Triết gia Socrate (469 – 399BC)
1-Tiểu sử của Socrate
Socrate xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề điêu khắc, mẹ là nữ hộ sinh. Ông hướng về chính thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân chủ. Năm 399 BC, ông bị chủ nô dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật pháp, chống lại chế độ bầu cử dân chủ”. Đối với ông chỉ có văn nói sống động, và văn viết đã bị khô cứng. Vì vậy cuộc đời ông không để lại một tác phẩm nào. Chỉ biết được ông qua đệ tử của ông.
2- Quan điểm triết học của Socrate.
Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học trước nghiên cứu về giới tự nhiên. Nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên cứu về con người, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết học không gì khác hơn là sự nhận thức của con người về chính mình, “con người hãy nhận thức chính mình”. Bắt đầu từ ông, đề tài con người trở thành một trong những chủ đề trong tâm của triết học phương Tây. Vì vậy, quan điểm triết học của ông bàn đến vấn đề con người trong đời sống xã hội mà trước hết là hành vi đạo đức.
Xuất phát từ “đạo đức học duy lý”, ông cho rằng, “Hiểu biết là cơ sở của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến mới là cơ sở của đạo đức, mới là cơ sở của đức hạnh. Ai tuân theo cái thiện phổ biến thì người đó mới có đạo đức. Và muốn theo cái thiện phổ biến thì phải hiểu được nó, muốn hiểu được nó phải thông qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách thức mà về sau được gọi là “phương pháp Socrates”. Trở nên thấp kém hơn bản thân mìnhkhông phải là cái gì khác hơn ngoài sự ngu dốt, trở nên cao cả hơn bản thân mình không phải cái gì khác ngoài sự thông thái”.
Phương pháp triết học của ông gồm bốn bước : Một là “mỉa mai”, tức là nêu ra những câu hỏi mẹo, mang tính châm biếm, mỉa mai nhằm làm cho đối phương sa vào mâu thuẫn. Hai là “đỡ đẻ tinh thần”, giúp cho đối phương thấy được con đường để tự mình khám phá ra chân lý. Ba là “qui nạp”, tức là xuất phát từ cái riêng lẻ khái quát thành những cái phổ biến, từ những hành vi đạo đức riêng lẻ tìm ra cái thiện phổ biến của mọi hành vi đạo đức. Và phương pháp cuối cùng là “định nghĩa”, là chỉ ra hành vi thế nào đạo đức, quan hệ thế nào là đúng mực. Phương pháp này đối với ông chỉ có những người có tri thức như giai cấp quý tộc và các triết gia mới là những người có đạo đức. Bốn bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri thức chân thật, bản chất giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự, của nó trong đời sống xã hội.
Sự đóng góp của ông thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh đã làm nên một bước chuyển mới trong nền triết học. Cho nên, triết học Hy Lạp mới lấy ông làm tiêu chí để phân kỳ, nó là thẩm định những giá trị của tư tưởng Socrates đối với sự phát triển trong lịch sử.
Ông là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, ông không để lại cho đời một tác phẩm nào, vì ông chỉ thường xuyên đàm luận mà không viết. Ngày nay chúng ta sở dĩ biết được được về socrates là do các học trò của ông và những tư tưởng khác .
Năm 399 trước Công nguyên ông bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống chế độ dân chủ, chủ trương thay tôn giáo đương thời bằng một tôn giáo mới làm giảm hiệu lực của nước nha, là hư hỏng thanh niên. Ông đã từ chối việc cứu ông ra nước ngoài và đã uống thuốc độc tự tử trong tù.
3. Tư tưởng triết học của Socrate
Socrates khác với các nhà triết học khác, ông không hướng về nghiên cứu tự nhiên. Ông dành phần lớn công sức nghiên cứu triết học về nhân bản, về con người và về Đạo Đức, ông đã nói với các học trò rằng không nên đặt vấn đề nghiên cứu tự nhiên, vì giới tự nhiên đã được thần thánh an bài cả rồi, nếu cố công phá khám phá giới tự nhiên là xúc phạm đến thần thánh, thần thánh ở khắp mọi nơi, có sức mạnh kỳ diệu, sáng tạo ra thế giới, có thể nhìn thấy tất cả, nhưng không thích con người phát hiện ra mình.
Do vậy socrates cho rằng triết học không có gì khác hơn là sự nhận thức của con người về chính bản thân mình “ con người hãy nhận thức chính mình”, từ đây con người trở thành một trong những chủ đề trọng tâm nghiên cứu về triết học. Socrates tìm cách khám phá ra các chân lý chung cho con người trong các cuộc đàm thoại, theo ông để có cuộc đàm thoại được, những người tham gia cuộc đàm thoại phải có “ngôn ngữ chung” nhất định, ngôn ngữ đó mang tính khách quan, nhờ đó con người mới khám phá ra chân lý một cách đích thực mà ai cũng phải thừa nhận. Theo ông ý thức của con người trong cuộc đàm thoại, ngoài yếu tố chủ quan, còn có một nội dung khách quan, có tri thức phổ biến mang tính tổng quát. Đó là những tri thức chung mà mỗi con người chúng ta có được bằng nỗ lực của mình. Socrates cho rằng tri thức chung đó là chân lý khách quan thu được trong các cuộc đàm thoại mà ai cũng phải thừa nhận. Nên ý kiến chủ quan của mỗi người không phải là tiêu chuẩn của chân lý. Theo ông khám phá ra chân lý đích thực về bản chất sự vật tức là phải hiểu nó có khái niệm. Nếu không có khái niem xem như không có tri thức. Một vấn đề được lý luận rõ ràng, có lô gíc dễ thuyết phục.
4. Nhận thức luận của Socrate.
Nhận thức luận của ông chủ yếu là thể hiện qua đạo đức của con người. Đạo đức học của ông mang tính chất duy lý, ông thừa nhận Đạo Đức và Tri Thức thống nhất là một “ Mỗi điều thiện đó là tri thức và mỗi điều ác đó là sự dốt nát”, mỗi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát của chúng ta. Ông cho rằng cai thiện phổ biến là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh, muốn tuân thủ theo cái thiện thì phải nắm bắt được nó, hiểu nó, để phát hiện được cái phổ biến, phải có phương pháp tìm ra chân lý thông qua các cuộc tranh luận. Theo socrates có 4 phương pháp:[8]
Một là “mĩa mai” đây là một thủ pháp phản biện rằng cách nêu lên những câu hỏi sao cho người đối thoại tự thấy mâu thuẩn với ý kiến của mình, từ đó mới thừa nhận sai lầm trong ý kiến đưa ra, thấy được sự thiếu xót ngu dốt của mình.
Hai là “ đỡ đẻ “ đây là thủ pháp đi liền với thủ pháp thứ nhất, và được thực hiện sau khi tiến hành thủ pháp “ mỉa mai”, bởi vì sau khi làm cho đối phương tranh luận thấy được cái sai của mình thì cần phải giúp đỡ họ tìm ra lối thoát bằng cách đạt tới tri thức đúng trừ bỏ quan điểm sai.
Ba là “ quy nạp” mục đích của yếu tố này là từ những cái riêng lẻ khái quát lên thành cái chung, có ý nghĩa phổ biến, nghĩa là từ những hành vi đạo đức cụ thể, riêng lẻ phải phân tích, so sánh để tìm ra cái thiện phổ biến của mọi hành vi đạo đức.
Bốn là “xác định “, chủ yếu chỉ ra những hành vi Đạo Đức thuộc loại nào, chúng có phụ thuộc và quan hệ với nhau như thế nào.
Socrates đưa nhieu ví dụ để chứng minh: nếu không hiểu được cái chung cái phổ biến, thì người ta không thể nào phân biệt cái chính nghĩa và cái phi nghĩa, cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu ….
5. Quan niệm “ Hãy tự biết người” của Socrate
Trong đền thờ thần Apollon ở Delphes đã có câu chăm ngôn; “Ngươi tự biết ngươi”. Socrates đã lấy câu châm ngôn ấy mà triển khai sâu rộng về mọi mặt, mọi hoạt động trong cuộc đời của socrates, đối với bản thân, cũng như đối với người khác chỉ có một điều duy nhất, nhìn và dẫn cho người ta thấy, làm cho người ta thấy chính bản thân của mỗi người. Hướng về cái nhìn chính ta, nhìn về con người của ta. Mỗi người hãy lam như thế. Tại sao thế gian loài người điên đảo? Tại sao lòng người tràn đầy dục vọng? tại sao giả dối, thù hiềm tràn lan ? ấy chỉ vì ta chú trọng đến những sự vật, sự kiện quanh ta, trong môi trường ta sống mà quên mất con người của ta. Người ta quên mà không biết rằng mình đang quên cái ta thật sự. Quan điểm này cũng tương quan với quan điểm đạo Phật.
Sự quên lãng đó socrates cho rằng; người ta chỉ làm chỉ nghĩ theo bên ngoài, tức là theo dư luận, thành kiến, tình cảm nhất thời, theo ham muốn, tiền tài giàu sang quyền lực … người lười suy nghĩ không thật sự suy nghĩ, người chỉ châm chú những thứ bên ngoài bản than, chỉ nhìn thoáng qua chính bản thân mình. Bởi vì theo thường tình người ta còn cạnh tranh giết hại, giành giựt các thứ bên ngoài. Nếu con người nhìn trở về bản thân mình, biết suy nghĩ sâu xa, suy nghĩ độc lập, không bị dục vọng tình cảm yêu ghét tác động sẽ thấy được ánh sáng ngời chiếu bên trong con người mình. Anh sáng Socrates nói đây là ánh sáng chí thiện, là cái Lý Trí Trong Sáng là Tình Yêu Thương. Anh sáng bên trong con người là ánh sáng nội tại, tạo hóa sinh ra, ai cũng có ánh sáng nội tại vẫn hằng hữu trong con người, nhưng người ta bị những thứ phù phiếm bên ngoài thu hút, lao tâm khổ trí để chạy theo cái xung quanh.
Nếu ngày nào, con người còn bỏ quên ánh sáng nội tại, mà chỉ lo cái bên ngoài, thì người ta chưa đích thực sống với chính. Socrates đã nói rằng; “Anh sáng nội tại trong con người ví như ánh sáng mặt trời, có thể toả khắp nơi. Không một thứ nào bên ngoài con người như tiền tài danh vọng, nhà cao cửa rộng lại tỏa rạng hơn nó.” Chính vì những quan điểm đó mà Socrates đã trọn đời đi lang thang truyền dạy, và cũng chính vì nó mà socrates sẵn lòng hy sinh mạng sống của mình.
Socrates cho rằng con người bỏ đi ánh sáng tâm linh thì sẽ như thế nào?[9]
Hầu hết thế nhân chỉ là con rối giữa cuộc đời mà không còn là con người đích thực của họ. Người ta nói mà không biết những gì mình đang nói, làm mà không biết rõ việc mình làm, tất cả là trống rỗng và dối gạt. Một con người không tự chủ, một con rối giữa đời. Họ không phải là con người độc lập mà phải gọi họ đích thực là nô lệ. Dù cho giàu có đến mấy cũng là một người nô lệ. Nô lệ của dục vọng, của ham muốn….và họ không còn tự mình định đoạt công việc và số phận của mình.
Tạo hóa ban cho mỗi người cái tâm yêu sự lành thiện, không cầu mong gì cả trong lúc làm lành, đấy là Chí Thiện. Ban cho con người lý trí thẳng ngay để phân biệt điều tốt điều xấu, đấy là lý trí trong sáng. Phú sinh cho mỗi người lòng yêu thương, đấy là tình yêu thương. Ba điều trên là ánh sáng nội tại, ai cũng có. Người sống trên đời tốt đẹp và hoàn thiện là do ánh sáng ấy mà nên. Xã hội loài người hòa bình, thịnh vượng ấm no cũng là nhờ những người dân trong xã hội trở về với ánh sáng tâm linh ấy. Nó là căn bản của những người đích thực là một con người, nó là những điều kiện cho một thế giới thái bình mà chúng ta mơ ước.
Anh sáng nội tại chính là luân lý Đạo Đức và tinh thần sáng suốt. Cho nên socrates kêu gọi con người trở về sống với nội tại, tức là trở về Đạo Đức, luân lý. Xã hội thái bình theo Socrates cũng là một xã hội Đạo Đức luân lý ngự trị điều hành.
Socrates nói rằng con người trở về sống áng sáng tâm linh nội tại sẽ như thế nào?
Đó là một người tự biết về mình, một người đạo đức, nhân cách thanh cao, nói những lời đúng đắn. Người ta biết rõ rằng đạo đức thì chân thật bền lâu, hòa bình an ninh, đem lại hạnh phúc, còn những thứ vật chất phù hoa chỉ là tạm bợ, nay còn mai mất, nó nguyên nhân dẫn đến tội ác, đem đến khổ đau. Nếu có lý trí trong sáng trở về mình, tự hiểu mình sống có đạo đức thì xã hội ngày càng tốt đẹp. Đó là kết quả của suy nghĩ, tư duy. Với lý trí trong sáng đưa ta tới tư tưởng thích nghi, hoà hợp với chí thiện, đây là luận đề hoà hợp trong triết lý của Socrates.
Lý trí trong sáng loại bỏ lý trí rối rắm;
Những tư tưởng ích kỷ, hại người, những ý nghĩ ám muội, những âm mưu gian xảo, không thuộc lý trí trong sáng. Đó là phần lý trí rối rắm của những tâm hồn tà gian ác độc, rời bỏ chí thiện và tình yêu thương.
Trong xã hội đời thường của Hy Lạp trên 2500 năm trước - thời Socrates, và thực tại thế giới ngày nay ta thấy đại đa số người ta lười tư duy sáng tạo. Con người hay suy nghĩ theo lý trí rối rắm, những khiếm khuyết tệ hại đó làm cho thế giới loạn lạc, loài người suy đồi. Do vậy muốn bỏ đi lý trí rối rắm đó để xây dựng một con người đích thực thì phải qua ba việc:
a-Tự Mình Thanh Tẩy Mình
Khi Socrates đặt câu hỏi với người đối thoại, ông luôn khơi gợi cho con người ấy trở về quán xét mình. Người ấy thấy mọi điểm tựa, mọi điều ham thích mà họ lao tâm tìm kiếm… đều hoàn toàn sụp đổ, khiến người ta sững sờ. Bây giờ người ấy đột nhiên đứng trước một con người mới cũng lại là chính họ. Do họ mới khám phá ra điều này vô cùng lợi ích xây dựng con người tự do, đích thực là chính mình. Tình trang ấy là tự thanh tẩy mình, có thể nói như Hòa thượng Thanh Từ là sự “Giải ngộ”.
b- Sự Tự Định Đoạt Độc Lập Tự Chủ
Sau khi con người tự Thanh Tẩy, thì con người có một tinh thần và trí thông minh mới mẻ, nhờ nhìn và nhận định sự việc không hoặc ít sai lầm, nhận thức sáng suốt hơn. Bởi thế trí thông minh loại bỏ cả những thành kiến, định kiến trở thành vô tư hơn. Nhờ có tinh thần sáng suốt nên con người tự định đoạt việc làm của mình một cách độc lập và tự chủ, không hoặc ít lệ thuộc bởi tác nhân khác.
c-Sự Xây Dựng Con Người Chân Chính, Đích Thực
Con người tàn ác xấu xa, dù quyền lực lóe mắt thiên hạ, dù tiên bạc chất như núi cũng luôn là kẻ khổ sở, vì là kẻ phạm tội trước ánh sáng tâm linh nội tại của chính mình. Trái lại người sống hòa hợp với ánh sáng tâm linh với cái Chí Thiện và Tình Yêu Thương, thì luôn luôn được thư thái, dù gặp những nghịch cảnh của cuộc đời cũng không ảnh hưởng đến tâm hồn thư thái của họ. Nếu bị cư xử việc bất công, người đạo đức vẫn sẵn sàng gánh chịu. Cũng như Socrates cam chịu án tử hình dù án ấy bất công. Một việc làm bị người khác hay một xã hội hiểu lầm …. Tất cả những trường hợp như thế, người đạo đức vẫn xem là những cơ hội để họ có hành vi cao cả, xây đắp thêm hình tượng con người chân chính. [10]
Bởi thế socrates nói; “ Đức hạnh không có lúc chấm dứt, nó luôn luôn tạo tác nên”. Nên trước lúc chết ông nói với Criton: “Các con chỉ chôn cái thể phách của thầy thôi”.
6-Sự Tương Quan Triết Lý của Socrate với Quan Điểm Phật Giáo
6.1-Hãy Tự Biết Người
Qua triết lý “hãy tự biết ngươi” của Socrate cho chúng ta thấy rằng tư tưởng của Socrate đã tương quan rất nhiều với tư tưởng của Phật Giáo[11], điển hình với những câu: “Trong môi trường ta sống mà quên mất con người của ta. người ta quên mà không biết rằng mình quên cái ta thật sự.” hay “Anh sáng nội tại trong con người ví như ánh sáng mặt trời, có thể toả khắp nơi. Không một thứ nào bên ngoài con người như tiền tài danh vọng, nhà cao cửa rộng lại tỏa rạng hơn nó”v.v…
Như vậy với những ý tưởng này thì trong Phật Giáo chúng ta cũng thường bắt gặp qua những lời dạy của Đức Phật qua các kinh sách; “Mọi việc làm hành động ta cần phải tự chủ, vì tự chủ sẽ giúp ta sáng suốt khi làm bất cứ điều gì, nhìn nhận một cách chính xác không đưa đến việc sai lầm. Đức phật đã khẳng định: “Con người là chủ nhân của nghiệp, là người thừa tự nghiệp” hay “Hãy tự mình làm hòn đảo nương tựa cho chính mình, hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi” cho nên Đức Phật đã bác bỏ tất cả các vấn đề siêu hình không có khả năng đưa đến sự giải thoát khổ đau mà con người phải đối mặt gánh chịu hằng ngày trong cuộc sống.
6.2-Trở Về Sống Anh Sáng Tâm Linh Nội Tại
Socracte cho rằng; “Con người trở về sống với ánh sáng tâm linh nội tại của mình thì con người có đạo đức, nhân cách thanh cao, nói những lời đúng đắn”. Với triết lý nhà Phật không dừng ở đây mà còn tiến xa hơn nữa. Đức phật đã dạy; “Muốn diệt được những tâm tán loạn, vọng chấp, thì không gì bằng là ta hãy trở về sống với bản tâm thanh tịnh sẳn có của mình”[12]. Nếu ta trở về với chính mình thì, việc làm và lời nói chúng ta đúng đắn, có một nhân cách thanh cao, hơn nữa trở về chính mình là một phướng pháp giúp chúng ta đoạn trừ vọng chấp, luôn rạng lọc tâm ý trong sạch, nếu chúng ta hằng sống với tánh ấy thì đây là con đường giúp chúng ta đạt được quả vị an lạc giải thoát. Đức phật cho rằng con người sỡ dĩ trôi lăn trong vòng sanh tử là cũng chính luôn chạy theo dục lạc thế gian (Tham ái)[13], cứ lấy khổ mà làm vui, cho tất cả dục lạc điều là sở đắc của chính mình. Mà quên đi viên ngọc quý ở trong ta[14]. Do đó Đức Phật đã đưa ra phương pháp trở về chính mình là cho chúng ta thấy rằng con đường an lạc và hạnh phúc chính ngay nơi bản tâm chúng ta không tìm đâu khác mà có được.
6.3-Không Trở Về Với Anh Sáng Tâm Linh Thì Như Thế Nào?
Socrates đã nói rằng con người không trở về với ánh sáng tâm linh thì; “Hầu hết thế nhân chỉ là con rối giữa cuộc đời mà không còn là con người đích thực của họ. Người ta nói mà không biết những gì mình nói, làm mà không biết rõ việc mình làm. Tất cả là trống rỗng và dối gạt. Một con người không tự chủ, một con rối giữa đời. Họ không phải là con người độc lập mà phải gọi họ đích thực là nô lệ. Dù cho giàu có đến mấy cũng là một người nô lệ. Nô lệ của dục vọng, của ham muốn….và họ không còn tự mình định đoạt công việc và số phận của mình.”[15]
Qua những triết lý của Socrates ta thấy rằng rất tương đồng với tư tưởng triết lý Phật Giáo. Đức Phật Ngài nói đại ý: “Sỡ dĩ con người trôi lăn trong vòng sanh tử là cũng từ nơi ta không tự chủ được chính mình luôn chạy theo dục vọng tìm cầu, những thứ phù hoa ảo ảnh, họ không biết rằng đây là những sợi dây trói buộc đưa ta đến khổ đau”. Con người khổ đau vì con người không có nhận thức chuẩn mực về thực tại và trước thực tại. “Nguồn gốc của mọi đau khổ là do vô minh”. Đức Phật ngài đã lặp lại nhiều lần trong câu nói quan trọng đó. “Cái khổ của con lừa, con lạc đà chở nặng, cái khổ của kẻ trôi lăn trong lục đạo chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận thức được thực tại, không biết được hướng đi mới thật là khổ”[16].
Tất cả những nghiệp nhân xấu ác và vụng của con người đều bắt nguồn từ vô minh, từ chổ không nhận thức được chân tướng hiện hữu thực tại. Hiểu sai lạc đi đến biến kế sở chấp. Màn vô minh dục vọng và tư kiến đã khiến cho trí tuệ con người yếu kém, vô năng, chấp trước. Biến có nghĩa là cùng khắp tất cả, kiến chấp nghĩa là nhận thức và suy tưởng sai lầm, rồi bảo thủ những nhận thức và suy tưởng sai lầm ấy. Vì vậy ta không nắm được thực tại chính mình, mà ta chỉ tạo trong nhận thức những hình bóng sai lạc méo mó về thực tại và điều đó cũng đưa ta vào nẻo khổ đau.
Những ý tưởng của socrate chỉ đưa cho con người đến chỗ hạnh phúc và an lạc thực tại trong cuộc đời này. Còn đối với triết lý Phật Giáo Ngài đã dẫn con người đi xa hơn, đạt đến sự an lạc cứu cánh trong đời hiện tại và cả tương lai.
6.4- Cái chết của Socrate
Ông là nhà triết học cổ đại Hy Lạp đầu tiên đề cập đến con người, ông quan niệm “Hãy tìm hiểu chính mình”, đó là chuẩn mực về đạo đức. Nền tảng đạo đức của ông là Đạo đức học duy lý , nó có ba đặc tính cơ bản: Tri thức, kết hợp lí luận với thực tiễn, hạnh phúc là làm điều thiện.[17] Chính cái tính hiền triết đạo đức trong ông như là giá trị của cái thiện tiềm ẩn mà cả đời ông đã theo đuổi.
Socrate ủng hộ chủ nô quí tộc thời bây giờ, lúc chủ nô dân chủ lật đổ chủ nô quí tộc cũng là lúc cánh cửa cuộc đời ông khép lại.
Socrate bị chủ nô dân chủ cáo buộc ông là “đầu độc và làm bại hoại đạo đức của lớp trẻ”. Ông bị kết án tử hình bằng độc dược.
Môn đệ của ông đã lo lót cho cai ngục để cướp ngục, đưa ông ra khỏi nhà tù nhưng ông từ chối điều đó. Có người cho rằng lúc đó ông đã 70 tuổi, đã già nên không thiết tha gì cuộc sống, ông thấy nó đã quá đủ. Nhưng họ đâu hiểu rằng bản năng sinh tồn của bất cứ ai trên cõi đời này cũng như nhau, chính những người già họ lại càng sợ phải chết vì quỉ thời gian của họ không còn bao lâu nên họ cố mà sống. Ông nói với các môn đệ: “Hãy cứ vui đi, các con chỉ chôn cái thể phách của thầy”.[18] Ông đã an nhiên đón nhận cái chết không chút run sợ.
Người giữ ngục trước lúc đưa bát thuốc độc cho ông lại phân bua, vì nhiệm vụ bắc đắc dĩ ông ta phải làm thế và dặn Socrate bình tỉnh đón nhận. Socrate nhẹ nhàng trả lời: “Tôi sẽ làm như lời ông nói và chúc mọi sự tốt lành”. Socrate quay qua Criton, người học trò thân cận bảo:
-Người ai ngục đó rất tốt với thầy từ lúc thầy vào đây, y đến thăm hỏi luôn, bây giờ y thật tình mến tiếc. Nhưng Criton ơi! Hãy đem chén thuốc độc vào đây nếu thuốc đã chế xong, còn nếu thuốc chưa chế xong hãy bảo người ta chế.
Ông căn dặn một cách nhẹ nhàng, nhã nhặn như bảo học trò dọn cơm lên ăn hàng bữa, như những lời dạy ngọt ngào thuở nào trên lớp học dưới những tàng cây.
Criton muốn kéo dài thời khắc ấy, nói trong nghẹn ngào:
-Thưa sư phụ, mặt trời còn trên đỉnh đồi. Nhiều kẻ đợi trời tối mới uống và trước khi uống họ được ăn uống no say, thỏa thích. Xin sư phụ chớ gấp gáp hãy còn thì giờ.
Socrate nói:
-Những kẻ ấy làm rất phải vì họ có lợi trong việc chần chờ ấy, nhưng ta thì thấy không có lợi gì khi uống chén thuốc độc chậm hơn một chút, đời của ta kể như đã hết. Hãy làm như ta đã nói và xin đừng từ chối.
Những lời đối thoại giữa ông và đệ tử như là cuộc nói chuyện đơn thuần, ông không tỏ ra bất cứ điều sợ hãi nào cả. Sự tôn nghiêm của một nhà hiền triết đã bọc lộ rõ ràng nhất trong thời khắc quyết định nhất.
Ở đây chúng ta thấy Socrate sống thật như cuộc đời của ông, trong tâm ông đã thấu triệt bản chất của cuộc sống, quy luật tất yếu của cuộc đời. “Sống chết là lối đi về, hiệp tan là trò dâu bể”. Nên ông sẵn sàng đón nhận nó như là một qui luật tất yếu mà thôi. Cái hay của nhà hiền triết ở chỗ ông đã ngộ nhập những gì ông đã nói chứ không phải ông nói suông. Vì trên đời này không ít kẻ cho rằng tự tại trong sống chết nhưng trước lúc chết họ lại hoảng loạn, lo lắng, thất vọng.
Có thể nói cái chết của Socrate cũng bình thường như bao người bị tội và xử hành huyết. Nhưng riêng ông thái độ đón nhận cái chết của ông làm cho ông trở nên phi thường trong cái tưởng chừng như bình thường đó.
Người cai ngục đi vào cầm theo chén thuốc độc. Thấy thế Socrate nói:
-Ông bạn là người thông thạo về vấn đề này, xin ông cho tôi biết tôi phải làm thế nào?
Thật ra một triết gia như Socrate thì việc cầm chén thuốc độc đưa vào miệng để kết thúc cuộc đời là quá dễ dàng. Ở đây ông lại hỏi người có phận sự nơi đó là làm như thế nào. Đây là điểm làm cho ông khác những người khác. Thay vì lúc đó họ buồn rầu, chửi rủa, ngất xỉu. Nhưng đối với Socrate ông tỏ ra tôn trọng tất cả, ông không sống vì bản thân ông mà sống vì mọi người, đến cái chết của riêng ông cũng chết sao cho đúng với qui định nơi đó. Điểm này ta thấy giá trị đạo đức trong ông là không muốn làm phiền ai cả, muốn cho mọi người không phải khó xử vì mình, ông muốn mọi người vui vẻ.
- Socrate bưng chén thuốc uống, gương mặt ông không thay đổi sắc, sau khi nghe cai nguc dặn dò vài điều về tiến trình diễn ra cái chết.
Socrate nói với cai ngục như có vẻ nói khôi hài:
-Trước khi uống tôi có cần dành một phần chén thuốc dâng cúng thần linh không?
-Chúng tôi chế thuốc vừa đủ. Cai ngục nghẹn ngào trả lời.
-Tôi hiểu rồi, nhưng dù sao tôi cũng cầu nguyện thần linh phù hộ cho tôi trong cuộc hành trình sang thế giới bên kia.
Nói xong Socrate cầm chén thuốc lên uống một cách vui vẻ.
Trước thời Socrate vai trò thần thánh vô cùng quan trọng, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của bao thế hệ. Chế độ đa thần giáo luôn ngự trị trong họ, sự kính tin thần linh xem là tuyệt đối. Có những món ngon vật lạ gì cũng dâng lên cúng thần linh rồi mới được ăn tỏ ra hiếu thuận. Ở đây chén thuốc độc, Socrate lại hỏi cần phải dành một phần cúng thần không. Chi tiết này cho ta thấy hai vấn đề: một là Socrate xem chén thuốc độc này như cao lương mĩ vị, nó là cổ xe trời tạo điều kiện cho ông cởi bỏ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Thứ hai ẩn ý của ông muốn chế giễu họ quá tin vào thần thánh đến mức mê tín.
Lúc ông uống thuốc độc xong các môn đệ của ông đau lòng khóc lốc. Ở đó có những triết gia nỗi tiếng như Platon, Criton, Apollodore. Apollodore khốc rống lên. Socrate nói:
-Cái gì lạ vậy? Ở đây không cho phụ nữ vào là để tránh cái cảnh này. Socrate ngầm trách học trò của mình tỏ ra một chúc tôn nghiêm của những triết gia, ai như nữ nhi thường tình vậy. Ông nói tiếp:
-Người ta cần chết trong thanh tịnh, các con hãy bình tĩnh và nhẫn nại.
Socrate đi dạo một hồi rồi thấy bụng hơi nặng. Nảy giờ người cai gục quan sát hỏi:
-Ông thấy gì không?
-Không.
Ông nằm xuống, người cai ngục đến ấn vào hai chân ông, và nói:
-Tôi thấy hai chân ông đã lạnh và cứng. Socrate cũng lấy tay ấn thử và nói:
-Khi nào thuốc ngấm đến tim là xong.
Khi người ông đã lạnh đến thắt lưng ông bỏ mảnh vải che mặt và nói:
-Criton, thầy nợ Aselepius một con gà, con nhớ trả món nợ ấy.
-Con sẽ trả, còn gì nữa không?
-Ông lặng lẽ ra đi không một điều hối tiếc.[19]
Sự vĩ đại của ông là cái chết đã đến bụng rồi mà ông còn thảng nhiên nhờ đồ đệ trả hộ con gà. Lúc chết như thế mà ông còn nghĩ về người khác.
Tuy Socrate chỉ là một triết gia phương tây, không phải là thiền sư chứng đạo, nhưng phong cách của ông cũng không thua vì những vị ấy. Vẫn bình thản như Bàn Long Uẩn, vẫn hiêng ngang như Tổ Sư Tử, vẫn oai hùng như Mục Kiền Liên…
Chính trong cuộc sống đời thường của sinh lão bệnh tử, Socrate đã bức phá ra khỏi cái bình thường đó làm cho ông trở nên phi thường, đáng được người đời ghi nhận.
(Theo Thích Trí Huệ)
0 comments
Post a Comment