Một phiên
toà nói chung và phiên toà hình sự nói riêng có bảo đảm tính chất
tranh tụng hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng vai trò của
chủ toạ phiên toà là quan trọng nhất. Kết quả phiên toà phụ thuộc
chủ yếu vào vai trò của chủ toạ phiên toà.
Mặc dù
trong các Hội nghị tổng kết công tác xét xử, các văn bản hướng dẫn,
Toà án nhân dân tối cao thường xuyên nhắc nhở các Toà án phải tiếp
tục quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-1-2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp và Nghị quyết
số 49NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp (sau
đây gọi tắt là Nghị quyết số 08 và Nghị quyết số 49) và các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 để việc xét xử vụ án hình sự “bảo
đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác...; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà”.
Nhìn chung, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số
08 để tổ chức phiên toà xét xử các vụ án hình sự ở Toà án các cấp có
tiến bộ; phiên toà đã từng bước bảo đảm được sự tôn nghiêm, dân chủ
và văn minh của pháp luật; việc xét hỏi và tranh luận tại phiên toà
được đổi mới và dân chủ; Toà án đã tạo mọi điều kiện bảo đảm cho
những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
hợp pháp của họ; Luật sư và những người tham gia tố tụng được trình
bày hết ý kiến của mình; những câu hỏi của Hội đồng xét xử và của
Kiểm sát viên cũng thể hiện tính khách quan hơn; việc phán quyết của
Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ
sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, các ý kiến của Kiểm sát
viên và những người tham gia tố tụng khác.
Tuy nhiên,
thực tiễn xét xử cho thấy một số Thẩm phán vẫn chưa quán triệt đầy
đủ tinh thần tranh tụng tại phiên toà theo
Nghị quyết số 08 và các hướng dẫn của Ban cải cách tư pháp trung
ương, của Toà án nhân dân tối cao, nên có không ít phiên toà hình sự
chưa thể hiện tinh thần tranh tụng, còn mất dân chủ, chưa bảo đảm
tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác; phán quyết của Toà án chưa căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên toà. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân
nhưng chủ yếu là do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà chưa
nắm vững các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và kỹ năng điều
khiển phiên toà theo tinh thần Nghị quyết số 08.
Nhằm cung
cấp thêm kinh nghiệm cho đội ngũ Thẩm phán mà đặc biệt là Thẩm phán
được phân công chủ toạ phiên toà đối với vụ án
hình sự, chúng tôi xin trao đổi thêm về một số vấn đề cần chú ý khi
xét xử vụ án hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08, số 49 và các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thì Chủ
toạ phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng
vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên toà của
những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.
Để tổ chức
và điều khiển phiên toà đạt kết quả theo tinh thần Nghị quyết số 08,
số 49 và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, chủ toạ phiên toà
phải thực hiện nhiều việc, trong đó có những việc thuộc kỹ năng xử
l› các tình huống tại phiên toà, có việc thuộc
về công tác chuẩn bị trước khi mở phiên toà.
1. Trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử
Giai đoạn
chuẩn bị xét xử là thời gian từ khi Toà án nhận hồ sơ vụ án (thụ
l› vụ án) đến trước ngày khai mạc phiên toà.
Trong giai đoạn này Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà
phải giải quyết nhiều việc theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự. Yêu cầu đối với Thẩm phán chủ toạ phiên toà trong giai đoạn này
là phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử
theo đúng thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nếu như
không thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 Điều
176 Bộ luật tố tụng hình sự (trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án).
Để đưa vụ án ra xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, công
tác chuẩn bị là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên toà, nếu
chuẩn bị tốt thì việc xét xử sẽ đạt kết quả tốt. Công tác chuẩn bị
bao gồm: nghiên cứu hồ sơ vụ án; dự kiến các tình huống có thể xảy
ra tại phiên toà; triệu tập những người đến tham dự phiên toà; chuẩn
bị đề cương điều khiển phiên toà và đề cương xét hỏi; ra các quyết
định trước khi mở phiên toà; dự thảo án văn và các quyết định khác;
chuẩn bị những điều kiện vật chất cho việc xét xử.
a).
Nghiên cứu hồ sơ vụ án
Theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự, thì trước khi đưa vụ án ra xét
xử sơ thẩm hồ sơ vụ án được thu thập theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thực hiện, Thẩm
phán hoàn toàn không được tham gia, chứng kiến các hoạt động điều
tra, thu thập tài liệu của Cơ quan điều tra. Do đó việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án là vô cùng quan trọng. Mục đích của việc nghiên cứu hồ
sơ vụ án không chỉ để ra một trong các quyết định quy định tại khoản
2 Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự, mà còn phát hiện những vi phạm
trong hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, và nếu
vụ án được đưa ra xét xử thì đó còn là tập tài liệu để Thẩm phán chủ
toạ phiên toà sử dụng trong quá trình xét xử.
Thực tiễn
xét xử cho thấy, có nhiều trường hợp do nghiên cứu hồ sơ vụ án không
kỹ đã dẫn đến việc ra các quyết định không đúng với khoản 2 Điều 176
Bộ luật tố tụng hình sự như: Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ vụ án
để điều tra bổ sung, nhưng vấn đề cần điều tra bổ sung đã được thu
thập và có trong hồ sơ vụ án; có trường hợp do vụ án phải điều tra
bổ sung nhiều lần nên trong hồ sơ vụ án có nhiều bản cáo trạng khác
nhau, nhưng do nghiên cứu không kỹ nên lẽ ra phải xét xử theo bản
cáo trạng A thì Toà án lại xét xử theo bản cáo trạng B. Có trường
hợp hồ sơ vụ án do có 2 lần xét xử sơ thẩm, lần thứ nhất bị Toà án
cấp phúc thẩm huỷ để xét xử sơ thẩm lại vì Toà án cấp sơ thẩm vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (lẽ ra Hội đồng xét xử phải có 5
người thì chỉ có 3 người); khắc phục sai lầm của việc xét xử sơ thẩm
lần 1 nên Hội đồng xét xử sơ thẩm lần 2 đã có 5 người, nhưng do
nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ nên Thẩm phán chủ toạ phiên toà phúc
thẩm chỉ đọc bản án và biên bản phiên toà sơ thẩm lần 1 nên đã quyết
định huỷ bản án sơ thẩm lần 2 một lần nữa với lý do “Hội đồng xét xử
sơ thẩm chỉ có 3 người”. Có không ít trường hợp Thẩm phán chủ toạ
phiên toà đọc hồ sơ vụ án rất kỹ nhưng lại không có khả năng phân
tích, tổng hợp nên không nắm được các tình tiết của vụ án, dẫn đến
ra bản án không đúng pháp luật. Có trường hợp Thẩm phán chủ toạ
phiên toà khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đã không thể hiện tính khách
quan mà chỉ chú tâm nghiên cứu các tài liệu là chứng cứ buộc tội mà
bỏ qua các tài liệu là chứng cứ gỡ tội cho bị cáo hoặc ngược lại.
v.v… Tóm lại, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự để chuẩn bị xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm của Thẩm phán được phân
công chủ toạ phiên toà còn nhiều thiếu sót, nhiều vụ án bị huỷ, bị
sửa hoặc bị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ vì Thẩm phán chủ
toạ phiên toà nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ.
Để khắc
phục những thiếu sót trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán
chủ toạ phiên toà cần chú ý một số vấn đề sau:
-
Kiểm tra các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
Một hồ sơ vụ án hình sự hoàn chỉnh phải
đầy đủ các tài liệu mà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự các
cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập và được lưu trong hồ sơ vụ
án. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nên hồ sơ vụ án hình sự hiện
nay nói chung chưa đạt yêu cầu, chưa đúng với quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự cả về hình thức cũng như nội dung: Nhiều tài liệu
cần thiết cho việc xác định sự thật vụ án không được thu thập; có
tài liệu được thu thập không đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự hoặc không có giá trị pháp luật chứng minh (bản photocopy không
có xác nhận sao y bản chính); có tài liệu không phải ảnh sự thật
khách quan về các tình tiết có liên quan đến vụ án; có tài liệu của
nước ngoài nhưng không được dịch ra tiếng Việt; các biên bản được
lập không đúng với quy định tại Điều 78 Bộ luật tố tụng hình sự
.v.v…
Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hình
sự trước khi chuyển sang Toà án, Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên đã
sắp xếp theo một thứ tự nhất định và “đánh số bút lục”. Khi Toà án
đã thụ lý, ngoài những tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Toà án có thể
bổ sung các tài liệu khác do Toà án thu thập hoặc do những người
tham gia tố tụng cung cấp. Các tài liệu này, nếu Toà án thấy có giá
trị chứng minh và có liên quan đến vụ án thì Toà án đưa vào hồ sơ vụ
án và đánh số bút lục tiếp theo bút lục cuối cùng khi Toà án thụ lý
vụ án. Hiện nay, việc đánh số bút lục trong hồ sơ vụ án không được
quy định thống nhất, hồ sơ vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng nào
quản lý thì cơ quan đó đánh số bút lục. Ví dụ: Cơ quan điều tra đã
đánh số bút lục từ 1 đến 500; khi Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ vụ
án sang Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát đánh lại số bút lục theo dấu
bút lục của Viện kiểm sát mà không đánh tiếp theo số bút lục của Cơ
quan điều tra; khi hồ sơ vụ án chuyển sang Toà án một số Toà án cũng
làm tương tự như vậy, dẫn đến một tài liệu có trong hồ sơ vụ án có
tới 3 bút lục khác nhau. Điều này cũng gây rắc rối trong quá trình
giải quyết vụ án. Ví dụ: Một lời khai của người làm chứng tại cơ
quan điều tra được đánh số bút lục 70, nhưng Viện kiểm sát
đánh
số bút lục 73, còn Toà án thì đánh số bút lục 75, dẫn đến tình trạng
cùng một tài liệu nhưng mỗi cơ quan tiến hành tố tụng trích dẫn khác
nhau về số bút lục có trong hồ sơ vụ án.
Hiện nay tuy giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) chưa có hướng
dẫn chung về việc đánh số bút lục trong hồ sơ vụ án, đây là nguyên
nhân chính gây ra tình trạng hồ sơ vụ án hình sự cùng một tài liệu
có nhiều bút lục khác nhau. Vì vậy việc sắp xếp lại hồ sơ vụ án theo
một thứ tự hợp lý để khi cần là có thể lấy được ngay. Việc sắp xếp
hồ sơ vụ án nên theo một trình tự thời gian từ khi khởi tố vụ án đến
khi xét xử gồm nhóm các vấn đề sau:
- Các tài liệu về khởi tố vụ án, khởi tố
bị can;
- Các tài liệu về việc áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn;
- Các tài liệu về việc thu giữ, bảo quản
vật chứng hoặc các tài sản;
- Các tài liệu về lời khai của người
tham gia tố tụng:
- Các tài liệu về nhân thân bị can;
- Các tài liệu về đình chỉ, tạm đình chỉ
vụ án hoặc bị can, phục hồi điều tra;
- Các tài liệu kết thúc điều tra;
- Các tài liệu về quyết định truy tố;
- Các tài liệu của Toà án (đối với hồ sơ
vụ án vụ án đưa ra xét xử phúc thẩm hoặc xét xử sơ thẩm lại).
- Những vấn đề cần chú ý khi nghiên cứu
hồ sơ vụ án
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán
chủ toạ phiên toà phải đọc hết tất cả các tài liệu, không bỏ sót bất
cứ một tài liệu nào. Đối với vụ án có nhiều bị cáo, hồ sơ dầy tới
hàng nghìn bút lục, được đóng thành nhiều tập khác nhau, dự kiến xét
xử nhiều ngày thì cần có sự phân công Thẩm phán chủ toạ phiên toà
nghiên cứu những tài liệu nào, còn tài liệu nào giao cho Thẩm phán
và Hội thẩm nghiên cứu. Sau đó giữa chủ toạ phiên toà với Thẩm
phán và Hội thẩm phải hệ thống lại và lập ra bảng tóm tắt về hành vi
của từng bị cáo trong vụ án.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án,
chủ toạ phiên toà không chỉ nghiên cứu nội dung của các tài liệu, mà
phải kiểm tra phát hiện xem các tài liệu do cơ quan tiến hành tố
tụng thu thập về hình thức cũng như nội dung đã đúng với quy định
của pháp luật hay không (tính hợp pháp của tài liệu). Để kiểm tra
được tính hợp pháp của các tài liệu có trong hồ sơ, đòi hỏi Thẩm
phán phải nắm chắc các quy định của pháp luật về việc lập các văn
bản cũng như việc sao chép các văn bản. Trong nhiều trường hợp, do
tài liệu không bảo đảm tính hợp pháp nên mặc dù bản án hoặc quyết
định đúng về nội dung nhưng vẫn có thể bị huỷ theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm.
Khi nghiên cứu hồ sơ, cần ghi chép những
vấn đề cần thiết (lập tiểu hồ sơ). Việc ghi chép những vấn đề cần
thiết khi nghiên cứu hồ sơ cũng là một phương pháp đem lại hiệu quả,
bởi vì, dù có trí nhớ tốt, thì cũng không thể thuộc lòng những tình
tiết của vụ án đã được thu thập trong hồ sơ. Nhưng ghi chép như thế
nào (nhiều hay ít) là do kỹ năng của từng người và phải bảo đảm
trình bày được toàn bộ nội dung và các tình tiết có liên quan đến vụ
án mà không cần phải có hồ sơ vụ án. (Khi trình bày, có thể nêu một
số vấn đề cần ghi chép đối với từng tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được học).
b). Về
quyết định đưa vụ án ra xét xử
Thẩm phán
được phân công chủ toạ phiên toà chỉ quyết định đưa vụ án ra xét xử
khi đã thấy các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, không cần
phải điều tra bổ sung, không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ vụ án.
Nội dung
quyết định đưa vụ án ra xét xử phải bảo đảm đúng với quy định tại
Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quyết định đưa vụ án ra xét
xử cần phải xác định đúng, đủ những người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng.
Thẩm phán
căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử để triệu tập những người
đến phiên toà. Đây là vấn đề rất quan trọng và cũng là vấn đề khó
khăn của Toà án hiện nay. Thực tiễn xét xử đã có nhiều trường hợp
người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên toà do không được
triệu tập hoặc tuy Toà án có triệu tập nhưng người được triệu tập
không nhận được nên phiên toà phải hoãn hoặc bản án mà Toà án đã
tuyên bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm.
Để khắc
phục tình trạng người được triệu tập đến phiên toà vắng mặt không rõ
lý do dẫn đến phải hoãn phiên toà hoặc nếu xét xử vắng mặt họ là vi
phạm tố tụng thì Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà phải dự
kiến trước các trường hợp bắt buộc phải có mặt, gần đến ngày mở
phiên toà có thể liên hệ với chính quyền địa phương qua điện thoại
hoặc trực tiếp đến tận nơi để kiểm tra xem người được triệu tập đến
phiên toà đã nhận được giấy triệu tập chưa; dự kiến các trường hợp
nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải áp giải.
c).
Chuẩn bị đề cương điều khiển phiên toà
Việc điều
khiển phiên toà từ khi khai mạc đến khi kết thúc phiên toà phải theo
một thứ tự nhất định. Một phiên toà có dân chủ hay không phụ thuộc
vào sự điều khiển của chủ toạ phiên toà. Vì vậy, Thẩm phán chủ toạ
phiên toà cần có một bản đề cương, ghi trình tự các việc cần phải
làm từ khi khai mạc phiên toà đến khi kết thúc phiên toà. Nội dung
của bản đề cương này có thể dùng cho nhiều vụ án nhưng đối với vụ án
cụ thể, Thẩm phán chủ toạ phiên toà căn cứ vào đề cương chung mà cụ
thể hoá cho phù hợp với vụ án mà mình làm chủ toạ. Trong
quá trình xét xử, phần nào đã giải quyết thì
đánh dấu lại để không bị sót cũng như không bị lặp lại.
d). Lập
kế hoạch xét hỏi
Kế hoạch
xét hỏi là những dự kiến của Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên
toà về việc xét hỏi những người tham gia tố tụng tại phiên toà,
những dự kiến này dựa trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án mà đặc biệt
là nghiên cứu những lời khai của họ tại cơ quan điều tra, tại phiên
toà sơ thẩm (nếu là xét xử phúc thẩm). Việc lập kế hoạch xét hỏi bao
gồm việc xác định trình tự xét hỏi, dự kiến các câu hỏi và thời gian
xét hỏi cho mỗi đối tượng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra
trong quá trình xét hỏi. Kế hoạch xét hỏi còn phụ thuộc vào từng vụ
án cụ thể, nếu vụ án có nhiều người tham gia và bị truy tố về tội
khác nhau, thì cần lập kế hoạch xét hỏi sao cho phù hợp. Có thể xét
hỏi theo từng nhóm hoặc từng tội phạm để khỏi lãng phí thời gian;
cần xác định hỏi bị cáo nào trước, bị cáo nào sau; kết hợp việc xét
hỏi bị cáo với việc xét hỏi những người tham gia tố tụng khác; kết
hợp việc xét hỏi với việc đưa vật chứng, công bố lời khai và các tài
liệu có trong hồ sơ.
Kế hoạch
phải thể hiện sự vô tư khách quan của Thẩm phán, nếu bị cáo không
nhận tội thì Thẩm phán cũng không được chuẩn bị những chứng cứ cần
thiết để đấu tranh vạch rõ sự ngoan cố của bị cáo tại phiên toà mà
chỉ nêu những câu hỏi để bị cáo trả lời, không giải thích hoặc quy
trụp cho bị cáo. Việc chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, chỉ
được thể hiện trong bản án khi tuyên án. Lập kế hoạch xét hỏi sao
cho khi xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không
biết trước chủ trương xử lý vụ án của Hội đồng xét xử khi còn đang ở
phần xét hỏi.
đ).
Chuẩn bị những điều kiện vật chất cho việc mở phiên toà
Việc xét
xử một vụ án hình sự, nhất thiết phải có những điều kiện vật chất
nhất định. Đây l� việc tưởng đơn giản nhưng lại rất quan trọng,
nhiều phiên toà do việc chuẩn bị không tốt nên đã không đạt kết quả,
thậm chí phải hoãn phiên toà, nhưng một số Toà án đã không quan tâm
đúng mức nên công tác chuẩn bị này.
Do điều
kiện về cơ sở vật chất của Toà án nước ta hiện nay còn thiếu thốn,
nhiều phòng xét xử của Toà án không đủ sức chứa, có phiên toà có tới
hàng nghìn người đến dự, đặc biệt đối với các vụ án Toà án tổ chức
xét xử lưu động để phục vụ yêu cầu chính trị của địa phương nới xảy
ra vụ án nhằm thông qua phiên toà giáo dục ý thức pháp luật cho nhân
dân, thì việc chuẩn bị điều kiện vật chất lại càng phải chu đáo hơn.
Đối với
phiên toà xét xử tại trụ sở Toà án
tuy không
phức tạp bằng các các phiên toà lưu động, nhưng cũng không được xem
nhẹ. Nếu dự kiến người đến dự phiên toà đông và phiên toà kéo dài
nhiều ngày thì phải chuẩn bị hệ thống âm thanh để những người không
được vào phòng xét xử cũng theo dõi được phiên toà, nếu có điều kiện
thì có thể dùng màn hình. Trong phòng xét xử cũng cần hệ
thống âm thanh, chỗ ngồi cho bị cáo, Luật sư, người bị hại, người
làm chứng và những người tham gia tố tụng khác sao cho hợp lý.
Đối với
phiên toà xét xử lưu động
thì công
tác chuẩn bị điều kiện vật chất cho việc xét xử là rất quan trọng,
cần phải phối hợp với cấp uỷ, chính quyền và các cơ quan, tổ chức ở
địa phương nơi mở phiên toà. Đưa ra mục đích, yêu cầu của việc xét
xử lưu động và kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị phiên toà lưu
động, đề nghị địa phương hỗ trợ những gì… Các phiên toà lưu động nếu
được tổ chức ngoài trời nên cần chuẩn bị tốt công tác bảo vệ và hệ
thống âm thanh.
2. Những
vấn đề cần chú ý tại phiên toà
a). Những
vấn đề cần chú ý trong phần mở đầu phiên toà.
Sau khi
khai mạc phiên toà, chủ toạ phiên toà căn cứ vào đề cương điều khiển
phiên toà để thực hiện các thủ tục cần thiết trong phần mở đầu phiên
toà. Phần mở đầu phiên toà là phần rất quan trọng, nếu diễn ra một
cách suôn sẻ thì các phần sau sẽ đạt kết quả tốt. Vì vậy, trong phần
này chủ toạ cần chú ý một số vấn đề sau:
- Khi kiểm
tra căn cước và giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham
gia tố tụng phải đối chiếu với tài liệu có trong hồ sơ vụ án do Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát lập xem có giống nhau không, nếu khác
nhau thì phải làm rõ ngay vì sao lại khác nhau. Cùng với việc kiểm
tra căn cước, chủ toạ phiên toà phải xác định tư cách tham gia tố
tụng của những người tham gia tố tụng mà Cơ quan điều tra hoặc Viện
kiểm sát đã xác định từ trước, nhất là đối với những người như: bị
cáo là người chưa thành niên, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; những
người đại diện hợp pháp của những người này; cần phải chú ý trường
hợp có nhiều người cùng tham gia với tư cách giống nhau và người đại
diện của họ, người được uỷ quyền tham gia phiên toà v.v…(khi giới
thiệu cần nêu một số trường hợp do xác định
không đúng, không đầy đủ những người tham gia tố tụng nên bản án bị
huỷ hoặc bị sửa).
- Khi giải
thích quyền nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng có mặt tại phiên
toà, chủ toạ phiên toà chỉ căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự mà không được giải thích về các quy định của Bộ luật
hình sự, nhất là đối với bị cáo như: “nếu khai báo thành khẩn thì
được xem xét giảm nhẹ hình phạt; nếu không nhận tội mà Toà án kết
tội thì không có cơ hội được hưởng án treo.”v.v…
- Khi giải
quyết những yêu cầu về thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng và những vấn đề khác cần bình tĩnh xem xét, nhất là đối
với trường hợp người tham gia tố tụng yêu cầu thay đổi Thẩm
phán chủ toạ phiên toà và nêu lý do Thẩm phán chủ toạ phiên toà có
biểu hiện không vô tư, nhưng lại không đưa ra được bằng chứng xác
đáng, thì cũng không vì thế mà Thẩm phán chủ toạ phiên toà có những
lời lẽ gay gắt hay có lời lẽ có tính chất giáo dục, răn đe họ mà
phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, yêu cầu họ nêu bằng chứng, sau khi đã hỏi
kỹ mà họ vẫn không đưa ra được bằng chứng xác đáng thì giải thích
cho họ biết là Hội đồng xét xử sẽ xem xét quyết định, đồng thời phải
xác định trường hợp nào thì Hội đồng xét xử hội ý tại phiên toà,
trường hợp nào thì Hội đồng xét xử phải vào phòng nghị án để thảo
luận và quyết định.
b). Những
vấn đề cần chú ý trong giai đoạn xét hỏi tại phiên toà.
Chủ toạ
phiên toà phải căn cứ vào đề cương xét hỏi để khi xét hỏi phải xác
định được đầy đủ các tình tiết về từng sự việc, từng hành vi phạm
tội và các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án
theo thứ tự xét hỏi hợp lý.
Xét hỏi
theo một thứ tự hợp lý là một yêu cầu mà chủ toạ phiên toà phải dự
kiến trước, căn cứ vào các tình tiết của vụ án đã được cơ quan điều
tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, nhất là đối với vụ án có nhiều bị
cáo bị truy tố về nhiều tội khác nhau.
Thực tiễn
xét xử cho thấy, do Bộ luật tố tụng hình sự 2003 vẫn quy định: “Khi
xét hỏi từng người, chủ toạ phiên
toà hỏi trước rồi đến các Hội
thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự”, nên một số Thẩm phán và Kiểm sát viên cho rằng
việc xét hỏi tại phiên toà vẫn không có gì thay đổi,
Kiểm sát viên không chủ động xét hỏi mà chờ chủ toạ phiên toà nhắc
mới hỏi và cũng chỉ hỏi có tính chất bổ sung còn việc hỏi để chứng
minh tội phạm và làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết của vụ án vẫn do
chủ toạ phiên toà thực hiện; nhiều trường hợp Hội đồng xét xử vẫn
còn giải thích Bộ luật hình sự hoặc giáo dục bị cáo về thái độ khai
báo hoặc kết luận trước về lời khai của bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác, làm cho bị cáo và những người tham phiên toà cho
rằng Hội đồng xét xử đã định sẵn, bản án đã được chuẩn bị, việc xét
xử tại phiên toà chỉ còn là thủ tục hình thức.
Nhận thức
như vậy là không đúng với tinh thần cải cách tư pháp, mà phải tiếp
tục quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-1-2002 của Bộ Chính
trị và Công văn
số 13 ngày 4-11-2002 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp và kết luận số
290 ngày 5-11-2002 của Toà án nhân dân tối cao. Nội dung của các văn
bản này đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Theo Công văn
số 13 ngày 4-11-2002 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp thì “đại
diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà phải bảo vệ cáo
trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tại phiên toà; chứng minh mọi
luận điểm trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa
ra những chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội
phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết từng sự việc của vụ án”.
Để việc
xét hỏi được hợp lý theo một thứ tự nhất định, tránh nhầm lẫn, trùng
lặp hoặc bỏ sót, chủ toạ phiên toà cần chú ý một số điểm như sau:
- Đối với
vụ án chỉ có một bị cáo bị truy tố về một tội danh thì việc xét hỏi
cần tập trung làm rõ các tình tiết là yếu tố định tội mà Viện kiểm
sát truy tố; các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt; các tình
tiết tăng nặng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các vấn đề có
liên quan đến trách nhiệm dân sự; đến xử lý vật chứng.v.v…Trong
quá trình xét hỏi, không chỉ xét hỏi về các
tình tiết buộc tội mà phải xét hỏi cả các tình tiết gỡ tội đối với
bị cáo.
- Đối với
vụ án tuy chỉ có một bị cáo nhưng bị truy tố về nhiều tội danh khác
nhau, thì nên xét hỏi hết hành vi phạm tội này đến hành vi khác tội
khác như đối với một bị cáo phạm một tội và lần lượt cho đến hết các
hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
- Đồi với
vụ án có nhiều bị cáo, bị truy tố về nhiều tội danh khác nhau thì
nên xét hỏi từng bị cáo về từng tội danh hoặc người bị cáo về một
tội danh theo một thứ tự như đối với một bị cáo bị truy tố về một
tội danh. Tuy nhiên, trong quá trình xét hỏi,
cần kết hợp xét hỏi các bị cáo có hành vi liên quan đến nhau về một
tội danh và vai trò của từng bị cáo về tội danh mà các bị cáo thực
hiện (đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức).
Để vừa thể
hiện đúng quy định của pháp luật vừa bảo đảm tính tranh tụng tại
phiên toà, chủ toạ phiên toà phải hỏi trước, nhưng chỉ nên đặt câu
hỏi có tính chất nêu vấn đề, còn lại những câu hỏi có tính chất buộc
tội hoặc gỡ tội, nên dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa. Muốn
vậy, trong giai đoạn chuẩn bị, Toà án cần có một cuộc họp (họp trù
bị) với Viện kiểm sát để thống nhất phương pháp, nội dung trình tự
và sự phối hợp giữa Kiểm sát viên với Hội đồng xét xử để việc xét
hỏi tại phiên toà đúng với dự kiến và đề cương mà chủ toạ đã chuẩn
bị.
Trong quá
trình điều khiển việc xét hỏi, chủ toạ phiên toà phải thường xuyên
theo dõi; nếu thấy câu hỏi có tính chất mớm cung, ép cung hoặc những
câu hỏi có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, bí mật
điều tra; xúc phạm nhân phẩm, danh dự con người thì phải yêu cầu
người hỏi đặt lại câu hỏi hoặc yêu cầu người trả lời không trả lời
câu hỏi đó.
Việc công
bố lời khai tại cơ quan điều tra chỉ được thực hiện trong trường hợp
lời khai của người được xét hỏi tại phiên toà có mâu thuẫn với lời
khai của họ tại cơ quan điều tra; người được xét hỏi không khai tại
phiên toà; người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết trước khi mở
phiên toà.
Để thể
hiện tính chất tranh Tụng, dân chủ, khách quan tại phiên toà, theo
chúng tôi chủ toạ phiên toà nên trao đổi với Kiểm sát viên để Kiểm
sát viên công bố lời khai, Chủ toạ phiên toà chỉ công bố lời khai
trong trường hợp cần thiết. Nếu sau khi đã công bố lời khai tại cơ
quan điều tra mà người được lấy lời khai nại ra rằng họ bị Điều tra
viên hoặc Kiểm sát viên ép cung, mớm cung, nhục hình nên mới khai
như vậy, thì chủ toạ phiên toà có thể cho gọi Điều tra viên hoặc
Kiểm sát viên đã lấy lời khai của họ tại cơ quan điều tra đến phiên
toà để đối chất; nếu người được lấy lời khai đưa ra những bằng
chứng, nhân chứng để chứng minh rằng lời khai tại cơ quan điều tra
là sai thì chủ toạ phiên toà cần yêu cầu nộp bằng chứng hoặc cho mời
người làm chứng đến phiên toà để đối chất. Trong trường hợp không
thể triệu tập được người làm chứng hoặc Điều tra viên đến phiên toà
mà lời khai của bị cáo hoặc người tham gia tố tụng có căn cứ thì
phải hoãn phiên toà trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trước khi
hỏi bị cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến về bản
cáo trạng và những tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử, Kiểm sát
viên, người bào chữa chỉ hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày
chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Tuy nhiên, thực xét xử cho thấy, chủ
toạ phiên toà không để bị cáo trình bày kiến của họ về bản cáo trạng
và những tình tiết của vụ án mà thường đặt câu hỏi ngay về hành vi
phạm tội của họ. Có trường hợp chủ toạ phiên toà còn giải thích cho
bị cáo là: “những ý kiến không đồng ý với bản cáo trạng sẽ trình bày
sau ở giai đoạn tranh tụng”. Làm như vậy là không đúng, những người
tham gia phiên toà có cảm giác chủ toạ phiên toà áp đặt.
Nếu bị cáo
không có ý kiến gì về bản cáo trạng, thừa nhận hành vi phạm tội của
mình mà Viện kiểm sát đã truy tố về tội danh, điều khoản của Bộ luật
hình sự thì Hội đồng xét xử không nên xét hỏi về hành vi phạm tội mà
nên xét hỏi về các tình tiết khác như: các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự... Tuy
nhiên, nếu bị cáo nhận tội nhẹ để trốn tránh trách nhiệm về tội phạm
nặng hơn mà Viện kiểm sát không truy tố, trong khi người bị hại yêu
cầu xét xử bị cáo về tội nặng hơn, thì chủ toạ phiên toà cần xét hỏi
về những hành vi bị cáo phạm tội nặng hơn. Nếu có căn cứ bị cáo phạm
tội năng hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố thì Hội đồng phải quyết
định trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Khi xét
hỏi những người tham gia tố tụng khác như: người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người làm chứng, giám định viên... để xác định sự thật của vụ
án, chủ toạ phiên toà cũng chỉ nên nêu vấn đề để Kiểm sát viên và
Luật sư hoặc người bào chữa hỏi.
Tóm lại,
việc xét hỏi tại phiên toà, chủ toạ phiên toà không nên hỏi nhiều mà
chỉ nêu vấn đề để Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa hỏi.
Trong quá trình xét hỏi chủ toạ phiên toà là người chỉ huy, điều
hành. Kiểm sát viên và Luật sư hoặc người bào chữa có quyền đưa ra
những bằng chứng mới để chứng minh có tội cũng như chứng minh vô
tội. Trong quá trình xét hỏi cũng là quá trình tranh luận. Những
người tham gia tố tụng có thể trình bày quan điểm của mình về vụ án,
tranh luận với Kiểm sát viên về những vấn đề gỡ tội hoặc buộc tội.
c). Những
vấn đề cần chú ý trong giai đoạn tranh luận tại phiên toà.
Nhằm “bảo
đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác...;” theo tinh thần Nghị quyết số
08-NQ/TW, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã có những sửa đổi, bổ sung
đối với giai đoạn tranh luận tại phiên toà, đặc biệt là đối với Kiểm
sát viên tham gia phiên toà và vai trò của của toạ phiên toà khi
điều khiển việc tranh luận giữa Kiểm sát viên với những người tham
gia tố tụng. Một vụ án hình sự có dân chủ hay không, phụ thuộc vào
kết quả tranh luận tại phiên toà. Đây là giai đoạn rất quan trọng.
Do đó chủ toạ phiên toà cần tập trung điều khiển để việc tranh luận
tại phiên toà đạt kết quả, đồng thời phải chú ý một số vấn đề sau:
Nếu lời
luận tội của Kiểm sát viên có những thay đổi so với bản cáo trạng
thì phải nêu lý do của việc thay đổi đó; nếu Kiểm sát viên chưa nêu
lý do về việc thay đổi, thì chủ toạ phiên toà phải yêu cầu Kiểm sát
viên trình bày lý do của việc thay đổi đó.
Nếu bị cáo
và những người tham gia tố tụng khác không đồng ý với lời luận tội
thì phải nêu lý do vì sao không đồng ý.
Trong khi
phát biểu những ý kiến khác nhau về một vấn đề nào đó, mà vấn đề đó
đã được tranh tụng trong quá trình xét hỏi thì không cần nhắc lại
nữa. Chủ toạ phiên toà phải nắm chắc các tình tiết đã được xét hỏi
để điều khiển việc tranh luận không kéo dài mà vẫn bảo đảm tính chất
tranh tụng khi xét xử.
Chủ toạ
phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có quyền
cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án, tuy không được hạn
chế thời gian tranh luận nhưng có quyền chỉ hạn chế số lần phát biểu
về ý kiến mà mình không đồng ý. Nếu vụ án có nhiều vấn đề, nhiều
tình tiết của vụ án có quan điểm đánh giá khác nhau, thì chủ toạ
phiên toà phải chú ý xem những vấn đề được tranh luận có bao nhiêu ý
kiến khác nhau, để điều khiển việc tranh luận giữa những người có ý
kiến khác nhau về vấn đề đó; chủ toạ phiên toà cần yêu cầu những
người tham gia tranh luận nêu những vấn đề không đồng ý và tranh
luận từng vấn đề một.
Nếu người
bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự đưa ra những ý
kiến đề nghị Kiểm sát viên tranh luận nhưng Kiểm sát viên không
tranh luận thì chủ toạ phiên toà phải phải
yêu cầu Kiểm sát viên nói rõ lý do và việc này phải được ghi vào
biên bản phiên toà.
Trong
quá trình tranh luận, chủ toạ phiên toà không
được có lời nói có tính chất bênh vực Kiểm sát viên hay người
tham gia tranh luận với Kiểm sát viên hoặc có lời lẽ có tính chất
bình luận, nhận định những luận điểm của các bên khi đối đáp, mà
phải luôn giữ thái độ khách quan. Nếu trong khi tranh luận, theo yêu
cầu của Kiểm sát viên hoặc người tham gia tranh luận hoặc chủ toạ
phiên toà thấy cần phải trở lại giai đoạn xét hỏi thì Hội đồng xét
xử có thể quyết định việc trở lại xét hỏi, sau đó việc tranh luận
được thực hiện lại bình thường. Tuy nhiên, để tránh kéo dài thời
gian không cần thiết, chủ toạ phiên toà có thể lưu ý đối với Kiểm
sát viên và người tham gia tranh luận chỉ tranh luận những vẫn đề
mới phát sinh sau khi xét hỏi thêm.
ĐỀ CƯƠNG ĐIỀU KHIỂN PHIÊN TOÀ
1. Phần
thủ tục bắt đầu xét xử
- Hội đồng
xét xử vào phòng xử án.
- Thư ký
yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy.
- Chủ toạ
phiên toà mời mọi người ngồi xuống.
- Chủ toạ
phiên toà đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. (nếu vụ án chỉ có 1 bị
cáo thì có thể đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử rồi mới mời mọi
người trong phòng xử án ngồi)
Nếu vụ án
có các phóng viên báo, đài đến dự và đưa tin phiên toà thì chủ toạ
phiên toà phải yêu cầu phóng viên hoạt động theo Luật báo chí, Hội
đồng xét xử tạo điều kiện cho các phóng viên tác nghiệp, nhưng phải
tuân thủ nội quy phòng xử án.
- Chủ toạ
phiên toà yêu cầu Thư ký báo cáo danh sách những người được triệu
tập đã có mặt; vắng mặt và lý do của sự vắng mặt.
- Chủ toạ
phiên toà kiểm tra căn cước lý lịch của bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
người làm chứng.
-
Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo và những
người tham gia tố tụng
+ Đối với
bị cáo:
Theo điều
50 và điều 188 Bộ luật tố tụng hình sự thì bị cáo có quyền và nghĩa
vụ sau:
Về quyền:
-
Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; (quyền này đã được thực
hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử ); nếu bị kết
án
thì được nhận bản án;
-
Được tham gia phiên toà;
-
Có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
-
Được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
-
Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. (các bị cáo đều nhờ người
bào chữa). Tuy nhiên, sau khi người bào chữa trình bày lời bào chữa,
bị cáo có quyền bổ sung hoặc từ chối nội dung mà người bào chữa đã
bào chữa cho mình)
-
Được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà;
-
Được nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án;
-
Kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật;
-
Được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Về nghĩa
vụ:
-
Phải có mặt theo giấy triệu tập của toà án;
trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp
giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
- Bị cáo
đang bị tạm giam khi ra phiên toà chỉ được tiếp xúc với người bào
chữa. Việc tiếp xúc với những người khác phải được phép của chủ toạ
phiên toà.
- Bị cáo
không bị tạm giam phải có mặt tại phiên toà trong suốt thời gian xét
xử vụ án, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị bắt
tạm giam để bảo đảm việc xét xử.
+ Đối với
những người tham gia tố tụng khác.
Căn cứ vào
quyết định đưa vụ án ra xét xử và danh sách triệu tập người tham gia
tố tụng đến phiên toà, chủ toạ phiên toà lần lượt giải thích quyền
và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Riêng
đối với người làm chứng thì phải yêu cầu người làm chứng cam đoan
trước Toà về lời khai của mình.
- Giới
thiệu thành phần Hội đồng xét xử (Nếu có Thẩm phán và Hội thẩm
dự khuyết thì giới thiệu và quy định chỗ ngồi của họ);
- Giới
thiệu Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà;
- Giới
thiệu Kiểm sát viên tham gia phiên toà (Nếu có Kiểm sát viên dự
khuyết thì giới thiệu và quy định chỗ ngồi của họ);
- Hỏi các
bị cáo có đề nghị thay đổi ai trong thành viên Hội đồng xét xử, Thư
ký, Kiểm sát viên không ?
- Hỏi
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp
pháp của họ có đề nghị thay đổi ai trong thành viên Hội đồng xét xử,
Thư ký, Kiểm sát viên không ? (tuỳ trường hợp cụ thể, nếu vụ án
không có những người này thì không phải hỏi)
- Hỏi kiểm
sát viên, người bào chữa có đề nghị thay đổi ai trong những người
tiến hành tố tụng không ?
(Nếu có
người yêu đề nghị thay đổi ai thì chủ toạ phiên toà xử lý ngay)
Sau khi đã
giải quyết yêu cầu xin thay đổi người tiến hành tố tụng mà phiên toà
vẫn tiến hành được thì chủ toạ phiên toà tiếp tục:
- Hỏi các
bị cáo có mời người bào chữa có đồng ý để luật sư tiếp tục bào chữa
cho mình không?
- Hỏi các
bị cáo đã được giao nhận bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra
xét xử chưa ?
- Hỏi Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra
xem xét hay không.
- Nếu có
người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ toạ
phiên toà cũng phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn
phiên toà hay không. Nếu có người yêu cầu thì
Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
Nếu phiên
toà vẫn tiếp tục thì chủ toạ tuyên bố chuyển sang phần xét hỏi.
2. Phần
xét hỏi tại phiên toà:
- Đề nghị
Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng.
- Tiến
hành xét hỏi: (theo đề cương xét hỏi)
- Nếu việc
xét hỏi đã đầy đủ thì tuyên bố chuyển sang phần tranh luận tại phiên
toà. Trước khi kết thúc phần xét hỏi cần phải hỏi Kiểm sát viên, bị
cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác xem họ có
đề nghị hỏi thêm vấn đề gì nữa không. Nếu có người đề nghị,
mà Hội đồng xét xử thấy việc xét hỏi thêm là là cần thiết thì
Chủ toạ phiên toà cho xét hỏi tiếp.
3. Tranh
luận tại phiên toà:
- Đề nghị
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội;
- Đề nghị
người bào chữa trình bày lời bào chữa;
- Hỏi bị
cáo có bổ sung ý kiến bào chữa của người bào chữa không?
( Nếu vụ
án có nhiều bị cáo hoặc có nhiều người bào chữa thì để tất cả người
bào chữa trình hết lời bào chữa cho tất cả các bị cáo, sau đó chủ
toạ phiên toà hỏi từng bị cáo có bổ sung gì không ?)
- Bị cáo
không có người bào chữa thì tự trình bày lời bào chữa;
- Người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được
trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người
bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý
kiến.
Cần chú ý:
Tuỳ từng vụ án cụ thể mà chủ toạ phiên toà cho
phép những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình.
+ Đối đáp:
- Đề nghị
Kiểm sát viên đáp lại ý kiến bào chữa của người bào chữa, của bị
cáo; ( nếu Kiểm sát viên từ chối đáp lại ý kiến bào chữa thì chủ toạ
phải nhắc Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định tại Điều 218 Bộ luật
tố tụng hình sự về việc đối đáp )
- Người
bào chữa đáp lại ý kiến của Kiểm sát viên.
- Người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ đáp lại ý
kiến của Kiểm sát viên về những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi
ích của mình.
Sau khi
Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tranh luận
không trình bày gì thêm, Chủ toạ phiên
toà tuyên bố kết thúc tranh luận.
(Nếu qua
tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có
thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục
tranh luận).
+ Bị cáo
nói lời sau cùng.
( Chủ toạ phiên toà cần nhắc bị cáo chỉ nói ngắn gọn, không lặp lại
những vấn đề đã được đối đáp khi tranh luận)
“Nếu
trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý
nghĩa quan trọng đối với vụ án, thì Hội đồng xét xử phải quyết định
trở lại việc xét hỏi.”
4.
Nghị án
Hội đồng
xét xử phải tuyên bố thời gian nghị án, ngày giờ tuyên án để những
người tham gia phiên toà biết.
5. Tuyên
án.
Nếu vụ án
phải xét xử nhiều ngày, thì hết giờ làm việc buổi sáng, chủ toạ nhắc
giờ làm việc buổi chiều; hết giờ làm việc buổi chiều, nhắc giờ làm
việc sáng hôm sau và yêu cầu bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác phải có mặt đúng giờ.
|
0 comments
Post a Comment