I. Sự ra đời của Quốc tế I
1. Hoàn cảnh ra đời
Quốc
tế I ra đời trên cơ sở của những yêu cầu thực tiễn cấp bách đặt ra
trong phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế.
Thứ nhất, do sự phục hồi và phát triển của phong trào công nhân giữa thế kỷ XIX.
Cuộc
cách mạng 1848-1849 thất bại, chính phủ phản động ở các nước châu Âu
tiến hành khủng bố gắt gao, truy nã những chiến sĩ vô sản. Một số nhà
lãnh đạo cách mạng vô sản bị tù đày, báo chí công nhân bị đóng cửa.
Trong vụ án ở Khuên (Đức) năm 1852, giai cấp tư sản đã bịa đặt, vu cáo
để kết tội những người cộng sản. Mấy tháng sau, “Đồng minh những người
cộng sản'' phải giải tán.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1857-1859 bắt đầu
từ Mỹ, sau đó lan sang Anh rồi mở rộng sang các nước châu Âu. Khủng
hoảng kinh tế làm cho xã hội ở các nước châu Âu bị rối ren. Nạn thất
nghiệp, nghèo đói tràn lan. Tình trạng đó khiến phong trào công nhân có
điều kiện phát triển. Công nhân Pháp bãi công buộc Chính phủ Napôlêông
III phải hủy bỏ đạo luật Sapơliê năm 1864. Cuộc đấu tranh đòi ngày làm
việc 9 giờ của công nhân Anh năm 1858 góp phần thúc đẩy việc thành lập
Hội đồng các công đoàn Luân Đôn, mặc dù hoạt động của nó vẫn chịu sự chi
phối của chủ nghĩa nghiệp đoàn. Năm 1863, công nhân Đức thành lập Liên
minh công nhân toàn Đức, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Látxan và chủ
nghĩa xã hội tiểu tư sản.
Trong
thời kỳ này, tuy phong trào công nhân phát triển mạnh ở các nước châu
Âu nhưng thiếu một sự chỉ đạo vững vàng, mặt khác, phong trào tại chịu
ảnh hưởng của một số tư tưởng không trung, tư sản... Bài học kinh nghiệm
của cách mạng 1848-1849 bước đầu giúp giai cấp công nhân thấy rõ sự
phản bội của giai cấp tư sản, sự bấp bênh của giai cấp tiểu tư sản, song
bản thân giai cấp công nhân chưa nhận thức được sứ mệnh lịch sử của
mình.
Thứ hai, trước sự trưởng thành của phong trào công nhân về chính trị, tổ chức ''Đồng minh những người cộng sản'' (thành lập năm1847 không đủ sức lãnh đạo phong trào đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân nên đã tự giải tán vào năm 1852.
Thứ ba, những
trào lưu tư tưởng đối lập với chủ nghĩa mác cản trở sự thống nhất của
phong trào công nhân, làm suy yếu phong trào. Đây cũng là một yếu tố góp
phần thúc đẩy sự ra đời một tổ chức quốc tế làm trung tâm tập hợp lực
lượng, giác ngộ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lãnh đạo phong
trào công nhân.
Thứ tư,
vai trò của C. Mác và Ph. Ăng ghen. Hai ông theo dõi và tích cực tham
gia phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong tháng ngày sục sôi
cách mạng. Bị trục xuất khỏi Pháp tháng 6-1849, Mác đến Luân Đôn và năm
1850 Ăng ghen đến Mansextơ (Anh). Tháng 3-1850, chi hội của đồng minh
những người cộng sản ở các nước nhận được Thư của Ban Chấp hành Trung ương do Mác
và Ăng ghen viết. Trong thư, Mác và Ăngghen phân tích những sự kiện
1848- 1849 ở Đức, vạch ra chiến lược, sách lược của Đảng vô sản trong
cuộc cách mạng tương lai và nêu rõ học
thuyết cách mạng không ngừng mà sau rày Lê nin kế tục, phát triển trong
lý luận về chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Thời gian này, Mác viết hai tác phẩm nổi tiếng làĐấu tranh giai cấp pháp (1850) và Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapactơ (1852); Ăng ghen viết nhiều bài báo, tập hợp thành cuốn Cách mạng và phản cách mạng ở Đức
(1851). Trong những tác phẩm đó, phương pháp biện chứng duy vật được sử
dụng để nghiên cứu lịch sử, tổng kết kinh nghiệm của cuộc cách mạng vừa
qua, phát thiên lý luận về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Bộ Tưbản được
Mác bắt đầu viết vào năm 1861, tập đầu được xuất bản vào năm 1867, Mác
luận chứng quá trình vận động của xã hội tư bản, vạch ra những mâu thuẫn
nội tại, chỉ rõ quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của chủ
nghĩa tư bản, khẳng định sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội đều là tất yếu như nhau.
Đồng
thời với việc nghiên cứu lý luận, Mác và Ăng ghen chú ý công tác tổ
chức. Những cán bộ của ''Đồng minh những người cộng,sản'' sau khi tổ
chức này tự giải tán được Mác và Ăng ghen bồi dưỡng lý luận. Hai ông còn
tranh thủ tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản khi cộng tác với tờ báo Nhân dân của Phong trào Hiến chương và tờ Diễn đàn Niu Oóc của phái dân chủ tư sản.
Hoạt
động cách mạng không mệt mỏi của Mác và Ăng ghen đã giác ngộ và tập hợp
được những người tiên tiến nhất trong giai cấp công nhân các nước, thúc
đẩy việc hình thành tổ chức quốc tế thay cho tổ chức ''Đồng minh những người cộng sản'' đã bị giải tán.
2. Sự thành lập và những văn kiện đầu tiên của Quốc tế I
Ngày
22-7-1863, Đại biểu công nhân các nước tổ chức hội nghị ở Luân Đôn để
ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Ba Lan và phản đối chính phủ các nước
châu Âu giúp đỡ Nga hoàng đàn áp khởi nghĩa. Hội nghị ra lời kêu gọi
thành lập một tổ chức quốc tế. Ngày 28-9-1864, một cuộc họp do Đại biểu
công nhân Pháp và Anh triệu tập được tổ chức ở Luân Đôn để phản đối sự
đàn áp cuộc khởi nghĩa ở Ba Lan năm 1863, đã quyết định thành lập tổ
chức công nhân quốc tế với tên gọi Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc
tế I), bầu ra Ban Chấp hành Trung ương - cơ quan có nhiệm vụ thảo ra Tuyên ngôn và Điều lệ.Mác
là người tổ chức Hội nghị, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Đại
diện cho phong trào cách mạng Đức. Tham gia Ban Chấp hành. Trong ương
Quốc tế I, ngoài các ủy viên thương vụ ra còn một số Đại biểu xuất sắc
của phong trào công nhân Anh, công nhân Pháp và các nước khác, tất cả có
32 người. Hội nghị bầu ra một tiểu ban, trong đó có Mác được giao việc
soạn thảo Tuyên ngôn và Điều lệ của Hội. Mục đích của Quốc tế I
và đoàn kết Đại thành một khối tất cả các lực lượng có tinh thần chiến
đấu của giai cấp công nhân châu Âu và châu Mỹ... Do vậy, Tuyên ngôn và Điều lệ
của Quốc tế phải được soạn thảo sao cho cả những hội công liên của Anh,
những môn đồ của Pruđông ở Pháp, Bỉ, Italia và Tây Ban Nha lẫn phái Lát
xan ở Đức đều có thể chấp nhận được.
Tuyên
ngôn thành lập Quốc tế do Mác trực tiếp soạn thảo đã nêu những nguyên
tắc có tính tất yếu của sự phát triển gay gắt cuộc đấu tranh giai cấp
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân.
Tuyên ngôn nhấn mạnh việc giải phóng giai cấp công nhân đòi hỏi phải có
sự thống nhất và sự hợp tác anh em của công nhân trên phạm vi quốc tế.
Ngoài ra, giai cấp công nhân phải kiên quyết phản đối những hành động
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, ngăn chặn và vạch trần chính sách ngoại giao phản động của chính
phủ nước mình, coi đó là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung để giải
phóng giai cấp công nhân. Tuyên ngôn được kết thúc bằng khẩu hiệu “vô
sản tất cả các nước, đoàn kết lại!''.
Điều
lệ của Quốc tế và sự phác họa bước đầu về nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức công nhân Đại hội là cơ quan cao nhất, giữa hai kỳ Đại hội
thì Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội bầu ra lãnh đạo Quốc tế. Tổ
chức của Quốc tế bao gồm các chi bộ. Những chi bộ trong một nước hợp
thành liên chi và do hội đồng liên chi lãnh đạo. Nhiệm vụ của các hội
viên là thống nhất các đoàn thể công nhân thành những tổ chức có tính
chất toàn quốc.
Tuyên ngôn và Điều lệ được
thông qua, là những văn kiện đầu tiên của Quốc tế I, đánh dấu bước
trưởng thành của giai cấp công nhân và khẳng định sự đóng góp lớn lao
của Mác. Tập hợp được mọi lực lượng công nhân trong Quốc tế I, Mác và
Ăng ghen không ngừng giác ngộ họ đấu tranh chống lại các khuynh hướng xã
hội chủ nghĩa sai trái.
II. Hoạt động của Quốc tế I
Quá
trình hoạt động của Quốc tế ngắn liền với những hoạt động của Mác và
Ăng ghen. Ngoài việc bồi dưỡng những phần tử cốt cán của cách mạng, Mác
còn là người soạn thảo hầu hết những văn kiện quan trọng của Quốc tế I:
Lịch sử hoạt động của Quốc tế I là lịch sử đấu tranh liên tục với những
trào lưu phản động mưu toan giành quyền lãnh đạo, lũng đoạn tổ chức Quốc
tế, lái công nhân đi vào con đường cải lương thoả hiệp, vô chính phủ...
1. Đấu tranh chống chủ nghĩa Pruđông
Năm
1865, các chi bộ của Quốc tế I được thành lập, nhưng theo Điều lệ thì
chưa đủ điều kiện để triệu tập Đại hội. Từ 25 đến 29-9-1865, Mác mở một
hội nghị bí mật ở Luân Đôn, có các ủy viên Trung ương và Đại biểu các
chì bộ tham dự. Vấn đề gay gắt nhất trong Hội nghị là phái Pruđông không
đồng ý ghi vào chương trình Đại hội yêu sách đòi độc lập của Ba Lan do
Mác đề nghị. Phái Pruđông cho rằng đó là vấn đề thuần tuý chính trị,
nhưng thực chất là họ ủng hộ chính sách của các chính phủ phản động Anh
và Pháp đối với Ba Lan, đánh giá thấp phong trào giải phóng dân tộc.
Phái Pruđông chủ trương bảo vệ và ửng hộ chủ nghĩa tư bản. Họ chỉ muốn
xoá đi những cái ''không tốt'' của chủ nghĩa tư bản và xây dựng cái
''tốt'' nhằm duy trì vĩnh viễn chế độ tư hữu. Phái này chống lại phương
thức đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân, chống lại việc tổ chức
bãi công, coi việc thành lập các hợp tác xã là nhiệm vụ chủ yếu của
phong trào công nhân, bảo vệ quyền tư hữu ruộng đất, phủ nhận đấu tranh
chính trị và mọi hình thức nhà nước, kể cả chuyên chính vô sản. Chủ
nghĩa Pruđông có ảnh hưởng khá mạnh ở Pháp, Bỉ và Italia.., là những nơi
mà nền sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Đấu tranh chống chủ nghĩa Pruđông là
yêu cầu bức thiết để giác ngộ và nâng cao khả năng tổ chức của giai cấp
công nhân. Cuộc đấu tranh này diễn ra gay gắt và chiếm phần lớn chương
trình nghị sự của hai Đại hội đầu tiên của quốc tế I.
Đại
hội I của Quốc tế I họp ở Giơnevơ từ ngày 3 đến ngày 8-9-1866, có 60
Đại biểu của 25 chi bộ ở Anh, Pháp, Thụy Sĩ, Đức tham dự. Mặc dù không
trực tiếp tham dự, nhưng Mác đã chuẩn bị chương trình nghị sự, xây dựng
bản thuyết trình của đoàn Đại biểu Anh, chủ yếu để chống phái Pruđông.
Phái
Pruđông phản đối yêu sách của chủ nghĩa Mác đòi ngày làm việc 8 giờ,
hạn chế lao động trẻ em, cho rằng đó là quan hệ riêng tư được thoả thuận
giữa chủ và thợ. Họ còn phản đối yêu sách đòi bảo vệ lao động phụ nữ vì
cho rằng chức năng của phụ nữ chỉ làm công việc nội trợ trong gia đình.
Những người mác xít thông qua nghị quyết đòi hạn chế ngày lao động với
công nhân, nhất là với trẻ em, làm đêm đối với phụ nữ, phải giáo dục phổ
thông và nghề nghiệp cho công nhân, bảo vệ lao động phụ nữ, xoá bỏ thuế
gián tiếp, đòi vũ trang toàn dân.
Nghị
quyết của Đại hội về vấn đề công đoàn được thông qua đã nhấn mạnh ý
nghĩa quan trọng của công đoàn, chống lại những luận điệu của phái
Pruđông chủ trương bãi bỏ mọi hình thức tổ chức của công nhân. Nghị
quyết cho rằng công đoàn cần thiết cho cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao
động, có vai trò là một đoàn thể có tổ chức để đẩy mạnh việc thủ tiêu
chế độ lao động 1àm thuê. Việc thông qua nghị quyết về vấn đề công đoàn
là thắng lợi lớn của những người mác xít đối với phái Pruđông (Pháp),
phái Lát xan (Đức) và những lãnh tụ công đoàn (Anh).
Về
vấn đề hợp tác xã, nghị quyết của Đại hội khẳng định, nếu giai cấp công
nhân không nắm được quyền lực chính trị thì hình thức hợp tác xã không
thể cải tiến được chế độ tư bản chủ nghĩa. Đại hội thông qua bản Tuyên
ngôn thành lập và Điều lệ, bầu lại Ban Chấp hành Tung ương với thành
phần như cũ.
Sau
Đại hội, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1866 phong trào
đấu tranh của công nhân dâng cao. Công nhân Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ
liên tiếp bãi công. Theo đề nghị của Mác, Quốc tế ửng hộ cuộc đấu tranh
bằng cách thông báo tin tức, quyên tiền,,. Phong trào công nhân đã giành
được một số thắng lợi chính trị. Ở Đức, năm 1867, công nhân Bắc Đức qua
bầu cử đã đưa Vinhem Lípnếch và Auguxtơ Bê ben vào Quốc hội. Chính phủ
Anh ban hành Luật Cải cách tuyển cử cho một bộ phận công nhân lớp trên
tham gia. Đó là thắng lợi của sự đoàn kết quốc tế, mục tiêu mà Quốc tế I
đã đề ra.
Đại
hội II của Quốc tế họp ở Lô dan (Thụy Sĩ) từ ngày 2 đến ngày 8-9-1867,
có 63 Đại biểu tham dự. Phái Pruđông ở Pháp và Thụy Sĩ nêu trở lại vấn
đề lao động phụ nữ và trẻ em, vấn đề hợp tác xã. Họ buộc Đại hội thông
qua một vài nghị quyết mơ hồ nhưng không giành được thắng lợi trong việc
chiếm quyền lãnh đạo Quốc tế. Ban Chấp hành được bầu mới vẫn giữ nguyên
và trụ sở vẫn đặt ở Luân Đôn.
Các
nghị quyết về quốc hữu hoá các phương tiện giao thông vận tải, quyền
công hữu về tư liệu sản xuất được Đại hội thông qua nhưng vấn đề quốc
hữu hoá ruộng đất gặp phải sự phản đối kịch liệt của phái Pruđông nên
phải gác lại. Đại hội xác định, nếu không giải phóng giai cấp công nhân
về chính trị thì sẽ không thể giải phóng giai cấp công nhân về xã hội,
do đó việc thiết lập quyền tự do về chính trị là rất cần thiết.
Đại hội III của Quốc tế họp ở Brúcxen từ ngày 6 đến ngày 13-9-1868 với
gần 100 Đại biểu tham dự. Mác đã trực tiếp chuẩn bị báo cáo hàng năm
của Ban Chấp hành Trung ương và dự thảo các nghị quyết chủ yếu. Cuộc đấu
tranh gay gắt và lan rộng ở Pháp và Bỉ của giai cấp công nhân đã loại
trừ dần ảnh hưởng của phái Pruđông. Đại hội thông qua nghị quyết xác
nhận những vấn đề đã bàn trong Đại hội I ở Giơnevơ: tán thành bãi công,
thành lập các công đoàn và ngày làm việc 8 giờ, đó là những nghị quyết
chống lại Pruđông. Vấn đề quyền sở hữu ruộng đất là vấn đề được thảo
luận gay go nhất. Đại hội đã thông qua nghị quyết quan trọng đòi chuyển
ruộng đất, rừng, kênh đào, hầm mỏ và đường xe lửa, điện tín sang chế độ
sở hữu tập thể với đa số phiếu tuyệt đối. Nghị quyết đó đánh dấu sự
thắng lợi của tư tưởng vô sản đối với luồng tư tưởng tiểu tư sản trong
nội bộ Quốc tế. Tuy nhiên, phái Pruđông vẫn kịch liệt chống đối nên Đại
hội quyết định lần sau sẽ thảo luận lại.
Trong
lúc tình hình châu Âu đang căng thẳng bởi nguy cơ có thể nổ ra chiến
tranh, Đại hội Brúcxen thông qua nghị quyết có tính chất ảo tưởng, coi
tổng bãi công như là một phương pháp toàn năng'' có thể ngăn chặn nguy
cơ chiếng tranh. Mác đã phê phán nghị quyết đó và cho rằng, trong lúc
giai cấp công nhân chưa có đủ ảnh hưởng quyết định đối với các sự biến
chính trị thì Đại hội cần phải nên tiếng tố cáo và phản đối bọn gây
chiến, xâm lược.
Tháng 8-1867 tập I bộ Tư bản của
Mác được xuất bản, Đại hội thông qua nghị quyết kêu gọi công nhân các
nước chú ý nghiên cứu tác phẩm và giúp đỡ để dịch tác phẩm đó ra các thứ
tiếng. Đến Đại hội Brúcxen, đường lối do Mác đề ra đã được Quốc tế I
thừa nhận ở mức độ nhất định. Như vậy, chủ nghĩa Pruđông đã bị đánh bại
về căn bản, các hoạt động có tính chất cải lương trong Quốc tế cũng bị
đẩy lùi.
2.
Đấu tranh chống phái cơ hội chủ nghĩa Anh. Cùng với việc chống phái
Pruđông, những người mác xít còn phải đấu tranh chống lại bọn thủ lĩnh
cơ hội của công đoàn Anh. Do sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa
nên một số công nhân lành nghề được trả lương cao ở Anh biến thành tầng
lớp trên của giai cấp công nhân mà lịch sử gọi là tầng lớp “công nhân
quý tộc''. Do bị mua chuộc nên các lãnh tụ công đoàn ở Anh không muốn
tiếp tục đưa quần chúng đi theo con đường đấu tranh cách mạng. Các công
đoàn Anh chủ yếu mang tính chất tổ chức liên hợp giữa các nghề nghiệp
trong phạm vi hẹp, ít đoàn kết với nhau. Các hoạt động của công đoàn chỉ
nhằm mục tiêu kinh tế, ít quan tâm đến đấu tranh chính trị và chỉ dừng
lại ở việc đấu tranh giành quyền bầu cử, chống lại một vài đạo luật đàn
áp công nhân. Công đoàn Anh chịu ảnh hưởng của các chính đảng tư sản và
hoạt động nhằm đưa lại quyền lợi cho công nhân quý tộc.
Vấn
đề quan trọng trơng đấu tranh chống phái cơ hội chủ nghĩ Anh là thái độ
đối với phong trào giải phóng dân tộc Ailen. Giải phóng dân tộc Ailen
được coi là điều kiện đầu tiên để giải phóng giai cấp công nhân Anh,
nâng cao tinh thần quốc tế vô sản của công nhân, tẩy rửa ảnh hưởng của
chủ nghĩa sô vanh, mà giai cấp tư sản đã tiêm nhiễm vào một bộ phận công
nhân. Bọn thủ lĩnh cơ hội chủ nghĩa Anh đi theo chính sách phản động,
biện hộ cho việc nô địch. Mác đã đấu tranh chống lại, đề nghị Ban Chấp
hành Quốc tế I lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi thông qua nghị quyết lên án
chính sách xâm lược của Chính phủ Anh và phát động chiến dịch đòi ân xá
các nhà cách mạng Ailen.
3. Đấu tranh chống phái Lát xan ở Đức
Ở
Đức, chủ nghĩa Lát xan có ảnh hưởng rộng rãi trong công nhân, đặc biệt
trong Liên minh công nhân toàn Đức''. Phái Lát xan nêu vấn đề ''Luật sắt
về tiền lương'' để phủ nhận đấu tranh bãi công, đấu tranh kinh tế, phủ
nhận tổ chức công đoàn. Họ chỉ nêu việc đấu tranh để giành quyền phổ
thông đầu phiếu, lập hội sản xuất với sự giúp đỡ của chính phủ phản động
Phổ. Phái Látxan phủ nhận liên minh công nông, chủ trương liên minh với
tư sản, phản bội lại cuộc đấu tranh của quần chúng.
Phong
trào công nhân Đức trong những năm 60 dần phục hồi, không ngừng đấu
tranh chống ảnh hưởng tư sản Auguxtơ Bê ben và Vinhem Lípnếch được sự
giúp đỡ của C. Mác đấu tranh chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa Lát xan.
Ngày 6-8-1868, Đại biểu của 14 nghìn công nhân trong Đại hội Nuyrembe
tuyên bố đi theo cương lĩnh của Quốc tế I và ngày 6-8-1869, Đảng Công
nhân Xã hội - Dân chủ Đức được thành lập ở Aidơnăc, mở ra giai đoạn mới
của phong trào công nhân Đức.
4. Đấu tranh chống phái Bacunin
Vào
năm 1864, trong Quốc tế I và phong trào công nhân, cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa Bacunin, chống sách lược vô chính phủ của nó được đưa lên
hàng đầu. Chủ nghĩa Bacunin phản ánh quan điểm tư tưởng của người tiểu
tư sản bị phá sản không còn hy vọng để cứu vớt được. Nó biểu lộ tâm
trạng bất mãn, tuyệt vọng của tầng lớp thợ thủ công, tiểu tư sản thành
thị và của nông dân đã bị phá sản trong hàng ngũ vô sản. Chủ nghĩa
Bacunin lên án tất cả mọi chính phủ, coi chính phủ và tôn giáo là nguồn
gốc mọi sự đau khổ của loài người. Chủ nghĩa Bacunin gần gũi với chủ
nghĩa Pruđông là cùng đi theo con đường vô chính phủ. Chủ nghĩa Pruđông
dùng lời lẽ cải lương còn chủ nghĩa Bacunin cố làm ra vẻ cách mạng.
Bacunin đòi xoá bỏ mọi hình thức chính quyền, kể cả chuyên chính vô sản
bằng các cuộc bạo động có tính chất âm mưu, khước từ mọi hoạt động chính
trị của giai cấp công nhân, chủ trương thực hiện nguyên tắc cá nhân ngự
trị hoàn toàn với khẩu hiệu ''Tất cả vì cá nhân'', cho rằng giải phóng
cá nhân là điều kiện để giải phóng quần chúng. Bucunin cho rằng xoá bỏ
quyền thừa kế là biện pháp thủ tiêu chủ nghĩa tư bản.
Chủ
nghĩa Bacunin từ chỗ đối lập đã đi đến phủ nhận chủ nghĩa Mác, Mác chủ
trương thực hiện chuyên chính vô sản, còn Bacunin phất lên ngọn cờ vô
chính phủ. Chủ nghĩa Mác khẳng định, giai cấp công nhân đấu tranh để thủ
tiêu các giai cấp bóc lột thì chủ nghĩa Bacunin đưa ra khẩu hiệu “Bình
đẳng giữa các giai cấp''. Chủ nghĩa Mác cho rằng giai cấp công nhân là
lực lượng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa thông qua các chính đảng
của mình thì Bacunin đi tìm lực lượng trong tầng lớp lưu manh...
Cuộc
đấu tranh của Mác và Ăng ghen trong Quốc tế I chống lại tư tưởng cơ hội
tiểu tư sản và vô chính phủ của Bacunin được đưa lên hàng đầu và tiếp
tức diễn ra trong Đại hội IV của Quốc tế I.
Đại
hội IV của Quốc tế I họp ở Balơ từ ngày 6 đến ngày 11-9-1869, có 78 Đại
biểu của các nước Anh, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha và có một Đại
biểu là công nhân Mỹ tham dự.
Đại
hội thảo luận lại vấn đề sở hữu ruộng đất theo yêu cầu của phái
Pruđông. Đại hội phê chuẩn nghị quyết Đại hội Brúcxen về sự cần thiết
phải hủy bỏ chế độ tư hữu ruộng đất, đồng thời thông qua nghị quyết kêu
gọi công nhân tổ chức quần chúng và cuộc đấu tranh chống chế độ làm
thuê. Tại Đại hội đã nổ ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa những người
mácxít với phái Bacunin về quyền thừa kế tài sản. Bacunin vẫn cho rằng
việc xoá bỏ quyền thừa kế bằng pháp luật trong xã hội tư bản là biện
pháp để dần dần chuyển ruộng đất sang chế độ sở hữu tập thể. Mác cho
rằng đó là điều không tưởng và cải lương khi giai cấp tư sản và địa chủ
còn nắm chính quyền. Bị phái Bacunin lũng đoạn, Đại hội thông qua nghị
quyết với đa số phiếu nghiêng về phái vô chính phủ; nhưng về tổ chức,
phái Bacunin bị thất bại trong âm mưu chui vào Ban lãnh đạo để tăng
cường lũng đoạn Quốc tế.
Đến năm 1870, do
tình hình quốc tế biến động, chiến tranh Pháp - Phổ bùng nổ, nên Đại
hội V của Quốc tế I dự định họp vào tháng 9-1870 đã không thực hiện
được. Trong tình hình đó, với tư cách Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Quốc tế I, Mác đưa ra hai bản hiệu triệu chỉ rõ tính chất của chiến
tranh và kêu gọi công nhân Pháp - Phổ đoàn kết chống chiến tranh.
III. Quốc tế I giải tán và ý nghĩa của nó
1. Quốc tế I sau khi Công xã Pari thất bại
Quốc
tế I có vai trò to lớn trong việc bảo vệ sự nghiệp của Công xã Pari.
Những hoạt động của Quốc tế I đóng vai trò quan trọng trong sự ra đời
của Công xã. Công xã là sản phẩm tinh thần của Quốc tế I.
Ngày
18-3-1871, khi cuộc khởi nghĩa của giai cấp vô sản Pari nổ ra và sau đó
Công xã được thành lập, Mác đã nhiệt liệt hoan nghênh sáng kiến của
quần chóng. Biết Công xã chưa đủ điều kiện để giữ chính quyền, Mác đã
tìm cách hạn chế thất bại của Công xã. Thay mặt Ban Chấp hành
Trung ương, Mác đã viết tuyên ngôn về nội chiến ở Pháp, phân tích sâu
sắc tính chất của công xã với tư cách và một chính thể của giai cấp vô
sản, động thời vạch ra sai lầm và nguyên nhân thất bại của Công xã.
Sau
khi Công xã Pari thất bại, giai cấp tư sản các nước ra mặt khủng bố các
phân bộ Quốc tế. Bọn phản động rất căm tức thái độ của Mác; chúng đàn
áp, truy tố, lùng bắt các hội viên Quốc tế và Mác. Chúng dùng mọi thủ
đoạn để đàn áp công nhân và cấm các phân bộ của Quốc tế hoạt động.
Do
sự đàn áp của giai cấp tư sản phản động các nước nên Quốc tế không
triệu tập Đại hội. Quốc tế I tổ chức Hội nghị ở Luân Đôn từ ngày 17 đến
ngày 23-9-1871 để thảo luận về hoạt động của Quốc tế và đề ra nhiệm vụ
trước mắt của phong trào công nhân quốc tế. Từ kinh nghiệm của Công xã
Pari, Hội nghị đã thông qua Nghị quyết quan trọng về thành lập chính
đảng của giai cấp vô sản ở các nước.
Phái
Bacunin chống lại nghị quyết và từ chối không thực hiện. Tháng 11-1871,
chúng nhóm họp riêng ở Xônviê (Thụy Sĩ); tham gia ''Đại hội'' này chỉ
có 16 đại biểu. Chúng tuyên bố chống chuyên chính vô sản, chống đấu
tranh chính trị của giai cấp công nhân. Bọn vô chính phủ đòi triệu tập
đại hội Quốc tế, gây nhiều tác hại cho hoạt động của Quốc tế.
Đại
hội V của Quốc tế tổ chức tại La Hay từ ngày 2 đến ngày 7-9-1872 có Mác
và Ăng ghen tham dự. Đại hội khai trừ Bacunin và đồng bọn ra khỏi Quốc
tế vì tội phản bội. Đại hội xác nhận nghị quyết của Hội nghị Luân Đôn từ
ngày 17 đến ngày 23-9-1971 và nhắc nhở giai cấp công nhân các nước về
bài học của Công xã Pari, nhất là vấn đề thành lập chính đảng vô sản ở
từng nước. Đại hội chỉ rõ đấu tranh kinh tế và hoạt động chính trị liên
quan chặt chẽ vời nhau. Đại hội quyết định rời trụ sở Tổng hội sang Mỹ
vì không thể tiếp tục hoạt động ở châu Âu được. Đây là Đại hội cuối cùng
của Quốc tế I.
Hội
nghị cuối cùng của Quốc tế I họp ở Philađenphia ngày 15-7-1876 tuyên bố
giải tán Quốc tế. Quốc tế I đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử truyền bá tư
tưởng của chủ nghĩa Mác tới công nhân các nước, tạo cơ sở để thành lập
chính đảng độc lập của công nhân ở châu Âu, châu Mỹ.
2. ý nghĩa lịch sử của quốc tế I
Quốc
tế I có ý nghĩa to lớn, đó là tổ chức quốc tế đầu tiên của giai cấp
công nhân, được thành lập trên cơ sở chủ nghĩa xã hội khoa học. Quốc tế
được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp đấu tranh kinh
tế với đấu tranh chính trị là cơ sở cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã
hội của giai cấp công nhân.
Trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh các loại, Quốc tế I đã
khởi thảo những vấn đề cương lĩnh về chiến lược và sách lược của chính
đảng, góp phần làm cho phong trào công nhân có bước chuyển biến mới,
tiến tới thành lập những tổ chức công nhân có tính chất quần chúng.
Quốc tế I, dưới sự lãnh đạo của Mác và Ăngghen đã
đào tạo được nhiều cán bộ trở thành người tổ chức và lãnh đạo những
chỉnh đảng vô sản đầu tiên của phong trào công nhân quốc tế.
Quốc
tế I đã đấu tranh chống lại những trào lưu xã hội chủ nghĩa sai trái,
chuẩn bị cơ sở cho việc thành lập chính đảng công nhân trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. Cùng với việc thành lập các chính
đảng vô sản độc lập, chủ nghĩa Mác ngày càng được truyền bá rộng rãi vào
phong trào công nhân.
BVK (sưu tầm)
|
0 comments
Post a Comment