý của hai chế độ này. Vì người ta ai cũng muốn được đối xử công bằng, nhưng khái niệm của họ về công bằng lại khiếm khuyết và không diễn tả được hết ý nghĩa. Thí dụ, [cả quả đầu lẫn dân chủ đều cho rằng] công bằng là bình đẳng về phương diện tham gia chính quyền, nhưng [theo người dân chủ], đó là sự bình đẳng giữa những người đồng đẳng, chứ không phải bình đẳng cho tất cả mọi người. Còn trong chế độ quả đầu, sự bất bình đẳng [về phương diện tham gia chính quyền], lại được xem là công bằng, nhưng đó là sự công bằng giữa những người không đồng đẳng. Cả hai phe đều không để ý đến một yếu tố quan trọng, đó là khi áp dụng nguyên tắc bình đẳng, họ vừa là đối tượng vừa là người phán xét. Và người ta, khi dính dáng đến [quyền lợi của] chính mình, đều không thể nào phán xét cho công minh được. Trong khái niệm về sự công bằng chứa đựng một mối quan hệ đến con người cũng như vật chất, và một sự phân phối công bằng, như tôi đã nói đến trong cuốn Đạo Đức, cũng hàm ý rằng có cùng một tỷ lệ giữa con người và vật chất. Cả hai phe đồng ý về sự bình đẳng vật chất, nhưng tranh cãi về sự bình đẳng giữa con người; cũng chỉ vì lý do mà tôi đã đưa ra, họ vừa là đối tượng vừa là người phán xét. Thứ hai, cả hai phe chỉ có một khái niệm giới hạn về sự công bằng, nhưng lại tưởng là mình đang bàn về một sự công bằng tuyệt đối. Vì thế, đối với một phe, nếu con người không bình đẳng về một phương diện, về tài sản chẳng hạn, thì họ bị coi như bất bình đẳng về mọi phương diện; còn đối với phía bên kia, nếu người ta được coi như bình đẳng về một phương diện, thí dụ như sinh ra là người tự do, thì họ coi như được bình đẳng về mọi phương diện.
Nhưng cả hai phe đều bỏ qua một điểm trọng yếu. Nếu con người quần tụ lại trong xã hội chỉ nhằm đến việc tích lũy tài sản, thì phần thưởng của nhà nước cho họ [chức quyền hay danh vọng] cũng phải tỷ lệ với tài sản họ đóng góp. Hiểu theo ý này thì lý thuyết của phe quả đầu thắng thế. [Hiển nhiên,] không thể có sự công bằng khi kẻ đóng góp một đồng minae lại được hưởng vinh dự như kẻ đóng góp một trăm đồng. Thế nhưng, quốc gia hiện hữu là nhằm đạt đến một đời sống "tốt đẹp," chứ không phải chỉ để sống còn: nếu chỉ để sống còn, thì nô lệ và ngay cả súc vật cũng có thể tạo thành nhà nước, nhưng chúng không thể làm được việc đó, vì chúng không thể chia sẻ với nhau sự hạnh phúc, hay sống một đời sống có sự tự do chọn lựa. Tương tự như thế, một quốc gia không hiện hữu chỉ để tạo nên liên minh bảo đảm an ninh chống lại các sự bất công, hay để trao đổi mậu dịch; vì nếu như thế thì dân Estrucan và dân Carthage cùng với dân của tất cả những nước nào có quan hệ mậu dịch với nhau, phải là công dân của một nước. Dù những nước này đều có giao ước về xuất-nhập cảng và cam kết là thực thi các giao ước này, cũng như có hiệp ước liên minh với nhau; nhưng không có một quan chức nào chung giữa các nước giao ước với nhau để bảo đảm việc thi hành những giao ước này; những nước khác nhau có các quan chức khác nhau. Thêm nữa chẳng có nước nào cần biết công dân của nước khác có phải là người tốt hay không, miễn hồ công dân nước khác không làm phương hại đến công dân nước mình, về phương diện mậu dịch chẳng hạn. Trong khi đó, những ai quan tâm đến một chính quyền tốt phải quan tâm luôn đến cả những thói hư, nết tốt của dân trong nước. Do đó, ta có thể suy ra rằng để xứng đáng được gọi là một nước thì nước đó phải đặc biệt quan tâm đến đạo đức. Không có mục tiêu phát huy đức hạnh thì sự kết hợp chính trị chỉ là liên minh của những phần tử sống gần nhau so với liên minh của những phần tử sống cách xa nhau. Còn luật pháp thì trở thành một quy ước, như biện sĩ Lycophron nói, "sự bảo đảm quyền của kẻ này đối với kẻ khác," chứ không phải theo như đúng nghĩa của nó là những quy luật cuộc sống để cho dân trở thành người tốt và công chính.
Ta có thể nhận thức điều này một cách rõ ràng như trong trường hợp các nơi hoàn toàn riêng biệt như Corinth và Megara[1] chẳng hạn. Giả sử như hai thị quốc này có được xếp kề sát bên nhau, thì cũng không vì thế mà tạo thành một quốc gia được, kể cả khi mà công dân của hai nước được phép lấy nhau-một đặc quyền mà chỉ có công dân của một nước mới được hưởng. Thêm vào đó, nếu người dân sống cách xa nhau, nhưng không xa quá đến nỗi không thể có quan hệ nào với nhau, và có những luật lệ chung bảo đảm việc thương mại, thì điều đó cũng không tạo thành một quốc gia. Thí dụ, một người làm nghề mộc, người khác làm nghề nông, người khác nữa làm nghề đóng giày, vân vân, và cứ thế nhân lên mười ngàn lần, thì nếu họ không có điều gì chung ngoại trừ mậu dịch, liên minh, hay những điều tương tự, thì điều đó không đủ để tạo thành một quốc gia. Tại sao lại như thế? Chắc chắn không phải vì khoảng cách: giả sử họ có thể gặp nhau ở cùng một chỗ, nhưng mỗi người vẫn xem căn nhà của mình như thể đó là quốc gia riêng của mình và họ liên kết lại chỉ để ngăn ngừa những kẻ làm bậy, thì nhà tư tưởng đúng đắn vẫn không thể nào coi đó là một quốc gia được khi quan hệ của họ đối với nhau, trước và sau khi kết hợp, vẫn chẳng có gì thay đổi.
Ta thấy rõ ràng một quốc gia không chỉ đơn thuần là một xã hội, có chung một chỗ, được thành lập nhằm ngăn ngừa tội phạm và nhằm mục đích giao thương. Đó là những điều kiện cần thiết mà không có nó thì một quốc gia không thể hiện hữu, nhưng gom hết những điều đó lại vẫn chưa đủ tạo thành một quốc gia: một cộng đồng gồm các gia đình được kết hợp lại trong hạnh phúc nhằm đạt tới một đời sống toàn hảo và tự túc. Những cộng đồng như vậy chỉ có thể được thành lập giữa những người sinh sống tại cùng một chỗ và có quan hệ qua hôn nhân. Trong những thành phố như vậy, các quan hệ gia đình, tình huynh đệ, sự sẻ chia hoạn nạn, cùng những niềm vui gắn kết họ lại với nhau. Nhưng đó mới chỉ là do quan hệ hữu nghị tạo nên, vì tình hữu nghị chính là ý muốn sống chung trong đời sống xã hội; còn mục đích tối hậu của quốc gia là nhắm tới một đời sống "tốt đẹp" và các định chế xã hội chỉ là phương tiện nhằm đạt tới mục đích này. Một quốc gia, như vậy, là sự kết hợp của gia đình và làng mạc thành một đời sống toàn hảo và tự túc, và đó là điều mà ta gọi là một đời sống hạnh phúc và đức hạnh.
Kết luận lại, một xã hội chính trị hiện hữu nhằm tạo ra môi trường cho các hoạt động cao thượng chứ không phải chỉ cho tình hữu nghị. Vì thế, những ai đóng góp nhiều nhất cho quốc gia phải được tưởng thưởng nhiều hơn những người bình đẳng hoặc trội hơn về gốc gác quý tộc hay tự do, hoặc bình đẳng hay trội hơn về tài sản nhưng đức hạnh chính trị kém hơn. Từ những điều vừa được trình bày, ta thấy rõ ràng là cả hai phe ủng hộ dân chủ hoặc quả đầu chỉ mới nắm được một phần của khái niệm về công bằng và công lý mà thôi.
[1] Corinth là một thị quốc nằm ở eo biển Corinth nối liền khu vực Peloponnese với Hy Lạp. Peleponnese là đất của các thị quốc thời Cổ Hy Lạp như Sparta, Corinth, Argos. Megara cũng là một thị quốc nằm gần Corinth
Chương X
Vẫn còn một khó khăn nữa liên quan đến ai sẽ nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước: là quần chúng, giới giàu có, người có đức độ, kẻ tài năng, hay là một bạo quân? Bất kỳ trường hợp nào nêu trên cũng đưa đến những kết quả không hay. Chẳng hạn, nếu như quần chúng nắm quyền, bởi vì họ là số đông, rồi chia nhau của cải của người giàu, thì điều đó có công bằng hay không? Công bằng chứ (họ sẽ trả lời), vì quyền lực tối cao muốn như vậy mà! Nhưng nếu điều này chẳng phải là bất công, thì điều nào mới là bất công đây? Thêm nữa, sau khi chia của lần đầu tiên xong, và đa số lại quyết định chia tiếp tài sản của thành phần thiểu số, và việc này cứ tiếp diễn liên tục, chẳng phải quốc gia sẽ bị tiêu hủy hay sao? Nhưng đức hạnh chẳng thể nào làm hư hoại được những gì tốt đẹp, cũng như công bằng không thể nào làm hủy hoại quốc gia, do đó, luật lệ cưỡng chiếm tài sản hiển nhiên là luật lệ bất công. Bởi vì nếu luật này mà được xem là công chính thì, nhất thiết, mọi hành vi của bạo quân đều phải được xem là công chính; bạo quân sẽ nói là nhân danh quyền lực tối cao mà cưỡng bách mọi người, cũng giống như đa số cưỡng bách những người có của. Như thế có công bình không khi một thiểu số và những kẻ giàu có trở thành nhà cai trị? Và nếu họ, cũng theo lối lập luận đó, ăn cướp và ăn cắp của nhân dân, thì như thế có được coi là công chính không? Nếu mà như vậy, thì mọi trường hợp khác cũng phải được coi là công chính. Nhưng hiển nhiên, [ta biết rằng] những điều như vậy là sai lầm và bất công.
Như thế, ta nên chọn những người có đức độ ra nắm quyền lực tối cao? Nhưng nếu thế thì tất cả những người khác sẽ bị gạt ra ngoài guồng máy quyền lực và như thế sẽ cảm thấy nhục nhã. Vì người ta quan niệm rằng các chức vụ trong chính quyền là nơi được vinh dự, và nếu một nhóm người luôn luôn nắm giữ những chức cụ này, thì sẽ không còn chỗ cho số người còn lại. Như thế liệu ta có nên chọn một người đức độ nhất để cai trị không? Như vậy cũng không được, vì số người không được tham gia chính sự lại còn đông hơn nữa. Thêm vào đó, một số người chủ trương chọn nhân trị không bằng pháp trị, vì con người còn bị chi phối bởi thất tình lục dục. Thế nhưng nếu luật pháp lại bị thiên về dân chủ hay quả đầu thì sao? Chọn lựa pháp trị cũng không giúp thêm được gì trong trường hợp này. Những hậu quả đã bàn đến cũng sẽ xảy ra y hệt như vậy trong trường hợp này
Chương XI
Phần lớn những vấn đề này lẽ ra nên được dành cho một trường hợp khác. Cái nguyên tắc cho rằng số đông nên được xem là ưu việt hơn một thiểu số tài giỏi nhất là một nguyên tắc nên được giữ lại, và, mặc dù không phải là không có những khó khăn, nguyên tắc này dường như vẫn chứa đựng một phần của chân lý. Mỗi một người trong số đông chỉ là một người [có khả năng] bình thường, nhưng khi họp nhau lại trong một tập thể, thì rất có nhiều cơ hội tập thể này sẽ khá hơn một thiểu số người giỏi; cũng giống như một bữa tiệc do nhiều người đóng góp sẽ phong phú hơn là một bữa ăn chỉ do một người khoản đãi. Mỗi một cá nhân trong số đông người có một phần đức hạnh và sự khôn ngoan, và khi họ họp lại cùng nhau, thì trở thành một người có nhiều tay, chân và giác quan; một "con người" có tâm trí và tâm tính. Như thế, số đông sẽ có khả năng thẩm định tốt hơn là một người về phương diện âm nhạc và thi ca, vì một số người hiểu phần này, một số khác hiểu phần khác, và cùng với nhau, họ sẽ hiểu cả toàn bộ. Trong số những người tài giỏi, cũng có một sự kết hợp các phẩm cách tương tự như vậy; họ khác với những cá nhân của số đông, cũng giống như người đẹp khác với người không đẹp, hay những tác phẩm nghệ thuật khác với những tác phẩm tầm thường, bởi vì trong bản thân họ những phần tử rời rạc được kết hợp lại [thành một đơn vị] mà nếu tách rời ra thì đôi mắt của họ (hay một bộ phận nào khác) chưa chắc đã đẹp hơn mắt của người khác. Nhưng liệu nguyên tắc này có áp dụng được cho mọi nền dân chủ và cho tất cả mọi người hay không thì vẫn chưa rõ lắm; bởi vì có một số trường hợp nguyên tắc này không thể áp dụng được: theo lý luận, nếu nguyên tắc đã áp dụng chung cho tất cả mọi người thì phải áp dụng luôn cho cả đàn thú. [Sở dĩ như vậy vì] có những đám người mà chỉ có sức mạnh thể chất chứ thiếu khôn ngoan. Và nếu như thế, ta đã giải quyết được cả hai vấn nạn - đã được đề cập đến trong chương trước - nghĩa là, nhà nước nên chia sẻ quyền lực như thế nào cho đại khối những người tự do và công dân, nhưng lại không có của cải và tài năng gì hết, bằng cách cho tất cả mọi người tham gia vào chính sự. [Dĩ nhiên] vẫn có điều nguy hiểm khi cho toàn thể tham gia chính sự, vì sự dốt nát sẽ đưa đến sai lầm và sự bất lương sẽ đưa đến tội phạm; nhưng còn có một sự nguy hiểm hơn nếu không cho toàn thể tham chính, vì trong một nước mà đa số công dân là những người nghèo lại không được tham chính, thì những người đó sẽ trở thành kẻ thù của quốc gia. Phương thức duy nhất để tránh sự nguy hiểm này là trao cho họ một số quyền lập pháp và tư pháp. Vì lý do này mà Solon và một số các nhà làm luật khác đã cho những công dân thuộc giai cấp bình dân quyền bầu ra các quan chức và bắt các quan chức phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình khi tại chức, nhưng cá nhân họ không được giữ chức vụ nào hết. Khi toàn thể công dân (cả ngưởi xấu lẫn tốt) họp nhau lại, họ đã có được một sự nhận thức khá tốt, và cùng với giai cấp tốt hơn, toàn thể sẽ giúp ích cho đất nước (cũng giống như những thức ăn không được hoàn toàn tinh khiết khi trộn chung với thức ăn tinh khiết đôi khi tạo nên một thức ăn nhiều chất bổ dưỡng hơn cả một số ít thức ăn tinh khiết), nhưng mỗi cá nhân riêng rẽ sẽ có những nhận thức bất toàn.
Về phương diện khác, chính quyền dân chủ cũng có nhiều khó khăn nhất định. Trước hết, [khi cho người dân có quyền xét xử quan chức], ta thấy có lập luận phản đối như sau: người có thể xét xem một người bệnh đã được chữa khỏi hay chưa, phải chính mình là một y sĩ, và điều này cũng áp dụng cho các ngành nghề khác. Như thế, vì một y sĩ chỉ có thể được xét xử bởi các y sĩ khác, người ta, nói chung, nên được xét đoán bởi những người có trình độ tương đương. Nhưng y sĩ cũng có ba loại: loại chữa bệnh thông thường, loại y sĩ chuyên khoa, và loại những người chuyên nghiên cứu về y thuật (trong mọi ngành nghề khác đều có những bậc thầy như vậy) và họ cũng có đủ tư cách để xét đoán như hai hạng kể trên. Thứ hai, chẳng phải nguyên tắc này cũng được áp dụng cho bầu cử hay sao? Một cuộc bầu cử đúng đắn chỉ có thể được thực hiện bởi những người có kiến thức; cũng giống như những người biết hình học sẽ chọn đúng ai là nhà hình học, và những ai biết lái tàu sẽ chọn đúng người hoa tiêu; và nếu có một ngành nghề nào mà những người không chuyên nghiệp có quyền lựa chọn, thì sự lựa chọn của họ chắc chắn không thể hay hơn những người chuyên môn về lãnh vực đó. Như vậy, căn cứ theo lý luận này thì cả việc bầu cử lẫn xét xử quan chức không nên trao cho đa số quần chúng. Tuy vậy, những điều phản bác này đã được ta trả lời rồi, vì nếu nhân dân không bị thoái hóa quá độ, và dù riêng mỗi cá nhân họ có thể không xét đoán giỏi giang như những chuyên viên, thì khi họp nhau lại thành một đơn vị, họ cũng có thể giỏi bằng hay hơn cả các chuyên viên. Thêm vào đó, có những nghề mà sản phẩm không chỉ được đánh giá đúng nhất hay thuần túy bởi người làm ra sản phẩm đó, thí dụ có những sản phẩm được đánh giá đúng nhất bởi người sử dụng chứ không phải bởi người làm ra, như trường hợp xây nhà chẳng hạn. Người sử dụng căn nhà, hay nói đúng hơn, chủ căn nhà mới là người đánh giá căn nhà xấu tốt thế nào đúng hơn người xây nhà, và người hoa tiêu mới là người đánh giá cái bánh lái đúng đắn hơn người thợ làm ra bánh lái, và thực khách mới là những giám khảo đánh giá bữa ăn ngon hay dở đúng hơn người đầu bếp.
Điều khó khăn này xem ra đã được trả lời đầy đủ, nhưng còn một vấn đề khác cũng tương tự như vậy. Để cho người dở có quyền quyết định những vấn đề trọng đại hơn là những người giỏi có vẻ là một điều lạ lùng, vì chẳng phải quyền bầu cử và quyền xét xử các quan chức là những quyền cao hơn hết thảy? Và điều này, như tôi đã nói, là những chức năng được dành cho nhân dân tại một số nước, vì quốc hội mới là tối cao trong mọi lãnh vực. Thế nhưng, người dân ở bất kỳ tuổi nào, có chút ít tài sản, cũng đủ tiêu chuẩn trở thành nghị viên để bình nghị và phán xét, dù rằng các viên chức cao cấp khác của nhà nước như bộ trưởng tài chánh hay tướng tá lại phải có tiêu chuẩn cao hơn, tỷ như có nhiều tài sản hơn, mới được lựa chọn. Điều khó khăn này cũng có thể được giải quyết tương tự như điều khó khăn trong đoạn trên theo cách thức dân chủ. Đó là vì quyền lực không nằm trong tay một nghị viên hay một quan tòa nào hết mà nằm trong tòa án, và nghị viện, trong đó mỗi quan tòa hay nghị viên chỉ là một phần tử. Chính vì lý do này mà đa số có thể nói rằng có quyền lực cao hơn một thiểu số, vì những cơ quan này gồm có nhiều người mà nếu tính tổng cộng lại thì tài sản [của chung] sẽ nhiều hơn tài sản của riêng từng quan chức. Nhưng đến đây, ta cũng bàn đủ về vấn đề này.
Còn về vấn nạn thứ nhất-quyền lực tối cao nên nằm trong tay những người có khả năng chuyên môn, hay nằm trong tay quần chúng nói chung-đưa ta đến kết luận rõ ràng sau đây: chỉ có luật pháp đúng đắn mới là tối thượng; và quan chức chỉ đưa ra những phán quyết về những vấn đề mà luật pháp không thể nêu lên một cách chính xác vì các nguyên tắc tổng quát bao gồm quá nhiều trường hợp cá biệt.[1] Nhưng thế nào là luật pháp đúng đắn vẫn chưa được giải thích rõ ràng, và vấn nạn ta gặp phải ở cuối chương trước vẫn còn nguyên [tức là khi luật pháp có thể thiên vị một giai cấp nào đó]. Sự việc luật pháp tốt hay xấu, công chính hay bất công, tùy theo hiến pháp của một nước. Đó là điều hiển nhiên rằng luật pháp phải thích hợp với hiến pháp. Từ đó ta có thể suy ra rằng một chính quyền được thiết lập đúng đắn sẽ nhất thiết có luật pháp công chính, còn những chính quyền được thiết lập sai lầm, thì sẽ có những luật pháp bất công.
[1] Đây là trường hợp quan tòa "giải thích" và áp dụng luật pháp vào các trường hợp cá biệt
Chương XII
Mục đích tối hậu của tất cả các ngành khoa học và nghệ thuật là đạt tới
"cái tốt" cao độ nhất, và cái tốt cao độ nhất, cái tối hảo trong khoa
học chính trị là công lý, và công lý bao gồm những gì tạo nên lợi ích
chung. Ai cũng nghĩ công lý cũng tương tự như bình đẳng, và nhận định
này, trên một số trường hợp, cũng tương đồng với những kết luận của đạo
đức học. Vì ý kiến chung cho rằng công lý có liên quan đến con người, và
đã là những người đồng đẳng thì ắt phải được bình đẳng. Nhưng ta vẫn
còn có một vấn nạn, đó là, bình đẳng và bất bình đẳng về phương diện
nào? Vấn nạn này buộc ta phải có những suy tư triết học về chính trị.
Rất có thể sẽ có một số người cho rằng các chức vụ của nhà nước không
thể được bổ nhiệm một cách đồng đều cho mọi người, mà phải tùy theo tài
năng cao thấp của từng người, dù rằng người đó và những người khác trong
cộng đồng chẳng có gì khác nhau về các mặt khác. Lập luận này dẫn đến
kết luận những ai khác với người khác về bất cứ một phương diện nào, sẽ
có những quyền khác với những người khác. Nhưng, nếu ta chấp nhận lập
luận này, thì chẳng phải kẻ nào có nước da sáng sủa hay chiều cao hơn
người khác, hay có bất kỳ ưu điểm nào khác sẽ được hưởng nhiều quyền
chính trị hơn những người khác hay sao? Sự lầm lẫn này thật hiển nhiên
và ta có thể bác bỏ bằng các thí dụ từ các nghệ thuật hoặc khoa học
khác. Khi có một số các nhạc sĩ thồi sáo tài nghệ tương đương với nhau,
thì không có lý do gì những người nào được sinh ra trong gia đình danh
giá hơn lại được sử dụng cây sáo tốt hơn, vì họ cũng sẽ không thổi hay
hơn với cây sáo tốt hơn, và cây sáo tốt nhất nên được dành cho người nào
thổi hay nhất. Nếu điều tôi vừa nói vẫn còn chưa rõ lắm, thì khi ta
tiếp tục bàn luận sẽ trở nên rõ ràng hơn. Giả thử có một nghệ nhân thổi
sáo siêu tuyệt nhưng lại là con nhà bần dân và lại chẳng có ngoại hình
đẹp đẽ-gốc gác gia thế và ngoại hình có thể là những yếu tố được đánh
giá cao hơn là tài thổi sáo-nhưng cây sáo tốt nhất vẫn phải được giao
cho nghệ nhân này mới hợp lý; trừ phi ta cho rằng những ưu điểm về gia
thế và tài sản có thể khiến cho người ta thổi sáo hay hơn, nhưng ta thấy
điều này không phải như vậy.
Hơn nữa, nếu ta áp dụng nguyên tắc này, thì mọi "điều tốt" đều có thể so sánh được với nhau. Giả sử chiều cao [của con người] ở một mức nào đó, được xem là trội hơn các đức tính khác, thì chiều cao, một cách tổng quát, cũng phải được so sánh với tài sản hay gia thế. Như thế, nếu anh A có chiều cao hơn anh B, dù B có đức hạnh hơn A, thì A phải được xem là trội hơn B.[1] Nhưng ta không thể so sánh như vậy giữa lượng với phẩm; cho nên, đó là lý do tại sao trong chính trị cũng như trong nghệ thuật, ta không thể lấy bất kỳ sự vượt trội nào để làm cơ sở cho việc nắm giữ quyền lực chính trị. Nếu có kẻ chậm và nguời nhanh, thì cũng không vì thế mà kẻ nhanh có nhiều [quyền lực], còn kẻ chậm có ít. Trong cuộc tranh tài thể thao thì sự trổi vượt như vậy sẽ được tưởng thưởng, nhưng trong việc nắm giữ những chức vụ trong chính quyền, thì chỉ có những ai có được những phẩm chất tạo nên quốc gia mới được bổ nhiệm. Như vậy, các nhà quý tộc, những người tự do, hay kẻ giàu có là những người có thể nắm giữ chức vụ trong chính quyền; bởi vì quan chức phải là những người tự do và là người đóng thuế [tức là những người có của cải], lý do là một nước không thể nào được hình thành gồm toàn những người nghèo khổ hay nô lệ. Nhưng, nếu của cải và tự do là những điều kiện cần cho sự hiện hữu của một nước, thì công lý và lòng dũng cảm cũng là những điều kiện cần thiết. Hai điều kiện đầu cần thiết cho sự hiện hữu của một nước, hai điều kiện sau tạo nên đời sống tốt đẹp của đất nước.
[1] Ernest Barker giải thích lý luận này như sau: nếu ta cho rằng 5/8 của một vóc dáng toàn hảo tốt hơn x/8 của một đức tính toàn hảo, thì ta cũng phải công nhận rằng ½ của vóc dáng cũng tương đương với ½ của đức hạnh. Nhưng khi so sánh như thế, ta đã phạm sai lầm là xem lượng với phẩm giống như nhau.
0 comments
Post a Comment