Pages

Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Sống không phải là ký sinh trùng của thế gian, sống để mưu đồ một công cuộc hữu ích gì cho đồng bào tổ quốc. (Phan Chu Trinh )Mở mang dân trí , Chấn động dân khí.Vun trồng nhân tài. Kỳ vọng ở những người làm quan, lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ được nhiều người xem là có giá trị về phương diện cổ động nhân sĩ và giới cầm quyền có tâm huyết đem tài sức ra giúp nước.(Khi Phan Bội Châu viết tập "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" )"Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn và vô trách nhiệm."“Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc [độc lập, tự do] thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?”“… đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thứ này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.”(Fukuzawa Yukichi) .Tôi tư duy nên tôi hiện hữu; nghĩa là: Vì tôi tư duy nên tôi biết mình hiện hữu.( René Descartes) John Paul II xưng thú tội lỗi tổng quát trong 7 mục sau đây:1. Xưng thú “tội lỗi chung”.2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý”.3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”

My Blog List

Blogger templates

Friday, August 23, 2013

Luận Cương về Thể chế Liên Bang




THE FEDERALIST PAPERS

Luận Cương về Thể chế Liên Bang

LỜI GIỚI THIỆU
Trong lịch sử dựng nước của các dân tộc trên thế giới, Liên bang Hoa Kỳ là một quốc gia đầu tiên có cơ may xây dựng một thể chế chính trị hoàn toàn do người dân chọn lựa ngay từ những buổi đầu dựng nước. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, thể chế Cộng hòa Liên bang Hoa Kỳ được quy định trong bản Hiến Pháp nguyên thủy vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Những nguyên tắc chỉ hướng được xác định trong bản hiến pháp này đã được nhiều nước trên thế giới dùng làm mẫu mực, vì phản ảnh được ước vọng căn bản của con người, là được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc.

Bối cảnh Lịch sử

Đối với người dân của 13 thuộc địa Bắc Mỹ, cuộc cách mạng giành độc lập (1775-1783) tiêu biểu cho một cuộc chiến đấu chống lại chế độ thực dân độc tài để giành quyền tự do sinh hoạt và định đoạt tương lai của người dân. Trước khi chiến sự nổ ra đưa đến cuộc cách mạng giành độc lập, 13 thuộc địa nhóm họp lại năm 1775 và thành lập Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ (United States of America), tuyên bố độc lập (4/7/1776) và vào năm 1777, đã thông qua một Hiến Chương Liên hiệp các tiểu bang (Articles of Confederation), nhằm ấn định cơ cấu chính trị cho nước Mỹ vừa được khai sinh. Theo Hiến Chương, mọi quyền lực của chính quyền trung ương đều thuộc tiểu bang và cơ cấu chính quyền trung ương chỉ có thẩm quyền đàm phán ngoại giao cùng tuyên chiến với các nước khác.
Trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập, trở ngại và khó khăn trong việc áp dụng những điều kết ước trong Hiến Chương Liên Hiệp các Tiểu Bang đã cho thấy nhu cầu tu chính những điều khoản này cho thích hợp với tình hình và điều kiện thực tế. Bốn năm sau khi cách mạng thành công, một hội nghị đại biểu các tiểu bang được triệu tập vào năm 1783 để tiến hành công việc tu chính Hiến Chương, nhưng rồi cuối cùng mọi đại biểu đều đồng ý phải soạn thảo một bản hiến pháp mới cho Liên bang.

Quốc hội Lập Hiến

Sau khi cách mạng thành công, nước Mỹ non trẻ phải đối đầu với một vấn đề mang tính chất sinh tử; đó là nên hay không nên thành lập một chính quyền trung ương có quyền lực mạnh. Có hai quan điểm chính trị đối chọi nhau trước vấn đề này. Khuynh hướng chống đối thể chế liên bang được nhóm Anti-federalist cổ xúy; nhóm này gồm những chính khách như Patrick Henry, George Mason, James Monroe (tổng thống tương lai) và John Quincy Adams. Nhóm này muốn bảo vệ quyền lực của các chính quyền địa phương tại mỗi đơn vị lãnh thổ cựu thuộc địa, vì cho rằng việc thành lập một chính quyền liên bang mạnh với nhiều quyền hạn sẽ đi ngược lại với mục tiêu cuộc cách mạng giành độc lập. Nhóm này cho rằng một chính phủ liên bang mạnh cũng sẽ trở thành một hình thức tổ chức chính trị bóp nghẹt quyền tự do của người dân. Nhóm này còn chống việc thiết lập thể chế liên bang vì không chấp nhận những nghĩa vụ đi kèm như thuế má và các bổn phận do chính quyền trung ương này ấn định đối với người dân cư ngụ trong từng lãnh thổ cựu thuộc địa, vốn trước đó vẫn được hưởng quyền tự trị về chính trị.
Đối với nhóm người này, ngoài mục tiêu tranh đấu để thoát khỏi ách đô hộ của Đế quốc Anh Hoàng, cuộc nổi dậy vào năm 1776 còn mang thêm ý nghĩa một cuộc cách mạng dân chủ dân quyền chống lại lề lối tổ chức và cai trị của giai cấp thống trị do Đế Quốc Anh áp đặt lên các đơn vị lãnh thổ thuộc địa tại Bắc Mỹ. Những người theo quan điểm này cho rằng việc thiết lập một thể chế liên bang không khác gì việc thay thế một chế độ thống trị độc tài hà khắc thực dân, bằng một chế độ thống trị độc tài hà khắc khác, trong đó người dân cũng vẫn sẽ phải chịu đựng những sự hạn chế quyền tự do như xưa.
Mặt khác, khuynh hướng thứ hai, còn được gọi là nhóm Federalist, cổ võ cho việc thiết lập một chính quyền liên bang mạnh, có thẩm quyền bao trùm lên trên tất cả các đơn vị lãnh thổ cựu thuộc địa. Nói cách khác, đó là một cuộc tranh cãi sôi nổi giữa một bên cổ võ cho quyền lực của một chính quyền trung ương mạnh, và một bên muốn triệt để bảo vệ quyền tự do của người dân sống trong từng đơn vị lãnh thổ vừa thoát khỏi sự thống trị của chính quyền thuộc địa Anh Hoàng.
Vào tháng Chín 1787, khi bản Dự thảo Hiến Pháp được chuyển đến các cựu thuộc địa để được thảo luận và phê chuẩn, nhóm Anti-Federalist đã đưa ra quan điểm chống đối việc thiết lập một chính quyền liên bang bằng những bài tham luận được đăng tải trên một số tờ báo xuất bản tại New York. Những bài tham luận này do nhiều người viết, nhưng cùng ký một tên là "Brutus," là tên của nhà sáng lập nên nền Cộng hòa La Mã. Để phản biện các luận cứ do nhóm Anti-Federalist đưa ra, nhóm Federalist cũng đã cho đăng tải những bài tham luận giải thích và bênh vực quan điểm ủng hộ chính quyền liên bang của họ. Chính các bài tham luận của nhóm Federalist đã giúp cho việc phê chuẩn bản Dự thảo Hiến pháp trở thành hiện thực. Tiến trình phê chuẩn này chỉ kết thúc vào ngày 29 tháng Năm 1790, khi tiểu bang cuối cùng là Rhode Island đồng ý gia nhập liên bang.

Luận cương về thể chế Liên bang

The Federalist Papers là một tuyển tập các bài tham luận kêu gọi người dân ủng hộ cho việc phê chuẩn bản Dự thảo Hiến Pháp Liên Bang Hoa Kỳ. The Federalist Papers gồm 85 bài tham luận do Alexander Hamilton, James Madison và John Jay viết. Cả ba tác giả nói trên cùng sử dụng chung một bút hiệu Publius, để tưởng nhớ Publius Valerius Publicola, một chính trị gia và học giả người La Mã đã triệt để bênh vực cho thể chế cộng hòa La Mã.
Trong khoảng thời gian từ tháng Mười 1787 cho đến tháng Năm 1788, những bài tham luận này đã được liên tục phổ biến trên một số tờ báo xuất bản tại tiểu bang New York, và nhằm đưa ra những luận cứ ủng hộ việc phê chuẩn bản Hiến Pháp Liên bang Hoa Kỳ 1787. Những luận cứ được trình bầy trong 85 bài tham luận này đã giải thích sự vận hành của bộ máy chính quyền được đề nghị trong bản Dự thảo Hiến Pháp, đồng thời trình bầy và giải thích những biện pháp được đề ra để ngăn cản, cũng như hóa giải, nguy cơ lạm quyền của những người được dân chúng chọn lựa để điều hành guồng máy quốc gia, khi họ hành xử quyền lực chính trị và hành chính trong guồng máy đó.
Cho đến nay, The Federalist Papers vẫn còn được coi như một tuyển tập tham luận có giá trị vào bậc nhất trong việc nghiên cứu và tìm hiểu các nguyên tắc căn bản cùng ưu và khuyết điểm trong việc tổ chức một guồng máy chính quyền cộng hòa hiến định. Soạn phẩm này mang giá trị của một luận cương về cơ cấu tổ chức chính trị liên bang, vì vậy, The Federalist Papers đã được tạm dịch là Luận Cương về Thể Chế Liên Bang.
Những bài tham luận trong Luận Cương về Thể Chế Liên Bang đã giải thích cặn kẽ một số nguyên tắc căn bản quy định việc tổ chức một chính quyền trung ương cho quốc gia mới thành lập tại Bắc Mỹ. Theo ba tác giả của những bài tham luận này, ước vọng căn bản của đa số người dân sống tại những lãnh thổ mới được giải phóng khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh là được sống dưới một chính thể trong đó mọi quyền tự do, cũng như tài sản của người dân, phải được triệt để bảo vệ. Chính thể đó sẽ phải đủ mạnh để có thể bảo đảm an ninh cho người dân chống lại những mối đe dọa nội loạn, cũng như những nguy cơ xâm lược từ bên ngoài. Tuy nhiên, quyền lực của chính thể đó cũng cần phải được kềm chế để tránh khuynh hướng độc tài, vốn là một mối nguy cơ tiềm ẩn trong bất cứ một chính thể nào, khi mà quyền lực được tập trung vào trong tay một cá nhân, hay một thiểu số thống trị.
Một chính thể hội đủ những điều kiện như trên được định nghĩa là một Chính Thể Tự Do. Chính Thể Tự Do là một thể chế mà trong đó người dân có quyền chọn lựa người đại diện cho mình để điều hành bộ máy quốc gia. Chính quyền Tự do này phải được dựa vào một số nguyên tắc căn bản để bảo đảm được cho những quyền tự do và quyền tư hữu của từng người dân. Dự thảo Hiến Pháp Liên bang Hoa Kỳ chọn lựa hình thức tổ chức thể chế cộng hòa, theo nghĩa người lãnh đạo quốc gia phải do chính người dân chọn lựa để thay mặt họ điều hành một tổ chức lãnh thổ được kết hợp lại với nhau theo hình thức liên bang. Quyền hạn do người dân ủy nhiệm cho chính quyền sẽ phải được phân định rõ ràng, biệt lập và độc lập với nhau, để tránh tình trạng tập trung quyền lực vào tay một người, hay một nhóm người, có thể đưa đến nguy cơ độc tài.
Nguyên tắc phân quyền (Separation of Powers) giữa Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp được quy định nhằm tránh tình trạng tập trung quyền lực vào tay một cá nhân hay một nhóm người, đồng thời gia tăng hiệu năng của từng lĩnh vực hoạt động trong bộ máy công quyền. Những biện pháp kiểm soát và cân bằng quyền lực (Checks and Balances) cũng được ấn định nhằm mục đích ngăn chặn tình trạng tập và lạm quyền bằng những hình thức kiểm soát và chế tài lẫn nhau giữa các lĩnh vực quyền lực.
Theo thứ tự trình bầy, 85 bài tham luận trong Luận Cương về Thể Chế Liên Bang phân tích những chủ đề chính yếu sau đây:
  • Về nhu cầu thành lập Liên Bang: Tham luận số 1 đến 14
  • Những thiếu sót của Hiến Chương Liên Hiệp các Tiểu bang: Tham luận số 15 đến 22
  • Những ưu điểm của thể chế chính trị được đề nghị trong Dự thảo Hiến pháp: Tham luận số 23 đến 36
  • Đặc điểm của thể chế cộng hòa: Tham luận 37 đến 51
  • Quyền Lập Pháp: Tham luận 52 đến 66
  • Quyền Hành Pháp: Tham luận số 67 đến 77
  • Quyền Tư Pháp: Tham luận 78 đến 83
  • Phần tổng kết: Tham luận 84 và 85
Công trình chuyển ngữ Luận Cương về Thể chế Liên Bang được người dịch thực hiện theo thứ tự các đề mục chính của các nhóm bài tham luận như trình bầy ở trên. Trong mỗi đề mục, người dịch chọn lựa một số bài tham luận có nội dung súc tích nhất để người đọc có thể nắm vững chủ đề được trình bầy trong từng đề mục. Mỗi đề mục sẽ có một phần sơ lược (không có trong Luận Cương) những diễn biến lịch sử Hoa Kỳ vào thời điểm những bài tham luận này được viết ra, để làm bối cảnh cho những đề tài được phân tích trong những bài tham luận liên hệ.
Người dịch hy vọng rằng hình thức chuyển ngữ như trình bầy ở trên sẽ cung ứng đến người đọc một cái nhìn bao quát về giá trị của Luận Cương trong việc tìm hiểu cách vận hành và các ưu điểm của thể chế Cộng hòa Liên bang Hoa Kỳ.
© Học Viện Công Dân 2008
Houston - Ngày 12 tháng Ba, 2008
Nguyễn Quốc Cường
Nhà Xuất Bản Tây Hồ
nguyenc@stthom.edu


 
Giới thiệu Tổng quát Alexander Hamilton
(Tóm lược)
Sau khi phải trải nghiệm tình trạng thiếu hữu hiệu không thể chối cãi được trong hoạt động của cơ cấu chính quyền liên bang hiện hữu, chúng tôi kêu gọi đồng bào nghiên cứu và chấp thuận Hiến pháp mới cho Hiệp Chúng Quốc Mỹ (Hoa Kỳ). Khi tìm hiểu bản dự thảo hiến pháp mới, đồng bào cũng cần lưu ý đến quyền lợi chung của liên bang và tránh những luận cứ chống đối do một số chính trị gia đưa ra nhằm mục đích bảo vệ quyền hạn và lợi ích riêng rẽ của từng tiểu bang. Trong những bài tham luận tới, chúng tôi sẽ trình bầy những lợi điểm của một cơ cấu chính quyền cộng hòa liên bang được ấn định trong bản dự thảo hiến pháp này. 


Luận về Những Nguy cơ từ các Thế Lực Ngoại Bang
John Jay
Cùng đồng bào tiểu bang New York,
Một khi người dân Mỹ ý thức được tầm quan trọng của vấn đề được đặt ra với họ, thì sẽ nhận rõ được trách nhiệm của họ là phải nghiên cứu vấn đề một cách thấu đáo và nghiêm túc. Quyết định của họ, và những hậu quả của quyết định đó, sẽ có một tầm mức ảnh hưởng quan trọng nhất so với những vấn đề mà họ đã từng phải đối phó trước đây.
Chính quyền là một nhu cầu không thể thiếu được. Một điều khó chối cãi được là, dầu cho dưới hình thức nào đi nữa, người dân vẫn phải nhường một số quyền tự nhiên để ủy nhiệm cho chính quyền các quyền lực cần thiết. Vì lẽ đó, thiết tưởng cũng nên suy xét  xem quyền lợi của người dân Mỹ sẽ có thể được bảo vệ tối đa nếu đất nước được tổ chức thành một quốc gia duy nhất, dưới một chính thể liên bang duy nhất hay không, hay là họ cần phải tự phân chia ra thành những tiểu bang riêng rẽ, chỉ liên hiệp với nhau, và trao cho cơ cấu chính quyền của tiểu bang những quyền lực mà lẽ ra phải được trao cho chính quyền trung ương.
Cho đến khoảng thời gian gần đây, quan điểm của đa số vẫn cho rằng sự thịnh vượng chung của người dân  Mỹ tùy thuộc vào sự đoàn kết liên tục và vững chắc. Ước mơ, nguyện vọng, cũng như nỗ lực của những công dân ưu tú và khôn ngoan nhất đều hướng về quan điểm đó. Tuy nhiên, hiện nay đã có một số chính trị gia tuyên bố rằng, trông mong vào một thể chế liên hiệp để bảo đảm an ninh và hạnh phúc là một điều sai lầm. Họ đoan quyết rằng cần phải phân chia các tiểu bang ra thành nhiều nhóm liên hiệp riêng rẽ, hay thành những quốc gia biệt lập. Chủ thuyết này có vẻ khác lạ, nhưng cũng đã được nhiều người cổ võ, kể cả một số người trước đây đã chống đối nó. Tìm hiểu những luận cứ nào đã thúc đẩy những người này thay đổi lập trường của họ là một nỗ lực không cần thiết. Tuy vậy, nếu người dân chấp nhận ủng hộ những lập trường chính trị này mà không thực sự tìm hiểu xem lập trường đó có được xây dựng trên những luận cứ chính xác và vũng chắc hay không, thì việc đó lại là một quyết định thiếu khôn ngoan.
Tôi rất vui sướng khi thấy rằng nước Mỹ độc lập không phải là tập hợp của những vùng đất tách biệt và xa cách nhau, nhưng là một vùng đất phì nhiêu, trải rộng và tiếp nối với nhau tạo nên đất nước của chúng ta, những người con của tây phương tự do. Tạo Hóa đã ban phép lành cho vùng đất nước mầu mỡ này đủ loại sản vật để nuôi dưỡng cư dân. Những dải sông nước thuận lợi cho giao thông tạo thành một vòng đai bao bọc lấy vùng đất này. Những con sông hùng vĩ nhất thế giới đã trở thành những tuyến giao thông thuận lợi cho thương mại và sự vận chuyển hàng hóa. Tôi cũng vui mừng nhận thấy rằng Tạo Hóa đã ban cho đất nước này cho một dân tộc đoàn kết - một dân tộc có cùng tổ tiên, được kết hợp bởi một ngôn ngữ chung, có cùng một tín ngưỡng, và cùng hướng về một nguyên tắc tổ chức chính quyền, với những phong tục tập quán giống nhau. Họ đã cùng chung sức chiến đấu sát cánh bên nhau trong một cuộc chiến tranh đẫm máu để xây dựng tự do và độc lập.
Dường như đất nước này đã được Tạo Hóa dành cho người dân Mỹ. Dường như di sản này đã được  Tạo Hóa trù định như vậy và dành cho khối dân tộc anh em được gắn bó với nhau bằng những sợi dây vững chắc nhất. Họ không nên tự phân ra thành những cộng đồng chia rẽ, chống phá và biệt lập với nhau. Cho đến thời gian gần đây, tất cả mọi người - mọi tầng lớp người dân chúng ta - đều đồng lòng là phải duy trì sự đoàn kết.
Chúng ta đã hành động như một dân tộc. Mỗi người công dân chúng ta ở khắp mọi nơi đều được hưởng dụng những quyền công dân đồng đều, và cùng được bảo vệ và hưởng thụ những quyền lợi đồng đều. Như một quốc gia đoàn kết, chúng ta đã cùng chiến đấu và đạt được hòa bình. Như một quốc gia, chúng ta đã tạo được những liên minh, kết ước và thỏa hiệp với các nước ngoài.
Từ rất sớm, quốc dân đã thiết lập được một chính phủ liên bang để bảo vệ và duy trì những giá trị và đặc quyền của sự thống nhất. Người dân đã thực hiện được sự thống nhất đó ngay từ những buổi đầu của sinh hoạt chính trị, từ khi mà nhà của họ vẫn còn đang rực cháy, và máu người dân đang phải đổ ra. Tuy nhiên, khói lửa chiến tranh và sự tàn phá không tạo được một trạng thái thích hợp cho những suy tư chín chắn và trưởng thành cần thiết cho việc thiết lập một chính quyền khôn ngoan và công bằng cho một dân tộc yêu chuộng tự do. Vì lẽ đó, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi mà một chính quyền được thiết lập trong những điều kiện và trong thời điểm nói trên nay đã tỏ ra không hữu hiệu và bất lực.
Dân tộc này vốn thông minh sáng suốt đã nhận thấy rằng chính quyền đó không có đủ khả năng và sự hữu hiệu để đáp ứng những yêu cầu đã được đề ra cho nó. Dù tiếp tục gắn bó với sự thống nhất và yêu chuộng tự do, họ cũng nhận thấy rằng sự thống nhất đang bị đe dọa bởi một mối nguy cơ có tiềm năng hủy hoại tự do. Vì họ ý thức được rằng cả hai - nền thống nhất và tự do - chỉ có thể được bảo vệ trong khuôn khổ một chính quyền trung ương được thiết lập một cách khôn ngoan hơn, cho nên, một Hội nghị tại Philadelphia đã được triệu tập để thảo luận về vấn đề trọng đại này.
Những đại biểu có mặt tại Hội nghị là những người đã được sự tín nhiệm của dân chúng. Nhiều vị đến tham dự đã được vinh danh về lòng ái quốc của họ, về đức độ và sự khôn ngoan mà họ đã chứng tỏ trong những giai đoạn đầy thử thách khó khăn nhất của đất nước. Hội nghị đã nỗ lực thực hiện thiên chức được trao phó. Trong khung cảnh hòa bình, bằng những khối óc không bị chi phối bởi những lo nghĩ khác, họ đã trải qua nhiều tháng ngày để bàn thảo và nghị luận với nhau trong một bầu không khí hòa nhã. Cuối cùng, qua những cuộc nghị luận không bị chi phối bởi một quyền lực hay áp lực nào, ngoại trừ mối ưu tư mà họ dành cho đất nước, những đại biểu này đã đồng tâm hiệp lực thực hiện được một phương án mà họ đề nghị với người dân - bản Dự thảo Hiến pháp.
Phương án này được xác nhận chỉ là một đề nghị chứ không phải là một sự áp đặt. Tuy nhiên xin hãy lưu ý, bản dự thảo này không được đề ra như là một phương án cần được chấp nhận, hay bị gạt bỏ, một cách mù quáng. Ngược lại, phương án này được đưa ra để được thảo luận một cách trầm tĩnh và với thái độ cởi mở thích ứng với tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, như đã được nhấn mạnh trước đây, đó là một điều ước muốn nhiều hơn là một điều trông đợi. Kinh nghiệm trước đây cho chúng ta thấy rằng không nên có một thái độ quá lạc quan. Hãy nhớ lại những việc đã xẩy ra vào năm 1774. Vào lúc đó, người dân  Mỹ nghĩ một cách đúng đắn rằng họ đang phải đối phó với một mối nguy cơ trước mắt. Họ đã triệu tập một Quốc Hội vào năm 1774. Cơ cấu này đã đề xuất một số biện pháp mà sau đó đã được chứng tỏ là rất khôn ngoan. Tuy nhiên vào ngay thời điểm đó, báo chí đương thời cũng đã có phản ứng chống đối qua những bích chương và khẩu hiệu phản đối mãnh liệt trên mặt báo. Rất nhiều lời kêu gọi từ nhiều phía quần chúng đã liên tục đòi hỏi phải bãi bỏ những biện pháp do Hội nghị những người ái quốc này đề ra. Nhiều đại biểu quần chúng đã ngả theo áp lực của những nhóm quyền lợi riêng tư. Nhiều người đã có những tiên đoán sai lầm về hậu quả của những biện pháp đề ra. Nhiều người đã bị lôi cuốn bởi những quyền lợi cá nhân phe nhóm, hoặc giả còn nuôi dưỡng những tham vọng và mục tiêu không phù hợp với lợi ích chung. Mặc dầu có một số người đã bị lôi cuốn theo, đa số quần chúng đã suy nghĩ chín chắn và quyết định sáng suốt. Sau này nhìn lại, họ đã thấy rằng mình đã quyết định đúng.
Những người đó đã kết luận rằng Quốc Hội 1774 gồm những người giầu kinh nghiệm và khôn ngoan. Họ đến từ nhiều miền đất nước để đóng góp những thông tin và kinh nghiệm quý giá. Trong khi cùng nhau thảo luận về những quyền lợi trọng đại của đất nước, họ đã thâu thập được nhiều kiến thức chính xác về những vấn đề được bàn luận. Mỗi người đại biểu đã tỏ ra gắn bó với quyền tự do và sự phú cường của tập thể. Và vì những lý do đó, họ đã quan niệm rằng bổn phận và trách nhiệm của họ đòi hỏi họ phải đề nghị, sau khi đã bàn thảo cặn kẽ vấn đề, những ý kiến thận trọng và thích hợp nhất.
Những sự cân nhắc này đã thuyết phục quần chúng tin tưởng vào sự phán đoán và sự liêm chính của Quốc Hội, và chấp nhận những đề nghị do Quốc Hội đề ra, mặc dầu có rất nhiều những nỗ lực và xảo thuật được đưa ra để ngăn cản. Nhưng nếu toàn thể dân chúng đã tin tưởng vào các đại biểu của mình, dù rằng không ít người chưa từng kinh qua những thử thách và chưa được nhiều người biết đến vào lúc đó, thì ngày nay, người dân lại càng có nhiều lý do hơn để tin tưởng những gì mà Hội nghị đề ra, vì Hội nghị gồm có một số những thành viên xuất sắc nhất của Quốc Hội, những người mà nay đã kinh qua thử thách và lòng ái quốc và khả năng của họ đã được cả nước công nhận, và cả những bậc lão thành về chính trị. Tất cả những vị này đã tích hợp được kiến thức và kinh nghiệm chính trị để đóng góp trong Hội nghị.
Tất cả mọi hội nghị, kể cả Hội nghị Lập hiến vừa qua, đã cùng hợp ý với người dân trong quan niệm cho rằng sự thống nhất là điều kiện đem đến sự phú cường cho nước Mỹ. Củng cố và duy trì sự thống nhất là mục tiêu của người dân khi triệu tập hội nghị để soạn thảo Hiến Pháp được đề ra để người dân phê chuẩn. Bởi lẽ đó, đâu là sự thích đáng và những nguyên do đích thực đằng sau những nỗ lực đương thời để làm suy giảm tầm quan trọng của sự thống nhất? Tại sao lại có đề nghị thiết lập ba hay bốn liên hiệp các tiểu bang như là một giải pháp tốt hơn là nếu chỉ có một? Tôi tin tưởng rằng người dân vẫn luôn luôn suy nghĩ đúng đắn về vấn đề này. Sự gắn bó phổ quát và đồng nhất của người dân đối với một liên bang duy nhất được dựa trên một căn bản rộng lớn và những lý do xác đáng. Tôi sẽ phân tích và trình bầy những lý do đó trong những bài tham luận tiếp theo. Những người cổ võ cho việc thay thế một liên bang duy nhất như Hội nghị Lập hiến đã đề nghị, bằng cách thiết lập một số liên hiệp tiểu bang riêng rẽ, đều ý thức được rằng làm như vậy sẽ đưa đến việc phá hủy sự thống nhất hiện hữu. Tôi thành tâm ước mong rằng mỗi người dân ý thức được rằng, nếu nền thống nhất bị giải tán, nước Mỹ sẽ có lý do để tuyên bố, theo lời của một thi sĩ, rằng "Xin Vĩnh Biệt và Chia Tay Mãi mãi Tổ quốc Cao quý của Tôi." 


Luận về Những Nguy cơ từ các Thế Lực Ngoại Bang
(Tiếp theo)
John Jay
Dân tộc của bất cứ một quốc gia nào (nếu họ cũng sáng suốt và có đầy đủ thông tin như người dân Mỹ) ít khi nào có những quan điểm sai lầm về quyền lợi của mình, và liên tục bảo vệ những quan điểm đó trong nhiều năm trời. Điều này giải thích tại sao người dân Mỹ vẫn ý thức được rằng cần phải triệt để duy trì sự thống nhất lãnh thổ dưới một chính phủ liên bang, với đầy đủ quyền hạn để đáp ứng những yêu cầu của quốc gia.
Càng để tâm nghiên cứu và suy ngẫm về những lý do đưa đến lập trường này, tôi càng tin tưởng rằng những lý do đó chính đáng và có tính thuyết phục.
Một dân tộc khôn ngoan và tự do cần phải chú tâm vào nhiều mục tiêu, trong đó nhu cầu bảo vệ an ninh là mục tiêu hàng đầu. Tất nhiên, ý niệm an ninh liên hệ đến nhiều hoàn cảnh và những sự cân nhắc khác nhau, và qua đó, cho phép người dân có một tầm nhìn rộng lớn để định nghĩa an ninh một cách chính xác và toàn diện.
Ở đây, tôi sẽ thảo luận về an ninh trên khía cạnh duy trì hòa bình và sự yên bình chống lại những nguy cơ xâm lược võ trang và bành trướng ảnh hưởng phát xuất từ các nước ngoài, cũng như những mối nguy cơ tương tự phát xuất từ những nguồn gốc nội tại. Vì nguy cơ về những đe dọa phát xuất từ các nước ngoài, theo thứ tự là những nguy cơ đầu tiên,  cho nên, đe dọa loại này cần được thảo luận trước tiên. Chúng ta sẽ xem người dân có nhận định đúng không khi họ nói rằng một lãnh thổ thống nhất dưới một chính phủ quốc gia mạnh, là một bảo đảm vững chắc nhất cho nền an ninh chống lại những mưu đồ xâm lược đến từ bên ngoài.
Số lượng những cuộc chiến trên thế giới luôn luôn tương ứng với số lượng cũng như tầm quan trọng của những nguyên do gây chiến, dầu cho đó là những nguyên nhân thật hay chỉ là những cái cớ. Nếu nhận định trên đây xác đáng, thì cần phải tự hỏi liệu một nước Mỹ Thống nhất và một nước Mỹ Không thống nhất nước nào có nhiều lý do chính đáng để gây chiến hơn. Nếu kiểm nhận thấy rằng một nước Mỹ Thống Nhất sẽ có ít nguyên do gây chiến hơn thì phải kết luận rằng một sự thống nhất lãnh thổ sẽ có chiều hướng duy trì hòa bình với các nước khác.
Thông thường, những nguyên do chính đáng để gây chiến phát xuất từ tình trạng vi phạm hiệp ước hay từ đường lối bạo lực trực tiếp tấn công hay xâm chiếm. Hiện nay, Mỹ đã ký kết hiệp ước với sáu nước. Ngoại trừ Prussia, tất cả các nước này đều là cường quốc hải quân và đều có thể phá rối và tấn công chúng ta. Chúng ta có rất nhiều trao đổi ngoại thương với Portugal, Spain và Britain. Thêm vào đó, hai nước sau cùng này còn có lãnh thổ kế cận với chúng ta.
Muốn duy trì hòa bình lãnh thổ, Mỹ phải tôn trọng luật pháp quốc tế trong quan hệ với các nước nói trên. Vì nhiều lý do, điều quan yếu, theo ý tôi, là sự tuân thủ luật pháp đó cần phải được hành xử nghiêm minh và chính xác bởi một chính quyền quốc gia duy nhất, hơn là bởi những chính quyền riêng rẽ của mười ba quốc gia biệt lập, hay là bởi ba bốn liên hiệp tiểu bang riêng rẽ.
Bởi lẽ, khi một chính quyền quốc gia hữu hiệu đã được thiết lập, những cá nhân xuất xắc nhất trong nước, không những sẽ tự nguyện phục vụ, mà trong nhiều trường hợp, cũng sẽ được bổ nhiệm để điều hành cơ cấu chính quyền. Một thành phố hay một quận lỵ sẽ có khả năng chỉ định những người lên phục vụ tai các hội đồng tiểu bang, thượng viện, tòa án hay các cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, để phục vụ chính quyền quốc gia cần những người có uy tín và tài năng và việc lựa chọn được những nhân tài này trong phạm vi cả nước không phải là một điều khó khăn như đã từng xảy ra tại một số tiểu bang. Như vậy, việc điều hành guồng máy chính quyền, những hội đồng tư vấn chính trị, các phán quyết tư pháp của chính quyền quốc gia thống nhất sẽ được sáng suốt hơn, có hệ thống và hợp lý hơn, và từ đó, những giải pháp nói trên sẽ đáp ứng được sự trông đợi của chính quyền các nước ngoài, hơn là những quyết định phát xuất từ một tiểu bang riêng biệt. Do đó, một nước thống nhất sẽ trở nên an ninh hơn đối với những nước khác, cũng như sẽ yên bình hơn về mặt đối nội.
Dưới một chính quyền quốc gia, các hiệp ước, luật pháp các quốc gia sẽ luôn luôn được giải thích và thi hành theo một chiều hướng đồng nhất. Trong khi đó, nếu mười ba tiểu bang, hay ba bốn liên hiệp tiểu bang phân tích những văn bản luật pháp này thì không thể tránh được những sự khác biệt và mâu thuẫn trong sự giải thích và áp dụng luật. Những cơ cấu chính quyền khác biệt và độc lập, với những hệ thống tòa án và thẩm phán khác biệt, sẽ bị ảnh hưởng bởi những luật lệ và quyền lợi khác biệt. Vì lẽ đó, sự khôn ngoan của hội nghị đã được thể hiện qua quyết định trao trọng trách giải thích luật pháp và xét xử cho một hệ thống tòa án do một cơ cấu chính quyền quốc gia duy nhất bổ nhiệm, và phải trực tiếp chịu trách nhiệm với cơ cấu chính quyền quốc gia đó. Sự khôn ngoan đó cần phải được tuyên dương đúng mức.
Những người cầm quyền tại vài tiểu bang có thể bị thúc đẩy bởi một quyền lợi hay một sự mất mát trước mắt để đi chệch hướng và không giữ được sự thành tín hay công bằng. [Nhưng] những sự cám dỗ có tính chất địa phương đó sẽ không có, hay có ít, ảnh hưởng đối với một chính quyền quốc gia. Và như vậy sẽ giúp bảo tồn được nền công lý và sự thành tín. Hiệp ước hòa bình với Anh Quốc là một trường hợp điển hình.
Những sự cám dỗ thường là do những hoàn cảnh cá biệt của từng tiểu bang và có thể tác động đến tâm lý của người dân trong tiểu bang đó. Vì thế cho nên, không phải lúc nào một chính quyền địa phương cũng sẽ có khả năng, như ý muốn, để ngăn cản những mưu toan bất chính, hay để trừng phạt những kẻ chủ mưu. Trong khi đó, vì không bị chi phối bởi những hoàn cảnh địa phương, những giới chức chính quyền quốc gia sẽ không bị hoàn cảnh thúc đẩy để có hành động sai trái, hay là không có đủ  quyền lực để, hoặc ngăn chặn, hay trừng phạt người khác phạm những lỗi đó.
Cho đến nay, chính vì sự vi phạm hiệp ước hay luật lệ các quốc gia, dầu cố ý hay vô tình, là nguyên nhân chính đáng đưa đến chiến tranh giữa các nước, cho nên trường hợp này sẽ ít khi xẩy ra đối với một chính quyền chung, hơn là đối với nhiều chính quyền có tầm cỡ nhỏ hơn.
Còn đối với trường hợp chiến tranh chính đáng gây ra do các hành vi bạo lực phi pháp và trực tiếp tấn công đến đất nước chúng ta, tôi thấy một cách hiển nhiên, là một chính quyền quốc gia tốt có nhiều khả năng bảo vệ an ninh chống lại nguy cơ đó hơn là từ các tiểu bang.
Những hành vi bạo lực thường được gây ra bởi xúc cảm quá độ hay quyền lợi của từng bộ phận riêng rẽ chứ không phát xuất từ tập thể, của chỉ một hoặc hai tiểu bang chứ không phát xuất từ Liên bang. Chưa hề có một cuộc chiến nào với thổ dân Da Đỏ do chính quyền Liên bang hiện hữu, dù rất yếu đuối, gây ra; nhưng có rất nhiều trường hợp sự thù nghịch của người Da Đỏ đã bị khơi động vì những hành vi sai trái của vài tiểu bang riêng rẽ; những tiểu bang này đã hoặc là dung túng hoặc là không đủ khả năng để trừng phạt những kẻ làm bậy, và đưa đến kết quả là việc thảm sát nhiều cư dân vô tội.
Khu vực lân cận với những lãnh thổ của Spain và Britain giáp ranh với một vài tiểu bang, những việc xích mích, do đó, thường chỉ xảy ra ở những tiểu bang giáp ranh và giới hạn trong khu vực này mà thôi. Những tranh chấp dẫn đến xung đột bạo lực, nếu có, thường là do cảm giác bị  xúc phạm, hay bị tổn thương hay vì một mối lợi nào đó mà tạo nên chiến tranh với hai nước này. Không có một thực thể nào có thể ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh trong trường hợp này hữu hiệu hơn là một chính quyền quốc gia mà sự cẩn trọng và khôn ngoan sẽ không bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc và quyền lợi của những phe liên hệ. Không những một chính quyền quốc gia sẽ ít khi gây ra những cuộc chiến tranh chính đáng, mà còn có nhiều quyền lực hơn để giải quyết những tranh chấp này trong tình hữu nghị. Một chính quyền quốc gia còn điềm tĩnh và hòa nhã hơn, và với những đặc tính đó, sẽ có nhiều khả năng hơn để hành động khôn ngoan hơn là những chính quyền địa phương của từng tiểu bang.
Do thái độ tự kiêu của các tiểu bang, cũng như của từng con người, khuynh hướng tự nhiên là tìm cách biện minh cho hành động của mình, và không thừa nhận đã có những hành động sai trái, để sửa sai những hành vi đó. Một chính quyền quốc gia sẽ không bị ảnh hưởng bởi thái độ kiêu hãnh loại này, do đó, sẽ hoạt động một cách cẩn trọng và điềm tĩnh để suy xét và lấy quyết định chọn những biện pháp thích hợp để giải quyết những hoàn cảnh khó khăn và đầy nguy hiểm.
Ngoài ra, một chính quyền quốc gia hợp quần và mạnh sẽ dễ thành công trong những cuộc điều đình thương lượng bồi thường hơn là một chính quyền địa phương nhỏ và yếu. Đối phương thường dễ chấp nhận những giải pháp bồi thường và hòa giải nếu do một chính quyền quốc gia đề xuất, trong khi đó, cũng chính những giải pháp hòa giải này lại có thể bị bác bỏ nếu do một chính quyền tiểu bang, hay một liên hiệp tiểu bang nhỏ và có ít quyền lực đề xuất.
Vào năm 1685, tiểu quốc Genoa, sau khi xúc phạm Hoàng đế Louis XIV, đã phải nỗ lực giảng hòa với Hoàng đế Pháp. Vị vua này đòi Genoa phải cử vị Trưởng Viện Pháp Lý (Doge) cùng với bốn đại biểu Thượng Viện Dân Cử (Cenate) sang Pháp quốc để chịu lỗi và tiếp nhận những điều kiện cầu hòa. Tiểu quốc Genoa đã phải chấp thuận đòi hỏi đó để cầu hòa. Liệu vị quân vương Pháp quốc này có thể ép buộc được Đế quốc Tây ban nha hay Anh quốc, hoặc bất cứ một quốc gia cường mạnh nào khác, chấp nhận những hình thức hạ nhục tương tự hay không?
PUBLIUS 
 uận về Những Nguy cơ từ các Thế Lực Ngoại Bang
(Tiếp theo)
John Jay
Trong bài tham luận trước, tôi đã trình bầy một số luận cứ chứng minh tại sao một liên bang thống nhất là một cơ cấu hữu hiệu để bảo đảm an ninh chống lại mối đe dọa chiến tranh do ngoại quốc phát động vì nguyên do chính đáng.[1] Những luận cứ này đã chứng minh là một liên bang thống nhất sẽ giảm thiểu được những nguyên do gây chiến, những mâu thuẫn nếu có, cũng dễ được giải quyết ổn thỏa bởi một chính quyền quốc gia hơn là bởi những chính quyền tiểu bang, hay là bởi những chính quyền liên hiệp tiểu bang như đã được đề nghị.
Nền an ninh của nhân dân Mỹ không những tùy thuộc vào khả năng loại bỏ các điều kiện để nước ngoài gây chiến với ta bằng những nguyên do chính đáng, mà còn ở chỗ không tự đặt mình vào những trường hợp có thể gây nên tình trạng thù địch hoặc bị các nước khác hạ nhục. Cần phải lưu ý rằng những nguyên do gây chiến tranh còn gồm có cả những nguyên do chính đáng cũng như những nguyên do giả tạo được vận dụng ra để gây chiến.
Ta cũng phải công nhận một sự thật hiển nhiên, dù khá phũ phàng, là từ bản chất của con người, các nước sẵn sàng đánh nhau nếu thấy được khả năng thủ lợi qua cuộc chiến. Thật ra, những ông vua chuyên chính thường tuyên chiến ngay cả trong những trường hợp không thấy được lợi ích của cuộc chiến cho vương quốc của mình mà chỉ vì những mục tiêu cá nhân như lòng khao khát danh vọng quân sự, sự trả thù về những mối nhục cá nhân, lòng tham vọng, hoặc những cam kết tư thông để bành trướng thế lực, cũng như là để hỗ trợ cho những liên hệ gia đình hay phe phái. Những ý đồ nói trên, cộng với một số ý đồ khác thuộc suy tư thầm kín sẽ thúc đẩy ông vua đó gây nên những cuộc chiến tranh không được biện minh bởi nhu cầu công lý hay quyền lợi của người dân. Những ý đồ này cần phải được chúng ta lưu ý. Tuy nhiên, ngoài những ý đồ của các ông vua như đã nêu trên, cũng còn nhiều yếu tố thúc đẩy khác cũng tạo ảnh hưởng đến nền an nguy của đất nước. Một số yếu tố này phát xuất từ những điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.
Pháp và Anh Quốc là hai nước chuyên cạnh tranh với chúng ta về ngư nghiệp. Chúng ta có thể cung cấp hải sản cho họ với giá cả rẻ hơn họ có thể cung cấp cho nhau, mặc dầu họ cũng có những cố gắng của họ để cạnh tranh bằng những nguồn cung cấp của chính họ, và bằng cách đánh thuế trên hải sản do nước ngoài cung cấp.
Chúng ta là đối thủ của hai nước này cũng như các nước Âu châu khác trong lãnh vực hoạt động hàng hải và chuyển vận đường biển; chúng ta sẽ tự lừa dối mình nếu nghĩ rằng họ vui mừng về những thành quả phồn thịnh của chúng ta. Vì lẽ sự gia tăng hoạt động kỹ nghệ hàng hải của chúng ta sẽ ảnh hưởng tiêu cực vào những hoạt động tương tự của họ, vì vậy, quyền lợi của họ đòi hỏi họ phải ngăn cản, thay vì hỗ trợ, hoạt động giao thương của chúng ta.
Hoạt động giao thương của chúng ta với Trung quốc và Ấn độ xen lấn vào hoạt động ngoại thương của nhiều quốc gia, vì lẽ những hoạt động thương mại của chúng ta đã xâm nhập vào những hoạt động mà trước đây họ vẫn coi là thuộc lãnh vực độc quyền của họ, do việc chúng ta đã tự cung cấp lấy những hàng hóa mà trước đây chúng ta đã phải mua của họ.
Sự tăng trưởng của hoạt động ngoại thương của chúng ta trên những thương thuyền do chúng ta sở hữu không thể làm vừa lòng bất cứ một nước nào có chủ quyền trên những lãnh thổ ở trên, hay ở gần, lục địa này. Sản phẩm của chúng ta có chất lượng cao và giá rẻ. Địa thế thuận lợi của chúng ta đã giúp cho những thương gia và ngành hàng hải của chúng ta có nhũng lợi thế tại các lãnh thổ này, ở một mức độ cao hơn, so với sự mong muốn và chủ trương của những nước Âu châu.
Một mặt, Tây ban nha đã nghĩ rằng sẽ có lợi hơn nếu quyết định không cho ta qua bờ sông Mississippi nằm trong quyền kiểm soát của họ. Trong khi đó, Anh quốc ngăn chặn sự có mặt của chúng ta tại lưu vực sông Saint Lawrence. Cả hai nước này đều ngăn cấm chúng ta sử dụng những tuyến sông giữa lãnh thổ của hai nước và lãnh thổ của chúng ta để nối liền giao thương và vận chuyển hàng hóa.
Qua những hành động đó, chúng ta rất dễ hiểu được thái độ ganh đua và không thoải mái ngày càng gia tăng trong nội bộ chính quyền của các nước đó đối với chúng ta. Chúng ta cũng không thể mong mỏi rằng họ sẽ có thể có thái độ vô tư và tự chế để nhìn những thành công thương mại và sự phú cường của chúng ta, cũng như sự hợp quần và gia tăng quyền lực của chúng ta, trên đất liền cũng như trên biển cả.
Người dân Mỹ hiểu rằng tình trạng đó sẽ có triển vọng dẫn tới chiến tranh, cùng với một số nguyên nhân khác, hiện nay chưa rõ rệt. Một khi những nguyên nhân nói trên có cơ hội bùng phát, sẽ không thiếu gì lý cớ được đặt ra để biện minh cho việc phát động bạo lực. Vì những lý do đó, sự hợp quần và một chính quyền quốc gia tốt là những điều kiện cần thiết để có thể ngăn chặn, thay vì khuyến khích chiến tranh. Một thế phòng thủ hữu hiệu nhất tùy thuộc vào tiềm năng của chính quyền, vũ khí và tài nguyên của quốc gia.
Vì nền an ninh của tập thể là quyền lợi của tập thể. Nền an ninh đó không thể được bảo đảm nếu không có chính quyền, dù một hay nhiều chính quyền. Trong bối cảnh đó, liệu một chính quyền duy nhất có hữu hiệu hơn một số nhiều chính quyền hay không.
Một chính quyền duy nhất có khả năng vận dụng tài năng và kinh nghiệm của những cá nhân xuất sắc nhất, dầu cho họ ở đâu trong một lãnh thổ thống nhất. Một chính quyền duy nhất sẽ có thể thiết lập, và hành động theo những nguyên tắc và chính sách thuần nhất. Một chính quyền duy nhất có thể dung hòa, hội nhập và bảo vệ các đơn vị của tập thể, và phát triển những lợi ích của khả năng tiên liệu và bảo vệ cho từng đơn vị lãnh thổ. Khi soạn thảo hiệp ước, một chính quyền quốc gia sẽ lưu tâm đến quyền lợi của tập thể cũng như quyền lợi cá biệt của từng đơn vị lãnh thổ trong tập thể. Chính quyền này có thể dễ dàng và nhanh chóng vận dụng phương tiện và quyền lực của tập thể để bảo vệ một phần lãnh thổ trong tập thể hơn là để cho chính quyền của một đơn vị cá lẻ hay một liên hiệp tiểu bang riêng rẽ, vì những cơ cấu này sẽ thiếu vắng sự hợp quần của hệ thống. Lực lượng quân sự địa phương sẽ được điều động bằng một hệ thống chỉ huy hợp nhất với một tập hợp chỉ huy đặt dưới quyền một tổng tư lệnh, và như vậy, có thể biến nó thành một tập thể quân sự phối hợp, hữu hiệu hơn là mười ba tổ chức quân đội cấp tiểu bang, hoặc ba hay bốn tổ chức quân đội cấp liên hiệp tiểu bang riêng rẽ.
Thử hình dung lực lượng quân sự của Vương quốc Anh sẽ ra sao nếu quân đội Anh Quốc chỉ tuân theo lệnh của chính phủ Anh, quân đội Scotch chỉ tuân lệnh chính phủ Scotland, và quân đội Welsh chỉ nghe lệnh của chính phủ Wales? Nếu bị xâm lược, ba chính quyền đó sẽ phải đối phó ra sao (ngay như trong trường hợp cả ba chính phủ này có thể đồng lòng với nhau) liệu cả ba chính quyền này có khả năng điều động lực lượng chống lại kẻ thù một cách hữu hiệu như trong trường hợp chỉ có một chính quyền Anh Quốc duy nhất hay không?
Sức mạnh của hải quân của Anh Quốc đã được nhiều nước biết đến. Với thời gian, nếu chúng ta đủ sự khôn ngoan, lực lượng hải quân Mỹ cũng sẽ được thế giới chú tâm. Tuy nhiên nếu chính quyền quốc gia của Anh Quốc không quy định được hoạt động hàng hải, biến nó thành một cái nôi đào tạo thủy quân - nếu không có một chính quyền quốc gia vận dụng phương tiện và tài nguyên của quốc gia để thành lập những hạm đội đó - thì những thành quả và uy lực của nó sẽ không được tán tụng như hôm nay. Hãy để cho Anh Quốc sở hữu những hạm đội của họ - hãy để cho Scotland sở hữu những hạm đội của họ - hãy để cho Wales sở hữu những hạm đội của họ - hãy để cho Ireland sở hữu những hạm đội của họ - hãy để cho bốn thực thể của Đế quốc Anh Hoàng nói trên đặt trực thuộc quyền điều động của bốn chính quyền biệt lập, chúng ta sẽ có thể thấy ngay là cả bốn thực thể đó sẽ nhanh chóng tàn lụi vào một vị thế không đáng lưu tâm.
Hãy áp dụng những sự kiện nói trên trong trường hợp của chúng ta. Hãy chia nước Mỹ thành mười ba, hay là, nếu quý vị muốn, thành ba hay bốn liên hiệp tiểu bang biệt lập với nhau. Thử hỏi những thực thể riêng biệt đó sẽ huy động và nuôi được những quân đội như thế nào? Họ sẽ có thể hy vọng thành lập được những hạm đội như thế nào? Nếu một lực lượng bị tấn công, liệu những lực lượng khác có xông đến tiếp trợ, đổ máu và tiền của mình để bảo vệ kẻ bị tấn công hay không? Hay là nhũng thế lực ngoại bang lại có thể ve vãn và thuyết phục những liên hiệp tiểu bang riêng biệt này đứng trung lập bằng những lời hứa hẹn hòa bình để khiến cho họ lo ngại cho nền an ninh và hòa bình của bản thân và bỏ mặc nước láng giềng bị đe dọa - những nước láng giềng mà, rất có thể, sự thành công của những nước này khiến họ ganh ghét và muốn thấy bị tiêu vong. Mặc dầu thái độ đó thiếu khôn ngoan, nhưng đó là một thái độ bình thường. Lịch sử Hy lạp và một số nước khác cũng có nhiều trường hợp tương tự. Và trong những hoàn cảnh tương tự, những trường hợp này có lẽ cũng sẽ còn xẩy ra.
Hãy đặt giả thiết những tiểu bang lân bang sẵn sàng đến cứu giúp tiểu bang hay liên hiệp tiểu bang bị xâm lược. Cách thức, thời điểm và phương tiện tiếp trợ nào sẽ định đoạt tỷ lệ tài chính và nhân lực mỗi đơn vị phải đóng góp? Ai sẽ là người chỉ huy lực lượng đồng minh? Ai sẽ là người định đoạt những điều kiện chấm dứt chiến tranh? Nếu xẩy ra tranh chấp, ai sẽ là người làm trọng tài và áp đặt giải pháp? Tình hình sẽ trở nên khó khăn và phức tạp do sự nẩy sinh của những vấn đề nói trên. Trong trường hợp chỉ có một chính quyền duy nhất, chính quyền này sẽ có thể kiểm soát được quyền lợi chung của tập thể, huy động được quyền lực và phương tiện của tập thể, sẽ không phải đương đầu với những vấn đề nói trên và bảo đảm được một mức độ an ninh cao hơn cho quần chúng.
Dầu cho chúng ta ở trong trường hợp nào đi nữa - một chính quyền quốc gia duy nhất hay nhiều liên hiệp tiểu bang riêng rẽ - điều chắc chắn là những thế lực ngoại bang sẽ nắm vững được tình hình của chúng ta và sẽ có lối hành xử thích nghi. Nếu họ thấy rằng chính quyền quốc gia của chúng ta hữu hiệu và được điều hành tốt đẹp, nền ngoại thương của chúng ta được quy định đúng đắn và cẩn trọng, lực lượng quân sự của chúng ta được tổ chức hữu hiệu và có kỷ luật, những tài nguyên và nguồn tài chính của chúng ta được quản lý kín đáo, thế tín dụng của chúng ta được phục hồi, dân chúng của chúng ta được tự do, sống thỏa mãn và đoàn kết, thì những nước ngoài sẽ tỏ ra sẵn sàng hơn để phát triển mối liên hệ hữu nghị với chúng ta hơn là khiêu khích sự bất hòa với chúng ta. Mặt khác, nếu nước ngoài nhận thấy rằng chính quyền của chúng ta thiếu hữu hiệu (từng tiểu bang hoạt động riêng rẽ, dầu đúng hay sai, tùy thuộc vào ý muốn của người lãnh đạo) hay là bị chia rẽ ra thành ba hay bốn liên hiệp hay cộng hòa biệt lập, mà có thể là bất hòa với nhau - hoặc có đơn vị thì nghiêng theo Anh quốc, cái thì ngả theo Pháp quốc, cái thứ ba lại ngả theo Tây ban nha, và rất có thể là bị ba đế quốc kia tìm cách xúi giục để lũng đoạn lẫn nhau - thì tình trạng đó quả sẽ cho họ nhìn nước Mỹ bằng một con mắt khinh thường! Nước Mỹ không những sẽ bị họ xem thường mà còn bị họ sỉ nhục. Một kinh nghiệm mà chúng ta đã phải trả giá rất đắt đã cho chúng ta biết rằng khi một dân tộc hay một gia đình bị chia rẽ, nhất định sẽ đưa đến thảm trạng xâu xé nội bộ.


[1] Nguyên nhân chính đáng để gây chiến giữa các quốc gia đã được đề cập tới trong Tham Luận 3. 


Luận về Những Nguy cơ từ Phía các Thế Lực Ngoại Bang
(Tiếp theo)
John Jay
Trong thông điệp đề ngày 1 tháng Bẩy, 1706 gởi Nghị viện Scotland, Nữ hoàng Anne đã đưa ra nhận xét về vai trò quan trọng của sự liên hiệp giữa Anh quốc và Scotland. Những nhận xét này đáng để cho chúng ta lưu tâm. Tôi xin được trích dẫn ở đây một vài đoạn trong bức thông điệp này: "Một nền thống nhất trọn vẹn và toàn hảo sẽ trở thành một nền tảng vững chắc cho hòa bình vĩnh cửu: nó sẽ bảo vệ tín ngưỡng, tự do và tài sản của đồng bào; loại bỏ những hiềm khích giữa quý ngài, cũng như những tranh chấp và mâu thuẫn giữa hai vương quốc chúng ta. Mối liên hiệp đó sẽ gia tăng sức mạnh, tài sản và mậu dịch của quý ngài; và cũng do mối liên hiệp đó, tất cả đảo quốc, được kết hợp lại bằng thiện cảm, và không còn phải lo âu về những khác biệt quyền lợi,  sẽ có đủ khả năng chống trả mọi kẻ thù." "Trẫm rất mong mỏi quý ngài hãy bình tâm và nhất trí trước vấn đề  trọng đại này, hầu cho nền liên hiệp có thể được thực hiện tốt đẹp, vì đó là phương thức hữu hiệu duy nhất để có thể bảo đảm phúc lợi hiện tại và tương lai của chúng ta, đồng thời, hóa giải được những ý đồ của kẻ thù chúng ta, là những kẻ chắc chắn sẽ lợi dụng cơ hội này để huy động mọi nỗ lực cản trở hay trì hoãn sự liên hiệp giữa chúng ta."
Trong bài tham luận trước, tôi có nhận định rằng, tình trạng yếu kém và chia rẽ nội bộ sẽ đưa đến những mối nguy cơ từ phía ngoài; và không có điều gì có thể bảo đảm an ninh cho chúng ta bằng một Khối Liên hiệp, sức mạnh, và một chính quyền hữu hiệu giữa chúng ta. Chủ đề này rất rộng lớn và không thể dễ dàng quán triệt được.
Nhìn chung, chúng ta am hiểu lịch sử Vương quốc Anh nhất, và do sự tiếp cận đó, chúng ta đã rút tỉa được từ đó nhiều bài học hữu ích. Chúng ta có thể rút được nhiều kinh nghiệm quý báu mà không phải trả cái giá đắt mà họ đã phải trả. Mặc dầu nhu cầu đoàn kết các dân tộc sống trên cùng một hải đảo để thành lập một quốc gia duy nhất là một điều hiển nhiên, chúng ta đã thấy rằng, trong một thời kỳ lâu dài, họ đã chia rẽ thành ba nước riêng biệt, và hầu như luôn luôn tranh chấp và đánh lẫn nhau. Dầu cho những quyền lợi chung của họ đối với các nước trên lục địa cùng giống nhau, thế nhưng, những chính sách và chủ trương, lề lối hành xử cũng như những hiềm khích của họ vẫn được nuôi dưỡng để khiến cho họ luôn phải đối đầu với nhau, và trong một thời kỳ lâu dài, họ luôn là thù địch và chống phá, thay vì tương trợ và đoàn kết với nhau.
Trong trường hợp người dân Mỹ cũng tự chia ra thành ba hay bốn quốc gia, liệu có tránh được tình trạng tương tự xẩy ra hay không? Hay là những sự hiềm khích tương tự cũng sẽ nổi lên, và cũng sẽ được nuôi dưỡng theo cùng một chiều hướng? Thay vì trở nên "đoàn kết trong thiện cảm" và không còn phải lo âu  về những khác biệt về quyền lợi," thì sự đố kỵ và lòng tham sẽ dập tắt ngọn lửa của thiện cảm và niềm tin, và những quyền lợi cục bộ của từng liên hiệp tiểu bang riêng rẽ, chứ không còn là quyền lợi chung của toàn dân Mỹ, sẽ trở thành mục tiêu độc nhất của những chủ trương và đường lối của họ. Do đó, cũng giống như những quốc gia  khác có chung biên giới, họ sẽ luôn luôn bị lôi kéo vào nhũng cuộc tranh chấp và chiến tranh, hay là sẽ phải sống trong niềm lo âu thường xuyên về những hiểm họa đó.
Những kẻ lạc quan cổ võ mạnh mẽ cho việc thiết lập ba hay bốn liên hiệp tiểu bang không thể đưa ra một luận cứ hợp lý nào để chứng tỏ rằng họ sẽ luôn luôn quân bình được lực lượng giữa các liên hiệp tiểu bang này. Và ngay trong giả thiết là họ có thể đạt được tình trạng quân bình lực lượng đó trong buổi đầu, làm sao có thể có được một phương án do con người tạo ra khả dĩ bảo đảm được tình trạng quân bình lực lượng đó  tiếp tục được duy trì? Không kể đến những yếu tố địa phương thường có khuynh hướng thúc đẩy sự phát triển sức mạnh tại một nơi, trong khi lại ngăn cản sự tăng trưởng tại nơi khác, chúng ta cần phải lưu tâm đến trường hợp mà tác động của những nỗ lực quản lý tốt cộng với những chính sách hữu hiệu, sẽ có triển vọng nâng một chính quyền vượt trội lên trên các chính quyền khác, và kết quả hiển nhiên là sẽ phá vỡ cái thế quân bình lực lượng giữa các liên hiệp tiểu bang. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta không thể giả định là tất cả các liên hiệp tiểu bang này sẽ có thể đạt được cùng một mức độ thành công bằng nhau trong việc khai triển và thực hiện những chính sách tốt, với cùng một tinh thần cẩn trọng, và với cùng một tầm viễn kiến bằng nhau trong nhiều năm liên tiếp.
Đến khi mà tình trạng mất cân bằng đó xẩy ra, mà chắc chắn là thể nào nó cũng sẽ xẩy ra, bất kể là vì một nguyên cớ nào, để đưa đến sự kiện một trong những liên hiệp tiểu bang này vượt trội trên hẳn những liên hiệp khác về ưu thế chính trị, thì lúc đó, những liên hiệp tiểu bang khác sẽ phải dòm ngó trong nỗi đố kỵ và lo sợ. Tâm trạng đó sẽ thúc đẩy họ tìm cách ngăn chặn, nếu không nói là cổ võ cho việc [áp dụng] tất cả những gì có thể hầu làm giảm được sự quan trọng của liên bang nổi bật đó; đồng thời kềm chế không để cho liên bang đó có được những biện pháp nhằm mục đích phát triển, hay để bảo đảm sự thịnh vượng của nó. Liên bang nổi trội này, chẳng bao lâu, sẽ nhận ra những khuynh hướng thiếu thiện cảm nói trên. Từ đó, nó sẽ mất dần tin tưởng vào thiện ý của những lân bang, hơn nữa, nó cũng có thể bắt đầu nuôi dưỡng mối hiềm khích đối với những lân bang: Nghi ngờ nuôi dưỡng sự nghi ngờ, và không có gì tiêu hủy thiện chí và cách cư xử tử tế nhanh chóng cho bằng những ganh ghét hay những sự đổ lỗi thiếu ngay thẳng, dù những điều này có được nói thẳng ra hay ám chỉ cũng vậy.
Nhìn chung, miền Bắc là vùng vững mạnh, và do một số điều kiện thuận lợi tại địa phương, có nhiều triển vọng là những liên hiệp tiểu bang được hình thành tại vùng cực bắc, trong một thời điểm không xa lắm, sẽ trở nên vững mạnh hơn những liên hiệp tiểu bang khác. Một khi tình trạng đó xẩy ra, những liên hiệp phía Nam sẽ nhanh chóng nuôi dưỡng những ý tưởng và cảm xúc về những liên hiệp miền Bắc, tương tự như những ý tưởng và cảm xúc của các tỉnh thuộc miền Nam Âu Châu đã từng nuôi dưỡng đối với những Tổ Ong miền Bắc Âu Châu trước đây. Cũng không hẳn là một suy nghĩ hồ đồ nếu chúng ta dự đoán rằng những đàn ong miền Bắc cũng sẽ nuôi dưỡng ý đồ chiếm đoạt mật ong tại những cánh đồng bát ngát phì nhiêu và chan hòa không khí ấm dịu của những lãnh thổ láng giềng phương Nam.
Trong quá trình những cuộc phân chia lãnh thổ và liên hiệp tiểu bang tương tự trong lịch sử, cũng đã có nhiều thí dụ cho thấy rằng việc phân chia lãnh thổ nước Mỹ ra thành nhiều liên hiệp tiểu bang sẽ không làm cho những đơn vị lãnh thổ này trở thành những nước láng giềng thân thiện, mà chỉ trở thành những nước có chung biên giới. Họ sẽ không tin tưởng và thân thiện với nhau. Ngược lại, họ sẽ trở thành đối tượng của lòng nghi kỵ, mâu thuẫn và đánh phá lẫn nhau. Tóm lại, sự phân chia này sẽ đặt chúng ta vào đúng trạng thái mà chắc chắn nhiều quốc gia mong muốn chúng ta rơi vào, có nghĩa là chỉ đáng sợ đối với nhau mà thôi.
Từ những suy luận trên, có thể thấy rằng, thật là một suy nghĩ sai lầm, cho những ai trông đợi vào sự hợp lực giữa các liên hiệp tiểu bang này để tổ chức thành những liên minh quân sự, với mục tiêu phòng thủ hay chiến đấu, có khả năng đương đầu với các lực lượng thù địch ngoại bang.
Có bao giờ những nước biệt lập phát xuất từ sự phân hóa của Anh và Tây ban nha đã có thể tụ hợp lại với nhau để chống lại một kẻ thù ngoại bang đâu? Những liên hiệp tiểu bang được đề xuất ra sẽ trở thành những quốc gia riêng biệt. Mỗi đơn vị lãnh thổ này sẽ thiết lập giao thương với ngoại bang do quy định của những hiệp ước riêng biệt; và do sự khác biệt giữa những loại sản phẩm và hàng hóa tùy theo nhu cầu của những thị trường khác nhau, những điểu khoản của từng hiệp ước cũng sẽ khác nhau. Sự khác biệt trong những yêu cầu thương mại riêng rẽ sẽ phát sinh ra những quyền lợi khác nhau, cũng như quan hệ và mối giao hảo khác nhau với các nước ngoài. Do đó, rất có thể là một nước ngoài kết ước với một liên hiệp tiểu bang phía Nam có thể tuyên chiến với một nước ngoài hiện là bạn hàng của một liên hiệp tiểu bang phía Bắc, đang muốn cố gắng duy trì và bảo vệ nền hòa bình và mối giao hảo với nước đó. Trong trường hợp đó, sẽ khó có thể kết hợp được một liên minh đi ngược lại với những quyền lợi trước mắt, và dù cho có thiết lập được điều này chăng nữa, cũng khó có thể thực hiện được những điều đã cam kết với đầy đủ thiện chí.
Nói cho đúng hơn, cũng giống như trong trường hợp đã từng xẩy ra tại Âu Châu, điều có nhiều triển vọng xẩy ra hơn cả là những nước láng giềng sẽ hành động theo sự thúc đẩy của quyền lợi đối chọi và những tình cảm bất thân thiện, và thường sẽ tự đặt mình vào những  phe đối địch. Xét về khoảng cách địa lý giữa chúng ta và Âu Châu, điều bình thường là những liên hiệp tiểu bang này sẽ đương nhiên chú tâm đến những mối đe dọa từ các lãnh thổ lân bang nhiều hơn là những mối đe dọa đến từ những nước quá xa cách. Vì vậy, các liên hiệp tiểu bang này sẽ chú trọng đến việc thiết lập những liên minh với các nước ở xa để ngăn chặn những hiểm họa đến từ các lân bang, thay vì đi tìm kiếm những liên minh giữa các liên hiệp tiểu bang với nhau để phòng thủ chống lại những mối đe dọa từ phía những nước ở xa. Và chúng ta cũng không nên quên rằng, ở đây, việc tiếp đón các hạm đội ngoại bang đến các cảng của chúng ta, và để cho các đạo quân nước ngoài vào lãnh thổ chúng ta, dễ thực hiện hơn là việc thuyết phục hay ép buộc chúng rời khỏi lãnh thổ của chúng ta. Đế quốc La Mã và những đế quốc khác đã thực hiện được biết bao nhiêu cuộc xâm chiếm lãnh thổ dưới danh nghĩa là đồng minh quân sự, và không thiếu chi cách họ đã bày ra dưới danh nghĩa đồng minh để tiến chiếm những nước mà họ viện cớ là để bảo vệ.
Như vậy, hãy để cho những người vô tư suy xét xem, liệu việc phân chia nước Mỹ ra thành một số lãnh thổ có chủ quyền có thể bảo vệ được chúng ta chống lại những hành động xâm lược và sự can thiệp không chính đáng của những lực lượng ngoại bang hay không. 

Luận về Những Nguy cơ Mâu thuẫn giữa các Tiểu bang
Alexander Hamilton
 
Cùng đồng bào tiểu bang new York:
Ba bài tham luận vừa qua đã được dành để liệt kê những nguy cơ mà chúng ta, nếu còn ở trong tình trạng phân hóa, sẽ phải đối phó với sức mạnh quân sự và âm mưu của ngoại bang. Sau đây, tôi sẽ trình bày những nguy cơ thuộc một loại khác, và, có lẽ, còn đáng sợ hơn nhiều - đó là những nguy cơ đến từ những sự bất đồng giữa chính các Tiểu bang, và từ những xung đột phe nhóm nội bộ. Trong một số trường hợp, những nguy cơ loại này cũng đã từng được tiên liệu; tuy nhiên ta cũng cần  phải phân tích và nghiên cứu kỹ càng hơn.
Kẻ nào mà còn có thể nghi ngờ rằng sự phân hóa giữa các tiểu bang, gây nên bởi sự thiếu kết hợp toàn phần hay chỉ từng phần, sẽ không tạo nên các cuộc tranh đấu bạo lực với nhau, thì kẻ đó thật là kẻ suy nghĩ vẩn vơ, không tưởng. Còn cho rằng các tiểu bang không có động cơ để tranh đấu với nhau để lập luận rằng những sự tranh cạnh như vậy không xảy ra, thì cũng đã quên mất rằng bản chất con người là ham muốn danh vọng, sân hận, và tham lam của cải. Còn nếu mà cứ muốn tìm một sự hài hòa liên tục giữa một số các nước độc lập nhưng không có liên hệ gì với nhau, lại cùng ở trên một lãnh thổ, tức là đã coi thường tiến trình không thay đổi trong sinh hoạt của loài người, và thách thức túi khôn của nhân loại đã được tích lũy qua thời gian.
Có rất nhiều lý do gây chiến giữa các quốc gia. Có những lý do đã trở thành gần như là hệ quả tất nhiên của quan hệ giữa một tập thể các đơn vị trong xã hội. Những  lý do này gồm có lòng yêu chuộng quyền thế, hay là lòng ham muốn lấn át  và thống trị người khác hay lòng ganh ghét quyền lực, hoặc sự khát khao có sự bình đẳng và an ninh. Có nhiều lý do khác với những động lực giới hạn hơn, nhưng cũng có tác dụng tương tự trong phạm vi giới hạn đó. Đó là những tranh chấp và cạnh tranh thương mại giữa các nước với nhau. Cũng còn có những lý do khác, cũng không kém hơn những loại lý do trên, và đều phát xuất từ những động lực cá nhân; từ những mối ràng buộc, thù hận, quyền lợi, hy vọng hay lo sợ của những người lãnh đạo trong những cộng đồng riêng biệt của họ. Những người loại này, dù được vua chúa hay nhân dân tin cậy, đều có cơ hội để lợi dụng lòng tin mà họ đã được trao cho; và giả danh vì lợi ích chung, họ chẳng ngần ngại gì mà chẳng hy sinh sự yên ổn của quốc gia cho lòng tham và tư lợi.
Đó là trường hợp nhà lãnh đạo nổi tiếng Pericles, vì nghe theo sự bất mãn của một kỹ nữ,[1] đã tiêu tốn xương máu và tiền bạc của quốc gia, để tiến đánh và tiêu diệt thị quốc Samoa. Đó cũng là người, vì tự ái bị tổn thương đã tiến đánh Megara,[2] một nước nằm trong lãnh thổ Hy Lạp; đó cũng là người bị cáo buộc đồng lõa với Phidias để ăn chặn số vàng dùng để tạc tượng nữ thần Minerva,[3] và dùng tiền của công quỹ mua chuộc lòng dân, và còn nhiều tội lỗi khác cộng lại. Chính người đó là tác giả của cuộc chiến nổi tiếng và đẫm máu được ghi lại trong sử sách Hy Lạp bằng cái tên Cuộc chiến Peloponnesia, một cuộc chiến dây dưa, lúc thua lúc được và đưa đến kết quả là sự sụp đổ của quốc gia Athena.
Đó cũng là trường hợp của Thomas Wolsey, một hồng y đầy tham vọng và cũng là tể tướng của vua Henry đệ Thất, người đã để cho lòng kiêu ngạo nhắm đến chiếc mão triều thiên,[4] và hy vọng sẽ đạt được ngôi vị huy hoàng này nhờ ở ảnh hưởng của Hoàng đế Charles đệ Ngũ. Để mua lòng các vị vua, Wolsey đã âm mưu đưa Anh quốc vào một cuộc chiến với Pháp, một cuộc chiến hoàn toàn đi ngược lại các chính sách quốc gia, một cuộc chiến đưa đất nước đến nguy cơ mất đi nền độc lập và an ninh, cũng như sự sụp đổ của vương triều mà ông là tể tướng, và cả nền an ninh của Âu châu nói chung. Ta có thể nói không ngoa là nếu có một ông vua nào muốn làm hoàng đế toàn vũ trụ, thì đó chính là Hoàng đế Charles đệ Ngũ, người đã lợi dụng Wolsey làm con cờ cho mình.
Sự cuồng tín của một nữ nhân,[5] sự hờn giận cuả một nữ nhân khác,[6] và những âm mưu của người đàn bà thứ ba[7] đã khiến tình hình chính trị tại phần lớn Âu châu khi loạn khi an đã là đề tài được bàn tới rất nhiều.
Chỉ cần những người có một chút ít hiểu biết hời hợt về lịch sử cũng có thể hình dung được một số trường hợp như trên; và đối với những người chỉ có một chút hiểu biết về bản chất con người thì không cần phải đan cử những thí dụ nào để nhận định về sự hiện hữu của những trường hợp kể trên, cũng như sẽ thấy rằng nó đã từng xẩy ra rất nhiều. Tuy nhiên, mặc dầu vậy, một thí dụ điển hình để chứng minh cho sự phổ cập của những trường hợp này, cũng có thể được đan cử ra tại đây để dẫn chúng cho một trường hợp đã xẩy ra cho chính chúng ta cách đây ít lâu. Nếu Shays[8] đã không trở thành một con nợ tuyệt vọng, thì có lẽ tiểu bang Massachusetts sẽ không bị chìm đắm trong cảnh nội chiến.
Mặc dầu đã cho nhiều bằng chứng về những trường hợp nêu trên, cũng vẫn còn có nhiều tử tưởng gia và nhân vật thủ đoạn còn chủ trương rằng những tiểu bang ở trong tình trạng phân hóa cách biệt với nhau vẫn có thể sống chung với nhau trong một nền hòa bình trường cửu. Ưu điểm của thể chế cộng hòa (theo họ) là khuynh hướng chủ hòa. Những người này cho rằng tinh thần thương mại có khuynh hướng làm dịu bản tính của con người, và có khả năng dập tắt được tính khí nóng nảy của con người-đặc tính thường khêu dậy mồi lửa chiến tranh. Những cộng hòa thương mại, như của chúng ta, sẽ không bao giờ chịu để mình bị lôi cuốn vào trong những cuộc tranh chấp tốn kém giữa chúng ta với nhau. Chúng ta sẽ được cai trị bởi sự thúc đẩy của những quyền lợi hỗ tương, và chúng ta sẽ nuôi dưỡng được một tinh thần hòa hoãn và hòa hợp.
Chúng ta có thể hỏi những nhà tiên tri chính trị đó rằng, có phải quyền lợi đích thực của các quốc gia là nhằm nuôi dưỡng cái tinh thần vô vụ lợi và cao siêu đó không? Nếu đó đích thực là quyền lợi thực sự của họ, thì con người đã có thực sự cố gắng theo đuổi nó hay chưa? Hay là ngược lại, chẳng phải họ đã luôn luôn bị chi phối bởi những đột biến tâm lý, hay những quyền lợi nhất thời nhưng lại có tác động hữu hiệu và mạnh nhất vào bản tính con người, để mà xao lãng những ưu tư về chính sách tổng quát và cao xa, về lợi ích chung hay là về công lý? Xét trên thực tế, có đúng là những nền cộng hòa ít bị lôi kéo vào chiến tranh hơn các nền quân chủ hay không? Chẳng phải là những nền cộng hòa đó cũng do NGƯỜI điều hành như các nền quân chủ hay sao? Chẳng phải là những điều yêu, ghét, những sự cạnh tranh và ham muốn chiếm đoạt một cách bất chính tài sản của kẻ khác cũng đều tác động trên các nước theo thể chế cộng hòa cũng như đối với các ông vua? Chẳng phải là những cuộc hội nghị nhân dân cũng thường bị ảnh hưởng bởi những phút nóng giận, căm thù, ghen tức, suy tính nhỏ nhen, cũng như vô vàn tác phong bạo lực và bất thường khác của con người? Chẳng phải ai cũng biết là quyết định của các hội nghị nhân dân thường bị chi phối bởi một số ít nhân vật mà mọi người đã đặt tin tưởng, và như thế, những người này sẽ vẫn có thể bị ảnh hưởng bởi những ham muốn và quan điểm của chính cá nhân họ? Chẳng phải sinh hoạt thương mại cũng có tác dụng khác hơn là thay đổi mục tiêu chiến tranh? Chẳng phải là lòng ham muốn tiền của cũng có sức thu hút và chi phối ngang tầm với lòng ham muốn quyền lực và danh vọng? Chẳng phải là đã có nhiều cuộc chiến tranh được phát động bằng những mục tiêu thương mại, khi mậu dịch trở thành một hệ thống sinh hoạt giữa các nước, cũng giống như những cuộc chiến đã được phát động trước đó vì lòng tham bành trướng lãnh thổ hay khát vọng cai trị? Chẳng phải tinh thần thương mại, trong nhiều trường hợp, đã làm phát sinh ra thêm nhiều ham muốn nuôi dưỡng tham vọng? Hãy để cho kinh nghiệm, là một kim chỉ nam ít sai lầm nhất soi sáng cho con người, hướng dẫn chúng ta tìm câu trả lời cho những câu hỏi này.
Các nước Sparta, Athens, Rome, và Carthage đều là những nước cộng hòa; hai trong số đó, Athens và Carthage, chuyên về thương mại. Tuy vậy, chẳng phải hai nước đó cũng vẫn phải dự phần vào một số cuộc chiến tranh, cả tấn công cũng như phòng thủ, nhiều bằng số lượng với những cuộc chiến do các nước quân chủ lân bang gây ra trong cùng một khoảng thời gian hay sao? Sparta chỉ khá hơn một doanh trại được tổ chức có quy củ một chút, còn Rome thì không bao giờ thỏa mãn với những cuộc chém giết và xâm lăng.
Đối với Carthage thì, mặc dầu là một cộng hòa thương mại, cũng đã phát động một  cuộc chiến xâm lược để kết cuộc đi đến diệt vong trong cuộc chiến này. Hannibal[9] cũng đã chỉ huy đoàn quân viễn chinh đến trung tâm nước Italy, cũng như đến ngưỡng cửa của Rome, trước khi bị Scipio,[10] đánh tan ngay tại lãnh thổ Carthage và chiếm lĩnh nước này. 
Venice, trong thời sau, cũng đã dự vào nhiều cuộc chiến tranh vì tham vọng, cho đến khi trở thành đối tượng của những quốc gia khác tại vùng Italy, khi Giáo Hoàng Julius II huy động được đủ phương tiện để thiết lập một liên minh cường đại,[11] và đánh tan được tham vọng của nước cộng hòa hiếu chiến đó.
Những tỉnh thành Hà Lan,[12] cho đến khi bị chìm đắm dưới gánh nặng thuế khóa và nợ nần, cũng đã tích cực góp mặt vào trong những cuộc chiến tranh trong khu vục Âu Châu. Những lãnh thổ này đã tích cực cạnh tranh với Anh quốc để chiếm quyền bá chủ đại dương, đồng thời cũng là một trong số những đối thủ kỳ cựu và triệt để nhất của Hoàng đế Louis XIV.
Trong chính quyền Anh quốc, những người đại diện dân hợp thành một nhánh trong ngành lập pháp quốc gia. Từ lâu, sinh hoạt thương mại là một trong những hoạt động chính yếu của nước này. Ít quốc gia nào đã có thể được coi là tham gia vào nhiều cuộc chiến tranh bằng nước Anh. Trong nhiều trường hợp, những cuộc chiến tranh do nước này tham gia, thường đều do dân chúng khai chiến.
Có thể nói rằng những cuộc chiến tranh do dân chúng khởi động cũng nhiều bằng số lượng những cuộc chiến tranh do các vị quốc vương khai chiến. Những lời kêu gọi của quần chúng cũng như những lời thúc giục của những người đại diện của họ, trong nhiều trường hợp, đã lôi kéo và giữ chân các vị quân vương trong vòng chiến, ngoài ý muốn của họ, và đôi khi còn ngoài phạm vi quyền lợi thực sự của đất nước. Cuộc tranh đua vị thế đáng ghi nhớ giữa hai triều đình Austria và Bourbon, đã khiến cho Âu Châu bị chìm trong khói lửa trong một thời gian dài, mọi người đều biết là những ác cảm của người Anh đối với người Pháp, cộng thêm với mưu đồ danh vọng, hay đúng hơn là sự tham lam của cải của một lãnh tụ được sủng ái,[13] đã khiến cuộc chiến kéo dài quá thời gian cần thiết của một chính sách hợp lý, và cũng đã đi ngược lại với quan điểm của triều đình trong một thời gian dài.
Những cuộc chiến tranh giữa hai nước nói trên, trong một phạm vi rộng lớn, đã phát xuất từ những toan tính về thương mại - ước muốn vượt trội đối phương, hay nỗi lo sợ bị đối phương vượt qua trong những lãnh vực sinh hoạt thương mại cụ thể nào đó, hay là để cho họ đạt được ưu thế trong nền thương mại hay ngành hàng hải nói chung. Và đôi khi là từ những ước muốn sai trái là giao thương bất chính với những nước đã có quan hệ với nước kia.
Ngoại trừ hai cuộc chiến, cuộc chiến cuối cùng giữa Anh và Tây ban nha xảy ra là vì thương nhân Anh đã bí mật tìm cách giao thương với các đối tượng của Tây ban nha. Cách thức làm ăn bất chính và không thể bào chữa được như thế đã khiến người Tây ban nha phản ứng cực kỳ khắc nghiệt đối với người Anh, nhưng không phải vì thế mà những hành vi này của Tây ban nha được coi là chính đáng, vì chúng vượt quá giới hạn trả đũa đến độ bị coi như tàn ác, vô nhân đạo. Nhiều người Anh bị bắt tại bờ biển Tây ban nha bị bắt đi đào mỏ ở Potosi, và rồi vì những bất mãn của người Tây ban nha mỗi lúc một gia tăng, những người Anh có tội và vô tội đều bị đối xử tàn tệ như nhau. Thương nhân người Anh bắt đầu ta thán chính quyền Tây ban nha và ngọn lửa bạo động được thổi bùng lên, lan vào tòa nhà quốc hội và từ đó chuyển sang bộ ngoại giao và bộ chiến tranh. Lời kêu gọi chiến tranh được cổ xúy và chấp thuận. Kết quả là chiến tranh bùng nổ và làm sụp đổ mọi liên minh đã mất công gây dựng trong hai mươi năm trước với một ước vọng lạc quan là đem lại lợi ích cho mọi phía.
Căn cứ vào phần tóm lược những sự kiện xẩy ra tại một số nước ngoài, phần lớn là những sự kiện có nhiều nét tương đồng với chúng ta nhất, như vậy, làm sao chúng ta có thể có được một lý do nào để tin tưởng rằng chúng ta có khả năng tạo được sự an bình và hòa hoãn giữa những thành phần của liên hiệp hiện hữu, nếu các tiểu bang bị phân hóa? Bộ ta chưa thấy đủ những điều ngụy biện và thậm xưng của những tư tưởng vô bổ đã khiến ta tin vào những hứa hẹn hão huyền là ta sẽ không mắc phải những điều bất toàn, khiếm khuyết và xấu xa vốn tiềm ẩn trong mọi xã hội? Chẳng phải bây giờ là lúc ta phải tỉnh thức từ giấc mơ đầy gian dối về một thời đại hoàng kim để chấp nhận một nguyên lý thực tiễn làm căn bản cho các hoạt động chính trị mà ta, cũng như những người dân khác trên quả đất này, vẫn còn xa lắm mới đạt tới được một thể chế đầy hạnh phúc do đức hạnh và sự khôn ngoan toàn hảo mang lại, hay sao?
Hãy để cho tình trạng khủng hoảng về niềm hãnh diện quốc gia và những khó khăn mà chúng ta đang gặp phải do sự hiện diện của một chính quyền lỏng lẻo và không hiệu lực, trở thành những điều soi sáng chúng ta. Hãy để cho cuộc nổi loạn tại một phần lãnh thổ tiểu bang North Carolina, những diễn biến bạo lực tai Pennsylvania, cũng như những cuộc nổi loạn tại Massachusetts hiện nay soi sáng chúng ta!
Cho đến nay chúng ta đã nhận định qua khuynh hướng chung của nhân loại dựa trên học thuyết của những kẻ muốn ru ngủ chúng ta về nguy cơ bất hòa và tranh chấp giữa các nước với nhau. Nhưng trong trường hợp các tiểu bang chúng ta bị phân hóa, thì những trải nghiệm thực tế về sự tiến bộ của xã hội đã trở thành một định đề trong chính trị: đó là sự gần gũi về lãnh thổ biến các quốc gia trở thành kẻ thù tự nhiên của nhau. Một nhà tư tưởng khôn ngoan đã diễn tả điều này rõ ràng như sau: "Những quốc gia lân bang đương nhiên là những kẻ thù của nhau, trừ phi sự yếu kém chung buộc họ phải liên kết thành một Cộng hòa Liên hiệp, hoặc cơ cấu chính trị của họ ngăn cho những khác biệt giữa các nước do gần gũi nhau tạo ra bất hòa, và dập tắt nỗi ganh ghét ngấm ngầm khiến cho mọi nước có khuynh hướng bành trướng và xâm lấn lân bang."[14] Câu nói này, cùng một lúc, chỉ cho ta thấy đâu là Nguyên ủy của Tai họa và đề ra Giải pháp Chữa trị.


[1] Xem "Cuộc đời và sự nghiệp của Pericles" của Plutarch. Pericles (495-329 B,C,) cai trị Athens trong thời kỳ huy hoàng của nước này, cũng là người đã đưa dân chủ đến với dân thường, và thiết lập nên đế quốc Athens qua các thuộc địa chiếm được trên toàn cõi Hy Lạp. Năm 440 B.C., Pericles dẹp tan cuộc nổi loạn trên đảo Samos, quê hương của người Samian. Người kỹ nữ đó là Aspasia rất được Pericles yêu mến và chiều chuộng nên có ảnh hưởng rất lớn trong các việc quân quốc. Plutarch là sử gia nổi tiếng của Hy Lạp (46-120 A.D.), cũng là tác giả cuốn "Cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật lừng danh Hy Lạp và La Mã." (chú thích của người dịch).
[2] Sách đã dẫn. Megara là một nước nhỏ luôn bị các nước lớn xâm lăng, nhất là Athens.
[3] Sách đã dẫn. Phidias bị nghi ngờ rằng đã đánh cấp một số vàng công quỹ, với sự đồng lõa của Pericles, để dùng vào việc làm đẹp bức tượng của nữ thần Minerva. Phidias là một điêu khắc gia nổi tiếng, làm quan tới chức bộ trưởng bộ nghệ thuật, và là người chịu trách nhiệm xây dựng điện Parthenon thờ nữ thần Athena tại Acropolis (nay còn di tích tại Athens), cùng các tượng thần khác. Phidias cũng được coi là người sáng lập ra trường phái nghệ thuật cổ điển của Hy Lạp (chú thích của người dịch).
[4] Vương miện của Giáo Hoàng.
[5] Madame de Maintenon.
[6] Duchess of Marlborough.
[7] Madame de Pompadour.
[8] Daniel Shays (1740-1825) một nông dân tại tiểu bang Massachusetts, cùng một số nông dân khác vì sưu cao thuế nặng nên phải mang công mắc nợ, nổi lên vũ trang chống lại tòa án để bảo vệ cho điền sản của họ đang bị xiết nợ. Cuộc nổi loạn này bị quân đội tiểu bang dẹp tan khi đoàn nông dân định tiến đánh kho đạn của Liên bang tại Springfield. Tuy nhiên, cuộc nổi loạn này cho thấy chính quyền liên hiệp không đủ khả năng để đối phó với các cuộc nổi loạn hầu đem lại sự đoàn kết quốc gia, và cũng là lý do để nhóm Federalists kêu gọi phải tổ chức một chính quyền trung ương vững mạnh (chú thích của người dịch).
[9] Hannibal là đại tướng của Carthage (247-183 B.C.) đã dẫn 100 ngàn quân vượt qua dãy núi Alps để tiến vào Ý đánh đế quốc La Mã. Khởi đầu Hannibal thắng rất nhiều trận, nhưng cuối cùng vẫn bị quân La Mã đánh bại.
[10] Scipio là đại tướng La Mã (236-183 B.C.)
[11] Liên Minh Cambray, quy tụ Hoàng đế, Hoàng đế nước Pháp, Vua Aragon, cùng với hầu hết các quận chúa trong vùng Italy thời đó.
[12] Hà Lan (Holland) là vùng đất phía tây của nước Netherlands ngày nay, cho đến thế kỷ 17, Hà Lan gồm hai tỉnh (bắc và nam Hà Lan) nằm dọc theo duyên hải của Netherlands, và mãi đến giữa thế kỷ 19 mới được thống nhất trong nước Netherlands.
[13] Quận Công Marlborough
[14] Xem "Principes des Négotiations" của Abbé de Mably 


Luận về Những Nguy cơ Mâu thuẫn giữa các Tiểu bang
(Tiếp theo)
 
Alexander Hamilton
 
Cùng đồng bào tiểu bang New York:
Cũng đã có nhiều người tự hỏi, với một vẻ đầy tự tin rằng, nếu các tiểu bang bị phân chia thì họ sẽ có lý do gì để khiêu chiến với nhau? Câu trả lời đầy đủ có thể là tất cả những lý do đã được các nước trên thế giới dùng đến, trong những thời điểm khác nhau, để đưa nhân loại vào trong những cuộc tranh chấp đẫm máu. Tuy vậy, điều đáng buồn cho chúng ta là, câu hỏi này đòi hỏi một cách trả lời cá biệt hơn thế. Còn có nhiều lý do tranh chấp ở gần với chúng ta, tuy đã có những biện pháp được quy định trong hiến pháp liên bang để ngăn cản, nhưng chúng ta cũng có đủ luận cứ để hình dung được những gì có thể xẩy ra, nếu những ngăn cản đó bị tháo gỡ.
Những tranh chấp về lãnh thổ luôn luôn được xem là một trong những nguồn gốc tranh chấp lớn nhất trong quan hệ giữa các nước. Có lẽ một phần lớn những cuộc chiến tranh đã giáng xuống nhân loại đều đã phát xuất từ căn nguyên này. Cái căn nguyên này sẽ vẫn tồn tại nguyên vẹn trong thời đại chúng ta. Hiện trong lãnh thổ chúng ta vẫn có những vùng đất chưa có người cư ngụ, và một số những tranh chấp trên những vùng đất này vẫn chưa được giải quyết. Một sự phân chia liên bang sẽ lại đưa đến những tranh chấp trên tất cả những vùng đất đó. Ai cũng đều biết rằng hiện nay vẫn còn những cuộc tranh cãi rất gay go về quyền sở hữu trên những vùng đất mà cho đến cuộc cách mạng vừa qua, vẫn còn chưa được phân chia cho ai, và vẫn còn được coi như là thuộc Anh Hoàng. Những tiểu bang bao trùm những vùng đất nói trên đã nhận những vùng đất này thuộc chủ quyền của họ, có nhiều người khác thì cho rằng những vùng đất này nay đã thuộc quyền sở hữu của Liên bang; đặc biệt là những vùng đất phía Tây, mà do chiếm đoạt được từ người bản xứ (Indians) hayđược họ nhượng lại. Những vùng đất này trước đây được đặt dưới quyền sở hữu của Anh Hoàng, cho đến khi chúng được nhượng lại qua hiệp ước hòa bình. Tất cả những vùng đất này, dầu sao đi nữa cũng đã trở thành một tài sản thủ đắc của Liên Hiệp các Tiểu bang qua một hiệp ước được ký kết với một nước ngoài. Để giải quyết những tranh chấp có thể xẩy ra, Quốc hội Liên bang đã khôn khéo trao quyền sở hữu những vùng đất đó cho Liên bang để bảo vệ quyền lợi của tập thể. Giải pháp này đã giúp giải quyết những tranh chấp có thể xẩy ra. Nếu giải tán Liên hiệp các Tiểu bang, thì những tranh chấp nói trên sẽ tái diễn, và những tranh chấp mới cũng có thể xuất hiện. Hiện nay, ngoài những phần đất có quyền sở hữu từ trước, phần lớn những vùng đất hoang tại miền Tây đều thuộc quyền sở hữu của Liên bang do sự chuyển nhượng [từ tiểu bang qua Liên bang]. Nếu Liên bang không còn nữa, thì những tiểu bang đã nhượng đất cho Liên bang trước đây sẽ đòi lại những vùng đất của mình. Những tiểu bang khác cũng sẽ đòi quyền sở hữu trên một số đất đó vì cho rằng họ cũng phải được chia phần trên những vùng đất chung đó. Luận cứ của họ sẽ là tất cả các tiểu bang đều góp phần vào việc chiếm hữu được những vùng đất nói trên. Trong trường hợp ngoài sự dự liệu của mọi người, nếu tất cả các tiểu bang đều công nhận rằng mình đều có quyền sở hữu trên một phần của toàn vùng đất đó, thì việc ấn định tỷ lệ chia đất cũng sẽ gặp trở ngại khó vượt qua. Mỗi tiểu bang đều sẽ có một cách tính tỷ lệ sở hữu riêng rẽ, và sẽ rất khó có thể dung hòa được cách phân chia tỷ lệ khác nhau giữa các tiểu bang một cách ôn hòa.
Do dó, trong vùng đất bao la của miền Tây, chúng ta có thể hình dung được một môi trường bỏ ngỏ cho những tranh chấp, mà sẽ không thấy có một lực trọng tài hay một người phân xử nào khả dĩ giải quyết được những tranh chấp đó. Lịch sử cho thấy rằng lúc đó, gươm giáo sẽ lại được dùng để làm trọng tài giải quyết những mâu thuẫn này. Trường hợp tranh chấp giữa Connecticut và Pennsylvania về vùng đất Wyoming báo cho ta biết là chớ có lạc quan là sẽ có được một sự dung hợp dễ dàng cho những khác biệt giữa hai phía. Những điều khoản của Liên Hiệp các Tiểu bang đòi hỏi những bên tranh chấp phải chấp nhận sự phán xử của tòa án Liên bang. Tại Tòa án Liên bang, tòa đã phân xử theo chiều hướng có lợi cho Pennsylvania. Connecticut cho thấy rằng đã không thỏa mãn với phán quyết của tòa cho đến khi, qua đàm phán, người ta đã tìm ra một đền bù xứng đáng cho sự thiệt thòi của Connecticut. Ở đây không nói đến cách hành xử của từng tiểu bang. Connecticut chắc chắn đã nghĩ rằng mình bị xử thiệt thòi. Và tiểu bang cũng như cá nhân con người, rất khó chấp nhận một quyết định mà họ cho rằng thiệt thòi cho phía họ.
Những ai đã có cơ hội để chứng kiến cuộc tranh chấp giữa tiểu bang New York và quận Vermont cũng đã thấy sự chống đối của các tiểu bang, kể cả các tiểu bang không liên hệ đến vụ tranh chấp. Vào lúc đó, sự sống còn của liên bang cũng sẽ bị đe dọa, nếu New York đã không nhượng bộ và nhất quyết dùng bạo lực để hành xử quyền hạn của mình.
Trong cuộc tranh chấp đó, có hai nguyên do chính [xuất phát từ phía các tiểu bang không tham gia trực tiếp vào cuộc tranh chấp]: (1) lòng ganh tỵ của một số tiểu bang không muốn cho New York trở nên quá mạnh và (2) một số người đã có trong tay quyền sở hữu trên những vùng đất do chính quyền của quận Vermont cấp phát. Những tiểu bang chống lại New York, như New Hampshire, Massachusetts, và Connecticut, dường như có chủ ý muốn phân chia New York hơn là muốn bảo vệ cho quyền lợi của tiểu bang mình. New Jersey và Rhodes Island thì muốn bảo vệ cho sự độc lập của Vermont. Trong khi đó, Maryland cũng ngả theo họ cho đến lúc nhận ra được một sự thông đồng giữa Vermont và Canada.Vì đều là những đơn vị lãnh thổ nhỏ cho nên những tiểu bang này không có thiện cảm với sự lớn mạnh của tiểu bang New York. Và nếu đi sâu vào để tìm hiểu những nguyên do tranh chấp, người ta có thể thấy được rất nhiều yếu tố có thể đưa đến tranh chấp giữa các tiểu bang, nếu họ rơi vào tình tranh bị phân chia.
Những sinh hoạt thương mại cũng là một nguồn gốc tranh chấp. Những tiểu bang ở vào vị thế kém cũng muốn tìm cách thoát khỏi tình trạng yếu kém của mình, để được hưởng những ưu đãi của các lân bang. Mỗi tiểu bang, hay liên hiệp tiểu bang sẽ theo đuổi một chính sách thương mại đặc biệt riêng cho mình. Tình trạng đó sẽ đưa đến những sự khác biệt, sự thiên vị trong quan hệ, và ngay cả tẩy chay nhau; những điều này chắc chắn sẽ tạo ra mầm mống mâu thuẫn. Kể từ khi mới đến định cư trên những lãnh thổ này cho đến nay, chúng ta đã quen với những giao dịch, dựa trên sự bình đẳng, và những thói quen này sẽ làm cho những khác biệt giữa chúng ta dễ trở thành những điều gây bất mãn. Nên, chúng ta phải sẵn sàng gọi cho đúng tên những thiệt hại mà trong thực tế gây ra bởi những hành vi chính đáng của một nước độc lập đang theo đuổi những quyền lợi riêng rẽ của họ. Tinh thần dám làm, thể hiện qua sinh hoạt thương mại của người dân Mỹ đã cho thấy họ luôn tìm cách cải tiến. Cái tinh thần phóng khoáng đó sẽ khó có thể chấp nhận những ràng buộc thương mại chỉ nhằm mục đích tạo thế thuận lợi cho riêng một tiểu bang nào đó. Việc vi phạm những luật lệ do một bên gây ra, và một bên thì cố ngăn chặn không cho những vi phạm này xảy ra, chắc chắn sẽ đưa đến những hành vi bạo lực, trả đũa và rồi thì chiến tranh.
Việc ấn định những luật lệ thương mại cũng sẽ tạo cơ hội cho một vài tiểu bang có thể biến những tiểu bang khác thành những chư hầu. Trường hợp giữa New York, Connecticut và New Jersey là một thí dụ điển hình. Để gia tăng lợi tức, New York đã phải ấn định thuế nhập cảng. Cư dân của hai tiểu bang kia cũng phải chịu một phần lớn những thuế này, vì cũng tiêu thụ những loại hàng do New York nhập cảng. New York không muốn và cũng không thể miễn những loại thuế này cho cư dân hai tiểu bang kia. Người dân New York cũng không muốn rằng cư dân hai tiểu bang đó được miễn trừ những khoản thuế mà chính họ phải đóng. Không kể là việc phân biệt giữa những người thọ thuế của từng tiểu bang là điều rất khó khăn. Liệu rằng Connecticut và New Jersey sẽ chấp nhận để cho New York bắt mình đóng thuế trong bao nhiêu lâu? Liệu rằng New York có thể giữ được lợi thế mà các tiểu bang láng giềng đều cho là một lợi thế quá đáng và bất công? Liệu chúng ta có thể nắm giữ được lợi thế đó dưới áp lực của một bên là Connecticut và sự trợ giúp của New Jersey? Chỉ có người cả gan mới dám trả lời rằng có.
Những khoản công trái của Liên Bang cũng là một nguyên do tranh chấp giữa các tiểu bang hay liên hiệp tiểu bang riêng biệt. Trước tiên là việc phân chia phần nợ cho mỗi tiểu bang, và sau đó là thể thức và lịch trình thanh toán những khoản nợ đó, đều là những vấn đề dễ đưa đến bất hòa. Làm sao có thể tìm được phương thức phân chia phần nợ để cho tất cả các tiểu bang đều thỏa thuận. Không có một phương thức nào có thể được đưa ra mà không đem đến những sự phản đối. Dĩ nhiên, mỗi đề nghị sẽ gặp sự phản đối của các tiểu bang có quyền lợi đối nghịch. Ngoài ra còn có nhiều quan điểm khác biệt giữa các tiểu bang về cách thức hoàn trả những món nợ công cộng. Có vài tiểu bang, hoặc là chẳng buồn để tâm tới sự quan trọng của tín dụng quốc gia, hoặc là dân chúng những tiểu bang này chẳng có một chút quyền lợi trực tiếp nào đến vấn đề này, cho nên, trở nên thờ ơ, nếu không muốn nói là ác cảm với việc phải trả nợ của cả quốc gia. Họ sẽ phóng đại những khó khăn trong việc phân chia khoản nợ. Tại một vài tiểu bang, còn có thêm một vấn đề phức tạp khác. Những món tiền mà các công dân của họ đã cho Liên bang vay còn nhiều hơn là phần nợ do tiểu bang của họ đã cho Liên bang vay. Những tiểu bang này sẽ đòi hỏi một cách phân chia phần nợ công bằng và hữu hiệu hơn. Những sự chậm trễ của nhũng tiểu bang con nợ sẽ khiến cho những tiểu bang chủ nợ nóng lòng. Nỗ lực tìm một giải pháp hữu hiệu sẽ bị đình hoãn do những khác biệt về quan điểm và những sự trì trệ cố tình. Công dân của các tiểu bang sẽ kêu ca, những nước ngoài muốn những đòi hỏi chính đáng của họ phải được thỏa mãn, và nền an ninh giữa các tiểu bang sẽ bị đe dọa từ cả hai phía.
Hãy giả sử là có được một giải pháp phân chia những phần nợ một cách hợp lý, thì sẽ vẫn có nhiều tiểu bang nại lý do là khi đem ra áp dụng, giải pháp phân chia này gây trở ngại cho tiểu bang này hơn là cho tiểu bang khác. Những tiểu bang nào cảm thấy bị thiệt thòi hơn sẽ tìm cách sửa đổi, trong khi những tiểu bang khác sẽ chống đối lại những sửa đổi đó vì nó sẽ làm tăng gánh nạng đối với họ. Sự từ chối của những tiểu bang này sẽ là lý do để cho những tiểu bang kia từ chối trả nợ và từ đó sẽ đưa đến những tranh cãi. Ngay như nếu phương thức được đem ra áp dụng có công bằng trên nguyên tắc đi nữa, thì cũng vẫn sẽ có nhiều tiểu bang trả nợ chậm trễ vì không có phương tiện, vì quản lý tài chính, hay quản lý việc công sai lầm, hay có khi chỉ là do con người không muốn dùng tiền để trả nợ thay vào đó là dùng tiền để thỏa mãn những nhu cầu tức thời. Tình trạng thiếu nợ, vì bất cứ lý do gì, cũng sẽ đưa đến những khiếu nại, tố cáo và cãi nhau. Không có điều gì dễ khuấy động sự yên bình giữa các quốc gia cho bằng sự kiện phải chấp nhận những nhiệm vụ tài chính bằng nhau trong khi không được hưởng những quyền lợi đồng đều. Một nhận xét hiển nhiên, vừa đúng vừa rất tầm thường là, không có gì khiến cho con người dễ cải nhau cho bằng những tranh chấp về tiền bạc.
Những luật lệ vi phạm quyền kết ước cá nhân, tới mức trở thành sự xâm lấn lên quyền của tiểu bang có công dân bị xâm hại, cũng có thể trở thành một nguyên do tranh chấp. Ta không có quyền mong đợi sẽ có một tinh thần công bằng hơn và phóng khoáng hơn ngự trị trên các cơ quan lập pháp của các tiểu bang, mà nếu không có thêm các biện pháp kiềm chế, thì các cơ quan này cũng sẽ đưa ra những đạo luật mà ta đã từng thấy nhiều lần bị dân chúng xem thường.Ta cũng đã chứng kiến việc tiểu bang Connecticut sẵn sàng trả đòn với Rhodes Island về những bất công do cơ quan lập pháp của Rhodes Island đã gây nên. Chúng ta có thể nghĩ rằng, trong những trường hợp tương tự, và dưới những điều kiện khác, một cuộc tranh chấp, không phải bằng văn thư mà bằng gươm giáo, sẽ xẩy ra để trừng trị những vi phạm đáng ghê tởm về bổn phận đạo đức và công bằng xã hội.
Khả năng thành lập những liên minh bất tương hợp giữa các tiểu bang hoặc các liên minh khác nhau với các nước ngoài, và tác dụng của tình trạng đó với nền hòa bình của toàn thể đã được trình bày đầy đủ qua những tham luận trước. Từ những nhận định đã được trình bày về chủ đề này, ta phải rút ra kết luận sau đây rằng: Nước Mỹ, nếu không được kết hợp lại hoàn toàn, hay chỉ được kết hợp bởi mối dây lỏng lẻo của một liên minh, thì các liên minh hay tranh chấp đó, dù tấn công hay phòng thủ, sẽ khiến ta dần dà bị dính vào những trận đồ đầy nguy hiểm của chính trị và chiến tranh tại Âu châu, và khi nước Mỹ bị chia ra manh múm vì những bất hòa mang tính chất hủy diệt đó, sẽ trở thành một con mồi của những mưu toan cùng bộ máy quyền lực của những kẻ thù của toàn bộ các tiểu bang. Chia để trị [1] sẽ trở thành châm ngôn của bất cứ nước nào hoặc thù ghét hoặc sợ hãi chúng ta.[2]


[1] Divide et Impera: Chia để Trị
[2] Nhằm giúp cho toàn bộ chủ đề của các tham luận này được trình bày trước công luận càng sớm càng tốt, chúng tôi dự trù sẽ in các bài tham luận bốn lần mỗi tuần-vào thứ Ba trên tờ New York Packet, và thứ Năm trên tờ Daily Advertiser.


0 comments

Post a Comment