Bài
này viết ra như một tiếp nối nhỏ
so với những gì mà GS Hoàng Tụy
đã từ lâu phát biểu, đặc
biệt câu sau đây1
trích trong Kỷ Yếu Sĩ phu Thời nay:
Thật
ra, giáo dục và khoa học của ta không
chỉ tụt hậu mà đi lạc ra ngoài
con
đường chung của thế giới,
hết sức 'không giống ai' và đó
là nguồn gốc của mọi vấp váp,
khó khăn khi hội nhập nếu không
kịp chấn chỉnh."
1-
Triết học
không phải là một giáo điều
Đại
cương, sinh viên ngành triết học
được hướng dẫn về phương
pháp suy luận và cách thức đặt
vấn đề nhằm tìm hiểu sự
thật trong cuộc sống nội tâm, cũng
như khám phá ra những quy luật vận
hành của xã hội, của vũ trụ
nhân sinh. Triết học cũng trình bày
cho sinh viên hiểu biết được lịch
sử phát triển về tư tưởng
và nhận thức của con người, nhờ
vào những tìm kiếm nhẫn nại
không ngừng của các triết gia tại
Đông cũng như Tây phương, liên
tục từ biết bao năm trường. Nói
chung, môn triết học cung cấp cho chúng
ta một chân trời luôn mãi mở
rộng, một viễn tượng toàn cầu,
một tầm nhìn thật là bao quát
và thông thoáng. Đó là kim chỉ
nam, tấm bản đồ giúp cho con người
hướng thượng để đi tới
mãi trong cuộc hành trình lâu dài
của mỗi cá nhân, cũng như của
toàn thể cộng đồng nhân lọai,
mà không sợ bị lạc lối trong cái
mê hồn trận của cuộc sống mỗi
ngày một thêm phức tạp xáo động
trong xã hội ngày nay.
Cũng như môn
khoa học tự nhiên, triết học là
cả một kho tàng kiến thức vô
cùng phong phú và quý báu mà
nhân lọai đã tích lũy được,
trải qua bao nhiêu thế hệ tìm kiếm,
phân tích và đãi lọc thành
những sản phẩm tinh hoa của trí tuệ
con người, không phân biệt sắc
tộc, màu da hay khuynh hướng chính
trị, học thuật và tôn giáo nào.
Và như vậy, việc giảng dậy môn
triết học không bao giờ chỉ tập
trung, đóng khung chật hẹp vào một
triết thuyết độc tôn duy nhất nào,
mà trái lại cần phải giới thiệu
cho các sinh viên tìm hiểu được
nhiều trường phái triết học, các
lý thuyết cổ xưa cũng như hiện
đại của các nhà tư tưởng
kiệt xuất của nhân loại từ Đông
sang Tây, Bắc xuống Nam.
Xin trích
dẫn mấy dòng ngắn ngọn sau đây2
về sự tương đồng cũng như
khác biệt giữa khoa học và triết
học:
Triết học nghiêm
túc giống khoa học đích thực ở
hai điểm:
1- đều
dựa vào một số nguyên lý. Những
nguyên lý này, ta chỉ có thể
tán thành hay không, không chứng minh
tuyệt đối, vĩnh viễn được.
Do đó phát triển khoa học hay triết
học đều đòi hỏi ý thức
tự do và sáng tạo.
2- trên cơ
sở đó, đòi hỏi một kiểu
suy luận khắt khe, chặt chẽ, nhất quán
xuyên qua những bộ ngôn từ tương
xứng. Thiếu ngôn ngữ khoa học, không
thể tiếp thu và phát triển tư
duy khoa học. Thiếu ngôn ngữ triết học
“cho ra hồn”, không thể tiếp thu
và phát triển tư duy triết.
Triết học
và khoa học khác nhau ở hai điểm :
1
- Giá trị của lý thuyết khoa học
được xác định bằng thử
nghiệm : ứng dụng nó thì hành
động đạt được kết quả
đã dự đoán. Lý thuyết
khoa học
đúng hay sai là phải do thực
nghiệm kiểm chứng được hay không.
2 -Giá trị
của triết thuyết được xác
định qua nghiệm sinh của con người
ở đời. Có thể bỏ mạng mà
vẫn đáng sống.
Cả hai đều
cần thiết để làm người. Nếu
chua thêm được tí ti văn nghệ
trong cuộc sống thực thì tuyệt.
Vậy
mà từ lâu rồi theo Trần Đức
Thảo “ở
Việt Nam không có triết học mà
chỉ có chính trị”,
đặt
nội dung giáo dục ý thức hệ
Marx-Lenin làm trọng tâm. Trẻ vào mẫu
giáo đã nghe những bài hát
chính trị. Người soạn sách giáo
khoa nhiều khi cũng cố lồng chính trị
vào, coi đó là một thành
tích3.
Việc
giảng dạy môn triết học Marx-Lenin tại
các trường ở Việt nam từ mấy
chục năm nay là một hạn chế khiên
cưỡng, sinh viên phải học tập duy
nhất có một học thuyết mà không
được tiếp cận trên cùng một
bình diện cả một vườn hoa tư
tưởng muôn màu muôn sắc của
nhân lọai. Rõ ràng là triết
học do Karl Marx khởi xướng từ trên
150 năm nay và sau đó bổ sung bởi
Lenin đã và tiếp tục là một
đóng góp đáng kể cho nhân
lọai, tuy nhiên nó không phải là
một đường lối tư tưởng
duy nhất, tuyệt đối và vĩnh viễn.
Như vậy, thì lại càng không thể
đem học thuyết này mà áp đặt
trên quần chúng học sinh, sinh viên,
buộc thế hệ thanh niên phải chấp
nhận nó như một giáo điều
chính thức của quốc gia. Sự áp
đặt như vậy nào có khác
chi việc thiết lập một thứ quốc
giáo độc quyền, độc tôn trên
toàn thể dân tộc?
Qua sự
trình bày trên, thiết nghĩ ta cần
phải dứt khoát thay đổi lề lối
và nội dung của việc giảng dạy
môn triết học hiện nay. Cụ thể
trong thời buổi hội nhập này là
nên áp dụng các phương thức
phổ quát trên thế giới, đó
là hướng dẫn cho
sinh viên nâng cao tầm nhận thức và
trình độ hiểu biết rộng rãi,
thấu đáo hơn mãi về lịch
trình tiến triển của tư duy loài
người từ xưa đến nay, thông
qua những tìm kiếm vô cùng phong phú
và kiên trì của biết bao lớp
nhà tư tưởng ưu tú vĩ đại
của nhân lọai. Chứ không phải chỉ
đóng khung hạn hẹp trong bất kỳ
một học thuyết duy nhất nào. Khác
nào xưa kia thời quân chủ phong kiến
hàng ngàn năm bên Đông Á,
học thuyết cửa Khổng sân Trình
đã thống trị tư duy thần dân.
Cũng như Cơ đốc giáo với giả
thuyết điạ tâm sai lầm bên Âu
châu đã đưa Giordano Bruno lên dàn
hỏa thiêu (1600) và Galileo Galilei (1633) phải
quỳ gối tự chối bỏ tác phẩm
đặt nền tảng cho Vật lý và
Thiên văn hiện đại. Điển hình
gần đây hơn là thời Stalin đã
dùng quyền lực chính trị để
áp đặt lý thuyết về di truyền
của Lysenko, gây tai hại trầm trọng cho
nền khoa học của Liên Xô vào
giữa thế kỷ XX vậy. Cũng vậy giáo
điều phát xít Đức đã
đẩy lùi nền khoa học Âu châu
trong bao năm.
Chúng ta
hãy lắng nghe ý kiến sau đây4:
“Tôi
đề nghị chúng ta vẫn giữ học
thuyết Marx-Lenin, nhưng chúng ta không chỉ
biết
và vận
dụng duy nhất học thuyết Marx-Lenin, mà
cần phải biết và vận dụng những
học thuyết tinh hoa của nhân loại như
chúng ta bắt đầu làm từ khi đổi
mới. Từ đó Đảng ta mới phát
huy được dân chủ, tự do trong Đảng,
trong nhà nước và trong xã hội
ta. Vì chỉ có dân chủ tự do mới
có thể có điều kiện thật
sự cho sự phát triển vững mạnh,
mới có sức mạnh vô địch để
vượt qua mọi khó khăn thử thách,
bảo vệ được thành quả của
Cách mạng và không ngừng đưa
Cách mạng Việt Nam tiến lên phía
trước cùng với bạn bè năm
châu bốn biển ”.
Các nước
tư bản họ cũng làm như vậy.
Họ vẫn nghiên cứu và giảng dạy
chủ nghĩa Mác-Lênin ở các trường
đại học. “ Giữ học thuyết
Marx-Lenin ” không phải để tôn
sùng và mù quáng vâng theo mà
có chăng chỉ để gạn đục
khơi trong, để ôn cũ biết mới
.
Muốn
có dân chủ cần phải có sự
phát triển tinh thần đa dạng, nhiều
chiều, nghĩa là triết học cũng
phải đa dạng, nhiều chiều, chứ
không thể giáo điều theo một
hướng hẹp; đi theo một hướng
hẹp là tạo mảnh đất đánh
mất dân chủ. Điểm
son của triết lý giáo dục tiến
bộ trên
thế giới là sự bao dung, tôn trọng
và bàn cãi tự do những tư
tưởng, văn hóa, chính kiến, tín
ngưỡng khác nhau, chúng bổ túc
cho nhau. Tư duy độc lập, phê phán,
phản biện, tự vấn không ngừng là
những yếu tố quyết định của
một nền giáo dục tiến bộ và
phổ quát. Không thể áp đặt
một hệ tư tưởng bất luận nào
đó - cho dù ưu việt đến mấy
trong một thời - lên sự nghiệp giáo
dục đào tạo con người. Nó
chỉ kìm hãm tư duy sáng tạo.
Triết
lý giáo dục công lập ở Pháp
dựa trên hai nền tảng : nhà
trường thế tục và cộng hòa.
Nhà
nước tôn trọng và trung lập đối
với mọi tín ngưỡng, chính kiến,
tư tưởng, nhân sinh quan, triết học.
Nhà trường là nơi hòa trộn
mọi thành phần, không phân biệt
nguồn gốc, chủng tộc, giai cấp xã
hội của học sinh.
2- Nhân sự
giảng dạy và nghiên cứu
Đại học, nơi
tụ hội những tinh hoa của xã hội,
mặc nhiên có vai trò làm gương
mẫu cho mọi sinh hoạt. Nó phải là
một môi trường lành mạnh, đạo
đức để phục hồi và củng
cố niềm tin của tuổi trẻ. Sự
nghiệp của đại học là khai sáng
tư duy, là đào tạo chất lượng
cao về tri thức tổng quan và chuyên
ngành. Những tiêu cực như giả
dối, nạn dỏm trong nhân sự phải
tuyệt đối vắng mặt, thày ra thày,
trò ra trò. Đó là điều
kiện tiên quyết của nền giáo dục
nói chung mà đại học cần mở đường. Người
sinh viên phải được hưởng
quyền nổi
loạn trong học thuật. Họ có quyền
tụ tập để tranh luận học thuật
dưới mọi hình thức và về
bất cứ chủ đề nào5.
Đội
ngũ nhân sự giảng
dạy đại học cần phải có
trình độ tiến sĩ theo tiêu chuẩn
quốc tế, số lượng tiến sĩ đủ
tiêu chuẩn này hiện nay quá nhỏ
so với số sinh viên, hiện tượng
thạc sĩ dạy cử nhân cần phải
giảm đi đến mực tối thiểu.
Chuyển giao tri thức chuyên môn cho sinh viên
chỉ là một trong hai nhiệm vụ chính
của giảng viên đại học, điều
quan trọng không kém là nghiên cứu khoa học theo tiêu chuẩn quốc tế để
cập nhật thường xuyên tri thức
chuyên môn, đào sâu tăng trưởng
kiến thức và tìm tòi sáng
tạo. Tiến
sĩ chỉ là điều kiện cần
nhưng chưa đủ
để thành giảng viên đại học,
chức vụ này đòi
hỏi một thời gian ‘sau tiến
sĩ ‘(postdoc) khá gian nan để đạt
tới sự độc lập chín chắn
trong quá trình giảng dạy và khám
phá, mở rộng trao đổi với các
môi trường khác nhau để sàng
lọc, đua tranh lành mạnh nhưng gay gắt.
Tiêu chuẩn quốc tế được hiểu
theo nghĩa sau đây: (a) công trình khảo cứu khoa học đăng trên các tạp chí đẳng cấp quốc tế (hầu hết bằng tiếng Anh mà ISI thu thập). Trong hàng chục ngàn tạp chí của ISI, có nhiều cái cũng chỉ vừa phải về chất lượng, vậy có lẽ nên linh động hơn, đừng thái quá về vai trò quyết định của ISI. Trong mỗi ngành chuyên môn, ai cũng rõ cấp bậc nọ kia (xếp loại theo impact factor cao là một thí dụ) của các tạp chí để tự mình chọn mặt gửi vàng đến các tạp chí với hệ thống bình duyệt và phản biện nghiêm túc. Mỗi ngành nghề chuyên hẹp chỉ có chừng vài chục tạp chí đủ chất lượng cao mà ta cần tập trung vào đó. (b) số lần trích dẫn (hay/và H index) các công trình khoa học bởi đồng nghiệp khắp thế giới, (c) sách giáo trình cao học phát hành bởi các nhà xuất bản uy tín (d) báo cáo trong hội nghị quốc tế và sự giao lưu thường xuyên với các cơ quan giảng dạy-nghiên cứu trên thế giới, (e) sự nghiệp đào tạo các nghiên cứu sinh và tiến sĩ, (f) đối với các ngành khoa học ứng dụng, văn bằng sáng chế và cộng tác với các công ty kỹ nghệ mang lợi nhuận cho cơ quan.
Ðó là ít nhiều hành trang thông thường của nhân viên giảng dạy-nghiên cứu của một đại học chuẩn mực quốc tế mà nền đại học Việt Nam cần đạt tới. Qua các tiêu chí (a) - (f), ta thấy rõ sự liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và giảng dạy, sự thăng chức thăng ngạch trong mỗi hàm nên tùy thuộc chủ yếu vào các công trình nghiên cứu khoa học. Cũng như ở nhiều nước phát triển cao, tổng số giờ giảng dạy trong một năm của giáo sư đại học ở Pháp chỉ có khoảng 130 giờ để thấy rõ tầm quan trọng mà họ phải bỏ hết thời gian còn lại làm nghiên cứu. Vì thế họ mang tên gọi là nhân viên giảng dạy-nghiên cứu (enseignant-chercheur).
Chương
trình dài hạn đào tạo theo tiêu
chuẩn quốc tế (bằng cách tuyển
chọn sinh viên tài năng gửi đi
soạn cao học, tiến sĩ và hậu tiến
sĩ ở các nước khoa học tiền
tiến) một đội ngũ mới giảng
viên đại học để tiếp nối
dần thế hệ trước, phải là
ưu tiên hàng đầu của nền đại
học. Đội ngũ nhân viên giảng
dạy cần được coi là trọng
tâm của mọi sinh hoạt trong đại
học, ban quản lý chỉ có nhiệm
vụ duy nhất là hỗ trợ và tạo
điều kiện thuận lợi sao cho được
tối ưu hai sự nghiệp chính của
giảng viên là chuyển giao tri thức và
nghiên cứu khám phá. Ngoài ra vai
trò quan trọng của hai môn Triết học
Mác-Lê và Lịch sử Đảng
chiếm khoảng 15% học trình của các
ngành khoa học tự nhiên là điều
hoàn toàn khác lạ với tiêu
chuẩn quốc tế. Nên coi
môn trước nằm trong kiến thức
chung của triết học nhân loại và
môn sau trong lịch sử thăng trầm
quốc gia. Trong hồ sơ các sinh viên
trong nước sang ghi tên du học về ngành
khoa học tự nhiên, hai môn kể trên
có hệ số tính điểm khá
cao chẳng thua các hệ số về toán,
lý, hoá, sinh, ngoại ngữ. Ở các
nước phát triển, không đâu
có hai môn bắt buộc này trong học
trình của các ngành khoa học tự
nhiên. Nhiều
bạn bè trên thế giới đã
mất công sức giải bầy với đồng
nghiệp và bộ máy hành chính
của đại học mình khi họ xét
hồ sơ tuyển chọn sinh viên Việt
Nam sang du học. Ðể so sánh công bằng
với sinh viên các nước khác
trong việc tuyển chọn vào đại
học, hai môn ‘không khoa
học tự nhiên’
này bị loại bỏ tự động, làm
lãng phí thời gian tiền của.
Rồi chuyện
học hàm học vị nhiêu khê của
hệ thống giáo dục hiện nay; nhiều
người có học vấn thật bị
đứng vào chỗ văn hoá giả
tạo, và ngược lại. Chức giáo
sư, phó giáo sư đại học cần
phải hiểu theo những tiêu
chuẩn phổ quát quốc tế, đó
chỉ là chức vụ để giảng
dạy-nghiên cứu với trách nhiệm
cụ thể trong các đại học, chứ
không phải là phẩm hàm quí tộc
hình thức để quản lý hay hoạt
động ngoài môi trường đại
học. Nguyên tắc để xác nhận
hai khả năng giảng dạy-nghiên cứu
nói trên cần giản dị, minh bạch,
không gây khó khăn bởi những thủ
tục hành chính xa lạ với chất
lượng nghiêm túc.
Ngoài
vấn đề đội ngũ giảng dạy
ra, quy chế tự chủ
và tự do trong môi trường học
thuật, chính
sách đãi ngộ và đồng
lương tương
xứng,
hướng nghiên cứu và phương
pháp đào tạo, mở rộng cộng
tác với các cơ quan và chuyên
gia nước ngoài là những điều
vô cùng quan trọng cần thực hiện
để đảm bảo cho sự thành công
của đại học chất lượng cao
theo tiêu chuẩn quốc tế. Sự
liên kết mật thiết giữa Đại
học và Viện Khoa học & Công nghệ
(VAST) nên phát huy tận lực, cơ chế
hành chính của hai cơ quan cần điều
hòa ra sao để hai bên cùng có
lợi trong sự nghiệp nâng cao chất lượng
đào tạo và nghiên cứu. Đó
là điều mà các nước khoa
học tiền tiến đã từ lâu
thực hiện.
Tăng cường
và xây dựng nhanh chóng cơ sở
vật chất, phòng làm việc thường
trực của nhân viên giảng dạy-nghiên
cứu, thư viện phong phú với sách
giáo trình và tạp chí khoa học
quốc tế, máy tính và truy cập
internet, cư xá cho sinh viên thuê giá
rẻ, học bổng trợ cấp sinh viên
chăm chỉ tài năng mà gia cảnh
thiếu thốn.
Với hàng
ngàn vạn tuổi trẻ trong và ngoài
nước đang thành công tốt đẹp
trong nhiều lãnh vực trên trường
quốc tế, chúng ta tin tưởng rằng
khi có môi trường thuận lợi, con
người Việt còn có thể vươn
cao hơn nữa. Thí dụ tượng trưng,
trong các cựu sinh viên sang du học ở
Pháp khoảng hơn mươi năm nay gần
đây, một số đã trở thành
giảng sư các Đại học hay nghiên
cứu viên của Trung tâm Quốc gia Khảo
cứu Khoa học (CNRS). Ðó là tiềm
năng chất xám quý báu của dân
tộc ta, chất xám ấy lại mang thêm
một đặc điểm nữa mà hiếm
các quốc gia khác có được,
đó là sự phong phú đa dạng
của các thành phần đến từ
nhiều chân trời văn hóa khác
nhau nhưng bổ túc cho nhau, từ Ðông
qua Tây Âu, từ Bắc đến Nam Mỹ,
Đông Bắc đến Tây Nam Á, Úc,
được thử thách chọn lọc theo
tiêu chuẩn quốc tế. Lại thêm biết
bao tài năng, đặc biệt với thế
hệ thứ hai, nằm trong cộng đồng ba
triệu người Việt ở nước ngoài
sinh hoạt trên khắp năm châu.
Thực ra vấn đề xuất
cảng rồi sớm muộn trở thành
giao lưu
chất xám đã xảy ra từ lâu
rồi ở các nước lân cận Việt
Nam. Do lòng gắn bó với cội nguồn,
môi trường hoạt động thoải
mái thoáng đãng và chính sách
đãi ngộ thích ứng ở các
nước đó, phần đông các
nhân tài đã trở về cố
hương đóng góp cho sự phát
triển kỳ diệu của nước họ,
trong đó các đại học và
viện công nghệ mang tầm quốc tế
giữ vai trò không nhỏ.
Người
viết tâm tình với lòng tin là
nền đại học Việt Nam không thể
không đạt tới chuẩn quốc tế,
vấn đề chỉ là thời gian khoảng
mươi năm. Nó đến sớm hay muộn
là ở trong tay chúng ta từ chính
quyền đến người dân hữu
trách, và lời chúc đầu năm
là chúng ta sẽ thành công nhanh hơn
và trội hơn ước tính.
Phạm Xuân Yêm
Nguồn:
Bài viết cho Kỷ yếu 200 năm Humboldt (HN 2011).
Trích
dẫn :
1
Kỷ Yếu Sĩ phu Thời nay, nxb Tri Thức (2008), trang
161
2
Phan Huy Đường, Tạp chí Tia Sáng (2010), http://amvc.free.fr/PHD/LangThangChuNghia/TrietHoc-KhoaHoc.htm
3
Trong cuốn giáo trình “Nhiệt động lực học và Vật lý thống kê, nxb Đại
học Quốc gia Hanoi (1996), ngay ở trang 11, tác giả, một nhà vật lý,
viết: Như Lenin đã chỉ rõ “ Khái niệm nhân quả của con người
…”, điều chẳng liên đới chút nào đến toàn bộ nội dung cuốn
sách.
4
Nguyễn Văn An, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên trưởng Ban Tổ chức
TƯ Đảng, nguyên Chủ tịch Quốc hội qua những trả lời phỏng vấn “ Tuần
Việt Nam ” ngày 12 tháng 12 năm 2010.
0 comments
Post a Comment