NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU, CỦA NHÀ NƯỚC F. Engels Nguồn gốc của gia đình LỜI TỰA VIẾT CHO LẦN XUẤT BẢN THỨ NHẤT NĂM 1884
Những chương sách sau đây, theo một nghĩa nào đó, được viết ra để thực
hiện một di chúc. Chính Karl Marx, chứ không phải ai khác, đã định trình
bày những kết quả của các công trình nghiên cứu của Morgan, dưới ánh
sáng của các kết luận của mình - trong chừng mực nào đó, có thể nói là
của hai chúng tôi - khi nghiên cứu lịch sử theo quan điểm duy vật, qua
đó làm rõ tất cả tầm quan trọng của chúng. Là vì Morgan, ở châu Mĩ và
theo cách của mình, đã phát hiện lại quan điểm duy vật về lịch sử mà
Marx đã phát hiện ra cách đây bốn mươi năm; và khi so sánh thời đại dã
man với thời đại văn minh, ông đã đi đến những kết luận về cơ bản là
giống như Marx. Cũng như các kinh tế gia nhà nghề ở Đức bao năm qua đã
bận rộn sao chép bộ “Tư bản”, đồng thời ngoan cố dìm nó xuống; các đại
biểu của khoa học “tiền sử” ở Anh đã đối xử với cuốn “Xã hội Cổ đại”1
của Morgan y như vậy. Cuốn sách này của tôi chỉ là sự thay thế yếu ớt
cho công trình mà người bạn quá cố của tôi đã không kịp hoàn thành.
Nhưng tôi đã có được những nhận xét phê bình, ghi đại ý những đoạn trích
mà ông lấy từ cuốn sách của Morgan; và tới lúc thích hợp, sẽ dùng lại
những nhận xét ấy. Theo quan điểm duy vật, thì nhân tố quyết
định trong lịch sử - xét đến cùng - là sản xuất và tái sản xuất ra những
nhân tố cần nhất cho đời sống. Bản thân sự sản xuất ấy lại có hai mặt.
Một mặt là sản xuất tư liệu sinh hoạt: thức ăn, quần áo, nhà cửa, và
những công cụ để sản xuất những thứ đó; mặt khác là sản xuất ra chính
con người, để duy trì nòi giống. Tổ chức của xã hội loài người - ở một
thời đại lịch sử cụ thể và ở một quốc gia cụ thể - là do hai loại sản
xuất đó qui định: một mặt là trình độ phát triển của lao động, mặt khác
là trình độ phát triển của gia đình. Lao động càng kém phát triển, lượng
sản phẩm của lao động (cũng như lượng của cải trong xã hội) càng bị hạn
chế; thì quan hệ huyết tộc càng chi phối trật tự xã hội. Nhưng chính
trong cái kết cấu xã hội dựa trên quan hệ huyết tộc đó, năng suất lao
động ngày càng phát triển; tư hữu và trao đổi, chênh lệch giàu nghèo,
khả năng sử dụng sức lao động của người khác, và do đó cơ sở của mâu
thuẫn giai cấp cũng ngày càng phát triển: các yếu tố xã hội mới - qua
nhiều thế hệ - ra sức làm cho trật tự xã hội cũ thích ứng với điều kiện
mới, đến khi giữa chúng không thể có sự thích ứng nữa, và đưa đến một
cuộc cách mạng hoàn toàn. Xã hội cũ, dựa trên quan hệ huyết tộc, đã tan
vỡ trong cuộc đấu tranh giữa các giai cấp mới hình thành; một xã hội mới
thay thế nó; trong đó, quyền lực xã hội được tập trung vào tay Nhà
nước, những đơn vị trực thuộc của Nhà nước không còn là đoàn thể huyết
tộc, mà là đoàn thể địa phương; trong đó, chế độ sở hữu đã hoàn toàn chi
phối gia đình; trong đó, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp - cái
làm nên nội dung chính của toàn bộ lịch sử thành văn - đều được tự do
phát triển. Công lao lớn của Morgan là đã phát hiện và khôi
phục - trên những nét lớn - cái cơ sở tiền sử đó của lịch sử thành văn
của chúng ta; và từ quan hệ huyết tộc của người Indian Bắc Mĩ, ông đã
tìm thấy chìa khóa để giải quyết những vấn đề quan trọng nhất - đến nay
vẫn còn là bí ẩn - của lịch sử Hi Lạp, La Mã và Germania cổ đại. Cuốn
sách của ông không phải chỉ một ngày là xong. Gần bốn mươi năm qua, ông
đánh vật với các tài liệu, đến khi hoàn toàn nắm được vấn đề. Nhưng
chính điều đó làm cho cuốn sách ấy trở thành một trong rất ít các tác
phẩm vạch thời đại ở thời chúng ta. Ở bản trình bày sau đây,
bạn đọc nói chung sẽ phân biệt dễ dàng: phần nào được lấy từ cuốn sách
của Morgan, phần nào do tôi thêm vào. Trong các phần về Hi Lạp và La Mã,
không chỉ giới hạn trong các cứ liệu của ông, tôi còn thêm vào những gì
mình biết. Các phần về người Celt và người Germania chủ yếu là của tôi;
ở đây Morgan hầu như chỉ có những tài liệu thứ sinh; về người Germania,
ngoài Tacitus ra thì ông chỉ có những tài liệu vô dụng, đã bị xuyên tạc
theo kiểu tự do chủ nghĩa của ông Freeman thôi. Những nghiên cứu về
kinh tế của Morgan là đủ so với mục đích của ông, nhưng lại là rất thiếu
so với mục đích của tôi, nên tôi viết lại cả. Sau cùng, với những kết
luận mà tôi không trực tiếp dẫn chứng của Morgan, thì đương nhiên là tôi
chịu trách nhiệm cả. LỜI TỰA VIẾT CHO LẦN XUẤT BẢN THỨ TƯ BẰNG TIẾNG ĐỨC NĂM 1891 VỀ LỊCH SỬ GIA ĐÌNH NGUYÊN THỦY (BACHOFEN, MCLENNAN, MORGAN)1
Các bản trước đây của cuốn sách này, được in với số lượng lớn, cũng đã
bán hết từ gần nửa năm nay; nhà xuất bản đã vài lần đề nghị tôi chuẩn bị
cho lần xuất bản mới, nhưng tôi phải làm nhiều việc cấp bách hơn. Bảy
năm đã qua từ khi bản đầu tiên xuất hiện; từ đó đến nay, hiểu biết của
chúng ta về các hình thức nguyên thủy của gia đình đã có những tiến bộ
quan trọng. Do đó cần phải bổ sung và thay đổi khá nhiều; nhất là tôi sẽ
không thể sửa sang gì nữa trong một thời gian, vì theo dự kiến, các
trang sách sẽ được đúc khuôn. Tôi đã xem kĩ toàn bộ văn bản và
bổ sung rất nhiều, hi vọng rằng chúng sẽ tương ứng với thực tế hiểu biết
hiện nay. Ở lời tựa này, tôi cũng tóm tắt sự phát triển của các quan
điểm về lịch sử gia đình, từ Bachofen đến Morgan; đó là vì các nhà nhân
loại học Chauvin chủ nghĩa người Anh vẫn ngoan cố dìm đi cuộc cách mạng -
mà những phát hiện của Morgan đã tạo ra - trong quan điểm của chúng ta
về lịch sử nguyên thủy, trong khi họ vẫn tước đoạt những thành tựu của
Morgan mà không hề e ngại. Ở vài nước khác, tấm gương của nước Anh đã
được noi theo một cách quá đáng. Cuốn sách của tôi đã được dịch
ra nhiều thứ tiếng. Trước hết là tiếng Ý: L’origine delta famiglia,
delta proprieta privata e dello stato; version riveduta dall’ autore, di
Pasquale Martignetti, Benevento, 1885. Tiếng Rumani: Origina famdei,
proprietatei private si a stalului; traducere de Joan Nadejde; in trong
tạp chí Contemporanul ở Iaşi, từ tháng Chín 1885 tới tháng Năm 1886.
Tiếng Đan Mạch: Familjens, Privatejendommens og Statens Oprindelse;
Dansk, af Forfattern gennemgaaet Udgave; besorget af Gerson Trier,
København, 1888. Một bản dịch tiếng Pháp của Henri Ravé, dựa trên bản
này, đã được đăng báo. Cho tới đầu những năm 60, người ta vẫn
chưa nói được gì về lịch sử gia đình. Về mặt này, sử học hồi đó vẫn hoàn
toàn chịu ảnh hưởng từ Bộ sách năm quyển của Moses. Hình thức gia
trưởng của gia đình, được miêu tả trong đó tỉ mỉ hơn bất kì chỗ nào
khác, không chỉ được mặc nhiên coi là hình thức cổ nhất, mà còn được
đồng nhất với gia đình tư sản ngày nay - trừ chế độ nhiều vợ; do đó gia
đình hình như không trải qua sự phát triển lịch sử nào cả; nhiều lắm thì
người ta cũng chỉ nhận là ở thời nguyên thủy, có thể có một thời kì
quan hệ tính giao bừa bãi. Thực ra, ngoài gia đình cá thể (một vợ một
chồng), còn có cả chế độ nhiều vợ ở phương Đông và chế độ nhiều chồng ở
Ấn Độ và Tây Tạng; nhưng không thể xếp ba hình thức đó theo thứ tự lịch
sử, chúng tồn tại bên cạnh nhau, không có bất kì liên hệ nào với nhau. Ở
một số bộ tộc thời cổ đại, cũng như vài giống người mông muội vẫn còn
tồn tại, huyết tộc được tính theo mẹ chứ không theo cha; thế nên chỉ mẫu
hệ mới được coi là có giá trị; ở nhiều dân tộc ngày nay, hôn nhân trong
nội bộ một số tập đoàn lớn nào đó - hiện chưa được nghiên cứu đầy đủ -
vẫn bị cấm, và tục lệ đó còn ở khắp nơi. Người ta đều biết những điều
đó, những ví dụ mới về chúng vẫn đang được tập hợp lại. Nhưng không ai
lí giải được chúng; trong cuốn “Nghiên cứu lịch sử nguyên thủy của loài
người ...”(1865)2 của E. B. Tylor, chúng bị coi là “những tục lệ kì dị”;
giống như việc cấm dùng đồ sắt chạm vào củi đang cháy, hay những điều
vô lí mang tính tín ngưỡng như vậy, hiện vẫn còn ở một số dân mông muội.
Lịch sử gia đình chỉ thực sự có từ năm 1861, khi cuốn “Mẫu quyền”3 của
Bachofen ra đời; trong đó tác giả đưa ra các luận điểm sau: 1) Lúc đầu
loài người sống trong tình trạng quan hệ tính giao bừa bãi, mà Bachofen
gọi nhầm là “tạp hôn”; 2) Tình trạng đó làm cho việc xác định cha đẻ là
không thể, nên huyết tộc chỉ có thể tính theo nữ hệ 3) Vì thế, những
người đàn bà, với tư cách là mẹ - người duy nhất chắc chắn đã sinh ra
thế hệ trẻ, đã rất được tôn kính; và theo Bachofen thì nó đạt đến mức
trở thành sự thống trị của nữ giới; 4) Việc chuyển sang chế độ hôn nhân
cá thể, trong đó người đàn bà chỉ thuộc về một người đàn ông, đã bao hàm
sự vi phạm những điều luật tôn giáo nguyên thủy, mà thực tế là vi phạm
cái quyền cổ truyền của những người đàn ông khác đối với người đàn bà
đó; và để đền tội hoặc chuộc tội, người đàn bà phải hiến thân cho nhiều
người khác trong một thời kì nhất định. Bachofen tìm thấy bằng
chứng cho các luận điểm đó trong vô số đoạn trích từ văn học cổ đại, mà
ông đã tập hợp rất công phu. Theo ông, sự phát triển từ “chế độ tạp hôn”
lên chế độ hôn nhân cá thể, và từ chế độ mẫu quyền đến chế độ phụ quyền
- đặc biệt ở người Hi Lạp - là kết quả của sự tiến bộ trong các quan
điểm tôn giáo, của việc đưa các thần mới (đại diện cho quan điểm mới)
vào hệ thống các thần cũ (đại diện cho quan điểm cũ), và ngày càng đẩy
các quan niệm cũ phía sau. Vậy, theo Bachofen thì không phải sự phát
triển của những điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người, mà chính sự
phản ánh có tính tôn giáo của những điều kiện ấy vào trong đầu óc con
người, đã gây ra những biến đổi lịch sử trong địa vị xã hội giữa hai
giới. Phù hợp với quan điểm nói trên, Bachofen đã giải thích vở
“Oresteia” của Aeschylus là sự diễn đạt bằng kịch, cuộc đấu tranh giữa
chế độ mẫu quyền đang suy tàn với chế độ phụ quyền mới xuất hiện và đang
thắng thế, trong thời đại anh hùng. Vì gã nhân tình Aegisthus
mà Clytemnestra đã giết chồng mình, Agamemnon, vừa trở về từ cuộc chiến
thành Troia. Orestes, con trai của hai người, đã giết mẹ để trả thù cho
cha; vì vậy mà bị các Nữ thần Báo thù (bảo vệ chế độ mẫu quyền) truy tố,
theo họ thì giết mẹ là tội nặng nhất. Nhưng Apollo, vị thần đã dùng lời
sấm để lệnh cho Orestes làm việc đó - và Athena, nữ thần được mời xét
xử (hai vị thần này đại diện cho chế độ phụ quyền) - lại bênh vực
Orestes. Athena lắng nghe hai bên. Toàn bộ bất đồng được tóm lại trong
cuộc tranh cãi giữa Orestes và các Nữ thần Báo thù. Orestes nói là
Clytemnestra phạm hai tội liền: giết chồng mình và giết cha của y. Vậy
vì sao các Nữ thần Báo thù lại truy tố y mà không phải Clytemnestra, là
kẻ phạm tội nặng hơn? Câu trả lời thật rõ ràng: “Nàng không có quan hệ huyết tộc gì với kẻ bị nàng giết”
Giết một kẻ không cùng huyết tộc - kể cả nếu đó là chồng mình - thì tội
đó vẫn có thể chuộc lại, nó không can hệ gì tới các Nữ thần Báo thù,
việc của họ chỉ là trừng phạt tội giết người cùng huyết tộc; mà trong
loại tội đó thì giết mẹ, theo chế độ mẫu quyền, là nặng nhất. Apollo bào
chữa cho Orestes; và Athena mời Pháp viện Tối cao, chính là các thẩm
phán thành Athens, biểu quyết. Số phiếu tha bổng và kết tội bằng nhau;
Athena, với tư cách chánh án, đã biểu quyết cho Orestes và tha bổng y.
Chế độ phụ quyền đã thắng chế độ mẫu quyền, “các thần của thế hệ trẻ” -
như các Nữ thần Báo thù vẫn gọi - đã thắng các Nữ thần ấy; cuối cùng họ
đã đồng ý đảm nhiệm một chức vụ mới, để phục vụ trật tự mới.
Lời giải thích vở “Oresteia” như vậy, mới mẻ và hoàn toàn đúng, là một
đoạn hay nhất trong cả cuốn “Mẫu quyền”; nhưng nó cũng chứng tỏ Bachofen
ít nhất cũng tin vào các thần đó như Aeschylus đã tin lúc còn sống; ông
tin rằng việc chế độ phụ quyền lật đổ chế độ mẫu quyền - tại Hi Lạp,
vào thời đại anh hùng - là một kì tích của các thần ấy. Quan điểm coi
tôn giáo là đòn bẩy của lịch sử thế giới như vậy, ắt phải dẫn tới chủ
nghĩa thần bí thuần túy. Vì thế, đọc hết cuốn sách dày của Bachofen là
một việc thật sự vất vả, mà thường không bổ ích mấy. Nhưng những cái đó
vẫn không làm giảm tầm quan trọng của ông, với tư cách người tiên phong.
Bachofen là người đầu tiên đã thay những câu nói suông mập mờ về tình
trạng quan hệ tính giao bừa bãi thời nguyên thủy - mà không ai biết rõ
nó - bằng các chứng cớ cho những sự kiện sau: rất nhiều dấu vết vẫn còn
tồn tại trong văn học cổ đại, ở Hi Lạp và châu Á, về một trạng thái
trước khi có gia đình cá thể, thời mà một người đàn ông có quan hệ tính
giao với nhiều người đàn bà, và một người đàn bà cũng có quan hệ tính
giao với nhiều người đàn ông, mà không hề trái với đạo đức; tục lệ ấy,
khi đã mất đi rồi, vẫn để lại dấu vết trong việc người đàn bà buộc phải
hiến thân cho những người đàn ông khác trong một thời kì nhất định, để
có được quyền kết hôn cá thể; vì tục lệ đó, ban đầu huyết tộc chỉ có thể
tính theo nữ hệ, từ người mẹ này đến người mẹ khác; nó còn được duy trì
rất lâu sau khi có chế độ hôn nhân cá thể, khi mà tư cách cha đẻ đã
được xác lập (hay ít ra là thừa nhận); cái địa vị ban đầu đó của các bà
mẹ, với tư cách là bậc thân sinh duy nhất xác định của những đứa trẻ, đã
đảm bảo cho họ - và toàn bộ nữ giới thời đó - một vị trí xã hội rất
cao, mà kể từ đó trở đi họ không bao giờ có được nữa. Bachofen thực ra
không nêu lên các luận điểm đó một cách rõ ràng như vậy, vì bị thế giới
quan thần bí của mình cản trở. Nhưng ông đã chứng minh được chúng; và ở
năm 1861 thì đó quả là một cuộc cách mạng. Cuốn sách dày của
Bachofen được viết bằng tiếng Đức, thứ tiếng của một dân tộc ít quan tâm
nhất đến tiền sử của gia đình hiện đại. Vì thế, ông không được biết
tới. Người kế tục trực tiếp Bachofen, xuất hiện năm 1865, cũng chưa từng
nghe nói về ông. Đó là J. F. McLennan, người đối lập hoàn toàn
với Bachofen. Thay cho một nhà thần bí thiên tài, là một luật gia khô
khan; thay cho trí tưởng tượng dồi dào của một thi sĩ, là những lí lẽ
khôn khéo của một luật sư bào chữa. McLennan thấy ở nhiều dân tộc mông
muội, dã man và cả văn minh, ở cả thời cổ đại và hiện đại, có một hình
thức kết hôn; trong đó chú rể, một mình hay cùng bạn bè, phải giả vờ
cướp lấy cô dâu từ tay những người họ hàng của cô ta. Tục lệ này hẳn là
dấu vết của một tục lệ xa xưa, khi mà đàn ông trong một bộ lạc thực sự
phải đi cướp đàn bà của bộ lạc khác về làm vợ. Cái “hôn nhân cướp đoạt”
này có nguồn gốc là gì? Chừng nào mà đàn ông trong bộ lạc đều có thể
kiếm được vợ, thì không có lí do gì để làm thế. Nhưng chúng ta cũng
thường thấy ở các dân ít phát triển, có một số tập đoàn nhất định (hồi
năm 1865, vẫn bị coi nhầm là bộ lạc) cấm kết hôn trong nội bộ, nên người
ta buộc phải dựng vợ gả chồng ở ngoài tập đoàn đó; trong khi một số tập
đoàn khác lại chỉ cho phép kết hôn trong nội bộ. McLennan gọi loại tập
đoàn thứ nhất là “ngoại hôn”, loại thứ hai là “nội hôn”; và lập tức dựng
lên một sự đối lập gay gắt giữa các bộ lạc “ngoại hôn” và “nội hôn”. Và
mặc dù những nghiên cứu về ngoại hôn của mình đã buộc chính ông ta phải
đối diện với sự thật: trong nhiều trường hợp - nếu không phải là hầu
hết, thậm chí tất cả các trường hợp - sự đối lập nói trên chỉ có trong
trí tưởng tượng của ông ta; McLennan vẫn lấy sự đối lập ấy làm cơ sở cho
thuyết của mình. Theo thuyết đó, các bộ lạc ngoại hôn chỉ có thể lấy vợ
ở bên ngoài; và trong tình trạng chiến tranh liên miên, đặc trưng của
thời mông muội, thì chỉ có thể lấy vợ bằng cách cướp đoạt.
McLennan đặt câu hỏi tiếp: tục ngoại hôn đó do đâu mà có? Quan niệm về
huyết tộc và loạn luân không liên quan gì tới việc này, vì mãi về sau
chúng mới có, theo ông. Nhưng có một tục lệ phổ biến khác ở các dân mông
muội: giết những bé gái sơ sinh. Nó dẫn đến việc thừa đàn ông trong mỗi
bộ lạc; hậu quả trực tiếp, tất yếu của việc đó là nhiều đàn ông phải
lấy chung một vợ: đó là chế độ nhiều chồng. Hậu quả tiếp theo là người
ta chỉ biết mẹ chứ không biết cha của đứa bé, vậy là huyết tộc chỉ tính
được theo nữ hệ chứ không phải nam hệ: đó là chế độ mẫu quyền. Hậu quả
thứ hai của việc thiếu đàn bà (chế độ nhiều chồng chỉ có thể giảm bớt nó
đi) là việc thường xuyên cướp đoạt đàn bà của các bộ lạc khác.
“Vì chế độ ngoại hôn và chế độ nhiều chồng có cùng nguyên nhân: nhu cầu
cân bằng hai giới, nên ta buộc phải cho là: ban đầu, mọi tộc người
ngoại hôn đều có chế độ nhiều chồng... Vì thế ta phải cho là: không cần
bàn cãi, hệ thống thân tộc đầu tiên, ở mọi tộc người ngoại hôn, đều chỉ
thừa nhận quan hệ huyết tộc về phía mẹ” (McLennan, “Nghiên cứu Lịch sử
Cổ đại”4, 1876; Hôn nhân nguyên thủy, tr. 124) Công lao của
McLennan là đã chỉ rõ tính phổ biến và ý nghĩa to lớn của cái mà ông gọi
là chế độ ngoại hôn. Nhưng ông hoàn toàn không phát hiện ra sự tồn tại
của các tập đoàn ngoại hôn, hay ít ra là không hiểu được nó. Bên cạnh
các ý kiến riêng lẻ của những nhà quan sát trước kia (chính McLennan
cũng đã dùng nguồn tài liệu đó); thì Latham (“Nhân chủng học Mô tả”5,
1859) cũng đã mô tả chi tiết và chính xác chế độ đó ở người Magar (Ấn
Độ), và nói rằng chế độ đó từng rất phổ biến và có ở khắp thế giới -
chính McLennan đã trích dẫn đoạn đó. Ngay từ năm 1847, Morgan, ở các bức
thư về người Iroquois (đăng trên tờ American Review), và trong cuốn
“Liên minh Iroquois”6 (1851), cũng tìm thấy và mô tả chính xác chế độ ấy
ở dân đó; trong khi, như chúng ta sẽ thấy, McLennan - với cái trí óc
luật gia của mình - còn gây ra nhiều lẫn lộn hơn cả Bachofen từng gây ra
- với những ảo tưởng thần bí của ông ta - trong lĩnh vực mẫu quyền. Một
công lao khác của McLennan là đã thừa nhận sự tồn tại trước tiên của
chế độ huyết tộc mẫu hệ; tuy rằng về sau ông đã thừa nhận là mình đi sau
Bachofen về điểm đó. Nhưng ở đây McLennan cũng tỏ ra mơ hồ, ông luôn
nói đến “quan hệ huyết tộc chỉ về nữ hệ” (kinship through females only);
thuật ngữ này - đúng với giai đoạn đầu - được ông dùng cho cả những
giai đoạn phát triển sau này, khi mà quan hệ huyết tộc theo nam hệ cũng
được xác định và thừa nhận, dù quan hệ huyết tộc và thừa kế thực tế vẫn
tính theo nữ hệ. Đó là cái trí óc mô phạm của một luật gia: khi đã tìm
ra một thuật ngữ luật học cố định, thì tiếp tục dùng nó mà không thay
đổi gì, dù hoàn cảnh đã thay đổi đến mức không thể dùng nó được nữa.
Thuyết của McLennan - dù có vẻ hợp lí - nhưng hình như vẫn không vững
vàng cho lắm, ngay cả với tác giả của nó. Ít nhiều thì chính ông cũng
chú ý tới “điều đáng nói là hình thức cướp đoạt đàn bà lại rõ rệt và nổi
bật nhất ở chính những dân có quan hệ huyết tộc theo nam hệ” (tr. 140)
Và lại nữa “Một điều kì lạ là: theo chúng tôi biết, thì không có tục lệ
giết trẻ con ở những nơi mà chế độ ngoại hôn và hệ thống thân tộc cổ
nhất cùng tồn tại” (tr. 146) Hai điều trên mâu thuẫn rõ rệt với cách
giải thích của ông; và ông chỉ có thể giải quyết chúng bằng những giả
thuyết mới, còn phức tạp hơn nữa. Tuy thế, thuyết của ông vẫn
được hoan nghênh và ủng hộ nhiệt liệt ở Anh; ở đó, nói chung McLennan
được xem là nhà sáng lập ra ngành lịch sử gia đình, và là người có uy
tín bậc nhất về lĩnh vực đó. Mặc dù, một vài ngoại lệ và sai khác cá
biệt đã được phát hiện, sự đối lập giữa các “bộ lạc” ngoại hôn và nội
hôn - mà McLennan đưa ra - vẫn đứng vững với vai trò là cơ sở của quan
điểm được thừa nhận; và vẫn đóng vai trò miếng vải che mắt, cản trở mọi
nghiên cứu tự do trong lĩnh vực này, khiến cho một bước tiến quyết định
không thể xuất hiện. Để chống lại việc quá đề cao McLennan ở Anh, và
được lặp lại ở nhiều nước khác, cần phải chỉ ra sự thật là: ông ta, bằng
những nghiên cứu của mình, và với sự đối lập hoàn toàn sai lầm của mình
về những “bộ lạc” ngoại hôn và nội hôn, đã gây hại nhiều hơn là làm
lợi. Nhưng không lâu sau, sự thật đã được đưa ra ánh sáng, ngày
càng có nhiều sự kiện không phù hợp với cái khuôn khổ ngăn nắp của ông
ta. McLennan chỉ biết đến ba hình thức hôn nhân: nhiều vợ, nhiều chồng
và cá thể. Nhưng một khi đã chú ý tới vấn đề đó, thì người ta ngày càng
thấy nhiều bằng chứng về những hình thức hôn nhân ở các dân tộc ít phát
triển, trong đó một số đàn ông lấy chung nhau một số đàn bà, và Lubbock
(“Nguồn gốc của Văn minh ...”7, 1870) đã công nhận chế độ quần hôn đó
(communal marriage) là một sự thật lịch sử. Ngay năm sau, 1871,
Morgan đưa ra một bằng cớ mới có tính quyết định về nhiều mặt. Ông tin
chắc rằng hệ thống thân tộc đặc biệt, đang tồn tại ở người Iroquois, là
phổ biến trong toàn bộ những dân bản xứ ở Mĩ, do đó cũng là phổ biến
trên cả lục địa; mặc dù chế độ ấy mâu thuẫn trực tiếp với những quan hệ
thân tộc do chế độ hôn nhân hiện hành ở người Iroquois sinh ra. Ông đã
thuyết phục chính phủ Liên bang Mĩ thu thập tư liệu về những chế độ thân
tộc ở các dân khác, có gửi kèm theo một bảng đề mục và danh sách câu
hỏi của chính ông. Từ những phúc đáp, ông đã tìm ra rằng: 1) Chế độ thân
tộc của người Indian ở châu Mĩ cũng lưu hành trong các dân ở châu Á, và
trong cả các dân ở châu Phi và lục địa Australia, dưới một hình thức
hơi khác; 2) Chế độ thân tộc đó được giải thích hoàn chỉnh nhờ một hình
thức quần hôn, đang tàn lụi, có ở Hawaii và các đảo khác thuộc châu Đại
dương; 3) Cùng với chế độ quần hôn đó, ở các đảo trên còn tồn tại một
chế độ thân tộc khác, mà người ta chỉ có thể giải thích chúng nhờ một
hình thức quần hôn còn cổ hơn nữa, nhưng đã biến mất. Morgan đã công bố
những tài liệu trên, và cả những kết luận mà ông rút ra từ đó, trong
cuốn “Các Chế độ Thân tộc ...”8 (1871); do đó đã đưa cuộc tranh luận vào
một lĩnh vực rộng lớn hơn nhiều. Bắt đầu từ các chế độ thân tộc, khôi
phục các hình thức gia đình tương ứng với các chế độ đó; Morgan đã mở ra
một con đường nghiên cứu mới, và mở rộng tầm nhìn của chúng ta về thời
tiền sử của loài người. Nếu phương pháp đó là đúng đắn, thì những lí
thuyết đẹp đẽ của McLennan sẽ bị phá hủy hoàn toàn. McLennan đã
bảo vệ thuyết của mình trong lần xuất bản mới của cuốn “Hôn nhân Nguyên
thủy” ("Nghiên cứu Lịch sử Cổ đại", 1876). Trong khi chính mình đã dựng
lên một lịch sử gia đình hết sức giả tạo, chỉ dựa vào các giả thuyết
thuần túy; thì ông ta lại đòi Lubbock và Morgan phải có bằng cớ cho từng
luận điểm một của họ, hơn nữa lại đòi các bằng cớ không thể tranh cãi
được, như là những bằng cớ được đưa ra trước tòa án Scotland vậy. Cũng
chính ông ta, từ câu chuyện của Tacitus (“Germania”, ch. 20) về quan hệ
gần gũi giữa người cậu với con trai của chị em mình ở người Germania,
câu chuyện của Caesar rằng người Briton - từng nhóm mười, mười hai người
- đã lấy chung vợ, và các câu chuyện khác của các tác giả cổ đại về
tình trạng chung vợ của những người dã man, đã kết luận không do dự rằng
tất cả những dân đó đều sống trong chế độ nhiều chồng! Giống hệt bên
nguyên, khi buộc tội thì cho phép mình trình bày thế nào cũng được;
nhưng lại đòi bên bị phải có bằng chứng có giá trị nhất cho từng lời họ
nói. McLennan khẳng định: chế độ quần hôn hoàn toàn là tưởng
tượng, như vậy là đã lạc hậu hơn Bachofen nhiều. Ông ta tuyên bố: các
chế độ thân tộc của Morgan chỉ là phép tắc lễ nghi thông thường, bằng
chứng là người Indian cũng gọi người ngoài hoặc người da trắng là “anh”
hay “cha”. Nói như McLennan, thì những từ “cha”, “mẹ”, “anh em”, “chị
em” cũng chỉ là cách xưng hô đơn thuần; vì các linh mục cũng được gọi là
“cha”, các bà trưởng tu viện cũng được gọi là “mẹ”; và vì các thầy tu
và các ni cô, thậm chí các hội viên Hội Tam điểm và các hội khác ở Anh,
đều gọi nhau là “anh em”, “chị em” trong các cuộc họp chính thức của họ.
Tóm lại: sự biện hộ của McLennan thật yếu ớt, khổ sở. Nhưng
ông ta vẫn chưa bị đánh bại ở một điểm. Sự đối lập giữa các “bộ lạc”
ngoại hôn và nội hôn, là cơ sở cho toàn bộ hệ thống của ông ta; không
chỉ vẫn đứng vững, mà còn được thừa nhận rộng rãi là viên đá tảng của
toàn bộ lịch sử gia đình. Nỗ lực của McLennan để giải thích sự đối lập
đó có thể chưa đầy đủ và còn mâu thuẫn với chính những sự kiện mà ông ta
nêu ra; nhưng bản thân sự đối lập đó - sự tồn tại của hai loại bộ lạc
độc lập với nhau, không dung hợp được với nhau, một loại thì chỉ cho
phép kết hôn trong nội bộ, loại kia thì tuyệt đối cấm việc đó - vẫn là
một tín điều thần thánh. Ví dụ cuốn “Nguồn gốc gia đình”9 (1874) của
Giraud-Teulon, và ngay cả cuốn “Nguồn gốc của Văn minh ...”7 (xuất bản
lần thứ tư, 1882) của Lubbock. Lúc đó, Morgan xuất kích với tác
phẩm chủ chốt của mình, “Xã hội Cổ đại” (1877), nó cũng là cơ sở cho
cuốn sách này. Những cái mà Morgan chỉ lờ mờ đoán ra năm 1871, bây giờ
được phát triển với sự nhận thức đầy đủ. Không có mâu thuẫn nào giữa nội
hôn và ngoại hôn cả, tới nay thì sự tồn tại của các “bộ lạc” ngoại hôn
vẫn không được chứng minh ở bất kì đâu. Nhưng ở thời mà chế độ quần hôn
còn thịnh hành - và chắc chắn đã có thời nó thịnh hành ở khắp nơi - thì
bộ lạc đã được chia thành các tập đoàn huyết tộc mẫu hệ, tức là thành
các thị tộc; trong thị tộc, người ta tuyệt đối cấm kết hôn nội bộ, nên
người đàn ông - dù có thể lấy vợ trong cùng bộ lạc, và vẫn thường làm
vậy - lại bị buộc phải lấy vợ ở thị tộc khác. Vậy, trong khi thị tộc
theo chế độ ngoại hôn hết sức nghiêm ngặt, thì bộ lạc cũng theo chế độ
nội hôn nghiêm ngặt không kém. Tàn dư sau cùng của các cấu trúc giả tạo
do McLennan dựng lên, do đó đã bị đánh đổ. Nhưng không dừng ở
đó, nhờ có thị tộc của người Indian châu Mĩ, Morgan đã làm nên bước tiến
lớn thứ hai trong lĩnh vực của mình. Từ thị tộc đó, vốn được tổ chức
theo chế độ mẫu quyền, ông đã phát hiện ra hình thức nguyên thủy của thị
tộc; nó đã phát triển thành những thị tộc mới, được tổ chức theo chế độ
phụ quyền, là các thị tộc mà ta gặp ở các dân tộc văn minh thời cổ đại.
Thị tộc Hi Lạp và La Mã, tới lúc đó vẫn là một bí ẩn đối với mọi sử
gia, đã được giải thích nhờ thị tộc Indian; và do đó, toàn bộ lịch sử
nguyên thủy cũng được đặt trên một cơ sở mới. Sự phát hiện lại
thị tộc mẫu quyền nguyên thủy, trong thời kì trước khi có thị tộc phụ
quyền ở các dân tộc văn minh, có ý nghĩa vĩ đại đối với nhân loại học;
cũng như thuyết tiến hóa của Darwin đối với sinh vật học, hay lí thuyết
giá trị thặng dư của Marx đối với kinh tế chính trị học. Nó cho phép
Morgan phác ra, lần đầu tiên, lịch sử của gia đình; trong đó, ít nhất
thì các giai đoạn phát triển điển hình của gia đình cũng được xác định,
trong chừng mực các tài liệu hiện có cho phép. Rõ ràng là điều đó đã mở
ra một thời đại mới trong nghiên cứu lịch sử nguyên thủy. Thị tộc mẫu
quyền là cái trục để toàn bộ khoa học đó xoay quanh; từ khi có phát hiện
đó, ta đã biết phải nghiên cứu theo hướng nào, nghiên cứu cái gì, sắp
xếp những kết quả có được như thế nào. Do đó, từ khi có cuốn “Xã hội Cổ
đại”, những bước tiến trên lĩnh vực đó đã diễn ra nhanh hơn nhiều.
Hiện nay, các nhà nhân loại học, kể cả ở Anh, đều đề cao - đúng ra là
chiếm đoạt - các phát hiện của Morgan. Nhưng hầu như không ai trong số
họ thật thà nhận rằng: nhờ Morgan mà ta mới có được cuộc cách mạng trong
quan điểm. Ở Anh, họ cố không nói đến cuốn sách đó; họ gạt tác giả của
nó sang một bên, bằng cách hạ cố khen ngợi các thành quả trước kia của
ông; họ không ngớt bới lông tìm vết về các chi tiết, ngoan cố lờ đi các
phát hiện thực sự vĩ đại của ông. Lần xuất bản đầu tiên của cuốn “Xã hội
Cổ đại” đã bán hết: không có chỗ tiêu thụ cho một cuốn sách loại đó ở
Mĩ; ở Anh, hình như nó đã bị tịch thu một cách có hệ thống; và bản in
duy nhất còn lại trên thị trường của tác phẩm vạch thời đại đó, lại là
bản dịch ra tiếng Đức. Vì sao lại có sự lãnh đạm đó? Thật khó
mà cho rằng đó không phải là một sự thông đồng để ỉm đi; các nhà nhân
loại học của chúng ta vẫn thường gói gọn các trước tác của mình trong
một lô trích dẫn, phần vì lễ độ, phần vì thân tình. Hay vì Morgan là
người Mĩ, và với những nhà nhân loại học người Anh - hiện vẫn phụ thuộc
vào hai thiên tài ngoại quốc, Bachofen và Morgan, trong việc phân loại
và sắp xếp tài liệu, tóm lại là những vấn đề về tư tưởng; mặc dù sự công
phu của họ trong việc sưu tầm tài liệu là rất đáng khen - thì điều đó
là rất khó chịu? Người Đức thì họ còn chịu được, nhưng người Mĩ thì sao?
Đứng trước người Mĩ, người Anh nào cũng trở nên yêu nước; tôi đã thấy
nhiều ví dụ buồn cười về việc này khi ở Mĩ. Hơn nữa, có thể nói McLennan
là nhà sáng lập và lãnh tụ được thừa nhận của trường phái nhân loại học
nước Anh; và việc nhắc tới - một cách hết sức kính cẩn - cái chuỗi cấu
trúc lịch sử giả tạo của ông ta (giết trẻ con, chế độ nhiều chồng, hôn
nhân cướp đoạt, gia đình mẫu quyền) cũng gần như là một nguyên tắc lễ
nghi của ngành. Mối nghi ngờ nhỏ nhất đối với sự tồn tại của các “bộ
lạc” ngoại hôn và nội hôn, và sự đối lập tuyệt đối giữa chúng, đều bị
coi là dị giáo. Morgan đã phạm vào tội báng bổ thánh thần khi phá tan
những giáo điều thần thánh đó. Vả lại, ông đã phá tan chúng chỉ bằng
cách đưa ra các lí lẽ rõ ràng nhất, thấy được ngay; và các học trò của
McLennan - tới nay vẫn quay cuồng giữa ngoại hôn và nội hôn - chỉ có thể
tự vỗ trán mà kêu lên: “Sao ta lại ngốc đến mức không nghĩ tới nó từ
trước?” Nếu chừng đó tội danh vẫn chưa đủ cho trường phái chính
thống lạnh lùng lờ đi Morgan, thì ông lại còn đi quá giới hạn: không
chỉ phê phán thời đại văn minh - tức là xã hội của sản xuất hàng hóa,
hình thức cơ bản của xã hội ngày nay - theo cách làm người ta nhớ tới
Fourier; ông còn nói đến một sự cải biến tương lai đối với xã hội đó,
với những lời lẽ giống như là của Karl Marx. Vì thế, ông hoàn toàn xứng
đáng với lời chỉ trích phẫn nộ của McLennan: “ông Morgan có ác cảm với
phương pháp lịch sử”, cũng như khi ngài giáo sư Giraud-Teulon ở Genève
lặp lại câu đó năm 1884. Ấy thế mà cũng chính ngài ấy, hồi năm 1874
(“Nguồn gốc gia đình”) vẫn đang mò mẫm bất lực trong cái mê cung ngoại
hôn của McLennan; và lúc đó Morgan đã tới cứu! Về những tiến bộ
khác mà nhân loại học có được nhờ Morgan, tôi không cần nói đến ở đây;
chúng đều được đưa ra trong cuốn sách này. Mười bốn năm đã qua từ khi
tác phẩm chính của Morgan xuất hiện, các tài liệu về lịch sử của các xã
hội loài người nguyên thủy đã nhiều lên đáng kể. Các nhà nhân loại học,
những người du hành, các nhà lịch sử nguyên thủy chuyên nghiệp, và cả
những nhà chuyên môn về luật pháp so sánh; họ đã đưa ra các quan điểm
mới, hoặc các tài liệu mới. Vì thế, một số ít giả thuyết của Morgan đã
bị lung lay, thậm chí bị bác bỏ. Nhưng không một quan điểm chủ đạo nào
của ông bị những tài liệu mới ấy bác bỏ. Về cơ bản, hệ thống của ông về
lịch sử nguyên thủy vẫn có giá trị tới ngày nay. Thực tế là, hệ thống
của Morgan càng được thừa nhận rộng rãi, thì vai trò của ông càng được
che đậy cẩn thận2 . Chú thích của Engels 1 "Ancient
Society, or Researches in the Lines of Human Progress from Savagery
through Barbarism to Civilization". By Lewis H. Morgan, London,
MacMillan & Co., 1877. Sách này in ở Mĩ, tìm được nó ở London là rất
khó. Tác giả đã mất được mấy năm nay. 2 Tháng Chín năm 1888,
trên đường từ New York trở về, tôi gặp một cựu nghị sĩ Mĩ ở khu
Rochester, ông này quen biết Lewis Morgan. Không may là ông ta không kể
được nhiều cho tôi. Vị cựu nghị sĩ đó nói: Morgan sống ở Rochester như
một người bình thường, chỉ làm công việc nghiên cứu khoa học của mình mà
thôi; anh trai ông là đại tá, làm ở Bộ Chiến tranh ở Washington; nhờ
người anh đó, Morgan đã làm cho Chính phủ chú ý tới các nghiên cứu của
mình, và được đài thọ chi phí xuất bản vài cuốn sách. Khi còn ở trong
nghị viện, ông ta cũng đã vài lần giúp đỡ Morgan. Chú thích của người dịch
1 Trước khi được dùng làm lời tựa cho lần xuất bản thứ tư, bài này đã
được đăng lên tờ "Neue Zeit", số 41, năm 1891, với tiêu đề nêu trên. 2 E.B. Tylor: "Researches into the Early History of Mankind and the Development of Civilization"; London, 1865.
3 J.J. Bachofen: "Das Mutterrecht: eine Untersuchung über die
Gynaikokratie der alten Welt nach ihrer religiösen und rechtlichen
Natur"; Stuttgart, 1861. 4 J.F. McLennan: "Studies in Ancient History", 1876, "Primitive Marriage". 5 R.G. Latham: "Descriptive Ethnology", 1859. 6 L.H. Morgan: "The League of the Ho-de-no-sau-nee or Iroquois"; Rochester, 1851.
7 Sir John Lubbock: "The Origin of Civilization and the Primitive
Condition of Man. Mental and social condition of savages"; London, 1870. 8 L.H. Morgan: "System of Consanguinity and Affinity of the Human Family"; Washington DC, 1871. 9 A. Giraud-Teulon: "Les origines de la famille"; Paris & Genève, 1874. I NHỮNG GIAI ĐOẠN TIỀN SỬ CỦA VĂN MINH
Morgan là người đầu tiên, với kiến thức uyên thâm, đã nỗ lực đưa ra một
trật tự xác định về lịch sử nguyên thủy của loài người; chừng nào chưa
có thêm những tài liệu mới, khiến việc sửa đổi trở nên cần thiết, thì
cách phân chia của ông - không nghi ngờ gì - vẫn còn nguyên giá trị.
Trong ba thời đại chính - mông muội, dã man và văn minh - thì dĩ nhiên
Morgan chỉ quan tâm tới hai cái đầu, và bước quá độ sang cái thứ ba. Ông
chia hai cái đầu thành các giai đoạn thấp, giữa và cao; tùy theo những
bước tiến đã có được trong việc sản xuất lương thực (hay sản xuất tư
liệu sinh hoạt nói chung), vì như ông nói: “Sự khéo léo của con
người về mặt đó quyết định trình độ thống trị tự nhiên của họ. Có thể
nói là chỉ con người mới đạt tới mức hoàn toàn làm chủ được việc sản
xuất lương thực. Những thời đại lớn trong sự phát triển của loài người
rất có thể đều ít nhiều gắn liền với việc mở rộng nguồn sinh sống”1 Gia đình cũng phát triển song song với nó, nhưng các dấu hiệu đặc trưng để phân định thời kì thì không có được. I.Thời mông muội 1. Giai đoạn thấp.
Thời thơ ấu của loài người. Con người thời đó vẫn sống trong môi trường
ban đầu của mình, là những khu rừng nhiệt đới hay cận nhiệt đới; họ
sống trên cây, ít nhất cũng là một bộ phận, phải thế thì mới sống sót
được, khi mà các loài thú dữ lớn vẫn còn. Họ ăn các thứ quả, vỏ và củ.
Tiếng nói có âm tiết phát triển là kết quả chủ yếu của thời kì này. Tất
cả các dân mà lịch sử từng biết tới đều không còn ở cấp độ nguyên thủy
đó nữa. Thời kì ấy có thể kéo dài hàng nghìn năm, nhưng ta vẫn không có
bằng chứng trực tiếp nào về sự tồn tại của nó; nhưng một khi đã thừa
nhận là con người tiến hóa từ giới động vật, thì nhất thiết phải thừa
nhận trạng thái quá độ đó. 2. Giai đoạn giữa. Bắt đầu
với việc dùng cá (tôm, cua, ... và các loài thủy sinh nói chung) làm
thức ăn, và việc sử dụng lửa. Hai việc này đi đôi với nhau, vì chỉ có
dùng lửa thì cá mới trở nên ăn được. Nhờ nguồn thức ăn mới đó, con người
đã hết phụ thuộc vào khí hậu và địa phương; ngay ở thời mông muội, họ
cũng có thể tỏa đi gần như khắp nơi trên mặt đất, dọc theo bờ sông bờ
biển. Chứng tích của những cuộc di cư đó là những công cụ đá - còn thô
sơ và chưa được mài sắc, có ở đầu thời đồ đá cũ - được tìm thấy rải rác
trên các lục địa. Việc di cư tới các vùng mới, việc không ngừng phát
triển óc sáng tạo, việc làm ra lửa nhờ cọ xát; đều đã giúp con người tìm
ra các nguồn thức ăn mới: các loại củ có chất bột, nướng trong tro nóng
hoặc trong các lò đào dưới đất. Nhờ việc phát minh ra các vũ khí đầu
tiên là gậy và giáo đá, nên đôi khi cũng có cả thịt thú rừng. Nhưng các
bộ lạc sống hoàn toàn bằng săn bắt, như các sách từng nói tới, thì không
bao giờ có; vì kết quả của săn bắt là rất bấp bênh. Vì không thường
xuyên đảm bảo được nguồn thức ăn, nên việc ăn thịt người hình như đã
phát sinh ở giai đoạn này, và còn được duy trì rất lâu. Các dân bản xứ ở
Australia và nhiều dân ở Polynesia vẫn đang ở trong giai đoạn giữa của
thời mông muội. 3. Giai đoạn cao. Bắt đầu với việc
phát minh ra cung tên, vì đó mà thịt thú rừng chính thức trở thành một
nguồn thức ăn, và săn bắn trở thành một công việc thường ngày. Cung tên
hồi đó đã là một công cụ rất phức tạp, việc phát minh ra nó cho thấy con
người, qua thời gian, đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm và tăng
cường trí thông minh; vì thế, cũng đã biết tới nhiều phát minh khác.
Trên thực tế, ta thấy rằng các dân đã biết làm cung tên nhưng chưa biết
làm đồ gốm (Morgan coi đó là bước chuyển lên thời dã man) đều đã bắt đầu
định cư ở làng mạc, và đã phần nào làm chủ việc sản xuất tư liệu sinh
hoạt; ta thấy chậu gỗ và các dụng cụ từ gỗ, việc dệt vải - từ các thứ
sợi lấy ở vỏ cây - bằng tay (chưa có khung cửi), các sợi đó (hoặc là sợi
liễu gai) cũng dùng để đan rổ, các công cụ đá đã được mài sắc (thuộc về
thời đồ đá mới). Với lửa và cây rìu đá, việc làm thuyền độc mộc đã trở
nên phổ biến; các cột và ván (dùng để dựng nhà) cũng được chế ra. Những
bước tiến ấy, ta có thể thấy ở người Indian ở Tây Bắc nước Mĩ; họ đã
biết tới cung tên, nhưng chưa biết làm đồ gốm. Cung tên với thời mông
muội là thứ vũ khí quyết định; cũng như thanh kiếm sắt với thời dã man,
và khẩu súng với thời văn minh. II.Thời dã man 1. Giai đoạn thấp.
Bắt đầu từ khi đồ gốm xuất hiện. Có thể chứng minh là trong nhiều
trường hợp, và có thể là tất cả các trường hợp, những chiếc bình gốm đầu
tiên bắt nguồn từ việc trát đất sét bên ngoài những chiếc bình làm từ
vỏ cây, để chúng không bắt lửa. Theo cách đó, người ta sớm nhận ra rằng
chỉ đất sét là đủ, không cần cái bình ban đầu làm cốt nữa. Tới
lúc này, chúng ta có thể coi tiến trình phát triển trên là phù hợp với
mọi dân tộc, ở một thời kì nhất định, không phụ thuộc vào nơi họ sống.
Nhưng khi thời dã man bắt đầu, chúng ta đã đi tới giai đoạn mà sự khác
biệt về điều kiện tự nhiên giữa hai bán cầu bắt đầu có ý nghĩa. Yếu tố
đặc trưng của thời dã man là việc thuần dưỡng, chăn nuôi các loài vật;
và việc trồng trọt các thứ cây. Ở bán cầu Đông, tức là thế giới cũ, có
hầu hết các loài động vật có thể thuần dưỡng; và tất cả các loại ngũ cốc
có thể trồng trọt, chỉ trừ một thứ. Còn ở bán cầu Tây không có một loài
thú nào có thể thuần dưỡng, trừ đà mã (llama), loài này lại chỉ có ở
một vùng của Nam Mĩ thôi; và cũng chỉ có một loại ngũ cốc có thể trồng
trọt, dù có thể coi là loại tốt nhất, ấy là ngô. Vì những khác biệt về
điều kiện tự nhiên, nên từ đây dân cư trên hai bán cầu phát triển theo
những con đường khác nhau, và những mốc dùng để phân chia giai đoạn cũng
khác nhau. 2. Giai đoạn giữa. Bắt đầu với việc thuần
dưỡng gia súc ở phía Đông; còn ở phía Tây là việc trồng các giống cây -
nhờ có nước tưới - để làm thức ăn, và việc dùng gạch sống (adobe, loại
gạch không được nung, chỉ được phơi ngoài nắng) và đá để xây nhà. Chúng
ta bắt đầu từ phía Tây, vì chưa có dân nào ở đó vượt qua được giai đoạn
này, trước khi người châu Âu tới xâm lược. Khi tìm ra người
Indian ở giai đoạn thấp của thời dã man (bao gồm mọi bộ lạc ở miền Đông
Mississippi), thì người ta thấy họ đã biết trồng ngô, có thể là cả bí,
dưa và vài thứ cây khác; từ đó thu được một lượng thực phẩm đáng kể. Họ
sống trong những ngôi nhà gỗ, tại các làng có hàng rào bao quanh. Các bộ
lạc ở miền Tây Bắc, nhất là khu vực sông Columbia, vẫn ở giai đoạn cao
của thời mông muội; không biết làm đồ gốm, cũng không biết trồng cây gì
cả. Nhưng, khi người châu Âu tới, người Indian ở New Mexico (gọi là
pueblo), người Mexico, các dân ở Trung Mĩ và người Peru đều đã ở giai
đoạn giữa của thời dã man. Họ sống trong các ngôi nhà xây bằng gạch sống
và đá, trông giống các pháo đài. Họ trồng ngô và các thứ cây khác - đó
là nguồn thức ăn chính - tùy theo địa phương và khí hậu, trong các khu
vườn được tưới nước; họ thuần dưỡng vài con vật: người Mexico nuôi gà
tây và vài loại gia cầm khác, người Peru nuôi đà mã. Họ cũng biết làm đồ
kim loại, nhưng không phải đồ sắt; vì thế họ vẫn không thể bỏ được các
vũ khí và công cụ đá. Cuộc xâm lược của thực dân Tây Ban Nha đã làm gián
đoạn mọi sự phát triển độc lập sau đó của họ. Ở phía Đông, như
đã nói, giai đoạn này bắt đầu với việc thuần dưỡng các gia súc để lấy
sữa và thịt, nhưng hình như rất lâu sau đó họ mới biết trồng trọt. Việc
thuần dưỡng, chăn nuôi và sự hình thành các đàn gia súc khá lớn đã tạo
ra sự khác biệt giữa người Aryan và Semite với những người dã man khác.
Người Aryan châu Âu và châu Á gọi tên các gia súc giống nhau, nhưng hầu
hết các thứ cây trồng lại có tên gọi khác nhau. Sự xuất hiện
các đàn gia súc đã dẫn tới cuộc sống du mục ở những nơi phù hợp cho việc
đó: với người Semite là các đồng cỏ ở vùng Lưỡng Hà; với người Aryan là
các đồng bằng ở Ấn Độ, hay ở ven các con sông như Oxus và Jaxartes2,
hoặc là Don và Dnepr. Việc thuần dưỡng động vật có lẽ được thực hiện
trước tiên là ở rìa của các vùng đồng cỏ ấy. Vì thế, với những thế hệ
sau thì các bộ lạc du mục hình như đã nảy sinh ở những nơi không chỉ
khác hẳn nguồn cội của loài người; mà còn gần như không thể ở được đối
với những tổ tiên của họ ở thời mông muội, và với cả những người ở giai
đoạn thấp của thời dã man. Nhưng một khi đã quen với cuộc sống du mục
trên các đồng cỏ ven sông, thì những người đó, đang ở giai đoạn giữa của
thời dã man, lại không bao giờ nghĩ tới việc vui lòng trở lại những khu
rừng mà tổ tiên họ từng sống. Ngay cả khi bị đẩy về phía Bắc và phía
Tây, những người Aryan và Semite cũng không thể tiến vào vùng rừng rậm ở
miền Tây châu Á và châu Âu, cho đến khi họ có thể chăn nuôi gia súc -
đặc biệt là giúp chúng qua được mùa đông - trên các vùng đất kém thuận
lợi đó, nhờ trồng trọt ngũ cốc. Hẳn nhiên là ở các bộ lạc đó, việc trồng
ngũ cốc đã phát sinh từ nhu cầu thức ăn cho gia súc, và về sau mới trở
thành nguồn thức ăn quan trọng cho cả con người. Vì có rất
nhiều thịt và sữa làm thức ăn, đặc biệt là tác dụng rất có lợi của chúng
đối với sự phát triển của trẻ em, nên người Aryan và Semite đã phát
triển hơn những dân khác. Thật thế, những người Indian ở New Mexico (hay
pueblo, như ta đã biết) - vốn gần như chỉ ăn rau, có bộ não nhỏ hơn bộ
não của những người Indian ở giai đoạn thấp của thời dã man - vốn ăn
nhiều thịt và cá hơn. Dù sao thì việc ăn thịt người lúc này cũng mất dần
đi, và chỉ được duy trì như một hành vi tôn giáo hoặc ma thuật, mà hai
cái đó thì cũng như nhau. 3. Giai đoạn cao. Bắt đầu
bằng việc nấu quặng sắt, và chuyển qua thời văn minh với việc tìm ra các
chữ cái, rồi sử dụng chúng để ghi lại các tác phẩm văn học (như ở Lưỡng
Hà, tầm 3000 năm trước công nguyên). Chỉ diễn ra một cách độc lập ở bán
cầu Đông, như ta đã biết, giai đoạn này ghi nhận nhiều tiến bộ trong
sản xuất hơn tất cả các giai đoạn trước đây cộng lại. Người Hi Lạp ở
thời đại anh hùng; các bộ lạc ở Ý, ít lâu trước khi La Mã ra đời; người
Germania thời Tacitus; người Norse thời Viking3; họ đều ở vào giai đoạn
này. Trước hết, lần đầu tiên ta thấy chiếc lưỡi cày sắt, do gia
súc kéo; việc trồng trọt trên các cánh đồng rộng, tức là nền nông
nghiệp qui mô lớn, nhờ đó mà được thực hiện; vì thế, một nguồn thức ăn
gần như vô hạn - so với các điều kiện trước kia - đã được tạo ra. Nó dẫn
tới việc phát quang đất rừng để trồng trọt và chăn nuôi, mà những việc
này cũng không thể làm trên qui mô lớn nếu không có rìu sắt và mai sắt.
Dân số cũng tăng nhanh, trở nên đông đúc trên một khu vực nhỏ. Nửa triệu
người khi đó đã đoàn kết lại dưới sự chỉ đạo từ trung ương, trước khi
có nông nghiệp; tức là lúc đó phải có những tình thế rất đặc biệt, chưa
từng xảy ra trước kia. Đỉnh cao của giai đoạn này được miêu tả
trong các tác phẩm của Homer, nhất là trong “Iliad”. Các công cụ sắt đã
rất phát triển, cái bễ lò rèn, cối xay tay, bàn quay của thợ gốm, việc
chế ra dầu ăn và rượu vang, nghề kim khí phát triển tới mức trở thành
một nghệ thuật, xe ngựa chở hàng và chiến xa, việc đóng thuyền bằng cột
và ván, bước đầu của nghệ thuật kiến trúc, các thành phố có thành lũy -
với tháp canh và lỗ châu mai - bao bọc, thiên sử thi của Homer và toàn
bộ thần thoại; đó là các di sản chính mà người Hi Lạp đem từ thời dã man
sang thời văn minh. Khi so sánh họ với người Germania, qua mô tả của
Caesar và Tacitus, là những dân đang ở buổi đầu của giai đoạn này; thì
chúng ta sẽ thấy sản xuất đã tiến bộ đến thế nào ở giai đoạn cao của
thời dã man. Bức phác họa về sự phát triển của nhân loại, từ
thời mông muội và dã man tới bước đầu của thời văn minh, mà tôi vẽ ra
theo ý kiến của Morgan, có khá nhiều đặc trưng mới; hơn nữa chúng lại là
không thể tranh cãi được, vì đều được trực tiếp rút ra từ quá trình sản
xuất. Bức phác họa của tôi có vẻ lờ mờ và nhợt nhạt, nếu so với bức
tranh sẽ hiện ra ở cuối chuyến đi của chúng ta; chỉ khi đó, bước chuyển
từ thời dã man sang thời văn minh mới hoàn toàn được đưa ra ánh sáng,
cùng với những mâu thuẫn nổi bật của nó. Bây giờ, có thể tóm tắt cách
phân chia của Morgan như sau: Thời mông muội - con người chủ yếu chiếm
hữu những sản vật tự nhiên sẵn có, những sản phẩm của họ phần lớn là các
công cụ trợ giúp cho việc chiếm hữu trên. Thời dã man - loài người đã
biết thuần dưỡng động vật và trồng trọt, cũng như biết cách sản xuất ra
các sản vật tự nhiên bằng hoạt động của mình. Thời văn minh - con người
biết đưa ngày càng nhiều cải tiến vào việc sản xuất, thời đại của công
nghiệp thực sự và nghệ thuật. Bổ sung đặc biệt cho chương I (Phỏng dịch theo “Editorial Footnotes” của bản tiếng Anh đăng trên marxists.org)
Phần này nhằm giúp người đọc đánh giá tác phẩm này một cách có phê
phán, nhất là khi so sánh với các bằng chứng khoa học mới; nó cũng cho
thấy phương pháp biện chứng của Engels đã có hiệu quả đến thế nào: nhiều
kết luận của Người đến nay vẫn còn đúng. Các chương sau sẽ không có
phần này, vì không cần thiết. Cũng cần nói thêm: Engels tập trung hơn
vào các nền văn minh ở châu Âu, vì Người thiếu tư liệu về các nền văn
minh khác. 1) Ở năm 1880, các bằng chứng về giai đoạn thấp của
thời mông muội là hết sức ít ỏi, nhưng các kết luận của Engels (quan
trọng nhất là về tiếng nói) đến nay vẫn chính xác. Trong suốt thế kỉ 20,
các phát hiện mới, gây chấn động của khảo cổ học, đã mở rộng hiểu biết
của chúng ta về giai đoạn này. Các đặc trưng được mô tả trong nguyên văn
là của giống người đầu tiên: Australopithecus (“vượn phương Nam”), xuất
hiện cách đây 5-6 triệu năm ở lục địa Phi, và tuyệt chủng cách đây
90-160 vạn năm. Họ chủ yếu ăn các loại quả, củ, có thể cả xác động vật.
Họ vẫn sống leo trèo là chính, dù không chủ định như vậy. 2)
Trong phần nói về giai đoạn giữa của thời mông muội, Engels mô tả đời
sống của loài homo erectus (“người đứng thẳng”), và dù thiếu các bằng
chứng về giai đoạn đó ở thời của mình, Người lại đúng. Việc hái lượm
thức ăn chiếm ưu thế, ngoài ra là việc săn bắt động vật, lửa được dùng
phổ biến, và quan trọng nhất: các hoạt động này cho phép con người di
cư. Cách đây 1 triệu năm, homo erectus rời lục địa Phi, định cư ở Trung
Đông (đó chính là cái nôi của nền văn minh sau này, và không có gì lạ
khi coi đó là giao lộ vĩ đại trên con đường di cư của loài người); rồi
tách ra, đi tới Nam Âu và Nam Á (tiến lên phía Bắc khi đó là không thể,
vì Trái Đất đang trong kỉ băng hà). Tuy nhiên, Engels đã sai
lầm ở hai điểm: thứ nhất, việc ăn thịt người khi đó rất có thể là không
có (sự tồn tại của nó đến nay vẫn là một câu hỏi); thứ hai, những dân ở
Polynesia và Australia không phải là homo erectus, mà chính là homo
sapiens (“người thông minh”, tức loài người ngày nay). 3) Phần
“giai đoạn cao của thời mông muội” chính là nói về homo sapiens, xuất
hiện cách đây 10 vạn năm, nhiều khả năng là ở châu Phi (homo erectus
được cho là đã tuyệt chủng trên toàn cầu, chỉ có một nhánh ở châu Phi là
sống sót, và homo sapiens nảy sinh từ đó). 4) Dữ liệu của
những năm 1880, về việc trồng trọt và chăn nuôi của con người, đã bị
chứng minh là có phần không đúng. Chừng 1 vạn năm trước Công nguyên (sớm
nhất trong lịch sử), người Lưỡng Hà đã bắt đầu thuần dưỡng động vật,
cùng lúc với việc trồng trọt. Các sự kiện chính xác, về việc này, đến
nay còn chưa rõ. 5) Điều quan trọng trong phần “giai đoạn giữa
của thời dã man” là Engels đã gắn liền người Aryan và người Semite. Cho
tới giữa thế kỉ 19, thông tin về người Lưỡng Hà vẫn chỉ giới hạn trong
kinh thánh; đúng ra là tới năm 1850, khi khảo cổ học bắt đầu tìm ra và
thu thập các bằng chứng lịch sử ở Lưỡng Hà. Việc gắn liền này của Engels
có thể là kết hợp của cả kinh thánh (chỉ nói về người Aryan và Semite,
chứ không nói về vùng Lưỡng Hà) và các công trình khảo cổ đương thời
(được Người dùng làm tư liệu). Một khía cạnh khác ở đây chính
là tính khách quan của Engels. Ở thế kỉ 19, Aryan được coi là một giống
người độc đáo, và là một chủng tộc ưu thế (so với các chủng tộc khác),
dựa trên các bằng chứng khoa học; về sau, nó còn biến thành một thuyết
coi người Đức chính là người Aryan thuần chủng nhất. Cái thuyết phổ biến
đó đã không bị các nhà nhân loại học bác bỏ cho đến tận thế kỉ 20. Việc
gắn người Aryan với người Semite cho thấy Engels đã tiến xa hơn nhiều
so với thời của mình về mặt này. 6) Thuyết cho rằng “não lớn
hơn thì thông minh hơn” đã bị bác bỏ vào cuối thế kỉ 19. Mức độ thông
minh nói chung được so sánh bằng tỉ lệ giữa kích cỡ não và kích cỡ cơ
thể. Vì người Indian Pueblo có tầm vóc nhỏ, nên não của họ mới nhỏ;
tương tự, người châu Phi nói chung là cao lớn, và não của họ cũng lớn.
7) Thực ra, người Hi Lạp chỉ tiến đến giai đoạn cao của thời dã man sớm
nhất châu Âu. Người Lưỡng Hà, người Ai Cập, người Harappa (trên lưu vực
sông Ấn), người Trung Quốc đều đã ở giai đoạn đó sớm hơn người Hi Lạp
nhiều. Engels đã nhầm ở đây. Chú thích của người dịch 1 "Xã hội Cổ đại". 2 Đây là tên gọi cũ của các sông Amu Darya và Syr Darya.
3 Ở bản in năm 1884, đoạn “người Germania thời Tacitus; người Norse
thời Viking” được ghi là “những người Germania thời Caesar (hay như
chúng ta thích nói hơn, là thời Tacitus)”. II. GIA ĐÌNH
Morgan từng sống với người Iroquois - ở bang New York - trong phần lớn
đời mình, và được một bộ lạc của họ (bộ lạc Seneca) nhận làm con nuôi;
ông đã phát hiện ra rằng người Iroquois có một hệ thống thân tộc mâu
thuẫn với các quan hệ gia đình thực tế của họ. Một chế độ hôn nhân cá
thể trong đó hai bên có thể dễ dàng li dị nhau, mà Morgan gọi là “gia
đình đối ngẫu” (pairing family), đang tồn tại ở đó. Vậy thì con cháu của
một cặp vợ chồng đương nhiên là được mọi người biết rõ và thừa nhận; và
không việc gì phải nghi ngờ về việc gọi ai là cha, mẹ, con, anh, chị,
em. Nhưng trên thực tế thì lại khác. Người đàn ông Iroquois gọi con
mình, và con của anh em ruột, là “con”; và chúng gọi anh ta là “cha”.
Còn con của chị em ruột thì anh ta gọi là “cháu”, và chúng gọi anh ta là
“cậu”. Mặt khác, người đàn bà Iroquois gọi con mình, và con của chị em
ruột, là “con”; và chúng gọi là “mẹ”. Chị ta gọi con của anh em ruột là
“cháu”, và chúng gọi chị ta là “cô”. Tương tự, con của các anh em ruột
(hay các chị em ruột) cũng gọi nhau là “anh em ruột”, “chị em ruột”; và
gọi con của cô mình (hay cậu mình) là “anh em họ”, “chị em họ”. Đó không
phải những tên gọi suông, mà là biểu hiện của những quan hệ thân tộc
gần hoặc xa, giống nhau hoặc khác nhau; chúng được dùng làm cơ sở cho
một hệ thống thân tộc hoàn toàn xác định, có thể biểu hiện hàng trăm
quan hệ thân tộc khác nhau của một cá nhân. Hệ thống đó không chỉ có ở
tất cả những người Indian tại Mĩ (chưa ngoại lệ nào được ghi nhận), mà
cả ở dân bản xứ Ấn Độ - các bộ lạc Dravida ở Deccan, và các bộ lạc Gaura
ở Hindustan (lưu vực sông Hằng) - dưới một hình thức gần như thế. Người
Tamil ở miền Nam Ấn Độ, người Iroquois trong bộ lạc Seneca ở bang New
York tới nay vẫn có hơn hai trăm mức thân tộc khác nhau. Và ở các dân
đó, hệ thống thân tộc cũng mâu thuẫn với các quan hệ thân tộc sinh ra từ
hình thức gia đình hiện có. Phải giải thích việc này thế nào?
Vì vai trò quyết định của hệ thống thân tộc trong kết cấu xã hội của tất
cả các dân mông muội và dã man, nên không thể dùng mấy câu nói để xóa
bỏ ý nghĩa của một hệ thống rất phổ biến như vậy. Một hệ thống thịnh
hành trên toàn châu Mĩ, có cả ở châu Á, cả ở châu Phi và châu Đại Dương
với ít nhiều thay đổi; hệ thống đó phải được giải thích về lịch sử, chứ
không thể coi là không có, giống như McLennan. Các tiếng “cha”, “con”,
“anh em”, “chị em” không chỉ là lối xưng hô kính trọng, mà còn bao hàm
các nghĩa vụ rất rõ ràng và nghiêm chỉnh của họ với nhau; các nghĩa vụ
ấy hợp thành một phần thiết yếu trong kết cấu xã hội của các dân nói
trên. Lời giải thích đã được tìm ra. Vào nửa đầu thế kỉ 19, trên quần
đảo Hawaii vẫn có một hình thức gia đình với những kiểu “cha mẹ, anh chị
em, con cháu, cô cậu” đúng theo hệ thống thân tộc ở Ấn Độ cổ và ở Mĩ.
Nhưng thật kì lạ: hệ thống thân tộc có ở Hawaii khi đó cũng không phù
hợp với hình thức gia đình bấy giờ. Theo hệ thống đó, tất cả con cái của
anh chị em ruột, không trừ một ai, đều là anh chị em ruột của nhau;
chúng được coi như con chung của tất cả những anh chị em ruột của cha mẹ
chúng, không phân biệt gì cả. Vậy, trong khi hệ thống thân tộc ở Mĩ giả
định sự tồn tại của một hình thức gia đình cổ xưa, không tồn tại ở Mĩ
nữa, nhưng vẫn còn ở Hawaii; thì mặt khác, hệ thống thân tộc ở Hawaii
lại chỉ ra một hình thức gia đình còn cổ xưa hơn, nhất định đã từng có,
dù hiện nay ta không thể tìm ra nó ở đâu cả; từ hình thức gia đình rất
cổ xưa đó, hệ thống thân tộc có ở Hawaii mới có thể phát sinh.
“Gia đình là một yếu tố năng động. Nó không đứng yên, mà tiến từ hình
thức thấp lên hình thức cao hơn, khi xã hội tiến từ trạng thái thấp lên
trạng thái cao hơn... Ngược lại, các hệ thống thân tộc thì thụ động, chỉ
phản ánh bước tiến của gia đình sau một thời gian dài, và chỉ bắt đầu
thay đổi khi gia đình đã hoàn toàn thay đổi”1 Marx nói thêm:
“Nói chung, những hệ thống chính trị, luật pháp, tôn giáo và triết học
cũng thế”. Khi gia đình tiếp tục thay đổi, thì hệ thống thân tộc trở nên
cố định; và khi hệ thống thân tộc tiếp tục tồn tại do tập quán, thì gia
đình vượt qua hệ thống đó. Nhưng Cuvier, từ một bộ xương thú được khai
quật gần Paris, đã suy ra rằng xương đó là của một loài thú có túi, từng
sống ở đó và đã tuyệt chủng; và chúng ta, từ một hệ thống thân tộc do
lịch sử để lại, cũng có thể suy ra một hình thức gia đình phù hợp với hệ
thống đó, nhưng nay không còn nữa. Những hệ thống thân tộc và
hình thức gia đình, mà ta nói tới ở trên, khác với những hình thức và hệ
thống hiện hành ở chỗ là mỗi đứa con đều có nhiều cha nhiều mẹ. Theo hệ
thống thân tộc ở Mĩ, do hình thức gia đình ở Hawaii sinh ra, thì anh em
trai và chị em gái không thể là cha và mẹ của cùng một đứa con; nhưng
ngược lại, hệ thống thân tộc ở Hawaii lại giả định rằng có một hình thức
gia đình, trong đó hiện tượng trên là thường thấy. Ở đây, ta thấy một
loạt hình thức gia đình mâu thuẫn trực tiếp với những hình thức mà tới
nay vẫn được coi là duy nhất có. Quan niệm truyền thống chỉ thừa nhận
chế độ hôn nhân cá thể, thêm vào đó là chế độ nhiều vợ, và cùng lắm là
chế độ nhiều chồng; cũng như bọn philistine hay dạy đời, nó giấu đi sự
thật là thực tiễn luôn lặng lẽ vượt qua những rào cản, mà xã hội chính
thống dựng lên. Tuy nhiên, việc nghiên cứu lịch sử nguyên thủy đã phát
hiện ra một trạng thái, trong đó đàn ông sống theo chế độ nhiều vợ, đàn
bà lại sống theo chế độ nhiều chồng; và con cái đều là của chung - trạng
thái đó đã trải qua nhiều biến đổi, trước khi chuyển hẳn thành chế độ
hôn nhân cá thể. Xu hướng của các biến đổi đó là ngày càng giảm số người
có quan hệ hôn nhân cùng nhau; ban đầu vốn rất nhiều, cuối cùng chỉ còn
lại một cặp vợ chồng, như hiện nay thường gặp. Trong khi dựng
lại lịch sử đã qua của gia đình như vậy, Morgan nhất trí với hầu hết các
đồng nghiệp của mình; rằng đã có một trạng thái nguyên thủy ở các bộ
lạc, trong đó việc tự do quan hệ tính giao đã thịnh hành, mọi người đàn
bà đều thuộc về mọi người đàn ông và ngược lại. Từ thế kỉ 18, một trạng
thái như thế đã được nói tới, nhưng rất chung chung. Bachofen là người
đầu tiên đã nghiêm túc đặt ra vấn đề này, và đã tìm kiếm dấu vết của nó
trong các tàn tích lịch sử và tôn giáo - đó chính là một công lao lớn
của ông. Ngày nay, ta biết là những dấu vết mà ông tìm ra không dẫn tới
một giai đoạn xã hội trong đó có quan hệ tính giao bừa bãi, mà dẫn tới
một hình thức có sau đó rất lâu, ấy là chế độ quần hôn. Giai đoạn quan
hệ tính giao bừa bãi kia, nếu có tồn tại thật, thì cũng thuộc về một
thời đại rất xa; đến nỗi ta khó mà hi vọng có thể trực tiếp chứng minh
sự tồn tại đó, nếu dựa vào việc tìm kiếm các tục lệ xã hội, ở những
người mông muội. Công lao của Bachofen là ở chỗ đã đặt việc nghiên cứu
vấn đề đó lên hàng đầu1 . [Gần đây, việc phủ nhận giai đoạn đầu
đó trong quan hệ tính giao của con người đã trở thành cái mốt. Người ta
muốn tránh cho nhân loại “điều nhục nhã” ấy; bằng cách viện cớ rằng
không có bằng chứng trực tiếp nào về thời kì đó, đặc biệt là còn lấy ví
dụ từ cả động vật. Về động vật, theo những sự kiện mà Letourneau (“Sự
tiến hóa của hôn nhân và gia đình”2, 1888) đã thu thập được, thì quan hệ
tính giao hoàn toàn bừa bãi là thuộc về một giai đoạn phát triển thấp.
Nhưng từ các sự kiện đó, tôi chỉ rút ra được một kết luận: đối với loài
người và các điều kiện sinh sống nguyên thủy của loài ấy, thì chúng
chẳng chứng minh được gì cả. Việc các loài động vật có xương sống sống
thành đôi trong thời gian dài được giải thích đầy đủ nhờ các nguyên nhân
sinh lí - với loài chim là vì con mái cần được bảo vệ trong thời gian
ấp trứng; những ví dụ về tình trạng một vợ một chồng bền vững ở loài
chim không nói lên điều gì về loài người cả, đơn giản vì người không
phải từ chim mà ra. Và nếu tình trạng một vợ một chồng triệt để là đỉnh
cao của đức hạnh, thì chức quán quân phải là của loài sán: trong số
50-200 đốt của nó, mỗi đốt đều có đủ cơ quan sinh dục đực và cái; trong
suốt thời gian sống của mình, nó cứ tự giao cấu trong mỗi đốt như vậy.
Nhưng khi giới hạn trong các loài thú, ta sẽ thấy mọi hình thức sinh
hoạt tính giao: quan hệ tính giao bừa bãi, quần hôn (hay gần như vậy),
nhiều vợ, cá thể. Chỉ thiếu có hình thức nhiều chồng thôi, và chỉ loài
người có hình thức đó. Kể cả những loài gần chúng ta nhất, nhóm Bốn
tay3, cũng có đủ các kiểu kết hợp giữa hai giới. Nếu thu hẹp hơn nữa,
chỉ xem xét bốn loài vượn người, thì Letourneau chỉ nói được rằng chúng
có lúc sống một vợ một chồng, khi lại theo kiểu nhiều vợ; còn Saussure
(trích dẫn Giraud-Teulon) thì vẫn cho rằng chúng sống theo kiểu một vợ
một chồng. Những khẳng định mới đây về kiểu hôn nhân cá thể ở vượn người
của Westermarck (“Lịch sử hôn nhân của loài người”4, London, 1891) cũng
còn lâu mới chứng tỏ được gì đó. Tóm lại, vì các bằng cớ chỉ có thế,
Letourneau đã trung thực thừa nhận: “Ở các loài thú, không có quan hệ chặt chẽ nào giữa sự phát triển trí tuệ với hình thức quan hệ tính giao” Còn Espinas (“Về các xã hội động vật”5, 1877) thì nói toạc ra:
“Bầy là tập đoàn xã hội cao nhất mà ta có thể thấy ở các động vật. Nó
hình như là gồm nhiều gia đình; nhưng ngay từ đầu, gia đình và bầy đã
đối kháng với nhau, và phát triển tỉ lệ nghịch với nhau” Những
điều trên cho thấy, chúng ta gần như không biết gì về gia đình và các
tập đoàn xã hội khác ở vượn người, các bằng chứng thì hoàn toàn trái
ngược nhau. Điều đó không có gì lạ. Ngay cả tài liệu về các bộ lạc mông
muội đã rất mâu thuẫn, cần kiểm tra và chọn lọc một cách rất có phê
phán. Mà các xã hội của loài vượn người còn khó quan sát hơn nhiều so
với xã hội loài người. Vì thế, giờ đây ta phải bác bỏ bất kì kết luận
nào được rút ra từ các tài liệu hoàn toàn không đáng tin ấy.
Tuy nhiên, ý kiến trên kia của Espinas đã đưa lại một xuất phát điểm tốt
hơn. Trong các động vật cao cấp, bầy và gia đình không bổ sung cho
nhau, mà đối lập với nhau. Ông chỉ ra rất rõ: vào mùa giao phối, máu
ghen của các con đực đã khiến sự gắn bó của bầy bị lung lay, thậm chí
tạm thời bị phá vỡ. “Khi quan hệ gia đình là gần gũi và gần như
duy nhất, thì bầy chỉ hình thành trong các trường hợp ngoại lệ. Mặt
khác, khi mà quan hệ tính giao tự do hay kiểu sống nhiều vợ đang thịnh
hành, thì bầy được hình thành gần như là tự nhiên... Để bầy có thể hình
thành, thì quan hệ gia đình phải yếu đi, và các cá thể phải lại được tự
do. Thế nên, ở các loài chim, các bầy có tổ chức rất hiếm gặp... Nhưng ở
các loài thú, ta lại thấy các xã hội ít nhiều có tổ chức; chính vì ở
chúng, cá thể không bị gia đình nuốt mất... Khi bầy mới hình thành, thì
kẻ thù lớn nhất của ý thức tập thể của bầy chính là ý thức tập thể của
gia đình. Chúng ta không ngần ngại nói rằng: một hình thức xã hội cao
hơn gia đình chỉ phát triển được khi hòa vào bản thân mình các gia đình
đã biến đổi về cơ bản; cùng lúc đó, các gia đình ấy sau này cũng có thể
tự thành lập lại - cũng theo cách trên - dưới những hình thức vô cùng
thuận lợi hơn” (Espinas, “Về các xã hội động vật”; Giraud-Teulon trích
dẫn trong “Nguồn gốc của hôn nhân và gia đình”, 1884, tr. 518-520).
Từ đó, ta thấy rằng những xã hội động vật cũng có giá trị nào đó khi
suy luận về các xã hội loài người, nhưng giá trị đó chỉ là tiêu cực. Như
ta đã biết, những động vật có xương sống cao cấp nhất cũng chỉ biết có
hai kiểu sống: nhiều vợ và từng đôi; trong đó chỉ có một con đực trưởng
thành, một “ông chồng”. Máu ghen của con đực - vừa củng cố vừa cô lập
gia đình - khiến gia đình động vật đối lập với bầy. Nó cũng làm cho bầy -
hình thức xã hội cao hơn - lúc thì không thể hình thành, lúc thì bị
lung lay, thậm chí tan rã trong mùa giao phối; hay ít nhất cũng kìm hãm
sự phát triển của bầy. Chỉ điều đó cũng đủ chứng tỏ rằng gia đình động
vật và xã hội loài người nguyên thủy không thể phù hợp với nhau; và rằng
khi phát triển lên từ động vật, thì người nguyên thủy hoặc là chưa biết
gì về gia đình, hoặc là chỉ biết tới một hình thức gia đình chưa từng
có ở động vật. Một loài không có khả năng tự vệ, như con người đang
trong quá trình hình thành, vẫn có thể sống sót, với số lượng nhỏ, trong
điều kiện sống cô lập, với hình thức sống từng đôi là cao nhất; như
gorilla và tinh tinh, mà Westermarck đã kể lại, dựa theo câu chuyện của
các thợ săn. Nhưng cần có cái gì đó hơn thế, để vượt qua được trạng thái
thú vật, để đạt được cái bước tiến vĩ đại nhất của giới tự nhiên; sự
thiếu khả năng tự vệ của cá thể cần được bù lại bằng sức mạnh của sự
liên kết và hợp tác trong cả bầy. Sẽ không thể giải thích được bước
chuyển thành người nói trên, nếu đi từ những điều kiện sống hiện tại của
vượn người ngày nay; hình như chúng đã đi lệch con đường tiến hóa, và
đang chết dần, hay ít nhất là đang thoái hóa, thì đúng hơn. Chỉ điều đó
cũng đủ bác bỏ mọi cố gắng so sánh các hình thức gia đình của loài vật
với các hình thức gia đình của người nguyên thủy. Sự khoan dung, tức là
không ghen tuông, giữa các con đực trưởng thành với nhau chính là điều
kiện tiên quyết để các tập đoàn lớn hơn, bền vững hơn có thể hình thành;
mà bước tiến hóa từ động vật lên người chỉ có thể diễn ra trong các tập
đoàn đó. Thật vậy, hình thức gia đình nguyên thủy nhất, mà ta có thể
chứng minh chắc chắn là nó từng tồn tại trong lịch sử; và thậm chí, hiện
nay, ta vẫn có thể nghiên cứu nó ở đâu đó; hình thức ấy là gì? Đó là
hình thức quần hôn, một hình thức gia đình trong đó cả một nhóm đàn ông
và cả một nhóm đàn bà đều là của nhau, sự ghen tuông gần như không có. Ở
giai đoạn phát triển sau, ta còn thấy một hình thức đặc biệt: nhiều
chồng, nó đối lập gay gắt với mọi bản năng ghen tuông, do đó ta chưa
từng biết loài động vật nào có hình thức ấy. Nhưng mọi hình thức quần
hôn mà ta biết, đều kèm theo những qui tắc phức tạp khác thường; tới mức
chúng nhất thiết phải dẫn tới một hình thức quan hệ tính giao sớm hơn,
đơn giản hơn; và sau cùng là dẫn tới một thời kì quan hệ tính giao bừa
bãi, trong giai đoạn chuyển từ động vật thành người. Việc dẫn ra các
kiểu hôn nhân ở động vật chỉ đưa ta quay về chính cái điểm mà ta đã vĩnh
viễn vượt qua. Vậy quan hệ tính giao bừa bãi nghĩa là gì?
Nghĩa là mọi cấm đoán và hạn chế, đang tồn tại hay từng tồn tại, thì lúc
đó đều không có. Ta đã thấy những rào cản, do tính ghen tuông gây ra,
bị đánh đổ. Một điều chắc chắn là tình cảm ghen tuông khá lâu sau này
mới phát triển. Quan niệm về loạn luân thì cũng thế. Lúc ban đầu, không
chỉ anh chị em mới là vợ chồng; mà cả ngày nay, quan hệ tính giao giữa
cha mẹ và con cái vẫn được thừa nhận ở nhiều dân. Bancroft (“Những thổ
dân ở các bang ven Thái Bình Dương ở Bắc Mĩ”6, 1875, t. I) chứng thực sự
tồn tại của tình trạng đó ở người Kadiak vùng eo biển Bering và Alaska,
người Tinneh ở Bắc Mĩ thuộc Anh. Letourneau đã thu thập các thông tin
về tình trạng đó ở người Indian Chippewa, người Cucus ở Chile, người bản
xứ Caribe, người Karen ở Myanmar. Đó là chưa nói đến những câu chuyện
của người Hi Lạp và La Mã thời cổ về người Parthia, người Ba Tư, người
Scythia, người Hun, v.v. Trước khi tội loạn luân được phát minh ra - vì
nó chính là một phát minh, và là một phát minh rất quí giá - thì việc
quan hệ tính giao giữa cha mẹ và con cái cũng không gây ra sự ghê tởm
lớn hơn việc quan hệ tính giao giữa những người thuộc các thế hệ khác
nhau gây ra. Hiện nay, ngay ở các xứ philistine nhất, điều đó vẫn xảy ra
mà không gây nên điều kinh khủng lớn gì cả: ngay cả những “cô gái già”
ngoài sáu mươi, nếu đủ giàu, vẫn lấy được những chàng trai tuổi ba mươi.
Nhưng nếu chúng ta, từ các hình thức gia đình nguyên thủy nhất đã biết,
loại bỏ các quan niệm về loạn luân, vốn gắn liền với chúng - những quan
niệm ấy khác xa, thậm chí thường đối lập trực tiếp, với quan niệm ngày
nay của chúng ta; thì hình thức quan hệ tính giao khi đó chỉ có thể nói
là bừa bãi, vì khi đó chưa có sự hạn chế nào của tập quán cả. Nhưng
trong thực tiễn, chắc chắn là không nhất thiết phải có tình trạng cực kì
lang chạ. Việc nhất thời sống chung theo từng đôi không phải là tuyệt
đối không có, cũng như trong chế độ quần hôn mà ta thấy ngày nay. Và khi
Westermarck, tác gia gần đây nhất đã phủ nhận sự tồn tại của trạng thái
nguyên thủy ấy, và coi “hôn nhân” là mọi trường hợp sống chung đến khi
sinh con đẻ cái của một đôi nam nữ; thì chúng ta phải chỉ ra rằng kiểu
hôn nhân đó hoàn toàn có thể có trong trạng thái quan hệ tính giao bừa
bãi, và không hề mâu thuẫn với tình trạng ấy - nghĩa là tình trạng quan
hệ tính giao không kèm theo bất kì hạn chế nào của tập tục. Nhưng
Westermarck lại đứng trên quan điểm: quan hệ tính giao bừa bãi “bao hàm
việc bóp chết tình yêu cá nhân”, do đó “hình thức xác thực nhất của tình
trạng ấy là tệ mãi dâm” Theo ý tôi, người ta sẽ không thể hiểu
được xã hội nguyên thủy, chừng nào còn nhìn xã hội ấy bằng cặp kính nhà
thổ. Ta sẽ quay lại điểm này khi bàn về chế độ quần hôn.] Theo Morgan, từ trạng thái quan hệ tính giao bừa bãi thời nguyên thủy, các hình thức gia đình sau đây đã phát triển:
1. Gia đình huyết tộc, giai đoạn đầu tiên của gia đình. Lúc này, các
tập đoàn hôn nhân đã tách ra theo các thế hệ: tất cả ông bà, trong phạm
vi gia đình, đều là vợ chồng của nhau; con của họ, tức là tất cả bố mẹ,
cũng thế; con của đời thứ hai, tức là các cháu, lập thành nhóm vợ chồng
chung thứ ba; rồi con của họ, tức là đời thứ tư, lập thành nhóm thứ tư.
Vì thế, trong kiểu hôn nhân này, chỉ có tổ tiên và con cháu, cha mẹ và
con cái, là không có “quyền hay nghĩa vụ vợ chồng” (như ta vẫn nói) đối
với nhau. Còn anh chị em ruột, anh chị em họ ở bậc nào đi nữa thì đều là
anh chị em, chính vì thế nên đều là vợ chồng, của nhau. Ở giai đoạn
này, quan hệ họ hàng của anh chị em đương nhiên cũng bao hàm cả việc
quan hệ tính giao giữa họ với nhau2 . Ví dụ điển hình của kiểu gia đình
đó là các hậu duệ của một cặp vợ chồng: họ đều là anh chị em, và đều là
vợ chồng, của nhau; trong phạm vi từng đời một. Gia đình huyết
tộc đã tiêu tan. Ngay những dân mông muội nhất, mà lịch sử từng biết
đến, cũng không cho ta một ví dụ chắc chắn nào về hình thức đó. Nhưng
chúng ta buộc phải công nhận là nó nhất định từng tồn tại: hệ thống thân
tộc Hawaii, ngày nay vẫn thịnh hành trên khắp quần đảo Polynesia, đang
biểu hiện những mức độ thân tộc mà chỉ có hình thức gia đình đó mới tạo
ra được. Toàn bộ sự phát triển sau này của gia đình cũng giả định sự tồn
tại của gia đình huyết tộc, như là giai đoạn tất yếu đầu tiên.
2. Gia đình punalua. Nếu bước tiến đầu tiên trong tổ chức gia đình là
xóa bỏ quan hệ tính giao giữa cha mẹ và con cái, thì bước tiến thứ hai
là hủy bỏ quan hệ tính giao giữa anh chị em với nhau. Vì anh chị em có
tuổi gần nhau hơn, nên bước thứ hai này là vô cùng quan trọng hơn, nhưng
cũng khó khăn hơn bước thứ nhất. Nó được thực hiện dần dần, [chắc là]
bắt đầu với việc hủy bỏ quan hệ tính giao giữa anh chị em cùng mẹ; trước
hết là trong những trường hợp cá biệt, rồi từng bước trở thành thông lệ
(ở Hawaii, ngay trong thế kỉ này, vẫn có những ngoại lệ); và cuối cùng
là cấm kết hôn giữa các anh chị em họ đời thứ nhất, thứ hai và thứ ba,
như ta thường nói. Theo Morgan, đó là “minh họa rất tốt về hoạt động của nguyên tắc chọn lọc tự nhiên”
Không nghi ngờ gì nữa, các bộ lạc nào bị hạn chế bởi bước tiến ấy ắt
phải phát triển nhanh hơn và hoàn thiện hơn, so với các bộ lạc mà kết
hôn giữa anh chị em vẫn là tục lệ. Bước tiến đó có ảnh hưởng lớn đến thế
nào, điều đó có thể thấy được từ việc thành lập thị tộc; một tổ chức do
bước tiến ấy trực tiếp tạo ra, và đã vượt xa cái mục đích ban đầu của
chính nó. Thị tộc đã tạo nên cơ sở của trật tự xã hội trong hầu hết, nếu
không phải tất cả, các dân dã man trên Trái Đất; từ đó, ở Hi Lạp và La
Mã, chúng ta đã tiến thẳng lên thời văn minh. Nhiều lắm là sau
vài thế hệ, mỗi gia đình nguyên thủy phải tự chia nhỏ ra. Thói quen sống
chung trong một công xã cộng sản nguyên thủy - từng thịnh hành cho tới
tận giai đoạn giữa của thời dã man, và không có ngoại lệ - đã đặt ra một
giới hạn cho qui mô của công xã gia đình; nó có thể biến đổi tùy hoàn
cảnh, nhưng lại khá xác định với từng địa phương. Ngay khi quan niệm
“quan hệ tính giao giữa anh chị em cùng mẹ là sai trái” ra đời, nó đã
thể hiện tác động của mình khi các công xã gia đình cũ chia nhỏ ra và
tạo nên các công xã gia đình mới (chúng không nhất thiết phải ăn khớp
với tập đoàn gia đình). Một hay nhiều nhánh chị em gái trở thành trung
tâm của một công xã, còn anh em trai cùng mẹ của họ lại là hạt nhân của
một công xã khác. Chính bằng cách đó, hoặc những cách tương tự, một hình
thức gia đình mới đã xuất hiện từ hình thức gia đình huyết tộc; nó được
Morgan gọi là gia đình punalua. Theo phong tục Hawaii, thì một số chị
em gái cùng mẹ, hoặc là chị em gái họ, đều là vợ chung của những người
chồng chung của họ; nhưng trong đó không có anh em trai của họ. Những
người chồng này không gọi nhau là anh em nữa, mà cũng không nhất thiết
phải là anh em với nhau; họ gọi nhau là punalua (nghĩa là “bạn thân” hay
tương tự thế). Cũng như vậy, một số anh em trai lấy chung nhau một số
người đàn bà làm vợ, nhưng trong đó không có chị em gái của họ; những
người vợ chung này cũng gọi nhau là punalua. Đó là hình thức cổ điển của
một kiểu gia đình, sau này nó có thể còn biến đổi nữa, nhưng đặc trưng
chủ yếu của nó vẫn là: chung vợ chung chồng với nhau trong phạm vi một
gia đình nhất định, nhưng phải loại ra anh em trai của vợ và chị em gái
của chồng; trước hết là anh chị em cùng mẹ, sau đó là những người có họ
hàng xa hơn. Hình thức gia đình đó đã đưa ra, với sự chính xác
tuyệt đối, các mức độ thân tộc có trong hệ thống ở Mĩ. Con của dì tôi
cũng là con của mẹ tôi, con của chú tôi cũng là con của cha tôi, họ đều
là anh chị em ruột của tôi. Nhưng con của cậu tôi là cháu của mẹ tôi,
con của các cô tôi là cháu của cha tôi, và họ là anh chị em họ của tôi.
Khi chồng của dì tôi vẫn là chồng của mẹ tôi, vợ của chú tôi vẫn là vợ
của cha tôi (ít ra là trên nguyên tắc); thì việc cấm quan hệ tính giao
giữa anh chị em ruột với nhau đã chia con cái của họ - trước đây vẫn là
anh chị em ruột của nhau, không phân biệt gì cả - làm hai loại: một số
vẫn là anh chị em ruột của nhau, một số khác thì không thể như thế nữa -
vì họ không thể có chung cha mẹ nữa. Vì thế, ở đây, lần đầu tiên cần có
“cháu” và “anh chị em họ”, những thứ bậc vô nghĩa đối với kết cấu gia
đình trước kia. Hệ thống thân tộc ở Mĩ - là hoàn toàn vô lí nếu xét theo
bất kì hình thức gia đình cá thể nào - đã được giải thích hết sức hợp
lí, tới từng chi tiết nhỏ nhất; nhờ có gia đình punalua, chính là cơ sở
của hệ thống đó. Gia đình punalua, [hoặc một hình thức tương tự], nhất
định đã tồn tại rất phổ biến; ít ra cũng ngang với mức phổ biến của hệ
thống thân tộc do nó tạo ra. Các bằng cớ về hình thức ấy, hình thức được
chứng tỏ là vẫn còn ở Hawaii, có thể được thu thập trên khắp quần đảo
Polynesia; nếu các nhà truyền giáo ngoan đạo, cũng giống như các tăng lữ
người Tây Ban Nha ở Mĩ xưa kia, có thể coi những trạng thái trái với
giáo lí Cơ Đốc ấy là cái gì khác hơn “điều ghê tởm”3 . Câu chuyện của
Caesar về người Briton - lúc đó đang ở giai đoạn giữa của thời dã man -
rằng “cứ mươi, mười hai người thì có những người vợ chung; đặc biệt là
giữa anh em trai hoặc cha con với nhau”, đã được giải thích rõ nhất
trong chế độ quần hôn10. Một người mẹ ở thời dã man không thể có tới
mươi, mười hai con trai cùng lứa tuổi để lấy chung vợ; nhưng chế độ thân
tộc ở Mĩ, phù hợp với gia đình punalua, lại có thể; vì tất cả anh em
họ, gần và xa, đều coi là anh em ruột cả. Có thể Caesar đã nhầm khi nói
“cha con với nhau”; nhưng hệ thống ấy cũng không hoàn toàn cấm việc cha
và con trai (hay mẹ và con gái) cùng ở trong một nhóm hôn nhân, mà chỉ
cấm cha và con gái (hay mẹ và con trai) thôi. Hình thức quần hôn đó,
[hay một hình thức tương tự], cũng là lời giải thích dễ dàng nhất đối
với những mô tả của Herodotus và các tác gia cổ đại khác về việc lấy
chung vợ ở các dân mông muội và dã man. Cùng với đó là những mô tả của
Watson và Kaye (“Dân cư Ấn Độ”11) về người Teehur ở Oudh (ở phía Bắc
sông Hằng): “Họ sống chung một cách gần như bừa bãi (đây là nói
về quan hệ tính giao) trong các gia đình lớn; nếu hai người có quan hệ
vợ chồng, thì đó cũng chỉ là trên danh nghĩa: họ có thể bỏ nhau rất dễ
dàng” Trong tuyệt đại đa số trường hợp, chế độ thị tộc có vẻ đã
trực tiếp phát sinh từ gia đình punalua; thực ra, hệ thống kết hôn đẳng
cấp ở Australia cũng là một xuất phát điểm của nó. Người Australia có
thị tộc, nhưng lại không có gia đình punalua; họ chỉ có một hình thức
quần hôn thô sơ hơn12. Ở mọi hình thức gia đình trong chế độ
quần hôn, người ta chỉ biết chắc ai là mẹ của một đứa bé, chứ không biết
cha của nó. Dù người mẹ đó gọi mọi đứa trẻ trong công xã gia đình là
“con”, thì người ấy vẫn phân biệt con đẻ của mình và con của người khác.
Vì thế, rõ ràng là chừng nào chế độ quần hôn còn thịnh hành, thì huyết
tộc chỉ tính được về bên mẹ, do đó chỉ nữ hệ được thừa nhận. Và trong
tất cả các dân ở thời mông muội (hay ở giai đoạn thấp của thời dã man),
thì đó là sự thật. Công lao lớn thứ hai của Bachofen là đã lần đầu tiên
tìm ra sự thật đó. Ông dùng từ “mẫu quyền” để chỉ việc thừa nhận duy
nhất huyết tộc về bên mẹ, cùng với các quan hệ thừa kế (sau này) được
phát sinh trên cơ sở đó; để cho ngắn gọn, tôi vẫn dùng thuật ngữ ấy, mặc
dù nó không thật chuẩn; vì ở giai đoạn đó của xã hội thì không thể nói
đến “quyền” theo nghĩa pháp lí được. Bây giờ, nếu ta lấy một
trong hai nhóm điển hình của gia đình punalua; cụ thể là nhóm chị em gái
(cùng với con cái họ), và nhóm anh em trai (cùng mẹ hay cùng họ) của
những chị em gái đó; thì chúng ta sẽ có chính các nhóm người sau này sẽ
trở thành thành viên thị tộc, dưới hình thức ban đầu của chế độ đó. Họ
đều có một bà mẹ tổ chung, vì thế những hậu duệ nữ (thuộc cùng một thế
hệ) đều là chị em gái của nhau. Nhưng chồng của họ thì không là anh em
trai của họ, vì thế cũng không là con cháu của bà mẹ tổ kia, do đó cũng
không là thành viên của tập đoàn huyết tộc đó (chính là thị tộc sau
này). Nhưng con cái của những chị em nói trên lại thuộc về tập đoàn đó,
vì chỉ có huyết tộc về phía mẹ được thừa nhận. Từ khi có việc cấm quan
hệ tính giao giữa anh chị em về phía mẹ, kể cả trong những họ xa nhau
nhất, thì tập đoàn nói trên sẽ biến thành thị tộc; tức là biến thành một
nhóm cố định, có quan hệ huyết tộc về nữ hệ, và hôn nhân nội bộ bị cấm;
và từ đó về sau, nhờ những thiết chế xã hội và tôn giáo chung, nhóm đó
ngày càng trở nên vững chắc và tự phân biệt với các thị tộc khác trong
cùng một bộ lạc. Sau đây, ta sẽ còn nói thêm về việc đó. Khi ta thấy thị
tộc, một cách tất yếu và hoàn toàn tự nhiên, đã phát triển từ gia đình
punalua; thì chúng ta, hoàn toàn hợp lí, có thể suy ra là hình thức gia
đình ấy - ở một thời kì nào đó - đã tồn tại trong tất cả các dân mà xưa
kia từng có chế độ thị tộc, nghĩa là trong hầu hết các dân dã man và văn
minh. [Lúc Morgan viết cuốn sách của ông thì hiểu biết của
chúng ta về chế độ quần hôn còn rất hạn chế. Chỉ có chút thông tin về
chế độ quần hôn theo đẳng cấp ở thổ dân Australia, và các tài liệu về
gia đình punalua ở Hawaii trong cuốn sách năm 1871 của Morgan. Gia đình
punalua, một mặt đã hoàn toàn giải thích được hệ thống thân tộc hiện có
của người Indian ở Mĩ, hệ thống này lại là điểm xuất phát của tất cả
những nghiên cứu của Morgan; mặt khác, là nguồn gốc trực tiếp của thị
tộc mẫu quyền; hơn nữa, lại biểu hiện một giai đoạn phát triển cao hơn
nhiều, so với chế độ kết hôn đẳng cấp ở Australia. Vì thế, việc Morgan
coi nó (gia đình punalua) là giai đoạn phát triển tất yếu trước khi có
gia đình đối ngẫu, và tin rằng nó từng rất phổ biến ở các thời xa xưa,
cũng là dễ hiểu. Từ hồi đó (năm 1871), ta đã biết thêm nhiều hình thức
quần hôn khác, và giờ thì ta biết là Morgan đã đi quá xa về điểm đó.
Nhưng Morgan cũng đã may mắn với gia đình punalua của mình: đó là hình
thức cao nhất, hình thức kinh điển của chế độ quần hôn, và bước chuyển
từ hình thức đó lên một giai đoạn cao hơn có thể được giải thích một
cách đơn giản nhất. Chúng ta phải biết ơn nhà truyền giáo người
Anh Lorimer Fison - người đã nghiên cứu chế độ quần hôn trong nhiều
năm, trên miếng đất cổ điển của nó: Australia - vì những đóng góp quan
trọng bậc nhất của ông đối với hiểu biết của chúng ta về chế độ ấy. Ông
đã tìm ra trình độ phát triển thấp nhất của dân bản địa Australia ở
Mount Gambier, bang South Australia. Ở đó, toàn thể bộ lạc được chia
thành hai đẳng cấp ngoại hôn lớn: Kroki và Kumite. Quan hệ tính giao
trong nội bộ mỗi đẳng cấp bị nghiêm cấm; mặt khác thì mỗi người đàn ông ở
đẳng cấp này - từ khi sinh ra - đã là chồng của mọi người đàn bà ở đẳng
cấp kia, và ngược lại. Không phải là từng cá nhân, mà là từng đẳng cấp
kết hôn với nhau. Cần thấy rằng ở đây không có sự hạn chế về tuổi tác
hay huyết tộc, chỉ có sự hạn chế về đẳng cấp, đối với việc quan hệ tính
giao. Một người đàn ông Kroki có vợ là mọi người đàn bà Kumite; nhưng
con gái của anh ta (do người đàn bà Kumite đẻ ra) thì theo mẫu quyền là
người Kumite, vì thế cũng là vợ của mọi người đàn ông Kroki (trong đó có
cha của nó) ngay từ khi ra đời. Dù thế nào thì việc tổ chức ra các đẳng
cấp như thế cũng không gây trở ngại gì cho việc đó, theo như ta biết.
Vậy thì hoặc là tổ chức ấy xuất hiện vào thời mà quan hệ tính giao giữa
cha mẹ và con cái vẫn chưa gây ra sự ghê tởm đặc biệt, mặc dù đã có cái
xu hướng lờ mờ muốn hạn chế việc quan hệ tính giao giữa những người cùng
huyết tộc, thế thì hệ thống đẳng cấp đã trực tiếp phát sinh từ trạng
thái quan hệ tính giao bừa bãi; hoặc là khi các đẳng cấp đó xuất hiện
thì quan hệ tính giao giữa cha mẹ và con cái đã bị tập tục ngăn cấm rồi,
thế thì trạng thái hiện nay có sau khi gia đình huyết tộc xuất hiện, và
là bước đầu tiên để vượt qua hình thức gia đình đó. Giả thiết sau có lẽ
đúng hơn. Theo tôi biết thì ở Australia không có ví dụ nào về quan hệ
tính giao giữa cha mẹ và con cái cả; còn hình thức ngoại tộc hôn có sau
này - tức là thị tộc mẫu quyền - thì, theo qui luật, đã ngầm giả định
rằng việc cấm các quan hệ tính giao đó đã có từ khi thị tộc mới xuất
hiện. Ngoài Mount Gambier, chế độ hai đẳng cấp đó còn có cả ở
lưu vực sông Darling (miền Đông) và Queensland (miền Đông Bắc), như thế
là nó được phổ biến rộng rãi. Nó chỉ cấm hôn nhân giữa anh chị em, con
cái của anh em trai và con cái của chị em gái với nhau, vì họ thuộc cùng
một đẳng cấp; còn con cái của anh và em gái (hay chị và em trai) thì
vẫn được lấy nhau. Bộ lạc Kamilaroi ở lưu vực sông Darling, bang New
South Wales, đã tiến thêm một bước trong việc ngăn cấm hôn nhân giữa
những người cùng huyết tộc: hai đẳng cấp ban đầu được chia ra thành bốn,
và toàn bộ mỗi đẳng cấp đó lại kết hôn với một đẳng cấp khác. Hai đẳng
cấp đầu tiên là vợ chồng của nhau từ khi sinh ra, tùy theo người mẹ
thuộc đẳng cấp thứ nhất hay thứ hai mà con cái thuộc đẳng cấp thứ ba hay
thứ tư, con cái của hai đẳng cấp này lại thuộc đẳng cấp thứ nhất và thứ
hai. Vậy, nếu một thế hệ thuộc hai đẳng cấp đầu, thì thế hệ ngay sau đó
lại thuộc hai đẳng cấp sau, và thế hệ thứ ba lại thuộc hai đẳng cấp
đầu. Vậy anh chị em họ (về phía mẹ) không thể lấy nhau, nhưng con cái họ
thì có thể. Sự sắp đặt ấy, vốn đã đặc biệt phức tạp, lại còn rắc rối
hơn; khi có thêm những thị tộc mẫu quyền được ghép vào, dù chuyện này
mãi về sau mới có. Nhưng lúc này ta không thể đi sâu vào việc đó được.
Điều quan trọng là, dù ý muốn chống lại hôn nhân giữa những người cùng
huyết tộc ngày càng được thể hiện; nhưng tác động của nó chỉ là theo bản
năng, chứ không có ý thức rõ rệt về mục đích. Chế độ quần hôn -
như ở Australia, vốn vẫn là chế độ hôn nhân đẳng cấp; tức là việc lấy
nhau giữa cả một đẳng cấp đàn ông sống rải rác trên toàn lục địa, với cả
một đẳng cấp đàn bà cũng ở rải rác như thế - nếu xét kĩ, thì cũng không
có gì quá khủng khiếp; như là bọn philistines, với cái trí óc nhà thổ
của chúng, vẫn tưởng tượng. Trái lại, sự tồn tại của chế độ ấy đã không
bị nghi ngờ trong hàng bao nhiêu năm, và chỉ gần đây nó mới bị đem ra
xét lại. Một kẻ quan sát hời hợt thì chỉ thấy chế độ quần hôn là một
hình thức hôn nhân cá thể lỏng lẻo, ở vài nơi thì lại là chế độ nhiều
vợ, đôi khi có cả việc không chung thủy. Phải nghiên cứu nhiều năm, như
Fison và Howitt, thì mới tìm ra cái qui luật chi phối các quan hệ hôn
nhân đó, các quan hệ có vẻ khá là quen thuộc đối với sinh hoạt thực tế
của người châu Âu. Cái qui luật giúp cho người đàn ông bản xứ Australia,
dù ở xa quê hương mình hàng trăm dặm, dù sống giữa những dân mà mình
không hiểu tiếng nói của họ; thì vẫn tìm được, ở bất kì đâu và bất kì bộ
lạc nào, một người đàn bà sẵn sàng hiến thân cho anh ta mà không phản
đối hay tức giận. Cái qui luật khiến cho người đàn ông có nhiều vợ sẵn
lòng nhường một người trong số đó cho khách ngủ cùng trong một đêm. Ở
chỗ mà người châu Âu thấy là vô đạo và phi pháp, thì thực ra lại có luật
lệ nghiêm ngặt. Những người đàn bà đó thuộc về đẳng cấp hôn nhân của
người khác xứ kia, do đó cũng là vợ của anh ta từ khi sinh ra. Luật lệ
đó cấm mọi quan hệ tính giao bên ngoài các đẳng cấp hôn nhân được qui
định từ xưa, ai làm trái sẽ phải nhận hình phạt. Kể cả khi tục cướp vợ
vẫn thường có ở nhiều vùng, thì luật lệ về các đẳng cấp kết hôn vẫn được
tuân thủ cẩn thận. Hôn nhân cướp đoạt rõ ràng là dấu hiệu của
việc chuyển sang chế độ hôn nhân cá thể, ít nhất là dưới hình thức hôn
nhân đối ngẫu. Khi một nhóm chàng trai đã cùng nhau bắt cóc hay cướp
được một cô gái, thì họ sẽ lần lượt quan hệ tính giao với cô gái đó,
nhưng sau đó cô ta được coi là vợ của chàng trai chủ mưu việc này. Mặt
khác, nếu người đàn bà trốn thoát khỏi tay chồng mình, và bị người đàn
ông khác bắt được, thì người đó lại là chồng mới của chị ta; và người
chồng trước không có quyền gì với chị ta nữa. Như vậy, trong khi chế độ
quần hôn tiếp tục tồn tại như là hình thức phổ biến; thì bên cạnh nó và
bên trong nó, các quan hệ hôn nhân độc quyền, việc sống kết đôi trong
một thời kì dài hoặc ngắn, và cả chế độ nhiều vợ, đều đã bắt đầu hình
thành. Vì thế ở đây, chế độ quần hôn cũng đang diệt vong; và câu hỏi chỉ
là, với tác động của người châu Âu thì cái gì sẽ biến mất trước: chế độ
quần hôn hay là những dân bản xứ Australia đang thực hiện chế độ đó.
Kiểu kết hôn đẳng cấp đang thịnh hành ở Australia dù sao cũng là một
hình thức rất thấp và nguyên thủy của chế độ quần hôn, trong khi gia
đình punalua biểu hiện giai đoạn phát triển cao nhất của chế độ đó, như
ta đã biết. Cái đầu hình như là tương ứng với trình độ xã hội của người
mông muội du mục; còn cái sau lại giả định là các công xã cộng sản đã
định cư tương đối thường xuyên, và nó trực tiếp dẫn tới một giai đoạn
phát triển cao hơn. Nhưng chắc chắn ta sẽ còn thấy vài giai đoạn trung
gian giữa hai hình thức đó; đây là một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ, gần
như chưa ai bước chân vào.] 3. Gia đình đối ngẫu. Một
hình thức kết hôn theo từng cặp nhất định, trong thời gian ngắn hoặc
dài, đã tồn tại trong chế độ quần hôn10, hoặc còn sớm hơn nữa; khi đó,
người đàn ông có một vợ chính (nhưng chưa thể nói đó là vợ yêu nhất)
trong số rất nhiều vợ của mình; và đối với người vợ chính đó, thì anh ta
là người chồng chính trong số nhiều người chồng. Tình trạng đó đã góp
phần đáng kể vào việc tạo ra sự lẫn lộn trong đầu óc của các giáo sĩ: họ
coi chế độ quần hôn10 khi thì là sự cộng thê hỗn loạn, khi thì là việc
ngoại tình bừa bãi. Nhưng việc kết hôn từng cặp đó hẳn là đã ngày càng
lớn mạnh và vững chắc; khi mà thị tộc ngày càng phát triển, các nhóm
“anh em trai” và “chị em gái” không thể lấy nhau ngày càng nhiều. Sự
thúc đẩy việc cấm hôn nhân giữa những người cùng huyết tộc, do thị tộc
đặt ra, ngày càng mạnh hơn. Như ở người Iroquois và hầu hết những người
Indian khác, đang ở giai đoạn thấp của thời dã man, ta thấy hôn nhân
giữa những người có quan hệ họ hàng với nhau - theo hệ thống của họ -
đều bị cấm; mà các quan hệ họ hàng đó thì có đến mấy trăm loại. Những
điều cấm ngày càng phức tạp đó đã khiến chế độ quần hôn ngày càng trở
nên bất khả thi, và chế độ đó đã bị thay thế bởi gia đình đối ngẫu. Ở
giai đoạn này, một người đàn ông sống với một người đàn bà, nhưng việc
có nhiều vợ và đôi khi ngoại tình vẫn là quyền của đàn ông, dù trường
hợp đó rất hiếm, vì các nguyên nhân kinh tế không cho phép; nhưng người
đàn bà lại phải triệt để chung thủy trong thời gian sống với chồng, và
sẽ bị trừng trị tàn khốc nếu ngoại tình. Tuy thế, mối liên hệ hôn nhân
có thể dễ dàng bị một trong hai bên cắt đứt; sau khi “li dị”, con cái
chỉ thuộc về mẹ, cũng như xưa kia. Trong khi việc cấm hôn nhân
giữa những người cùng huyết tộc ngày càng được mở rộng, thì nguyên tắc
chọn lọc tự nhiên vẫn phát huy tác dụng. Theo Morgan thì: “Tác động của
thói quen mới, dẫn tới việc kết hôn giữa những người không có quan hệ họ
hàng với nhau, đã tạo ra một giống nòi mạnh mẽ hơn cả về thể chất và
trí óc... Khi hai bộ lạc đang tiến bộ, với những đặc tính ưu việt về thể
chất và trí óc, nhờ sự tình cờ của đời sống dã man mà kết hợp thành
một; thì sọ và não của các thế hệ mới cũng lớn lên, tương ứng với các
đặc tính của cả hai bộ lạc cũ”1 Vì thế, các bộ lạc có kết cấu
thị tộc hẳn phải ưu việt hơn các bộ lạc lạc hậu; hơn thế nữa, đã lôi kéo
những bộ lạc ấy đi theo hình mẫu của mình. Vậy, lịch sử gia
đình trong các thời nguyên thủy chính là việc thu hẹp không ngừng phạm
vi hôn nhân; lúc đầu nó bao gồm toàn bộ lạc, và hai giới có quan hệ hôn
nhân cộng đồng với nhau. Việc cấm quan hệ tính giao giữa những người
cùng huyết tộc; trước hết là họ hàng gần, sau đó là họ hàng xa hơn, cuối
cùng là cả họ hàng bên vợ (hay bên chồng); đã làm cho mọi hình thức
quần hôn đều trở thành bất khả thi. Cuối cùng chỉ còn từng đôi vợ chồng
riêng rẽ, kết hợp với nhau bằng những mối liên hệ hãy còn lỏng lẻo, và
nếu hình thức đó mất đi thì hôn nhân cũng không còn. Chỉ điều đó cũng đủ
chứng tỏ là tình yêu nam nữ, hiểu theo nghĩa hiện nay của nó, chỉ có
vai trò nhỏ bé đến thế nào trong sự xuất hiện của chế độ hôn nhân cá
thể. Những bằng chứng rõ hơn đến từ chính thực tế đời sống của người
thời đó. Trong khi dưới những hình thức gia đình trước kia, đàn ông
không bao giờ thiếu đàn bà, đúng ra họ còn có quá nhiều; thì giờ đây đàn
bà trở nên ít ỏi hơn, và được tìm kiếm ráo riết. Vì thế, từ khi có chế
độ hôn nhân đối ngẫu, việc cướp và mua đàn bà cũng xuất hiện; đó là
những hiện tượng phổ biến, nhưng chỉ là hiện tượng, không hơn không kém;
do những sự thay đổi sâu xa hơn nhiều gây ra. Những hiện tượng đó, hoàn
toàn chỉ là những cách kiếm vợ, đã được “học giả” người Scotland
McLennan biến báo thành những hình thức đặc biệt, “hôn nhân cướp đoạt”
và “hôn nhân mua bán”. Ngoài ra, trong các dân Indian ở Mĩ hay các dân
khác, các bà mẹ quyết định việc kết hôn, chứ không phải đôi lứa. Thường
thì hai người được đính hôn với nhau như vậy, họ chỉ biết việc đó khi
chú rể đem lễ vật đến biếu nhà gái để hỏi cưới; lễ vật đó thường được
coi là món tiền hơn là món quà, và nó cũng không phải là cái gì bất ngờ,
để thông báo là cuộc mua bán đã xong. Hôn nhân vẫn có thể bị hủy bỏ tùy
theo ý muốn của một trong hai bên, nhưng ở nhiều bộ lạc, ví dụ người
Iroquois, dần dần đã có dư luận phản đối việc li dị; khi có bất hòa, hai
thị tộc của vợ và chồng sẽ dàn xếp, và chỉ khi không dàn xếp được thì
mới li dị; con cái là của mẹ, và hai bên được tự do tái hôn.
Bản thân gia đình đối ngẫu quá non yếu và bất ổn, nên không thể đẻ ra sự
cần thiết - thậm chí là ý muốn - phải có kinh tế gia đình độc lập; nên
nó không hủy bỏ được công xã cộng sản do thời trước để lại. Nhưng công
xã cộng sản tức là đàn bà nắm quyền thống trị trong nhà; cũng như việc
chỉ thừa nhận huyết tộc theo nữ hệ, vì không thể biết rõ cha đẻ, có
nghĩa là phụ nữ - hay các bà mẹ - rất được kính trọng. Một trong những
quan điểm phi lí nhất của thời kì khai sáng (thế kỉ XVIII) là việc coi
đàn bà là nô lệ của đàn ông ở thời kì đầu của xã hội. Ở các dân mông
muội và các dân dã man - ở các giai đoạn thấp, giữa, và một phần ở giai
đoạn cao; địa vị của đàn bà không chỉ là tự do, mà còn là danh giá nữa.
Ta hãy nghe Arthur Wright, người đã nhiều năm truyền giáo cho dân
Iroquois thuộc bộ lạc Seneca, để xem điều trên còn tồn tại đến mức nào
trong gia đình đối ngẫu: “Về chế độ gia đình của họ, ở thời mà
những ngôi nhà dài theo kiểu cổ (công xã cộng sản bao gồm vài gia đình)
vẫn đang thịnh hành, thì hay có một họ (thị tộc) thống trị, và đàn bà đi
lấy chồng ở các họ khác... Đàn bà thường quản lí gia đình... Lương thực
là của chung, nhưng thật bất hạnh cho ông chồng hay kẻ tình nhân nào
không góp được phần mình vào số lương thực ấy, vì quá không may hoặc quá
lười biếng. Dù có bao nhiêu con, hay bao nhiêu tài sản, anh ta vẫn có
thể nhận được lệnh cuốn gói ra đi bất kì lúc nào; và nếu không tuân lệnh
thì tình hình sẽ chẳng tốt đẹp gì. Khi đó, gia đình sẽ trở thành địa
ngục với người ấy; và... anh ta chỉ còn cách trở về họ nhà mình, hoặc
tái hôn ở một họ khác, đó là điều vẫn hay xảy ra. Trong các họ, cũng như
ở mọi nơi khác, đàn bà có quyền lực rất lớn. Khi cần, họ không ngần
ngại cách chức một tù trưởng, và hạ người đó xuống hàng chiến binh
thường” (“Xã hội Cổ đại”; do Morgan trích dẫn) Công xã cộng sản
- trong đó hầu hết (nếu không phải là tất cả) phụ nữ đều thuộc cùng một
thị tộc, còn đàn ông lại thuộc nhiều thị tộc khác nhau - chính là cơ sở
hiện thực của sự thống trị, từng rất phổ biến ở các thời nguyên thủy,
của đàn bà; và công lao thứ ba của Bachofen là đã phát hiện ra điều đó.
Tôi xin nói thêm, những câu chuyện của các nhà du hành và các giáo sĩ,
về công việc hết sức nặng nhọc của đàn bà trong các dân mông muội và dã
man; không mâu thuẫn chút nào với điều nêu trên. Sự phân công lao động
giữa hai giới là do những nguyên nhân hoàn toàn khác, chứ không phải do
địa vị của đàn bà trong xã hội, gây ra. Ở các dân mà đàn bà phải làm
lụng cực nhọc hơn nhiều, so với mức mà ta cho là hợp lí; thì sự tôn kính
thực tế dành cho đàn bà cũng vượt xa, so với người châu Âu chúng ta.
Một quí bà ở thời văn minh - được tôn trọng một cách giả tạo, xa lạ với
mọi công việc thực tế - có một địa vị xã hội vô cùng thấp; so với người
đàn bà thời dã man - phải làm lụng vất vả, nhưng lại được người ta coi
là một quí bà thực sự, và thật sự là một quí bà - nếu xét theo địa vị mà
người ấy có. Ở Mĩ hiện nay, “chế độ hôn nhân đối ngẫu đã hoàn
toàn thay thế chế độ quần hôn chưa?” là một vấn đề chỉ có thể được giải
quyết nhờ việc nghiên cứu sâu hơn các dân ở vùng Tây Bắc, và đặc biệt là
ở Nam Mĩ, vốn đang ở giai đoạn cao của thời mông muội. Ở trường hợp
sau, người ta đã biết nhiều ví dụ về quan hệ tính giao tự do, đến mức
khó mà cho rằng chế độ quần hôn cổ đã mất đi hẳn. Ít nhiều thì những dấu
vết của chế độ đó vẫn còn. Ở ít nhất bốn mươi bộ lạc Bắc Mĩ, người đàn
ông - sau khi lấy người chị cả - có quyền lấy tất cả những cô em của
người chị đó, khi họ đủ tuổi; đó là tàn tích của thời kì mà tất cả các
chị em gái cùng lấy một chồng. Còn Bancroft thì kể về người Indian ở bán
đảo California (ở giai đoạn cao của thời mông muội) là trong những ngày
hội nhất định, nhiều “bộ lạc” tập hợp lại để tiến hành quan hệ tính
giao bừa bãi. Rõ ràng đó là các thị tộc, họ vẫn giữ được cái kí ức lờ mờ
về thời kì mà đàn bà ở một thị tộc là vợ chung của đàn ông ở các thị
tộc khác, trong những ngày hội ấy. [Một tục lệ tương tự cũng thịnh hành ở
Australia. Ở một số dân, ta còn thấy các bô lão, tù trưởng và pháp sư
đã lợi dụng chế độ lấy chung vợ để chiếm hữu đại đa số đàn bà; nhưng
trong những dịp hội hè lớn, họ lại phải khôi phục chế độ đó, và cho phép
vợ mình quan hệ tính giao với các chàng trai trẻ. Westermarck (sách đã
dẫn4, tr. 28-29) đã đưa ra một loạt ví dụ về các lễ Saturnalia định kì
đó; khi trong thời gian ngắn, trạng thái quan hệ tính giao tự do xưa kia
đã được phục hồi: người Ho, người Santal, người Punjab, người Kotar ở
Ấn Độ; một vài dân châu Phi; v.v. Kì lạ ở chỗ Westermarck kết luận rằng
đó là những tàn dư của mùa giao phối ở người nguyên thủy (cũng như các
động vật khác), không phải của chế độ quần hôn (cái mà ông ta hoàn toàn
phủ nhận). Bây giờ ta đến với phát hiện lớn thứ tư của
Bachofen, tức là hình thức quá độ phổ biến từ chế độ quần hôn sang chế
độ hôn nhân đối ngẫu. Cái được Bachofen mô tả là một sự chuộc tội vì đã
vi phạm những tục lệ thần thánh cổ xưa, mà người đàn bà phải làm để có
được quyền thủ tiết; thực ra chỉ là biểu hiện thần bí của sự chuộc mình,
mà người đàn bà dùng để thoát khỏi tình trạng nhiều chồng thời cổ, và
giành lấy quyền hiến thân cho chỉ một người đàn ông. Sự chuộc lại đó
chính là việc phải hiến thân - có hạn chế - cho người lạ: phụ nữ
Babylonia phải hiến thân hàng năm ở đền Mylitta; các dân khác ở Tiểu Á
thì hàng năm lại gửi con gái tới đền Anaitis, ở đó chúng được tự do ân
ái với những người mình thích, trước khi được phép lấy chồng. Những tục
lệ tương tự, nấp sau cái vỏ tôn giáo, thì phổ biến trong hầu hết các dân
châu Á, từ Địa Trung Hải đến tận sông Hằng. Sự hi sinh để chuộc mình đó
ngày càng nhẹ dần đi, như Bachofen nói: “Thay vì hiến thân
hàng năm, thì chỉ hiến thân một lần; thay vì tục tạp hôn ở các bà mẹ,
thì chỉ có tục tạp hôn ở các thiếu nữ; thay vì thực hiện nó trong hôn
nhân, thì chỉ thực hiện nó trước hôn nhân; thay vì phải hiến thân cho
mọi người, thì chỉ hiến thân cho vài người đã chọn” (“Mẫu quyền” , tr.
XIX) Trong một số dân khác thì không có cái vỏ tôn giáo. Ở vài
trường hợp - người Thrace, người Celt, nhiều dân bản địa ở Ấn Độ cổ;
ngày nay thì có người Malaya, các dân trên các đảo ở Nam Thái Bình
Dương, nhiều dân Indian châu Mĩ - con gái có quyền tự do tính giao rất
rộng rãi cho đến lúc lấy chồng mới thôi. Việc đó đặc biệt phổ biến ở hầu
khắp Nam Mĩ, bất kì ai đi sâu tìm hiểu một chút đều có thể chứng thực.
Vì thế mà Agassiz (“Hành trình tới Brazil”, Boston & New York, 1868,
tr. 266) đã kể về một gia đình gốc Indian giàu có như sau: sau khi làm
quen với cô con gái, ông hỏi về người cha, và đoán đó là chồng của bà mẹ
- ông ta là sĩ quan đang tham gia cuộc chiến tranh chống Paraguay;
nhưng bà mẹ mỉm cười trả lời: “Nao tem pai, e filha da fortuna” (nó
không có cha đâu, nó là đứa con do ngẫu nhiên mà có đấy).
“Những người đàn bà Indian hay lai Indian luôn nói thế về những đứa con
hoang của mình... không hề buồn bã hay hổ thẹn... Mà điều đó cũng không
có gì bất thường cả... ngược lại thì mới là kì lạ. Con cái... thường chỉ
biết mẹ thôi, vì mọi trách nhiệm và săn sóc đều là của mẹ; chúng không
biết gì về cha cả, hoặc là người đàn bà chưa bao giờ nghĩ rằng mình và
con cái mình lại có quyền đòi hỏi gì đó ở người cha” Điều lạ lùng đối với người văn minh thì ở đây, theo chế độ mẫu quyền và trong chế độ quần hôn, lại là thông lệ.
Hơn nữa, trong đám cưới của các dân ấy, thì bạn bè và họ hàng của chú
rể, rồi cả khách khứa đều đòi cái “quyền cổ truyền” của họ với cô dâu,
sau cùng mới là chú rể; đó cũng là tục lệ thời cổ ở các dân trên quần
đảo Balears, người Augila ở Bắc Phi; và hiện vẫn còn ở người Barea ở
Abyssinia. Ở các dân khác, một người có địa vị - thủ lĩnh bộ lạc hay thị
tộc, cacique, shaman, thầy pháp, hoàng thân, hay bất kì tên gì - thay
mặt cộng đồng, và được quyền hưởng đêm đầu tiên với cô dâu. Mặc cho việc
“tẩy trắng” theo kiểu lãng mạn mới, cái jus primae noctis13 ấy hiện vẫn
còn như một tàn tích của chế độ quần hôn, ở hầu hết các dân vùng
Alaska, người Tahu miền Bắc Mexico (Bancroft: sách đã dẫn6, tr. 81 &
584) và nhiều dân khác; nó cũng đã tồn tại suốt thời Trung cổ, ít ra là
ở các xứ - Aragon chẳng hạn - mà cư dân có gốc Celt, đó là do chế độ
quần hôn trực tiếp truyền lại. Trong khi ở Castile nông dân không bao
giờ là nông nô, thì ở Aragon lại có chế độ nông nô xấu xa nhất, tới khi
có chiếu chỉ năm 1486 của vua Ferdinand II mới thôi. Trong đó có viết:
“Chúng ta phán xét và tuyên bố rằng các lãnh chúa (senor, baron) nói
trên ... không có quyền ngủ đêm đầu tiên với người được một nông dân lấy
làm vợ, cũng không được bước qua giường khi người vợ nói trên đang nằm
trên đó, vào đêm tân hôn, để tỏ quyền thống trị; các lãnh chúa nói trên
cũng không có quyền bắt con cái nông dân phục vụ mình, dù có trả tiền
hay không, nếu họ không đồng ý” (Sugenheim, trích nguyên văn tiếng
Catalan trong “Chế độ nông nô”14, Sankt-Peterburg, 1861, tr. 35)
Bachofen lại hoàn toàn đúng khi quả quyết rằng bước chuyển từ cái mà
ông gọi là “tạp hôn” hay “thụ thai tội lỗi” (Sumpfzeugung) sang chế độ
hôn nhân cá thể được thực hiện nhờ phụ nữ là chính. Nhờ sự phát triển
của các điều kiện kinh tế - do đó mà chế độ cộng sản cổ xưa bị tan rã -
và sự tăng mật độ dân số, nên các quan hệ tính giao cổ truyền ngày càng
mất đi tính tự nhiên nguyên thủy của nó; phụ nữ hẳn là cảm thấy nó ngày
càng nặng nề và nhục nhã; họ ngày càng mong muốn được thủ tiết, tức là
chỉ kết hôn - nhất thời hay lâu dài - với một người đàn ông thôi, giống
như một sự giải phóng. Bước tiến này không thể nào do đàn ông thực hiện,
vì tới tận ngày nay, họ vẫn không muốn từ bỏ cái thú vị của chế độ quần
hôn thực sự. Chỉ khi phụ nữ tạo ra bước chuyển trên, thì đàn ông mới có
thể thực hành chế độ hôn nhân cá thể chặt chẽ - dù thật ra chỉ là chặt
chẽ với phụ nữ thôi.] Gia đình đối ngẫu phát sinh vào buổi
chuyển giao giữa thời mông muội và thời dã man, chủ yếu là ở giai đoạn
cao của thời mông muội, nhưng đôi khi là ở giai đoạn thấp của thời dã
man. Nó là hình thức tiêu biểu của thời dã man, cũng như chế độ quần hôn
của thời mông muội, và chế độ hôn nhân cá thể của thời văn minh. Để gia
đình đối ngẫu phát triển hơn nữa thành gia đình cá thể chặt chẽ, cần
những nguyên nhân khác, so với những nguyên nhân đã tác động từ trước
tới nay, mà ta đã thấy. Với gia đình đối ngẫu, nhóm hôn nhân đã giảm tới
đơn vị nhỏ nhất của nó, là phân tử với hai nguyên tử: một người đàn ông
và một người đàn bà. Nguyên tắc chọn lọc tự nhiên, với việc ngày càng
loại trừ cộng đồng khỏi hôn nhân, đã hoàn thành nhiệm vụ của nó; về mặt
đó, nó không có gì để làm nữa. Không có lí do gì để một hình thức gia
đình mới có thể phát sinh từ gia đình đối ngẫu, nếu những động lực xã
hội chưa hoạt động. Nhưng chúng đã bắt đầu hoạt động. Bây giờ
ta rời châu Mĩ, miếng đất cổ điển của gia đình đối ngẫu. Không có dấu
hiệu nào cho phép ta kết luận rằng một hình thức gia đình cao hơn đã
phát triển ở đó, rằng chế độ một vợ một chồng chặt chẽ đã có ở châu Mĩ,
trước khi nó được phát hiện và bị xâm chiếm. Nhưng ở thế giới cũ thì
không như vậy. Ở đây, việc thuần dưỡng súc vật và chăn nuôi các
đàn thú đã mở ra một nguồn của cải chưa từng thấy từ trước tới nay, và
tạo ra những quan hệ xã hội hoàn toàn mới. Cho tới giai đoạn thấp của
thời dã man, của cải cố định hầu như chỉ là nhà cửa, quần áo, trang sức
thô sơ, những công cụ để tìm kiếm và nấu thức ăn: thuyền bè, vũ khí, các
đồ dùng gia đình đơn giản nhất. Thức ăn thì vẫn phải kiếm hàng ngày.
Giờ đây, với những đàn ngựa, lạc đà, lừa, trâu bò, dê, cừu, lợn; các dân
du mục đang phát triển - người Semite ở Lưỡng Hà; hay người Aryan ở
Punjab và lưu vực sông Hằng của Ấn Độ, hoặc những thảo nguyên nhiều nước
hơn, ven các sông Oxus và Jaxartes - đã có được một thứ tài sản có thể
sinh sôi đều đặn, ngày càng tăng lên, lại cung cấp rất nhiều sữa và
thịt; mà chỉ cần trông coi và chăm sóc một cách sơ sài nhất. Mọi phương
tiện kiếm thức ăn trước kia đều lùi xuống hàng thứ yếu; việc săn bắn,
xưa là cần thiết, nay lại là một trò vui xa xỉ. Vậy của cải mới
đó thuộc về ai? Không nghi ngờ gì nữa, lúc đầu thì thuộc về thị tộc.
Nhưng chế độ tư hữu các đàn gia súc hẳn là đã ra đời từ sớm. Tác giả của
cái gọi là “cuốn sách đầu tiên của Moses” có coi tộc trưởng Abraham là
người sở hữu các đàn súc vật của ông ta hay không, do quyền của riêng
ông ta với tư cách người đứng đầu công xã gia đình, hay do quyền của
người đứng đầu thị tộc mà ông ta đã thực sự được thế tập - cái đó khó mà
nói được. Có điều chắc chắn là ta không thể nghĩ về ông ta như một
người sở hữu, theo nghĩa hiện đại của từ đó. Cũng chắc chắn là ở ngưỡng
cửa của thời kì lịch sử thành văn, ta đã thấy các đàn gia súc ở bất kì
đâu cũng trở thành sở hữu riêng rẽ15 của các chủ gia đình; cũng như các
tác phẩm nghệ thuật của thời dã man, các đồ dùng gia đình bằng kim loại,
các thứ đồ xa xỉ, và sau cùng là những con vật dạng người - tức là nô
lệ. Vì giờ đây chế độ nô lệ cũng đã được phát minh ra. Đối với
người ở giai đoạn thấp của thời dã man, nô lệ không có giá trị gì. Vì
thế mà người Indian châu Mĩ đối xử với kẻ bại trận khác hẳn so với các
dân ở giai đoạn cao hơn. Đàn ông bị giết hoặc được nhận làm anh em trong
bộ lạc thắng trận; phụ nữ được lấy làm vợ, hoặc được thu nhận theo cách
khác, cùng với con cái của họ. Ở giai đoạn đó, sức lao động của con
người chưa tạo ra được một lượng dư thừa đáng kể, so với các chi phí để
duy trì sức lao động ấy. Đến khi biết chăn nuôi, làm đồ kim loại, dệt,
và cuối cùng là trồng trọt, thì không còn như vậy nữa. Hệt như những
người vợ: trước kia thật dễ kiếm, mà giờ lại là món hàng, có giá trị
trao đổi, và phải đi mua; sức lao động cũng thế, đặc biệt là từ khi các
bầy gia súc hoàn toàn trở thành sở hữu của gia đình16. Gia đình sinh sôi
không nhanh như gia súc. Cần nhiều người hơn để chăm sóc chúng, có thể
dùng tù binh vào việc đó, mà tù binh cũng có thể sinh sôi dễ dàng như
gia súc vậy. Những của cải ấy, một khi đã trở thành tư hữu [của
các gia đình], và tăng lên nhanh chóng; thì nó đánh một đòn chí mạng
vào cái xã hội dựa trên chế độ hôn nhân đối ngẫu và thị tộc mẫu quyền.
Chế độ hôn nhân đối ngẫu đã đưa một yếu tố mới vào trong gia đình. Bên
cạnh người mẹ đẻ, nó đã đặt ra người cha đẻ xác thực, có lẽ còn xác thực
hơn cả những người “cha” ngày nay. Theo sự phân công lao động trong gia
đình thời đó, tìm kiếm thức ăn và sử dụng các công cụ lao động cần cho
việc đó, đều là phần của đàn ông. Vì thế anh ta cũng sở hữu các công cụ
ấy; và khi li hôn thì người chồng mang chúng theo mình, cũng như người
vợ giữ lại các dụng cụ gia đình. Vậy theo phong tục xã hội bấy giờ, đàn
ông cũng sở hữu một nguồn sinh sống mới: gia súc, và sau đó là một công
cụ lao động mới: nô lệ. Tuy vậy, cũng theo phong tục thời ấy, con cái
anh ta không được thừa kế tài sản của cha. Vì với việc thừa kế,
tình hình lúc đó là như sau: theo chế độ mẫu quyền - tức là huyết tộc
chỉ được tính về bên mẹ - và theo tập tục ban đầu về việc kề thừa trong
thị tộc, thì chỉ những người họ hàng trong cùng thị tộc mới được thừa kế
tài sản của một thành viên thị tộc đã chết. Tài sản của người đó phải ở
lại trong thị tộc. Vì tài sản đó cũng không nhiều cho lắm, nên có lẽ là
từ xưa, nó đã luôn được trao cho những người họ hàng gần nhất về phía
mẹ. Nhưng con cái của người đàn ông đã chết không thuộc thị tộc của anh
ta, mà thuộc thị tộc của mẹ chúng; chúng kế thừa tài sản của mẹ, trước
hết là cùng với họ hàng bên mẹ, về sau thì được ưu tiên nhận thừa kế
trước; chúng không thể kế thừa tài sản của cha, vì chúng không thuộc thị
tộc của cha, mà tài sản của cha phải ở lại trong thị tộc đó. Vì thế,
khi chủ một đàn gia súc qua đời, thì đàn gia súc của anh ta trước hết sẽ
thuộc về anh chị em ruột, và con cái họ; hoặc là con cháu của dì anh
ta. Còn con cái của chính anh ta thì không được thừa kế. Vậy,
tương ứng với sự tăng thêm của cải, một mặt thì của cải ấy khiến cho đàn
ông có địa vị quan trọng hơn đàn bà trong gia đình; mặt khác thì nó
thúc đẩy đàn ông lợi dụng địa vị đó để phá bỏ trật tự kế thừa cổ xưa,
nhằm làm lợi cho con cái mình. Nhưng chừng nào huyết tộc vẫn được tính
theo mẫu quyền thì điều đó là bất khả thi. Do đó, chế độ mẫu quyền phải
bị phá bỏ; và nó đã bị phá bỏ. Việc đó không hề khó khăn như ngày nay ta
vẫn tưởng. Vì cuộc cách mạng đó, một trong những cuộc cách mạng triệt
để nhất mà nhân loại từng trải qua, đã diễn ra mà không cần động tới một
thành viên còn sống nào của thị tộc. Mọi thứ vẫn có thể giữ nguyên; chỉ
cần một quyết định đơn giản rằng: từ nay về sau, con cái của thành viên
nam sẽ ở lại trong thị tộc, còn con cái của thành viên nữ phải ra khỏi
thị tộc và chuyển sang thị tộc của cha chúng. Thế là huyết tộc và qui
tắc thừa kế theo họ mẹ bị phá bỏ, thay bằng huyết tộc và qui tắc thừa kế
theo họ cha. Cuộc cách mạng đó đã xảy ra, trong các dân văn minh, vào
lúc nào và như thế nào; ta không hề biết. Nó hoàn toàn thuộc thời tiền
sử. Nhưng việc nó đúng là từng diễn ra, thì đã được chứng minh quá đầy
đủ, bằng rất nhiều tài liệu, nhất là của Bachofen, về những di tích của
chế độ mẫu quyền. Nó đã diễn ra dễ dàng đến thế nào, có thể nhìn vào
hàng loạt bộ lạc Indian châu Mĩ, nơi mà cuộc cách mạng mới chỉ vừa diễn
ra, và vẫn đang diễn ra; một phần vì sự tăng thêm của cải và thay đổi
cách sống (di cư từ rừng rậm ra thảo nguyên), phần khác vì tác động về
đạo đức của đời sống văn minh và các giáo sĩ. Trong tám bộ lạc Missouri,
có sáu bộ lạc xác định huyết tộc và thừa kế theo nam hệ, hai bộ lạc kia
vẫn theo nữ hệ. Ở các bộ lạc Shawnee, Miami, Delaware thì có tục lệ đặt
cho con cái một cái tên thuộc thị tộc của cha, để chuyển chúng sang thị
tộc ấy, nhờ đó chúng có thể kế thừa tài sản của cha. “Cái trò ngụy biện
vốn có của con người! Thay đổi sự vật bằng cách đổi tên chúng! Và tìm
những kẽ hở để phá vỡ truyền thống trong khuôn khổ của truyền thống, khi
có quyền lợi trực tiếp đủ để kích thích!” (Marx). Kết quả là một sự hỗn
loạn không cứu vãn nổi; chỉ có thể được giải quyết, và thật sự đã phần
nào được giải quyết, nhờ chuyển sang chế độ phụ quyền. “Nói chung, đó
dường như là bước chuyển tự nhiên nhất” (Marx). [Về những lí thuyết của
các nhà luật học so sánh, nói tới cách thực hiện bước chuyển đó trong
các dân văn minh của thế giới cũ, dù chúng hầu như chỉ là các giả thiết;
thì xin xem M. Kovalevsky (“Khái luận về nguồn gốc và sự phát triển của
gia đình”17; Stockholm, 1890).] Việc chế độ mẫu quyền bị lật
đổ là thất bại có tính lịch sử toàn thế giới của nữ giới. Người đàn ông
nắm quyền thống trị ngay cả ở trong nhà; còn đàn bà bị hạ xuống hàng nô
lệ, phục vụ cho dục vọng của đàn ông, và là công cụ sinh đẻ đơn thuần.
Địa vị thấp kém ấy của phụ nữ - đặc biệt dễ thấy ở Hi Lạp trong thời đại
anh hùng, và còn rõ hơn ở thời Trung cổ - đã dần được bao biện, làm nhẹ
bớt, và đôi khi được phủ dưới một hình thức ôn hòa hơn; nhưng nó vẫn
không hề bị xóa bỏ. Sự thiết lập quyền thống trị tuyệt đối của
đàn ông đã thể hiện trước hết ở gia đình gia trưởng, một hình thức trung
gian, xuất hiện vào thời đó. Đặc trưng chủ yếu của hình thức đó không
phải là chế độ nhiều vợ - cái đó sẽ được nói tới sau; mà là “sự
tổ chức một số người, tự do và bị lệ thuộc, thành gia đình, dưới quyền
lực gia trưởng của ông chủ gia đình, để chăm sóc các đàn gia súc, gia
cầm... (Trong gia đình kiểu Semite), người chủ gia đình ít ra cũng sống
theo chế độ nhiều vợ... Còn những nô lệ và người hầu thì đều có một vợ”1
Những nét chính của hình thức gia đình đó là: thu nhận nô lệ và quyền
lực gia trưởng, thế nên điển hình hoàn thiện nhất của nó chính là gia
đình La Mã. Nghĩa ban đầu của từ familia18 không phải là sự kết hợp giữa
tình cảm và bất hòa trong gia đình, như anh chàng philistine ngày nay
vẫn tưởng; người La Mã lúc đầu thậm chí không dùng nó để chỉ một đôi vợ
chồng và con cái họ, mà dùng để chỉ các nô lệ. Familus nghĩa là “nô lệ
trong nhà”, và familia nghĩa là toàn bộ các nô lệ của ai đó. Ngay cả ở
thời Gaius, familia, id est patrimonium (nô lệ, là tài sản được thừa kế)
còn được để lại theo di chúc. Người La Mã đặt ra danh từ đó để chỉ một
tổ chức xã hội mới, ở đó chủ gia đình thống trị vợ con và nô lệ, nhờ
quyền lực gia trưởng kiểu La Mã mà có được quyền sinh sát đối với tất cả
những người đó. “Vậy danh từ đó không cổ hơn cái chế độ gia
đình bọc sắt của các bộ lạc Latin; cái chế độ ra đời sau khi có nông
nghiệp và chế độ nô lệ hợp pháp, cũng như việc người Hi Lạp và người
Latin tách khỏi nhau”1 Marx nói thêm: “Gia đình hiện đại không
chỉ chứa đựng mầm mống của chế độ nô lệ (servitus), mà cả mầm mống của
chế độ nông nô nữa, vì ngay từ đầu nó đã gắn liền với lao dịch nông
nghiệp. Nó chứa đựng, dưới hình thức thu nhỏ, tất cả những mâu thuẫn về
sau sẽ phát triển trong toàn xã hội và Nhà nước của xã hội đó”.
Hình thức gia đình đó (gia đình gia trưởng) đã đánh dấu bước chuyển từ
gia đình đối ngẫu sang gia đình cá thể. Để bảo đảm lòng trung thành của
người vợ, do đó bảo đảm con cái đích thực là của cha, cô ta phải phục
tùng vô điều kiện quyền lực của chồng; nếu chồng có giết vợ đi nữa, thì
anh ta cũng chỉ đang thực hiện quyền làm chồng thôi. [Với gia
đình gia trưởng, ta bước vào lĩnh vực lịch sử thành văn, ở đó môn luật
học so sánh có thể giúp ta rất nhiều; nhờ nó hiểu biết của ta thực sự đã
có tiến bộ quan trọng. Nhờ có Maksim Kovalevsky (sách đã dẫn17; tr. 60 -
100) mà ta có được những bằng chứng về việc công xã gia đình gia trưởng
- như ngày nay ta vẫn thấy ở người Serbia và người Bulgaria, có tên là
zádruga (tạm dịch là “bạn bè”) hay bratstvo (“anh em”); và ở các dân tộc
phương Đông, dưới một hình thức hơi khác - là hình thức quá độ từ gia
đình mẫu quyền, do chế độ quần hôn sinh ra, sang gia đình cá thể trong
thế giới hiện đại. Điều đó có vẻ đã được chứng minh, ít ra là đối với
các dân văn minh ở thế giới cũ; cũng như đối với người Aryan và Semite.
Zádruga của người Slav phương Nam là ví dụ tốt nhất vẫn còn tồn tại về
công xã gia đình kiểu đó. Nó bao gồm vài thế hệ con cháu của một người
cha, cùng với vợ con họ; tất cả sống chung trong một ngôi nhà lớn, canh
tác chung ruộng đất, ăn mặc thì lấy từ một kho chung, sản phẩm lao động
thừa cũng là của chung. Công xã nằm dưới quyền quản lí của chủ nhà
(domačin). Anh ta đại diện cho công xã, có quyền bán các đồ lặt vặt,
quản lí tài chính, thế nên cũng chịu trách nhiệm tổ chức kinh doanh. Anh
ta được bầu ra, và không nhất thiết phải là người cao tuổi nhất. Phụ nữ
và công việc nội trợ nằm dưới quyền của bà chủ (domačica), thường là vợ
của domačin. Chị ta có vai trò quan trọng, thường là quyết định, trong
việc chọn chồng cho các thiếu nữ. Nhưng quyền lực tối cao lại thuộc về
hội đồng gia đình, tức là hội nghị của toàn bộ các thành viên đã trưởng
thành, cả nam lẫn nữ. Chủ nhà phải báo cáo trước hội nghị; hội nghị cũng
đưa ra những quyết định quan trọng, xét xử các thành viên, quyết định
việc mua bán những thứ quan trọng - đặc biệt là nhà đất, v.v.
Chỉ chừng mười năm trở lại đây, ở Nga, những công xã gia đình như thế
cũng đã được chứng minh là vẫn có; ngày nay, nói chung người ta đã thừa
nhận rằng những công xã ấy đã ăn sâu vào phong tục của người Nga, chẳng
kém gì các công xã nông thôn. Chúng đã xuất hiện trong bộ luật cổ nhất
nước Nga, bộ Pravda của vua Yaroslav, dưới cái tên vervj19, cũng như
trong các đạo luật Dalmatia; và trong các sử liệu của Ba Lan và Czech
cũng có những dấu vết liên quan đến chúng. Ở người Germania,
theo Heusler (“Những nguyên lí cơ bản của pháp quyền Đức”20), thì đơn vị
kinh tế lúc ban đầu của họ không phải là gia đình cá thể theo nghĩa
hiện đại, mà cũng là công xã gia đình; được hợp thành bởi vài thế hệ hay
vài gia đình cá thể, và bao gồm các nô lệ nữa. Ngày nay, gia đình La Mã
cũng được xem là bắt nguồn từ loại đó; vì thế, quyền lực tuyệt đối của
chủ nhà, cũng như việc những thành viên khác tuyệt đối không có quyền gì
với ông ta, gần đây rất bị nghi ngờ. Những công xã gia đình tương tự
hình như cũng tồn tại ở người Celt tại Ireland. Ở Pháp, dưới cái tên
parçonneries, các công xã ấy vẫn được người Nièvre duy trì tới khi Cách
mạng Pháp bùng nổ; và tới nay, ở Franche-Comte, chúng vẫn chưa mất hẳn. Ở
vùng Louhans (quận Saône-et-Loire) cũng của Pháp, có cả những ngôi nhà
lớn của nông dân, với vài thế hệ của một gia đình sống bên trong; gồm
một sảnh lớn ở giữa, cao tới mái nhà, xung quanh là những phòng ngủ,
phải leo từ sáu đến tám bậc thang mới lên tới. Ở Ấn Độ, kiểu
công xã gia đình cùng canh tác chung ruộng đất đã được Nearchus, ở thời
Alexander Đại đế, nói tới; ngày nay, trong chính vùng đó - tức là Punjab
và cả miền Tây Bắc của Ấn Độ - chúng vẫn tồn tại. Kovalevsky cũng đã
chứng minh được sự tồn tại của các công xã như thế ở Kavkaz. Chúng cũng
có ở người Kabyle tại Algeria. Có thể chúng cũng có ở châu Mĩ: các
calpulli ở Mexico thời cổ, mà Zurita từng mô tả, cũng giống như các công
xã nói trên. Mặt khác, Cunow (trên tờ “Ausland”, 1890, số 42-44) cũng
chứng minh khá rõ: ở Peru, vào thời trước khi nước này bị xâm chiếm, đã
có một chế độ gần giống chế độ mark (kì lạ ở chỗ nó được gọi là marca),
theo đó người ta phân chia ruộng đất định kì, vậy là đã có canh tác cá
thể. Dù sao thì công xã gia đình gia trưởng, với chế độ sở hữu
chung và canh tác chung ruộng đất, giờ đây đã có một ý nghĩa khác hẳn so
với trước kia. Ta không thể nghi ngờ vai trò của nó, với tư cách một
hình thức quá độ, giữa gia đình mẫu quyền và gia đình cá thể. Sau này,
ta sẽ nói tới một kết luận khác nữa của Kovalevsky, rằng công xã gia
đình gia trưởng cũng là hình thức quá độ; mà từ đó công xã làng mạc -
hay là công xã mark - đã phát sinh, cùng với đó là việc canh tác cá thể
và phân chia ruộng đất cũng như đồng cỏ - lúc đầu là định kì, về sau là
vĩnh viễn. Về sinh hoạt gia đình trong các công xã trên, thì
phải chú ý rằng: ít nhất là ở Nga, các chủ gia đình đã nổi tiếng về việc
lạm dụng quyền lực của mình đối với các thiếu phụ, đặc biệt là với con
dâu mình, và thường dùng họ làm hậu cung; về điểm này, các dân ca Nga đã
nói lên không ít.] Trước khi nói về chế độ hôn nhân cá thể,
cái chế độ đã phát triển mau chóng sau khi mẫu quyền bị lật đổ, ta sẽ
nói qua về chế độ nhiều vợ và chế độ nhiều chồng. Chúng đều chỉ có thể
là những ngoại lệ, những xa xỉ phẩm của lịch sử; trừ khi chúng cùng tồn
tại trong một xứ, mà điều này thì đương nhiên không thể có. Vì những
người đàn ông bị chế độ nhiều vợ loại ra không thể tìm thấy sự an ủi với
những người đàn bà bị loại ra do chế độ nhiều chồng, và vì nếu xét tới
kết cấu xã hội, thì xưa nay số đàn ông và số đàn bà vẫn xấp xỉ nhau; nên
cố nhiên là trong hai hình thức ấy, không có cái nào trở nên phổ biến
được. Sự thật thì chế độ nhiều vợ là sản vật của chế độ nô lệ, và nó chỉ
có ở một vài người có địa vị đặc biệt thôi. Trong gia đình gia trưởng
kiểu Semite, thì chỉ người chủ gia đình, và cùng lắm là một vài đứa con
trai của ông ta, mới có nhiều vợ; những người khác đành phải bằng lòng
với chỉ một vợ. Ở khắp phương Đông ngày nay vẫn vậy, có nhiều vợ là đặc
quyền của bọn giàu có và quí tộc, được thực hiện chủ yếu nhờ việc mua tì
thiếp; còn quần chúng thì sống một vợ một chồng. Một ngoại lệ tương tự
là chế độ nhiều chồng ở Ấn Độ và Tây Tạng; vấn đề nguồn gốc của chế độ
ấy, bắt đầu từ chế độ quần hôn10, sẽ đòi hỏi sự nghiên cứu sâu hơn nữa,
và hẳn là sẽ rất lí thú. Thực ra, nó còn dễ lượng thứ hơn cái chế độ hậu
cung đầy rẫy ghen tuông của người Hồi giáo. Dù sao thì ở người Nair tại
Ấn Độ, khi ba hay bốn người đàn ông có chung một vợ, thì mỗi người
trong bọn họ lại có thể có chung vợ thứ hai với một nhóm ba (hay nhiều
hơn) người đàn ông khác; rồi vợ thứ ba, thứ tư, ... cũng vậy. Đáng ngạc
nhiên là McLennan, trong khi miêu tả những hội hôn nhân ấy, mà một người
có thể thuộc vài hội; lại không phát hiện được một phạm trù mới, phạm
trù hôn nhân phường hội! Nhưng chế độ “hôn nhân phường hội” ấy quyết
không phải là chế độ nhiều chồng thực sự; ngược lại, như Giraud-Teulon
đã chỉ ra, nó là một hình thức đặc biệt của chế độ quần hôn: đàn ông
sống theo chế độ nhiều vợ, còn đàn bà sống theo chế độ nhiều chồng.
4. Gia đình cá thể. Như đã nói ở trên, gia đình cá thể (một vợ một
chồng) nảy sinh từ gia đình đối ngẫu, vào khoảng giữa hai giai đoạn giữa
và cao của thời dã man; thắng lợi quyết định của nó là một trong những
dấu hiệu cho biết thời văn minh đã bắt đầu. Gia đình ấy dựa trên sự
thống trị của đàn ông, với chủ đích rõ ràng là con cái phải có cha đẻ
xác thực; người ta đòi hỏi điều đó, vì những đứa con ấy sau này sẽ nhận
được tài sản của cha, với tư cách người thừa kế đương nhiên. Nó khác gia
đình đối ngẫu ở chỗ quan hệ vợ chồng đã chặt chẽ hơn rất nhiều, hai bên
không thể tùy ý bỏ nhau nữa. Hiện nay theo lệ thường, chỉ chồng mới có
thể chấm dứt hôn nhân và bỏ vợ. Vả lại, anh ta vẫn có quyền ngoại tình,
dù chỉ là nhờ tập quán (Code Napoléon rõ ràng đã cho phép đàn ông làm
việc đó, miễn là đừng mang tình nhân về nhà21); xã hội càng phát triển
thì anh ta lại càng thực hiện quyền đó. Còn nếu người vợ lại nhớ tới
hình thức sinh hoạt tính giao cổ xưa, và muốn khôi phục nó; thì cô ta sẽ
bị trừng phạt tàn khốc hơn bất kì thời nào trước kia. Ta có
thể thấy hình thức gia đình mới đó, với tất cả sự khắc nghiệt của nó, ở
người Hi Lạp. Trong khi vị trí của các nữ thần trong thần thoại Hi Lạp -
như Marx chỉ ra - đã biểu hiện một thời kì cổ hơn, khi người đàn bà còn
có địa vị tự do hơn và được tôn trọng hơn; thì ở thời đại anh hùng, ta
thấy phụ nữ bị rẻ rúng bởi sự thống trị của đàn ông và bởi sự cạnh tranh
của nữ nô lệ22. [Chỉ cần đọc “Odyssey” là thấy Telemachus đã ngắt lời
mẹ và bắt mẹ phải im tiếng như thế nào. Trong tác phẩm của Homer, những
thiếu phụ bị bắt đều phải chịu đựng mọi trò xác thịt của kẻ chiến thắng;
bọn tướng lĩnh tùy theo cấp bậc mà chọn lấy những người đẹp nhất; ai
cũng biết toàn bộ cuốn “Iliad” chỉ xoay quanh cuộc tranh chấp một nữ nô
lệ, giữa Agamemnon và Achilles. Mỗi anh hùng ít nhiều quan trọng của
Homer đều có một nữ tù binh trẻ chung trướng chung giường. Họ cũng mang
những cô gái ấy về Hi Lạp, cho sống trong nhà như một người vợ, ví dụ
Agamemnon đem Cassandra về, trong tác phẩm của Aeschylus23. Con trai của
các nữ nô lệ ấy cũng được thừa kế một phần nhỏ tài sản của cha, và được
coi là người hoàn toàn tự do; như Teucer, con của Telamon, vẫn có quyền
lấy họ của cha. Người vợ chính thức bị đòi hỏi phải chịu đựng tất cả
những việc ấy, nhưng bản thân cô ta lại phải hoàn toàn chung thủy và
tiết hạnh. Thực ra, phụ nữ Hi Lạp ở thời đại anh hùng vẫn được tôn trọng
hơn ở thời văn minh; nhưng đối với chồng, thì xét đến cùng họ cũng chỉ
là mẹ của những đứa con (cũng là những người thừa kế) hợp pháp, là quản
gia chính, là người cai quản các nữ nô lệ - mà chồng mình, nếu thích, có
thể lấy và thực sự đã lấy làm thiếp. Chính sự tồn tại của chế độ nô lệ
bên cạnh chế độ một vợ một chồng, sự xuất hiện những nữ nô lệ trẻ đẹp,
hoàn toàn thuộc về đàn ông; ngay từ đầu đã khiến chế độ một vợ một chồng
có một tính chất đặc biệt: nó chỉ đúng với đàn bà thôi, chứ không đúng
với đàn ông. Tính chất ấy vẫn còn đến tận ngày nay. Đối với
người Hi Lạp thời đại sau, ta phải phân biệt giữa người Doric và người
Ionia. Với người Doric, tiêu biểu là Sparta, những quan hệ hôn nhân - về
nhiều mặt - còn cổ hơn cả những quan hệ mà Homer mô tả. Ở người Sparta
có hình thức hôn nhân đối ngẫu, đã được sửa đổi theo quan điểm của họ về
Nhà nước, và vẫn còn những vết tích của chế độ quần hôn. Những cuộc hôn
nhân không có con cái đều bị xóa bỏ: vua Anaxandridas II đã lấy vợ thứ
hai, khi người vợ đầu không có con, và vẫn giữ cả hai người; vua
Ariston, vì hai vợ đầu đều không sinh đẻ, đã lấy thêm vợ thứ ba, nhưng
lại bỏ một trong hai người vợ trước. Mặt khác, mấy anh em trai có thể
chung một vợ, và bạn bè cũng thế; người ta cho rằng trao vợ mình cho một
“con ngựa đực” khỏe mạnh - như Bismarck hay nói - là cử chỉ lịch sự, dù
người đó không phải là công dân cũng vậy. Một đoạn văn của Plutarch kể:
một người phụ nữ Sparta đã nói với anh chàng tán tỉnh mình là hãy đến
mà hỏi chồng cô ta; theo Schamann, đoạn ấy hình như còn biểu lộ sự tự do
lớn hơn nhiều. Vì thế, chưa ai từng nghe nói đến việc bí mật ngoại tình
của người đàn bà. Mặt khác, ở Sparta, ít ra vào thời hưng thịnh nhất,
không hề có nô lệ trong nhà; các nô lệ (helot) đều ở trong những khu
riêng, và người Sparta ít bị cám dỗ bởi việc lợi dụng vợ các nô lệ ấy.
Hẳn là vì những điều kiện trên, phụ nữ Sparta có một địa vị đáng kính
hơn bất cứ nơi nào khác ở Hi Lạp. Phụ nữ Sparta, và bộ phận ưu tú của
các kĩ nữ thành Athens, là những phụ nữ Hi Lạp duy nhất được người ta
nhắc tới một cách kính cẩn; và lời nói của họ được cho là đáng ghi nhớ.
Ở người Ionia, mà Athens là điển hình, thì lại khác hẳn. Con gái chỉ
học kéo sợi, dệt vải, may vá, cùng lắm thì học đọc học viết chút ít. Họ
hầu như bị cấm cung và không giao tiếp với bất kì ai, trừ những người
đàn bà khác. Khuê phòng nằm ở gác trên hoặc nhà trong, là một phần riêng
biệt, đàn ông - nhất là người lạ - không dễ gì vào được; đó là nơi phụ
nữ lánh mặt khi có khách đàn ông. Phụ nữ không bao giờ ra ngoài mà không
có nữ tì đi theo, ở trong nhà thì họ được trông nom chặt chẽ.
Aristophanes(“Phụ nữ ở lễ hội Thesmophoria”24) có nói về loài chó được
nuôi để làm những kẻ ngoại tình phải kinh sợ; ít nhiều ở các thành thị
châu Á, bọn người bị hoạn đã được dùng để giám sát phụ nữ; việc sản xuất
và buôn bán bọn người đó đã trở thành một ngành công nghiệp ở Chios, và
theo Wachsmuth thì không phải chỉ có các dân dã man mới mua thứ hàng
đó. Trong tác phẩm của Euripides25, vợ được gọi là Oikurema, một vật
(đây là danh từ giống trung) chuyên lo việc gia đình; và đối với đàn ông
Athens thì họ, ngoài việc đẻ con, chỉ là con hầu chính trong nhà. Đàn
ông được tham gia các hoạt động thể chất và xã hội, còn phụ nữ thì bị
cấm. Hơn nữa, đàn ông thường có nhiều nữ nô lệ; và ở Athens, vào thời
hưng thịnh nhất, chế độ mại dâm còn rất thịnh hành và ít ra cũng được
Nhà nước bảo hộ. Chính trên cơ sở chế độ mại dâm đó, những phụ nữ Hi Lạp
siêu quần xuất chúng đã xuất hiện; họ vượt rất xa trình độ chung của
phụ nữ thời cổ về trí tuệ và tài năng nghệ thuật, cũng như phụ nữ Sparta
đã vượt về mặt địa vị. Nhưng việc người phụ nữ phải trở thành kĩ nữ
trước đã - nếu muốn trở thành người phụ nữ thực sự - chính là bản án
nặng nhất dành cho gia đình Athens. Qua thời gian, gia đình
Athens ấy đã trở thành kiểu mẫu cho những quan hệ gia đình; không chỉ
với người Ionia mà còn với tất cả những người Hi Lạp, ở trong nước hay ở
các thuộc địa.] Mặc dù bị cấm cung và giám sát, phụ nữ Hi Lạp vẫn tìm
được nhiều dịp để lừa dối chồng. Còn đàn ông, vốn thường xấu hổ khi bày
tỏ chút tình cảm với vợ, thì lại tiêu khiển bằng đủ trò trăng hoa với
các kĩ nữ. Nhưng sự sỉ nhục đối với phụ nữ đã được báo ứng, trở thành sự
sỉ nhục đối với chính đàn ông; nó khiến họ rơi vào cái tệ kê gian, và
làm ô danh chính mình - cùng với các vị thần của mình - bằng truyền
thuyết về Ganymede. Đó là nguồn gốc của chế độ hôn nhân cá thể;
theo những gì mà ta truy nguyên được từ một dân tộc văn minh nhất, phát
triển nhất ở thời cổ đại. Nó quyết không phải là kết quả của tình yêu
nam nữ, tuyệt nhiên không dính chút nào đến cái tình yêu đó; hệt như
trước, hôn nhân vẫn mang tính vụ lợi. Nó cũng là hình thức gia đình đầu
tiên dựa trên cơ sở các điều kiện kinh tế26 (chứ không phải các điều
kiện tự nhiên); [tức là dựa trên thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế
độ công hữu tự nhiên, nguyên thủy]. Người Hi Lạp tự họ đã đặt ra vấn đề
một cách rất thẳng thắn: mục đích duy nhất của chế độ hôn nhân cá thể
là để đàn ông thống trị gia đình; và để những đứa con sinh ra chỉ có thể
là của người chồng, vì sau này chúng sẽ kế thừa tài sản của cha. Còn
thì với họ, hôn nhân chỉ là gánh nặng, là nghĩa vụ mà họ phải thực hiện -
dù muốn hay không - đối với các vị thần, Nhà nước, và tổ tiên. [Ở
Athens, luật pháp không chỉ bắt đàn ông lấy vợ, mà còn bắt họ phải làm
phần tối thiểu của cái gọi là “nghĩa vụ vợ chồng”.] Vậy, chế độ
hôn nhân cá thể quyết không xuất hiện trong lịch sử với tư cách là sự
kết hợp giữa đàn ông và đàn bà, lại càng không phải là hình thức cao
nhất của sự kết hợp đó. Ngược lại, nó xuất hiện như là sự nô dịch của
giới này với giới kia; nó tuyên bố cuộc đấu tranh giữa hai giới, một
cuộc đấu tranh chưa từng được biết tới trước kia. Trong một bản thảo cũ
chưa in27 do tôi và Marx viết năm 1846, có câu: “Sự phân công lao động
đầu tiên là giữa đàn ông và đàn bà, trong việc sinh con đẻ cái”. Và giờ
thì tôi có thể thêm: đối kháng giai cấp đầu tiên, xuất hiện trong lịch
sử, ăn khớp với sự phát triển của đối kháng giữa hai giới trong chế độ
hôn nhân cá thể; và sự áp bức giai cấp đầu tiên cũng ăn khớp với sự áp
bức của đàn ông với đàn bà. Chế độ hôn nhân cá thể là một bước tiến lịch
sử lớn lao, nhưng đồng thời với chế độ nô lệ và tư hữu, nó cũng mở ra
một thời kì kéo dài tới tận ngày nay; trong đó, mỗi bước tiến đồng thời
cũng là một bước lùi, sự phồn vinh và phát triển của kẻ này là nhờ sự
khốn cùng và diệt vong của kẻ khác mà có được. Gia đình cá thể là tế bào
của xã hội văn minh, và nhờ có gia đình cá thể mà bản chất của những
mâu thuẫn và đối lập của xã hội văn minh - hiện đang phát triển cao độ -
đã được nghiên cứu. Cái tự do tương đối trước kia trong quan
hệ tính giao - bất chấp thắng lợi của hôn nhân đối ngẫu, và cả hôn nhân
cá thể - vẫn không hề mất hẳn: “Chế độ hôn nhân cổ xưa, giờ đã
bị thu lại trong một phạm vi nhỏ hẹp, do các nhóm punalua biến mất dần;
nhưng nó vẫn kìm hãm sự phát triển của gia đình cho đến tận ngưỡng cửa
của thời văn minh... Cuối cùng thì nó biến mất trong một hình thức tạp
hôn mới; hình thức này đã đeo đuổi loài người trong thời văn minh, như
một cái bóng của gia đình”1 Morgan dùng từ “tạp hôn” để chỉ
quan hệ tính giao ngoài hôn nhân, và tồn tại song song với hôn nhân;
chúng đã thịnh hành dưới những hình thức hết sức khác nhau trong cả thời
văn minh, phát triển hơn nữa thành chế độ mại dâm công khai. [Hình thức
tạp hôn đó bắt nguồn trực tiếp từ chế độ quần hôn; từ việc phụ nữ phải
thực hiện nghi lễ hiến thân để có được quyền thủ tiết. Lúc đầu, việc
hiến thân vì tiền là một hành vi tôn giáo, diễn ra trong đền thờ Nữ thần
Tình yêu, và số tiền thu được thì đều sung vào quĩ của đền. Các nữ tì
trong đền Anaitis ở Armenia, trong đền Aphrodites ở Corinth, cũng như
các vũ nữ tôn giáo (được gọi là bayadère; biến âm từ chữ bailadeira,
nghĩa là “vũ nữ”, của tiếng Bồ Đào Nha) trong các đền ở Ấn Độ; họ là
những người mại dâm đầu tiên. Hiến thân cho người lạ, lúc đầu là nghĩa
vụ của mọi phụ nữ, thì giờ đây các nữ tu đã làm thay họ. Ở nhiều dân
khác, chế độ tạp hôn xuất hiện từ việc tự do tính giao mà các cô gái
được phép thực hiện trước khi lấy chồng; đó cũng là tàn tích của chế độ
quần hôn, nhưng được truyền lại theo cách khác. Từ khi có sự chênh lệch
về của cải - tức là ngay từ giai đoạn cao của thời dã man - lao động làm
thuê đã xuất hiện lẻ tẻ, bên cạnh lao động của nô lệ; thì đồng thời và
tất yếu, nghề mại dâm của phụ nữ tự do cũng xuất hiện, bên cạnh việc
hiến thân bắt buộc của nữ nô lệ. Vì thế, di sản mà chế độ quần hôn để
lại cho thời văn minh có hai mặt; cũng như mọi cái mà thời văn minh đẻ
ra đều tự chia thành 2 mặt đối lập. Di sản ấy, một mặt là chế độ hôn
nhân cá thể, mặt khác là tục tạp hôn với hình thức cực đoan nhất: tệ mãi
dâm.] Chế độ tạp hôn là một thiết chế xã hội, cũng như mọi thiết chế xã
hội khác; nó duy trì cái tự do tính giao cũ, có lợi cho đàn ông. Nó
không chỉ được dung thứ, mà còn được thực hành rộng rãi, nhất là trong
các giai cấp thống trị; và chỉ bị lên án trên đầu lưỡi thôi. Nhưng sự
lên án đó thực ra không nhằm vào người đàn ông, mà là người đàn bà; họ
bị xã hội khinh miệt và ruồng bỏ, để cái đạo luật cơ bản của xã hội - sự
thống trị vô điều kiện của đàn ông đối với đàn bà - được tuyên bố thêm
một lần nữa. [Nhưng một mâu thuẫn thứ hai cũng phát triển trong
lòng chế độ hôn nhân cá thể. Bên cạnh người chồng dùng việc tạp hôn để
tô điểm cho cuộc sống của mình, thì có người vợ bị ruồng bỏ.] Không thể
chỉ có một mặt của mâu thuẫn, mà không có mặt kia; cũng như không thể
cầm một quả táo nguyên vẹn trong tay, khi đã ăn hết một nửa. Nhưng có vẻ
người chồng không nghĩ thế, cho tới khi vợ họ mở mắt cho họ. Với hôn
nhân cá thể, hai loại người cố định trong xã hội, trước kia chưa từng
được biết đến, giờ đã xuất hiện: người tình của vợ và người chồng bị cắm
sừng. Người chồng đã thắng người vợ, nhưng kẻ thua lại hào hiệp ban
thưởng cho kẻ thắng. Cùng với chế độ hôn nhân cá thể và tạp hôn, ngoại
tình đã trở thành một hiện tượng xã hội không thể tránh được: bị lên án,
bị trừng trị khốc liệt, song không bị trừ tận gốc. Việc xác định cha đẻ
của những đứa con, vẫn như ngày trước, cùng lắm thì chỉ dựa vào niềm
tin đạo đức; và để giải quyết cái mâu thuẫn không thể giải quyết được
ấy, điều 312 Code Napoléon đã qui định: “L'enfant conçu pendant le mariage, a pour père le mari” (Đứa con thụ thai trong thời gian kết hôn thì cha nó là người chồng) Kết quả cuối cùng của chế độ hôn nhân cá thể, sau ba nghìn năm tồn tại, là như thế đấy.
Vậy, khi nào gia đình cá thể còn giữ đúng nguồn gốc lịch sử của nó, và
còn biểu hiện - thông qua sự thống trị tuyệt đối của đàn ông - mâu thuẫn
giữa hai giới; thì khi đó nó chính là hình ảnh thu nhỏ của những đối
lập và mâu thuẫn, mà xã hội có giai cấp - từ đầu thời văn minh - đã vận
động trong đó, và không thể giải quyết hay khắc phục chúng. Tất nhiên
tôi chỉ nói tới những trường hợp hôn nhân cá thể đã diễn ra theo đúng
các đặc trưng ban đầu của nó, ở đó chỉ có người vợ đứng lên chống lại sự
thống trị của người chồng. Không phải cuộc hôn nhân nào cũng như vậy,
và không ai hiểu rõ điều ấy hơn chàng philistine người Đức, là kẻ không
biết làm chủ trong nhà cũng như trong nước; vì thế vợ anh ta hoàn toàn
có quyền nắm lấy cái địa vị đàn ông mà anh ta không đáng có. Nhưng để tự
an ủi, anh ta cho là mình còn khá hơn rất nhiều so với anh bạn Pháp,
người còn thường gặp phải những điều tồi tệ hơn. Vả lại, hôn
nhân cá thể không phải lúc nào và ở đâu cũng mang cái hình thức cổ điển
hà khắc như kiểu Hi Lạp. Với người La Mã - sau này trở thành kẻ thống
trị thế giới, nên có tầm nhìn rộng hơn (nhưng không sâu bằng) người Hi
Lạp - thì phụ nữ tự do hơn và được kính trọng hơn. Đàn ông La Mã tin
rằng quyền sinh sát của mình đối với vợ là đủ để đảm bảo sự chung thủy
của họ. Hơn nữa, ở La Mã, người vợ cũng bình đẳng với chồng khi muốn hủy
bỏ hôn nhân. Tuy thế, bước tiến lớn nhất trong sự phát triển của hôn
nhân cá thể chắc chắn đã diễn ra khi người Germania bước vào vũ đài lịch
sử; ở họ, chắc là vì tình trạng nghèo nàn, nên hôn nhân cá thể có vẻ
chưa hoàn toàn phát triển từ hôn nhân đối ngẫu. Chúng tôi suy ra cái đó
từ ba sự kiện mà Tacitus từng nói tới. Một là, dù hôn nhân rất được tôn
sùng, “đàn ông thỏa mãn với một vợ, đàn bà bị tiết hạnh ràng buộc”,
nhưng chế độ nhiều vợ vẫn thịnh hành trong bọn quí tộc và thủ lĩnh bộ
lạc; tình trạng này cũng giống với dân bản xứ châu Mĩ, ở đó hôn nhân đối
ngẫu vẫn phổ biến. Hai là, ở người Germania lúc đó, việc chuyển từ mẫu
quyền sang phụ quyền chỉ vừa mới được thực hiện, vì anh em trai về bên
mẹ - người họ hàng nam giới gần nhất theo mẫu hệ - hầu như được coi là
thân thích hơn cả cha đẻ; việc này phù hợp với quan điểm của người
Indian châu Mĩ; như Marx thường nói: nhờ họ mà ông đã tìm ra chìa khóa
để hiểu được thời nguyên thủy của chúng ta. Ba là, phụ nữ rất được tôn
trọng ở người Germania, và cũng có ảnh hưởng lớn tới công việc chung;
điều này trái hẳn với sự thống trị của đàn ông trong chế độ hôn nhân cá
thể. [Hầu như ở tất cả các điểm trên, người Germania cũng giống với
người Sparta; ở họ chế độ hôn nhân đối ngẫu cũng chưa mất hẳn, như ta đã
biết.] Vậy là cả về mặt này, một tác động hoàn toàn mới cũng đã thống
trị thế giới, cùng với sự xuất hiện của người Germania. Chế độ hôn nhân
cá thể mới, phát triển từ sự hòa lẫn các dân tộc trong đống tàn tích của
thế giới La Mã, đã che đậy sự thống trị của đàn ông bằng những hình
thức êm dịu hơn; và đem lại cho phụ nữ một địa vị tự do hơn và được tôn
trọng hơn, ít ra là ở bề ngoài, so với thời cổ đại. Chỉ từ lúc này, mới
có những điều kiện cần thiết để từ chế độ hôn nhân cá thể - trong lòng
nó, song song với nó, hay ngược với nó; cái đó còn tùy từng trường hợp -
một bước tiến đạo đức lớn nhất đã đạt được, và ta đã nhờ cậy được nhiều
từ nó: đó chính là tình yêu hiện đại giữa nam và nữ, cái mà trước kia
cả thế giới đều chưa biết tới. Nhưng bước tiến đó nhất định đã
nảy sinh từ thực tế sau: người Germania vẫn ở thời kì gia đình đối ngẫu;
và trong chừng mực có thể, họ đã ghép cái địa vị của người đàn bà (ứng
với gia đình đối ngẫu) vào gia đình cá thể. Nó dứt khoát không nảy sinh
từ cái đức hạnh có tính huyền thoại và sự thuần khiết kì diệu về đạo đức
trong đặc điểm của người Germania; đặc điểm ấy chẳng qua chỉ là việc
hôn nhân đối ngẫu không bị vướng vào những mâu thuẫn đạo đức gay gắt của
hôn nhân cá thể. Trái lại, trong quá trình di cư của mình, người
Germania đã bị sa đọa rất nhiều về đạo đức; đặc biệt khi họ đi theo
hướng Đông Nam, tới các thảo nguyên gần biển Đen, vùng của các dân du
mục; họ học được từ các dân đó không chỉ thuật cưỡi ngựa mà còn nhiều
tật xấu phản tự nhiên, như Ammianus nói về người Taifals, hay Procopius
nói về người Heruls. Nhưng nếu gia đình cá thể là hình thức duy
nhất, trong mọi hình thức gia đình mà ta biết, mà từ đó tình yêu nam nữ
hiện đại có thể phát triển; thì điều đó không có nghĩa là trong hình
thức đó, thứ tình yêu ấy đã phát triển - hoàn toàn hay chủ yếu - dưới
dạng tình vợ chồng. Điều đó đã bị chính bản chất của chế độ hôn nhân cá
thể nghiêm ngặt, ấy là sự thống trị của đàn ông, loại trừ rồi. Trong tất
cả các giai cấp chủ động của lịch sử, tức là các giai cấp thống trị,
thì việc kết hôn vẫn hệt như thời hôn nhân đối ngẫu: nó là vấn đề lợi
ích và do cha mẹ thu xếp. Hình thức đầu tiên của tình yêu nam nữ, xuất
hiện trong lịch sử như là sự say mê, hơn nữa lại là sự say mê rất tự
nhiên của bất kì ai (ít ra là thuộc giai cấp thống trị), và là hình thức
cao nhất của ham muốn tính giao (đây chính là tính chất đặc biệt của
tình yêu); hình thức đầu tiên của tình yêu nam nữ ấy, tức là tình yêu
kiểu hiệp sĩ thời Trung cổ, lại hoàn toàn không phải là tình vợ chồng.
Trái lại, tình yêu ấy, dưới hình thức cổ điển ở người Provence, lại đi
thẳng đến tệ ngoại tình; và các nhà thơ tình lại ca ngợi điều đó. Tinh
hoa của thơ tình miền Provence chính là các alba (“khúc ca bình minh”,
tiếng Đức là Tagelied). Với những màu sắc rực rỡ, chúng mô tả chàng hiệp
sĩ nằm bên người đẹp của mình, tức là vợ người khác; trong khi một
người đứng canh ở ngoài sẽ gọi khi bình minh lên (alba), để anh ta lẻn
ra ngoài mà không ai nhìn thấy; tiếp đó là cảnh chia tay, cao trào của
bài thơ. Người Pháp miền Bắc, và cả người Đức đáng kính đều đã kế tục
kiểu thơ ấy, cùng với thứ tình yêu kiểu hiệp sĩ đó. Lão thi sĩ Wolfram
von Eschenbach đã để lại cho ta ba Tagelied tuyệt đẹp về cái đề tài sai
trái đó, và tôi còn thích chúng hơn cả ba thiên anh hùng ca dài của ông.
Ngày nay, có hai cách để tiến hành một cuộc hôn nhân tư sản. Ở các nước
theo đạo Thiên Chúa, vẫn như trước, cha mẹ tìm cho cậu con tư sản của
mình một cô vợ xứng đáng; và dĩ nhiên, kết quả là các mâu thuẫn cố hữu
của chế độ hôn nhân cá thể đã phát triển đầy đủ nhất: chồng tạp hôn bừa
bãi, vợ ngoại tình lu bù. Nhà thờ Thiên Chúa giáo cấm li hôn có lẽ chỉ
vì nó thấy rằng không có cách gì trị được ngoại tình, hệt như không có
cách gì trị được cái chết. Mặt khác, ở các nước theo đạo Tin Lành,
thường thì cậu con tư sản được ít nhiều tự do để chọn vợ từ những người
cùng giai cấp; nên có thể có một mức độ yêu đương nào đó trong việc hôn
nhân, và thực ra nó luôn được giả định - một cách phù hợp với tinh thần
đạo đức giả của đạo Tin Lành - để giữ thể diện. Ở đây, việc tạp hôn của
chồng thì lặng lẽ hơn, và sự ngoại tình của vợ cũng ít phổ biến hơn.
Nhưng trong mọi hình thức hôn nhân, con người vẫn như trước khi lấy
nhau, và vì đám tư sản ở các nước Tin Lành hầu hết đều là philistine;
nên cái hôn nhân cá thể kiểu Tin Lành đó, xét cả những trường hợp tốt
nhất, nói chung đều chỉ dẫn tới một cuộc sống buồn tẻ chán ngắt giữa hai
vợ chồng, được coi là “hạnh phúc gia đình”. Tấm gương phản ánh rõ nhất
hai hình thức kết hôn đó, là tiểu thuyết: tiểu thuyết Pháp với kiểu
Thiên Chúa, tiểu thuyết Đức28 với kiểu Tin Lành. Ở cả hai loại, nhân vật
nam chính đều có được “nàng”: theo kiểu Đức, thì chàng thanh niên được
cô thiếu nữ; theo kiểu Pháp, thì anh chồng được cắm sừng. Cũng khó mà
nói được là ai thiệt hơn ai. Thế nên chàng tư sản Pháp cũng khiếp sợ cái
tẻ ngắt trong tiểu thuyết Đức, không kém gì chàng philistine Đức khiếp
sợ cái “vô đạo đức” trong tiểu thuyết Pháp. Nhưng giờ đây, khi “Berlin
là một đô thị thế giới”, thì tiểu thuyết Đức đã bớt rụt rè hơn với tạp
hôn và ngoại tình, là những cái người ta đã quen thuộc. Nhưng
trong cả hai trường hợp, hôn nhân đều bị qui định bởi địa vị giai cấp
của mỗi bên; thế nên nó vẫn luôn là vì lợi ích. [Cũng ở cả hai trường
hợp, cái hôn nhân vụ lợi đó thường biến thành tệ mại dâm thô bỉ nhất, có
thể là của cả hai bên, nhưng chủ yếu là của người đàn bà; người ấy chỉ
khác với gái điếm ở chỗ là không bán mình từng lần một, như người nữ
công nhân bán sức lao động, mà bán mình mãi mãi, như một nô lệ. Và với
mọi cuộc hôn nhân vụ lợi, câu của Fourier đều đúng: “Hệt như trong ngữ pháp, hai phủ định tạo nên một khẳng định; với đạo đức vợ chồng, hai tệ mại dâm tạo nên một đức hạnh”29]
Chỉ trong các giai cấp bị áp bức, mà ngày nay là giai cấp vô sản, thì
tình yêu nam nữ mới có thể là (và thực tế đang là) một qui tắc thật sự
trong các quan hệ với người phụ nữ; bất kể các quan hệ ấy có được chính
thức thừa nhận hay không. Nhưng ở đây, mọi cơ sở của chế độ hôn nhân cá
thể điển hình đều bị xóa sạch. Ở đây không có tài sản nào hết, mà hôn
nhân cá thể và sự thống trị của đàn ông được lập ra để duy trì và thừa
kế tài sản; vì thế không có động cơ gì để lập ra sự thống trị ấy. Hơn
nữa, ở đây cũng không có phương tiện để làm điều đó. Pháp luật tư sản,
bảo vệ sự thống trị đó, chỉ tồn tại với kẻ có của và chỉ phục vụ quan hệ
giữa họ và người vô sản thôi. Cái pháp luật này rất tốn kém, thế nên nó
chẳng có hiệu lực gì với quan hệ giữa người công nhân nghèo khổ và vợ
anh ta. Ở đây, những điều kiện cá nhân và xã hội khác lại là quyết định.
Và giờ đây, khi đại công nghiệp đưa phụ nữ ra khỏi nhà - để vào thị
trường lao động và công xưởng - do đó khiến họ trở thành người thường
xuyên nuôi sống gia đình, thì không có cơ sở nào cho quyền thống trị của
đàn ông trong gia đình vô sản nữa; có lẽ chỉ trừ cái thói thô bạo với
vợ, có từ khi hôn nhân cá thể xuất hiện. Vì thế, gia đình vô sản không
còn là “cá thể” theo nghĩa chặt chẽ của từ đó; kể cả khi đôi bên có tình
yêu thắm thiết và sự chung thủy bền vững nhất với nhau, hay là có mọi
lời chúc phúc của mục sư hay công chúng. Vậy nên ở đây, những bạn đường
vĩnh cửu của chế độ hôn nhân cá thể, là tạp hôn và ngoại tình, hầu như
không có vai trò gì; người vợ đã thực sự giành lại quyền li hôn, và khi
hai người không thể sống chung với nhau nữa, thì họ xa lìa nhau. Tóm
lại, hôn nhân vô sản là “cá thể” theo nghĩa từ nguyên - chứ không phải
theo nghĩa lịch sử - của từ đó. [Tất nhiên, các nhà luật học
của chúng ta thì cho rằng sự tiến bộ của pháp chế đã khiến phụ nữ ngày
càng không có cơ sở để phàn nàn. Luật pháp ở các nước văn minh hiện đại
ngày càng công nhận: thứ nhất, hôn nhân chỉ hợp pháp nếu có một khế ước
do hai bên tự nguyện kí với nhau; thứ hai, hai bên phải bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trong thời gian kết hôn. Nếu hai yêu cầu đó được thực
hiện triệt để, phụ nữ sẽ có tất cả những gì họ có thể mong muốn.
Cái lí lẽ thuần túy pháp lí đó hoàn toàn giống với cái lí lẽ mà anh tư
sản cộng hòa cấp tiến hay dùng, để bắt anh vô sản phải ở đúng chỗ của
mình. Hợp đồng lao động là do hai bên tự nguyện kí với nhau. Nhưng người
ta coi như nó được kí một cách tự nguyện; là vì luật pháp, trên giấy
tờ, đã đặt hai bên bình đẳng với nhau. Còn quyền lực của bên này, do
khác biệt về địa vị giai cấp mà có, và cũng là áp lực mà bên kia phải
chịu - tức là địa vị kinh tế thực tế của hai bên - đó không phải việc
của pháp luật. Và trong thời gian hợp đồng lao động có hiệu lực, thì hai
bên đều bình đẳng về quyền lợi, miễn là không bên nào từ bỏ quyền đó
một cách rõ ràng. Nếu những quan hệ kinh tế buộc người công nhân phải từ
bỏ cái quyền bình đẳng bề ngoài cuối cùng của mình, thì đó cũng không
phải việc của pháp luật. Về hôn nhân, ngay cả pháp chế tiến bộ
nhất cũng hoàn toàn thỏa mãn khi hai bên đã chính thức ghi nhận rằng họ
tự nguyện đồng ý kết hôn. Còn cái gì xảy ra trong cuộc sống thực, đằng
sau cái sân khấu pháp lí, và cái sự tự nguyện đồng ý đó làm sao mà có;
đó không phải việc của pháp luật và các luật gia. Nhưng, một phép so
sánh sơ đẳng nhất giữa luật pháp các nước với nhau cũng có thể cho các
luật gia đó thấy, sự đồng ý tự nguyện này thực ra là gì. Ở các nước mà
luật pháp buộc cha mẹ để một phần tài sản lại cho con, tức là không thể
truất quyền thừa kế - Đức, các nước theo luật của Pháp, và một số nước
khác - con cái lại buộc phải được cha mẹ đồng ý nếu muốn kết hôn. Ở các
nước theo luật của Anh, nơi mà luật pháp không yêu cầu việc kết hôn phải
được cha mẹ đồng ý, thì cha mẹ lại hoàn toàn tự do khi lập di chúc, và
có thể truất quyền thừa kế của con cái. Mặc dù như thế, và chính vì như
thế, mà rõ ràng là sự tự do kết hôn ở Anh và Mĩ thực ra cũng không nhiều
hơn tí nào so với ở Pháp và Đức. Sự bình đẳng về pháp lí giữa
vợ chồng cũng không khá hơn. Tình trạng bất bình quyền giữa họ - do các
quan hệ xã hội trước kia để lại cho ta - không phải là nguyên nhân, mà
là hệ quả của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế. Trong nền kinh tế gia
đình cộng sản cổ xưa, gồm nhiều cặp vợ chồng và con cái họ, việc tề gia
nội trợ của phụ nữ là một công việc xã hội thực sự cần thiết, ngang với
việc tìm kiếm thức ăn của nam giới. Với gia đình gia trưởng, và hơn nữa
là gia đình cá thể, thì đã có thay đổi. Việc quản lí gia đình mất đi
tính chất xã hội của nó. Nó không liên quan gì đến xã hội nữa. Nó trở
thành việc riêng; người vợ trở thành đầy tớ chính trong nhà, bị loại
khỏi mọi hoạt động sản xuất xã hội. Chỉ có đại công nghiệp hiện đại mới
mở lại con đường tham gia sản xuất xã hội cho họ, nhưng chỉ với phụ nữ
vô sản thôi. Tuy thế, nó lại được mở ra theo kiểu này: nếu làm tròn
nghĩa vụ của mình - là những công việc riêng của gia đình - thì cô ta
vẫn bị loại khỏi nền sản xuất xã hội, và không thể kiếm ra tiền; còn nếu
muốn tham gia nền sản xuất xã hội và có thu nhập độc lập, thì cô ta lại
không thể làm tròn nghĩa vụ gia đình. Tình hình của những phụ nữ làm
việc ở nhà máy cũng là tình hình của những phụ nữ làm việc ở mọi ngành
khác, kể cả ngành dược và ngành luật. Gia đình cá thể hiện đại dựa trên
chế độ nô lệ gia đình - công khai hay che giấu - đối với phụ nữ; và xã
hội hiện đại là một khối bao gồm những phân tử là các gia đình cá thể.
Trong đại đa số các trường hợp ngày nay, ít nhất là ở các giai cấp có
của, người chồng phải là kẻ kiếm tiền nuôi sống gia đình; điều này tự nó
đã khiến anh ta có được địa vị thống trị, mà không cần bất kì đặc quyền
pháp lí nào cả. Trong gia đình, anh ta là nhà tư sản, còn người vợ đại
diện cho giai cấp vô sản. Tính chất đặc biệt của sự áp bức về kinh tế
trong công nghiệp - đang đè nặng lên giai cấp vô sản - chỉ hiển hiện với
tất cả sự gay gắt của nó, khi mà mọi đặc quyền pháp lí của giai cấp các
nhà tư bản đã bị xóa bỏ, và sự bình đẳng về pháp lí của hai giai cấp đã
được xác lập. Nền cộng hòa dân chủ không xóa bỏ đối lập giai cấp; ngược
lại, nó chỉ dọn đường để cuộc đấu tranh giai cấp có thể diễn ra. Cũng
như vậy, tính chất đặc biệt của sự thống trị của chồng với vợ, việc tất
yếu phải xác lập sự bình đẳng xã hội thực sự giữa họ, và cách thức để
đạt được nó; chúng chỉ hiện lên một cách hoàn toàn rõ rệt, khi vợ và
chồng đều có quyền bình đẳng về pháp luật. Rõ ràng, điều kiện đầu tiên
để giải phóng người vợ chính là đưa toàn bộ nữ giới quay lại với nền sản
xuất xã hội, điều đó lại đòi hỏi việc xóa bỏ vai trò đơn vị kinh tế
trong xã hội của gia đình cá thể. Vậy, ta có ba hình thức hôn
nhân chính, nhìn chung là tương ứng với ba giai đoạn phát triển chính
của loài người. Thời mông muội là chế độ quần hôn; thời dã man là chế độ
hôn nhân đối ngẫu; thời văn minh là chế độ hôn nhân cá thể, thêm vào đó
là tệ ngoại tình và nạn mãi dâm. Xen giữa hôn nhân đối ngẫu và hôn nhân
cá thể, là một thời kì có chế độ nhiều vợ và việc đàn ông sở hữu nữ nô
lệ, nằm ở giai đoạn cao của thời dã man. Như chúng tôi đã chứng
minh trong suốt bản trình bày vừa qua, sự tiến bộ, vốn đã tự biểu hiện
qua nhiều hình thái nối tiếp nhau, chính là ở chỗ người đàn bà - chứ
không phải người đàn ông - ngày càng bị tước đi cái tự do quan hệ tính
giao của chế độ quần hôn. Thật thế, chế độ quần hôn vẫn tồn tại tới tận
ngày nay, đối với nam giới. Cái đối với phụ nữ là một tội lỗi, đem tới
những hậu quả ghê gớm về pháp lí và xã hội; thì với đàn ông lại được coi
là vinh dự, hay tệ lắm cũng chỉ là một vết nhơ đạo đức cỏn con mà người
ta vui vẻ nhận lấy. Nhưng ở thời đại chúng ta, khi mà chế độ tạp hôn cổ
xưa ngày càng thay đổi, nhờ tác động của nền sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa, và ngày càng trở nên phù hợp với nền sản xuất đó; thì cũng có
thể nói là chế độ ấy đang ngày càng biến thành nạn mãi dâm công khai,
và ngày càng có tác dụng phá hoại đạo đức. Và nó làm đồi bại đàn ông
nhiều hơn hẳn so với đàn bà. Với phụ nữ, mại dâm chỉ làm trụy lạc những
ai đã không may sa vào nó, và ngay cả họ cũng không trụy lạc tới mức như
người ta vẫn tưởng. Thế nhưng, nó lại làm đồi bại toàn bộ nhân cách của
giới đàn ông. Đặc biệt là, trong chín phần mười các trường hợp, việc
kéo dài thời kì đính hôn lại là một trường học dự bị về việc ngoại tình.
Giờ đây, ta đang tiến tới một cuộc cách mạng xã hội; trong đó những cơ
sở kinh tế, đã tồn tại tới ngày nay, của chế độ hôn nhân cá thể - và vật
đi kèm với nó: nạn mãi dâm - nhất định sẽ biến mất. Hôn nhân cá thể
sinh ra từ việc tập trung một số lớn tài sản vào tay một người đàn ông;
và từ nhu cầu chuyển lại tài sản ấy cho con cái của ông ta, chứ không
phải ai khác. Vì mục đích đó, cần có chế độ hôn nhân cá thể về phía
người đàn bà; nhưng điều đó không hề cản trở chế độ nhiều vợ, công khai
hay bí mật, về phía người đàn ông. Nhưng với việc chuyển, ít ra là phần
lớn, các của cải cố định và có thể thừa kế được - tức là tư liệu sản
xuất - thành tài sản của xã hội; thì cuộc cách mạng xã hội sắp tới sẽ
giảm tới mức tối thiểu, mọi mối lo về cho và nhận thừa kế. Liệu chế độ
hôn nhân cá thể, sinh ra từ các lí do kinh tế, có bị mất đi hay không;
khi những lí do ấy đã mất đi? Không phải vô cớ mà ta có thể trả
lời: không những không mất đi, mà ngược lại, khi đó thì chế độ ấy sẽ
được thực hiện trọn vẹn. Vì với việc chuyển tư liệu sản xuất thành tài
sản xã hội; thì lao động làm thuê, giai cấp vô sản sẽ mất đi, và việc
một số phụ nữ phải bán mình vì tiền - con số này có thể thống kê được -
cũng theo đó mà mất đi. Tệ mãi dâm biến mất; và hôn nhân cá thể không
những không sụp đổ, mà còn trở thành hiện thực, kể cả với đàn ông.
Vậy, dù sao thì địa vị của đàn ông cũng sẽ thay đổi sâu sắc. Nhưng địa
vị của đàn bà, của tất cả đàn bà, cũng sẽ có chuyển biến quan trọng. Một
khi tư liệu sản xuất được chuyển thành tài sản xã hội, thì gia đình cá
thể không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Việc quản lí gia đình
riêng trở thành một ngành lao động xã hội. Chăm sóc, giáo dục trẻ em trở
thành một công việc xã hội; chúng đều được nuôi dạy như nhau, bất kể là
con hợp pháp hay không. Điều này loại bỏ mọi mối lo về “những hậu quả”,
mà cái đó ngày nay lại là yếu tố xã hội chủ yếu nhất - cả về đạo đức và
kinh tế - khiến một cô gái không dám hiến thân cho người yêu. Lẽ nào
điều đó chưa đủ để quan hệ tính giao tự do có thể dần phát triển hay
sao; và lẽ nào cùng với đó, một dư luận khoan dung hơn về tiết hạnh của
phụ nữ, lại không thể hình thành hay sao? Sau cùng, lẽ nào ta không
thấy: chế độ hôn nhân cá thể và tệ mãi dâm thực sự là hai mặt đối lập,
mà còn là hai mặt đối lập không thể tách rời nhau, là hai cực của cùng
một hình thái xã hội? Tệ mãi dâm liệu có thể mất đi, mà không kéo theo
chế độ hôn nhân cá thể cùng rơi xuống vực thẳm, hay không? Ở
đây, một yếu tố mới lại phát huy tác dụng; mà ở thời kì chế độ hôn nhân
cá thể còn đang phát triển, thì yếu tố ấy nhiều lắm cũng mới ở dạng phôi
thai: ấy là tình yêu nam nữ. Trước thời Trung cổ thì ta không
thể nói tới tình yêu nam nữ được. Cố nhiên là vẻ đẹp cá nhân, sự gần gũi
thân thiết, những sở thích giống nhau, v.v. đã tạo ra trong lòng người
ta sự ham muốn quan hệ tính giao với ai đó; và cố nhiên là cả đàn ông
lẫn đàn bà đều không hoàn toàn thờ ơ, về việc họ có quan hệ thân thiết
nhất với ai. Nhưng từ đó đến tình yêu nam nữ như ta hiểu ngày nay, thì
vẫn còn rất xa. Trong cả thời cổ đại, hôn nhân đều do cha mẹ sắp xếp,
còn con cái thì yên chí nghe theo. Chút tình yêu nào đó giữa vợ chồng
trong thời cổ, không phải là ý thích chủ quan, mà là nghĩa vụ khách quan
thì đúng hơn; nó không phải là nguyên nhân, mà là hệ quả của hôn nhân. Ở
thời cổ, những quan hệ yêu đương - theo nghĩa hiện đại - chỉ có ở bên
ngoài cái xã hội chính thống. Những người chăn cừu - với những vui buồn
trong tình yêu của họ - mà Moschus và Theocratus từng ca ngợi, hay
Daphnis và Chloe trong truyện của Longus; họ đều là nô lệ, không có
quyền tham gia vào công việc Nhà nước cũng như sinh hoạt của công dân tự
do. Ngoài nô lệ, thì ta chỉ thấy chuyện yêu đương như một sản vật, do
sự tan rã của thế giới cổ mà có; và việc đó cũng chỉ có đối với những
phụ nữ sống bên ngoài xã hội chính thống, với các kĩ nữ - tức là các phụ
nữ ngoại quốc, hay là các nô lệ đã được giải phóng - mà thôi: ở Athens,
thời kì gần suy tàn, hay ở La Mã thời các Caesar đều như vậy. Nếu
chuyện yêu đương thực sự có giữa những người tự do, thì đó chỉ là việc
ngoại tình. Với lão thi sĩ Anacreon, tác giả những bài thơ tình thời cổ,
thì tình yêu nam nữ - theo như chúng ta hiểu - gần như chẳng có ý nghĩa
gì; đến nỗi, với ông, ngay cả việc người yêu là nam hay nữ cũng không
quan trọng lắm. Tình yêu nam nữ thời chúng ta khác về bản chất
so với ham muốn tình dục đơn thuần (Eros) thời cổ. Một là, nó cho rằng
cần có sự đáp lại từ phía người mình yêu, về mặt này đàn bà bình đẳng
với đàn ông; trong khi với cái Eros của thời xưa, không phải lúc nào
người ta cũng hỏi ý kiến người đàn bà. Hai là, tình yêu đó thường mãnh
liệt và bền bỉ đến mức khiến hai bên cảm thấy việc không có được nhau -
và phải xa nhau - là một nỗi đau lớn, nếu không phải là nỗi đau lớn
nhất; để có được nhau, họ có thể liều cả mạng sống; trong thế giới cổ
đại, điều này chỉ có ở trường hợp ngoại tình. Cuối cùng, đã có một tiêu
chuẩn đạo đức mới để phán xét một quan hệ tính giao: người ta không chỉ
hỏi “nó ở trong hay ngoài hôn nhân?”, mà còn hỏi “nó có dựa trên tình
yêu của đôi bên hay không?” Dĩ nhiên, với thực tế xã hội phong kiến và
tư sản, nó cũng không được tôn trọng gì hơn các tiêu chuẩn đạo đức khác,
tức là cũng bị lờ đi. Nhưng nó cũng không bị rẻ rúng hơn các tiêu chuẩn
đó; người ta vẫn thừa nhận nó, cũng như các tiêu chuẩn kia, trên giấy
tờ và lí luận. Và khi đó thì không thể đòi hơn thế. Thời Trung
cổ bắt đầu từ chính nơi mà thời cổ đại đã dừng lại, trên con đường phát
triển của tình yêu nam nữ: ấy là tệ ngoại tình. Trên kia, ta đã mô tả
thứ tình yêu kiểu hiệp sĩ, mà những khúc ca bình minh (alba &
Tagelied) từ đó đã xuất hiện. Nhưng từ cái tình yêu phá hoại hôn nhân
ấy, cho đến cái tình yêu làm cơ sở cho hôn nhân, vẫn là một đoạn đường
dài, mà chính các kị sĩ cũng chưa từng đi hết được. Ngay cả khi chuyển
từ người Latin phù phiếm qua người Germania đức hạnh, ta cũng thấy trong
“Bài ca người Nibelung”; dù Kriemhild rất yêu Siegfried, nhưng khi
Gunther báo là đã hứa gả cô cho một hiệp sĩ mà không nói tên anh ta, thì
cô trả lời đơn giản là: “Anh đâu cần phải hỏi em; anh bảo sao, em xin làm vậy; anh định gả em cho ai, em xin vui lòng kết hôn với người đó”
Kriemhild không hề nghĩ rằng tình yêu của mình có thể được tính đến.
Gunther cầu hôn Brunhild mà không biết mặt nàng, cũng như Etzel cầu hôn
Kriemhild. Trong “Bài ca Gudrun” cũng thế: Sigebant xứ Ireland cầu hôn
Ute người Na Uy, cô gái mà anh ta chưa từng gặp mặt; cũng như Hetel
người Hegeling cầu hôn Hilde xứ Ireland; và Siegfried xứ Moorland,
Harmut xứ Ormany, Herwig xứ Seeland cùng cầu hôn Gudrun. Chỉ ở trường
hợp cuối, ta mới thấy người con gái được tự do lựa chọn, cụ thể là
Gudrun chọn lấy Herwig. Thường thì vợ của một hoàng tử là do cha mẹ anh
ta chọn, nếu họ còn sống; không thì anh ta được tự chọn, nhưng phải theo
lời khuyên của các lãnh chúa phong kiến lớn - là các đại thần - những
người luôn có tiếng nói quan trọng về việc này. Không thể làm khác thế.
Với hiệp sĩ, nam tước, hay với bản thân hoàng tử; hôn nhân là một hành
động chính trị, là cơ hội để tăng cường thế lực bằng những liên minh
mới; lợi ích của vương triều mới là quyết định, chứ không phải ý muốn cá
nhân. Vậy thì tình yêu làm sao mà có vai trò quyết định tới hôn nhân
được? Đối với thành viên phường hội, trong các thành thị thời
Trung cổ, thì cũng thế. Chính những đặc quyền bảo hộ anh ta, những qui
tắc phường hội - với đủ các điều khoản và đề mục; những sự phân biệt rắc
rối đã tách anh ta - về mặt pháp lí - ra khỏi các phường hội khác, hay
là những bạn cùng phường hội, hay là các thợ phụ và thợ học việc; tất cả
chúng đã khiến cái phạm vi, mà trong đó anh ta có thể chọn một người vợ
phù hợp, nhỏ đi khá nhiều. Trong cái hệ thống phức tạp đó, chính quyền
lợi gia đình - chứ không phải ý thích cá nhân - sẽ quyết định người đàn
bà nào phù hợp nhất với anh ta. Vậy là trong đại đa số trường
hợp, đến cuối thời Trung cổ, hôn nhân vẫn giữ cái tính chất ban đầu; tức
là nó không phải do bản thân người kết hôn quyết định. Lúc đầu, người
ta sinh ra là đã kết hôn rồi - ấy là kết hôn với một nhóm người thuộc
giới khác. Trong các hình thức quần hôn có sau, những quan hệ như thế
chắc là vẫn có, có điều nhóm nói trên ngày càng thu hẹp lại. Với hôn
nhân đối ngẫu, thường thì các bà mẹ sắp xếp hôn sự của con cái; ở đây,
có vai trò quyết định vẫn là những tính toán về các quan hệ thân tộc
mới, chúng phải làm cho địa vị của đôi vợ chồng trẻ - trong bộ lạc và
thị tộc - được nâng lên. Và từ khi chế độ tư hữu chiến thắng chế độ công
hữu, cùng với đó là sự quan tâm đến việc cho thừa kế tài sản, rồi thì
chế độ phụ quyền và hôn nhân cá thể có được địa vị thống trị; lúc đó,
hôn nhân đã hoàn toàn lệ thuộc vào những tính toán kinh tế. Hôn nhân mua
bán, về hình thức, đã mất đi; nhưng sự tiến hành nó trên thực tế lại
liên tục mở rộng, đến khi chính ngay đàn ông - chứ không chỉ đàn bà -
cũng có giá cả; giá ấy được tính theo tài sản, chứ không phải phẩm chất
cá nhân, của họ. Tình cảm đối với nhau phải là nguyên do tối cao của hôn
nhân - cái đó xưa nay vẫn hoàn toàn không thấy trong thực tiễn của các
giai cấp thống trị. Nó chỉ có trong văn học, hoặc trong các giai cấp bị
áp bức - mà ta thì không kể đến họ làm gì. Tình hình là vậy,
đến khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bước vào việc chuẩn bị thống trị
thế giới, nhờ thương mại toàn cầu và công trường thủ công, sau thời kì
của các phát kiến địa lí. Có thể cho rằng cách kết hôn nói trên là đặc
biệt phù hợp với nền sản xuất ấy, và đúng là thế thật. Thế nhưng - cái
trò oái oăm của lịch sử đúng là khôn lường - chính nó lại gây một vết
nứt quyết định cho kiểu hôn nhân ấy. Với việc biến mọi thứ thành hàng
hóa, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hủy bỏ mọi quan hệ truyền thống do
thời xưa để lại; thay cho tập quán lâu đời và pháp quyền lịch sử, nó đã
dựng lên việc mua bán và cái khế ước “tự do”. Nhà luật học người Anh
H.S. Maine cho rằng mình đã có một phát hiện to lớn khi khẳng định: tất
cả sự tiến bộ của chúng ta, so với thời trước, chính là ở chỗ ta đã đi
“from status to contract”30; từ trạng thái do thừa kế mà có, tới trạng
thái do khế ước tự do mà có. Nhưng trong chừng mực điều đó là đúng đắn,
thì nó đã được nhắc đến trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” rồi.
Nhưng việc kí một khế ước đòi hỏi người ta phải tự do về thân thể, hành
vi, tài sản của mình; và phải bình đẳng về quyền lợi với nhau. Một
trong các công việc chủ yếu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chính là
tạo ra những con người “tự do” và “bình đẳng” đó. Dù lúc đầu nó chỉ được
thực hiện một cách nửa tự giác và lại núp bóng tôn giáo, nhưng từ sau
cuộc cải cách của Luther và Calvin, thì nguyên tắc đã được xác lập:
người ta chỉ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành động của mình, khi họ
thực hiện nó với ý chí hoàn toàn tự do; và việc chống lại mọi sự ép buộc
thực hiện các hành vi vô đạo, chính là một nghĩa vụ đạo đức. Nhưng
nguyên tắc đó làm thế nào để phù hợp được với cái thực tiễn, đã tồn tại
xưa nay, về việc sắp xếp hôn nhân? Theo quan điểm tư sản thì hôn nhân là
một khế ước, một giao dịch pháp lí; hơn nữa là giao dịch pháp lí quan
trọng nhất, vì nó quyết định thể xác và tinh thần của hai con người,
trong suốt đời họ. Về hình thức thì đúng thế, khế ước được kí một cách
tự nguyện, nó không thể hoàn thành mà không có sự đồng ý của hai bên.
Nhưng người ta đã biết quá rõ về việc làm thế nào để có được sự đồng ý
đó, và ai mới là người thực sự kí kết cái khế ước trên. Nhưng nếu quyền
tự do quyết định thực sự là cần thiết đối với mọi khế ước khác, tại sao
đối với khế ước kết hôn lại không? Cặp thanh niên sánh bước bên nhau đó,
chẳng phải cũng có quyền tự do định đoạt bản thân, thể xác, và các khí
quan của mình hay sao? Chẳng phải giới hiệp sĩ đã đưa tình yêu lên thành
cái mốt hay sao; và ngược lại với thứ ái tình theo kiểu tư thông của
hiệp sĩ, tình vợ chồng chẳng phải là hình thức tư sản đích thực của tình
yêu hay sao? Và nếu nghĩa vụ của vợ chồng là yêu thương nhau; thì cũng
như vậy, nghĩa vụ của hai người yêu nhau chẳng phải chính là kết hôn với
nhau, chứ không phải với ai khác, hay sao? Quyền đó của hai người yêu
nhau lẽ nào không cao hơn quyền của cha mẹ, của họ hàng, của những người
mối lái truyền thống, hay sao? Nếu quyền tự do suy xét của mỗi cá nhân
đã táo tợn xâm nhập vào nhà thờ và Giáo hội, thì sao nó phải dừng lại
trước cái đòi hỏi không thể dung thứ của thế hệ già; là muốn quyết định
thể xác, tâm hồn, tài sản, hạnh phúc, và bất hạnh của thế hệ trẻ?
Những vấn đề đó tất yếu phải xuất hiện trong một thời kì mà mọi mối
ràng buộc cũ kĩ trong xã hội đều bị dãn ra, và mọi quan niệm truyền
thống đều bị lung lay. Thế giới đột nhiên đã lớn lên gần mười lần; thay
vì 1/4 bán cầu, giờ đây cả Trái Đất đã hiện ra trước mắt người Tây Âu,
và họ vội vàng đi chiếm nốt bảy cái 1/4 còn lại. Và, cũng như những giới
hạn cổ xưa của quê hương họ, những rào cản của lối tư duy có từ thời
Trung cổ, cũng đã sụp đổ. Một chân trời vô cùng rộng lớn hơn đã mở ra
cho con người, với cả tầm nhìn bên ngoài và tầm nhìn bên trong. Một
chàng trai trẻ có kể gì đến cái danh thơm là nề nếp, hay các đặc quyền
phường hội danh giá được truyền qua từng thế hệ; khi đã bị lôi cuốn bởi
sự giàu có của Ấn Độ, hay những mỏ vàng bạc ở Mexico và Potosi? Với giai
cấp tư sản, đó là cái thời hiệp sĩ giang hồ; nó cũng có những mộng
tưởng và tình yêu của mình, nhưng theo kiểu tư sản và - xét đến cùng -
là vì các mục đích tư sản. Vậy là giai cấp tư sản đang lên đã
ngày càng thừa nhận quyền tự do kí kết trong cả hôn nhân, và ngày càng
thực thi điều đó, như đã nói ở trên; đặc biệt ở các nước Tin lành, nơi
mà cái trạng thái hiện tồn bị lung lay mạnh nhất. Hôn nhân vẫn có tính
giai cấp; nhưng trong phạm vi giai cấp, các bên được phép tự do lựa chọn
tới một mức độ nào đó. Trong giấy tờ, lí luận đạo đức và cả thơ ca,
không gì được xác lập vững chắc hơn cái quan điểm này: một cuộc hôn nhân
là vô đạo đức, nếu nó không dựa trên tình yêu và sự đồng ý thực sự tự
do của vợ và chồng. Tóm lại, hôn nhân vì tình yêu đã được tuyên bố là
một quyền của con người; và không những là droit de l’homme, nó còn là
droit de la femme31 nữa. Nhưng quyền đó của con người lại khác
với những cái gọi là “quyền con người” khác, về một điểm. Thực tế, trong
khi các quyền khác chỉ được áp dụng cho giai cấp thống trị (tư sản),
còn giai cấp bị trị (vô sản) lại bị tước đi quyền đó - một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp; thì ở đây, điều trớ trêu của lịch sử lại diễn ra.
Giai cấp thống trị vẫn bị chính các ảnh hưởng kinh tế quen thuộc chi
phối, vì thế các trường hợp hôn nhân hoàn toàn tự do chỉ là ngoại lệ;
còn với giai cấp bị trị, thì cái hôn nhân hoàn toàn tự do ấy lại là
thông lệ. Vì thế, nói chung, sự tự do hoàn toàn trong hôn nhân
chỉ có thể được thiết lập; khi việc xóa bỏ nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, và các quan hệ sở hữu do nó tạo ra, đã thủ tiêu mọi toan tính
kinh tế kèm theo nó; các toan tính đó hiện vẫn tạo ra ảnh hưởng lớn tới
việc chọn bạn đời. Khi đó, ngoài tình cảm đối với nhau ra, thì không có
động lực nào khác dẫn đến hôn nhân cả. Và vì bản chất của tình
yêu là đơn nhất, dù hiện nay thì tính đơn nhất ấy chỉ được thừa nhận
triệt để về phía người đàn bà thôi; nên hôn nhân vì tình yêu, về bản
chất, chính là hôn nhân cá thể rồi. Ta đã thấy Bachofen đúng đắn đến thế
nào, khi ông coi bước tiến từ chế độ quần hôn lên hôn nhân đối ngẫu do
phụ nữ thực hiện là chính. Chỉ có bước tiến từ hôn nhân đối ngẫu lên hôn
nhân cá thể là nhờ công của đàn ông; và cốt lõi của nó, về mặt lịch sử,
là hạ thấp địa vị của đàn bà và giúp đàn ông dễ ngoại tình hơn. Nếu các
tính toán kinh tế, vốn vẫn buộc phụ nữ - vì lo cho đời sống của mình,
hơn nữa là của con cái mình - phải chịu đựng thói quen ngoại tình của
chồng, mà cũng biến mất; thì theo kinh nghiệm trước đây, sự bình đẳng
của phụ nữ - do tình hình trên mà có - sẽ thúc đẩy chế độ hôn nhân cá
thể thực sự đối với đàn ông, ở mức độ vô cùng lớn hơn so với việc thúc
đẩy chế độ nhiều chồng. Nhưng cái chắc chắn sẽ biến mất khỏi
chế độ hôn nhân cá thể, chính là những đặc trưng, do các quan hệ sở hữu
đã in lên nó từ khi nó ra đời; một là sự thống trị của đàn ông, hai là
sự bất khả li dị. Sự thống trị của đàn ông trong hôn nhân là kết quả của
sự thống trị về kinh tế của họ, và sẽ tiêu tan cùng với sự thống trị về
kinh tế ấy. Sự bất khả li dị của hôn nhân một phần vì cái điều kiện
kinh tế, mà chế độ hôn nhân cá thể đã phát sinh từ đó; phần khác vì
truyền thống, có từ thời mà người ta chưa hiểu hết mối liên hệ giữa điều
kiện kinh tế nói trên với chế độ hôn nhân cá thể, rồi cường điệu hóa
mối liên hệ ấy dưới hình thức tôn giáo. Giờ đây, chính sự bất khả li dị
đó cũng đã bị chọc thủng ở hàng nghìn chỗ. Nếu chỉ có hôn nhân dựa trên
cơ sở tình yêu là hợp đạo đức; thì cũng chỉ có hôn nhân, mà trong đó
tình yêu còn được duy trì, mới là hợp đạo đức. Nhưng tình yêu nam nữ lại
tùy từng người, đặc biệt với đàn ông, mà giữ được lâu hay chóng; và nếu
tình yêu ấy đã không còn, hay đã bị thay thế bởi một hình yêu mới; thì
chia tay sẽ có lợi cho cả hai bên, cũng như cho xã hội. Chỉ cần tránh
việc phải sa lầy vô ích vào các vụ kiện cáo li dị thôi. Giờ
đây, những gì ta có thể đoán được về việc các quan hệ tính giao sẽ diễn
ra như thế nào, khi mà nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sắp bị xóa bỏ, vẫn
mang tính phủ định là chủ yếu; tức là hầu như chỉ nói về những cái sẽ
mất đi. Vậy những cái mới nào sẽ thế vào đó? Câu hỏi đó sẽ được trả lời,
khi một thế hệ mới đã phát triển: một thế hệ đàn ông, trong suốt đời
mình, không bao giờ biết tới việc dùng tiền - hay bất kì một công cụ
quyền lực xã hội nào khác - để mua người đàn bà; và một thế hệ đàn bà
không bao giờ biết tới việc hiến thân cho người đàn ông vì bất kì lí do
nào ngoài tình yêu thực sự, cũng như việc từ chối làm điều đó với người
yêu vì lo sợ những hậu quả về kinh tế của nó. Khi những con người đó
xuất hiện, họ sẽ hầu như chẳng để ý tới những điều, mà con người hiện
nay cho là họ phải làm; họ sẽ tạo nên thông lệ và thực tiễn của riêng
mình, tương ứng với đó là công luận của riêng mình, để phán xét hành vi
của mỗi cá nhân. Chỉ có thể trả lời đến thế thôi.] Nhưng hãy
quay lại với Morgan, ta đã rời khá xa khỏi ông rồi. Việc nghiên cứu về
mặt lịch sử, đối với những thiết chế xã hội phát sinh trong thời văn
minh, là vượt quá khuôn khổ cuốn sách của ông. Vì thế, ông chỉ nói rất
ngắn về việc chế độ hôn nhân cá thể sẽ trở nên thế nào, trong thời văn
minh. Morgan cũng coi sự phát triển hơn nữa của gia đình cá thể là một
bước tiến, để đi tới sự hoàn toàn bình đẳng giữa hai giới; dù ông không
coi là mục tiêu đó đã đạt được. Nhưng ông cũng nói: “Một khi
thừa nhận sự thật là gia đình đã trải qua bốn hình thức nối tiếp nhau,
và hiện đang ở hình thức thứ năm, thì một vấn đề sẽ xuất hiện: hình thức
hiện nay đó có tồn tại lâu dài trong tương lai không? Câu trả lời duy
nhất có thể được đưa ra là: nó phải phát triển và thay đổi, cùng với sự
phát triển và thay đổi của xã hội, hệt như trong quá khứ. Là sản vật của
một chế độ xã hội, nó sẽ phản ánh sự văn minh của chế độ xã hội đó. Vì
gia đình cá thể đã tiến bộ rất nhiều ngay từ buổi đầu của thời văn minh,
và cũng tiến bộ rất rõ rệt ở thời hiện đại; nên ít nhất có thể cho là
nó còn tiếp tục tiến bộ, tới khi đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ.
Nếu trong tương lai xa xôi về sau, gia đình cá thể không đap ứng được
những đòi hỏi của xã hội, thì cũng không thể đoán được hình thức gia
đình tiếp sau nó sẽ có tính chất như thế nào”1 Chú thích của Engels
1 Bachofen đã chứng minh là ông ít hiểu phát hiện (đúng ra là dự đoán)
của mình đến thế nào, khi dùng từ “tạp hôn” (hetaerism) để gọi trạng
thái nguyên thủy ấy. Người Hi Lạp dùng từ đó để chỉ quan hệ (tính giao)
giữa đàn ông - đã hoặc chưa có vợ (trong chế độ hôn nhân cá thể) - với
đàn bà chưa chồng. Nó luôn giả định là có một hình thức hôn nhân xác
định, còn sự “tạp hôn” diễn ra bên ngoài khuôn khổ của hình thức đó; nó
bao hàm cả việc mãi dâm, hay ít nhất là khả năng mãi dâm. Từ đó chưa bao
giờ được dùng theo nghĩa nào khác, tôi và Morgan cũng chỉ dùng nó với
nghĩa đó. Bachofen luôn đưa những điều thần bí khác thường nhất vào
trong các phát kiến hết sức quan trọng của mình, chính vì cái quan điểm
kì dị của ông rằng: sự phát triển lịch sử của quan hệ giữa đàn ông và
đàn bà có nguồn gốc từ các quan niệm tôn giáo, chứ không phải từ điều
kiện sinh hoạt thực tế của con người thời đó. 2 Trong một lá
thư viết vào mùa xuân 1882, bằng những lời kịch liệt nhất, Marx đã phản
ứng về việc xuyên tạc thời nguyên thủy trong vở nhạc kịch “Chiếc nhẫn
của người Nibelung” của Richard Wagner: “Có bao giờ người ta nghe nói
anh trai ôm em gái như ôm vợ mình không?”. Đối với Wagner và những “thần
dâm đãng” của ông ta, những kẻ muốn lấy một chút loạn luân (theo nghĩa
hiện nay) để “thêm mắm thêm muối” cho chuyện tình ái của mình, Marx đã
trả lời: “Ở các thời nguyên thủy, chị em gái là vợ, và khi đó như vậy là
hợp với đạo đức.” [Một người bạn Pháp của tôi, vốn rất hâm mộ
Wagner, đã không đồng ý với chú thích trên. Ông nhận xét: trong tập
“Edda cổ”7, được Wagner lấy làm cơ sở, Loki đã mắng Freya: “Mày đã ôm
hôn anh ruột mày trước các vị thần” (phần “Ægisdrekka”8). Ông ta cho là
hôn nhân giữa anh chị em với nhau đã bị cấm ngay từ khi đó. Nhưng
“Ægisdrekka” biểu hiện một thời kì mà lòng tin vào các thần thoại cổ đã
mất hẳn rồi; do đó câu ấy chỉ là sự châm biếm nhằm vào các thần, theo
kiểu Lucian xứ Samosata mà thôi. Vì thế, nếu Loki, cũng như Mephisto, đã
mắng Freya như thế; thì điều đó đúng ra phải là chống lại Wagner. Loki,
sau đó vài câu thơ, cũng nói với Njörd: “Với em gái của mình, mày đã
sinh ra đứa con trai”. Thực ra Njörd là người Vanir chứ không phải
Æsir9, y từng nói trong “Ynglinga Saga” rằng hôn nhân giữa anh chị em
rất thường thấy ở người Vanir, nhưng lại không có ở người Æsir. Điều này
có lẽ cho thấy người Vanir là các thần cổ hơn người Æsir. Ít ra thì
việc Njörd có mặt trong “Ægisdrekka” vẫn chứng tỏ là ở thời kì thần
thoại Bắc Âu ra đời, thì hôn nhân giữa anh chị em, ít ra là ở các thần,
vẫn chưa gây ra bất kì sự ghê tởm nào. Nếu muốn bảo vệ Wagner, thì nên
trích dẫn Goethe hơn là Edda, vì Goethe (trong khúc ca “Vị thần và Vũ
nữ”) cũng mắc sai lầm tương tự, khi coi nghĩa vụ hiến thân có tính tôn
giáo của phụ nữ là giống với nạn mãi dâm hiện đại.] 3 Không
nghi ngờ gì nữa, các vết tích của quan hệ tính giao không hạn chế - mà
Bachofen cho là mình đã tìm ra, ông ta gọi nó là “thụ thai tội lỗi”
(Sumpfzeugung) - dẫn ta trở về chế độ quần hôn. “Nếu Bachofen coi các
cuộc hôn nhân punalua đó là “phi pháp”; thì người thời đó sẽ coi hầu hết
các cuộc hôn nhân ngày nay giữa anh chị em họ - gần hay xa, bên nội hay
bên ngoại - đều là loạn luân, vì người ấy coi nó cũng giống như các
cuộc hôn nhân giữa anh chị em cùng huyết tộc” (Marx). Chú thích của người dịch 1 "Xã hội Cổ đại". 2 Ch.J.M. Letourneau: "L'evolution du marriage et de la famille"; Paris, 1888. 3 Đây là một nhóm thuộc bộ Linh trưởng, theo cách phân chia trước kia. 4 E.A. Westermarck: "The history of human marriage"; London, 1891. 5 A.V. Espinas: "Des sociétés animales"; Paris, 1877. 6 H.H. Bancroft: "The Native Races of the Pacific States of North America", t. I-V; New York, 1875 7 Có tên gọi khác là "Poetic Edda". 8 Có tên gọi khác là "Lokasenna". 9 Vanir và Æsir là hai bộ lạc thần trong thần thoại Bắc Âu. 10 Ở bản in năm 1884, đoạn "chế độ quần hôn" được ghi là "gia đình punalua". 11 J.F. Watson & J.W. Kaye: "The People of India"; 1868.
12 Ở bản in năm 1884, đoạn "họ chỉ có một hình thức quần hôn thô sơ
hơn" được ghi là "tổ chức của họ là rất cá biệt, đến nỗi ta chẳng cần
chú ý đến làm gì". 13 "quyền hưởng đêm đầu tiên". 14
S. Sugenheim: "Geschichte der Aufhebung der Leibeigenschaft und
Hörigkeit in Europa bis um die Mitte des neunzehnten Jahrhunderts" 15 Ở bản in năm 1884, đoạn "sở hữu riêng rẽ" được ghi là "sở hữu tư nhân". 16 Ở bản in năm 1884, đoạn "sở hữu của gia đình" được ghi là "sở hữu riêng". 17 M.M. Kovalevsky: "Tableau des origines et de l’evolution de la famille et de la propriete"; Stockholm, 1890 18 Từ này tương ứng với từ "family" trong tiếng Anh. 19 Tiếng Nga là "вервь". 20 A. Heusler: "Institutionen des Deutschen Privatrechts"; Leipzig: Duncker & Humblot, 1885–1886. 21 Điều 230 Code Civil (Luật Dân sự), Napoleon I ban hành năm 1804.
22 Ở bản in năm 1884, đoạn "ta thấy phụ nữ bị rẻ rúng bởi sự thống trị
của đàn ông và bởi sự cạnh tranh của nữ nô lệ" được ghi là "ta thấy phụ
nữ ở trong tình trạng hầu như cấm cung, để đảm bảo tính xác thực về cha
của những đứa trẻ". Đoạn sau đó hầu như được Engels viết mới cho bản in
năm 1891, trừ vài câu có sẵn ở bản in năm 1884. 23 Aeschylus: "Oresteia". 24 Aristophanes: "Thesmophoriazusae". 25 Euripides: "Orestes". 26 Ở bản in năm 1884, đoạn "các điều kiện kinh tế" được ghi là "các điều kiện xã hội". 27 Bản thảo đó sau này được in, đó chính là cuốn "Hệ tư tưởng Đức". 28 Ở bản in năm 1884, sau đoạn "tiểu thuyết Đức" có ghi thêm "và Thụy Điển". 29 Ch. Fourier: "Théorie de l’Unité Universelle"; Paris, 1841-45, t. III, tr. 120. 30 Tiếng Anh theo đúng nguyên bản, có nghĩa là "từ pháp luật đến khế ước".
31 Tiếng Pháp theo đúng nguyên bản. Ở đây Engels chơi chữ: "droit de
l’homme" là "quyền của con người", cũng có nghĩa là "quyền của đàn ông";
còn "droit de la femme" là "quyền của đàn bà". III. THỊ TỘC IROQUOIS
Bây giờ, ta đến với một phát hiện khác của Morgan, nó ít ra cũng quan
trọng ngang với việc khôi phục những hình thức nguyên thủy của gia đình,
từ các chế độ thân tộc. Đó là việc chứng minh rằng các tập đoàn thân
tộc - được đặt theo tên các con vật - ở bộ lạc của người Indian ở Mĩ, về
cơ bản là đồng nhất với genea của người Hi Lạp và gentes của người La
Mã; rằng hình thức ở Mĩ là gốc, còn hình thức ở người Hi Lạp và La Mã là
phái sinh, về sau mới có; rằng toàn bộ tổ chức xã hội - gồm thị tộc,
bào tộc, bộ lạc - của người Hi Lạp và La Mã nguyên thủy, thì cũng tương
tự với tổ chức xã hội của người Indian ở Mĩ; rằng thị tộc là một thể chế
có ở tất cả các dân dã man, cho đến tận khi họ bước vào thời văn minh,
và cả sau đó nữa (theo những tài liệu hiện có). Điều đó đã tức thì làm
rõ những vấn đề khó nhất của những thời kì cổ nhất trong lịch sử Hi Lạp
và La Mã; đồng thời mang lại cho ta một khối lượng thông tin bất ngờ, về
những đặc trưng cơ bản của kết cấu xã hội ở thời nguyên thủy, trước khi
Nhà nước xuất hiện. Khi ta đã hiểu được vấn đề, thì nó có vẻ đơn giản;
nhưng cũng phải tới gần đây, Morgan mới tìm ra nó. Ở tác phẩm trước của
mình, xuất bản năm 1871, ông vẫn chưa phát hiện được bí mật ấy; chính
việc phát hiện đó đã làm cho các nhà nhân loại học người Anh, vốn rất tự
tin, nay phải [tạm thời] im như thóc. Từ gens của tiếng Latin -
mà Morgan hay dùng để chỉ các tập đoàn thân tộc nói trên - đồng nghĩa
với từ genos của tiếng Hi Lạp, đều có gốc là từ gan - nghĩa là “sinh đẻ”
- của tiếng Aryan (tiếng Đức là kan; theo qui luật, chữ g của tiếng
Aryan được thay bằng chữ k trong tiếng Đức). Gens, genos, janas (tiếng
Phạn), kuni (tiếng Goth), kyn (tiếng Norse cổ & Anglo-Saxon), kin
(tiếng Anh), kunne (tiếng miền Trung thượng Đức); đều có nghĩa là dòng
dõi, huyết tộc. Nhưng gen và genos còn đặc biệt được dùng để chỉ các tập
đoàn thân tộc, tự hào là có chung huyết thống (với người Hi Lạp và La
Mã thì là một ông tổ chung), nhờ các thiết chế xã hội và tôn giáo mà hợp
thành một cộng đồng riêng biệt; nguồn gốc và đặc điểm của chúng, với
các sử gia của chúng ta, tới nay vẫn còn chưa rõ. Lúc trước,
khi bàn về gia đình punalua, ta đã thấy một thị tộc - ở hình thức đầu
tiên của nó - là do cái gì cấu tạo nên rồi. Thị tộc đó bao gồm những
người - do chế độ hôn nhân punalua, và theo những quan niệm tất nhiên
phải thống trị trong chế độ đó - hợp thành một đám con cháu của một bà
mẹ tổ riêng, là người lập ra thị tộc. Với hình thức gia đình ấy thì
không thể biết rõ ai là cha, nên chỉ có mẫu hệ được tính thôi. Vì anh em
trai không được lấy chị em gái ruột, mà chỉ được lấy đàn bà ngoài thị
tộc, làm vợ; nên con cái của những người đàn bà ngoại tộc đó, theo mẫu
hệ, đều không thuộc thị tộc của cha chúng. Do đó, chỉ có con cháu của
các thành viên nữ là ở lại trong thị tộc; còn con cháu của các thành
viên nam, thì được chuyển sang thị tộc của mẹ chúng. Tập đoàn thân tộc
ấy sẽ trở thành cái gì, khi nó tự lập thành một tập đoàn riêng biệt,
đứng trước các tập đoàn tương tự khác trong bộ lạc? Morgan lấy
thị tộc Iroquois, đặc biệt là thị tộc của bộ lạc Seneca, làm hình thức
cổ điển của cái thị tộc ban đầu đó. Trong bộ lạc đó có tám thị tộc, đều
lấy tên các con vật: Sói, Gấu, Rùa, Hải li; Nai, Dẽ giun, Diệc, Diều
hâu. Trong mỗi thị tộc đều có các tục lệ sau: 1. Thị tộc bầu ra
tù trưởng (sachem, lãnh đạo thời bình) và thủ lĩnh quân sự (chief, chỉ
huy thời chiến). Tù trưởng phải là thành viên thị tộc; chức vụ đó được
chuyển theo thừa kế, tức là nếu bị khuyết thì cần có người khác lên thay
ngay. Thủ lĩnh quân sự thì có thể là người ngoại tộc; cũng có thể không
có chức vụ đó, trong một thời gian. Con trai một tù trưởng không bao
giờ được bầu làm tù trưởng, do chế độ mẫu hệ vẫn thịnh hành ở người
Iroquois, nên người con trai đó thuộc một thị tộc khác. Nhưng người ta
có thể bầu, và vẫn thường bầu, cho anh em trai người tù trưởng trước,
hoặc con trai của chị em gái người đó. Tất cả đều tham gia bầu cử, nam
cũng như nữ. Nhưng cuộc bầu cử cần được bảy thị tộc kia phê chuẩn; chỉ
khi đó, người trúng cử mới được cho nhậm chức một cách trọng thể, bởi
hội đồng chung của liên minh Iroquois. Sau đây ta sẽ thấy tầm quan trọng
của việc đó. Quyền lực của tù trưởng trong thị tộc có tính gia trưởng,
nhưng chỉ thuần túy về mặt đạo đức; ông ta không có một công cụ cưỡng
chế nào cả. Với chức vụ của mình, ông ta cũng là thành viên của hội đồng
bộ lạc Seneca, cũng như hội đồng của liên minh Iroquois. Thủ lĩnh quân
sự thì chỉ ra mệnh lệnh trong thời chiến thôi. 2. Thị tộc tùy ý
bãi miễn tù trưởng và thủ lĩnh quân sự. Việc này cũng do toàn thể nam
nữ thành viên thực hiện. Sau khi bị bãi miễn, tù trưởng và thủ lĩnh quân
sự lại trở thành chiến binh và thường dân, như các thành viên khác. Hội
đồng bộ lạc cũng có quyền bãi miễn tù trưởng, kể cả khi thị tộc không
muốn. 3. Không thành viên nào được quyền kết hôn trong nội bộ
thị tộc. Đó là qui tắc cơ bản của thị tộc, là cái gắn kết mọi thứ với
nhau. Cái biểu hiện có tính phủ định đó chính là để khẳng định quan hệ
huyết tộc, cái quan hệ đã khiến các cá nhân trở thành thị tộc. Nhờ tìm
ra sự thật đơn giản đó, Morgan đã lần đầu tiên phát hiện được bản chất
của thị tộc. Trước đây ta ít hiểu thị tộc đến thế nào, cái đó đã quá
hiển nhiên, qua những câu chuyện xưa kia về người mông muội và dã man;
trong đó người ta đã đồng nhất - một cách tùy tiện và ngờ nghệch - những
bộ phận khác nhau đã tạo nên tổ chức thị tộc, với những tên gọi: bộ
lạc, thị tộc, v.v.; rồi đôi khi lại coi đó là những tập đoàn cấm kết hôn
nội bộ. Từ đó xuất hiện tình trạng hỗn loạn không sao cứu vãn nổi,
trong đó McLennan đã có cơ hội đóng vai Napoléon, và thiết lập trật tự
bằng một sắc lệnh: tất cả các bộ lạc được chia làm hai nhóm: cấm kết hôn
nội bộ (ngoại hôn) và cho phép kết hôn nội bộ (nội hôn). Và sau khi
phức tạp hóa cái mớ rắc rối kể trên bằng cách ấy, ông ta lại bỏ sức vào
những nghiên cứu sâu sắc nhất; để xem trong hai cái nhóm vô lí đó của
mình, cái nào có trước. Điều vô lí đó đã mau chóng tự biến mất, với việc
phát hiện ra thị tộc và cơ sở huyết tộc của nó, bao gồm việc cấm các
thành viên thị tộc kết hôn với nhau. Cố nhiên là việc cấm kết hôn nội bộ
ở thị tộc Iroquois, vào giai đoạn mà ta biết, vẫn được tuân thủ nghiêm
ngặt. 4. Tài sản của người đã chết được trao cho các thành viên
khác của thị tộc, nó phải ở trong thị tộc. Vì tài sản của một người
Iroquois cũng chẳng có giá trị cho lắm, nên món thừa kế ấy được chia cho
mấy người họ hàng gần nhất trong thị tộc. Với đàn ông, đó là anh chị em
ruột và người cậu; với đàn bà, đó là con cái và chị em gái ruột, nhưng
không có anh em trai ruột. 5. Các thành viên thị tộc có nghĩa
vụgiúp đỡ, bảo vệ lẫn nhau; đặc biệt là giúp nhau báo thù khi bị người
ngoài làm hại. Mỗi cá nhân đều tìm tới sự bảo vệ của thị tộc để được an
toàn, và anh có thể tin cậy vào sự bảo vệ ấy; làm hại một người tức là
làm hại cả thị tộc của người đó. Chính từ những quan hệ huyết thống đã
khiến thị tộc đoàn kết với nhau; mà cái nghĩa vụ trả nợ máu, được người
Iroquois tuyệt đối thừa nhận, đã nảy sinh. Khi một thành viên thị tộc bị
người ngoài giết, thì toàn bộ thị tộc của nạn nhân đều có nghĩa vụ nói
trên. Trước hết, người ta tìm cách hòa giải: hội đồng thị tộc của hung
thủ sẽ họp lại, và đề nghị dàn xếp với hội đồng thị tộc của nạn nhân;
thường là tỏ ra lấy làm tiếc, và biếu nhiều lễ vật. Nếu đề nghị được
chấp nhận, thì việc đã xong. Nếu không, thị tộc bị hại cử một hay nhiều
người đi báo thù, nhiệm vụ của họ là truy sát hung thủ. Nếu việc đó
thành công, thì thị tộc của hung thủ không được phàn nàn gì nữa, và thế
là hết chuyện. 6. Thị tộc có những tên hoặc nhóm tên nhất định,
mà trong toàn bộ lạc thì không thị tộc nào khác được dùng, do đó mà tên
của một người cũng chỉ rõ thị tộc của người đó. Đã mang cái tên của thị
tộc, thì cũng có quyền lợi trong thị tộc. 7. Thị tộc có thể
thu nhận người ngoài làm thành viên, do đó cũng có thể thu nhận họ vào
bộ lạc. Vì thế, ở người Seneca, tù binh không bị giết, mà được các thị
tộc thu nhận; do đó trở thành thành viên của bộ lạc, được hưởng mọi
quyền lợi của thị tộc và bộ lạc. Việc thu nhận đó được tiến hành theo đề
nghị cá nhân của một số thành viên thị tộc: một người đàn ông sẽ đề
nghị nhận người ngoài nói trên làm anh em hoặc chị em; một người đàn bà
thì đề nghị nhận người đó làm con. Việc thu nhận cần được phê chuẩn bằng
một buổi lễ kết nạp trọng thể. Một thị tộc cá biệt, có số người bị giảm
đi, thường sẽ được bổ sung bằng việc thu nhận hàng loạt người từ các
thị tộc khác, và được các thị tộc ấy đồng ý. Ở người Iroquois, lễ kết
nạp được diễn ra công khai ở hội đồng bộ lạc, vì thế mà nó thật sự là
một lễ nghi tôn giáo. 8. Hầu như không thể tìm thấy các lễ hội
tôn giáo đặc biệt của thị tộc Indian nói riêng, nhưng các lễ hội tôn
giáo của người Indian nói chung lại ít nhiều có liên hệ với thị tộc. Ở
sáu lễ hội tôn giáo hàng năm của người Iroquois, tù trưởng và thủ lĩnh
quân sự, của các thị tộc khác nhau, nghiễm nhiên được xếp vào hàng
“những người giữ gìn tín ngưỡng”; và họ thực hiện công việc tế lễ.
9. Thị tộc có một nghĩa địa chung. Với người Iroquois ở bang New York -
vốn bị người da trắng chèn ép từ mọi phía - thì nghĩa địa ấy đã mất đi,
nhưng trước kia nó vẫn còn. Ở những người Indian khác, nghĩa địa đó vẫn
tồn tại, ví dụ người Tuscarora, họ hàng với người Iroquois: dù họ theo
đạo Cơ đốc, nhưng mỗi thị tộc đều có một hàng mộ riêng biệt trong nghĩa
địa; vì thế người mẹ được chôn cùng hàng với con cái, chứ không phải
người cha. Với người Iroquois cũng như vậy: toàn thể thị tộc của người
đã chết sẽ cùng tham dự việc an táng, chuẩn bị phần mộ, đọc điếu văn,
v.v. 10. Thị tộc có một hội đồng, đó là đại hội dân chủ của tất
cả các thành viên đã thành niên của thị tộc, nam cũng như nữ; họ đều có
quyền bầu cử như nhau. Hội đồng bầu ra và bãi miễn tu trưởng, thủ lĩnh
quân sự, “những Người giữ gìn Tín ngưỡng” khác; hội đồng quyết định việc
báo thù cho người bị giết, hay việc nộp lễ vật để xin xá tội (tiền
chuộc nợ máu); nó giải quyết việc thu nhận người ngoài vào thị tộc. Tóm
lại, nó là cơ quan quyền lực tối cao của thị tộc. Đó là những chức năng của một thị tộc Indian điển hình.
“Toàn thể thành viên của một thị tộc Iroquois đều tự do, và có nghĩa vụ
bảo vệ tự do cho nhau; họ đều bình đẳng về quyền lợi cá nhân, tù trưởng
và thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi ưu tiên nào cả; họ là một tập thể
ái hữu, gắn bó với nhau bởi quan hệ huyết thống. Tự do, bình đẳng, bác
ái; dù chưa bao giờ được nêu thành công thức, nhưng vẫn là qui tắc cốt
yếu của thị tộc. Điều này rất quan trọng, vì thị tộc là đơn vị của hệ
thống quản lí xã hội, là cơ sở mà từ đó xã hội Indian được tổ chức
nên... Điều đó giải thích các đức tính phổ biến của người Indian, là
tinh thần độc lập và lòng tự trọng”1 Người Indian trên toàn Bắc
Mĩ đều được tổ chức theo thị tộc mẫu quyền, vào thời mà người ta tìm ra
châu Mĩ. Thị tộc chỉ mới biến mất ở vài bộ lạc, ví dụ người Dakota; còn
ở một số bộ lạc khác thì lại có thị tộc phụ quyền, chẳng hạn người
Ojibwa và người Omaha. Trong rất nhiều bộ lạc Indian gồm trên
năm hay sáu thị tộc, ta thấy ba hay bốn thị tộc trở lên hợp lại thành
một tập đoàn đặc biệt; Morgan gọi đó là bào tộc (phratry), dịch cái tên
mà người Indian dùng, thành các từ tương ứng với nó trong tiếng Hi Lạp.
Như ở bộ lạc Seneca thì có hai bào tộc: một bào tộc gồm bốn thị tộc Sói,
Gấu, Rùa, Hải li; bào tộc kia gồm bốn thị tộc còn lại. Nghiên cứu sâu
hơn cho thấy: đó đều là các thị tộc cổ, do bộ lạc lúc đầu tách ra mà
thành; vì các thị tộc đều cấm hôn nhân nội bộ, nên một bộ lạc phải gồm
ít nhất hai thị tộc để có thể tồn tại độc lập. Khi bộ lạc phát triển,
thì mỗi thị tộc ban đầu tách thành hai (hoặc nhiều hơn) thị tộc con,
chúng trở thành các thị tộc độc lập; khi đó thị tộc gốc, gồm tất cả các
thị tộc con, sẽ tồn tại với tư cách là bào tộc. Ở người Seneca, và hầu
hết những người Indian khác, các thị tộc ở cùng một bào tộc được gọi là
“thị tộc anh em ruột”, các thị tộc ở các bào tộc khác nhau được gọi là
“thị tộc anh em họ”; như ta đã thấy, các danh từ này có ý nghĩa rất thực
tế và rõ ràng, đối với hệ thống thân tộc ở Mĩ. Lúc đầu thì người Seneca
không cho phép kết hôn trong nội bộ bào tộc; nhưng tục lệ đó đã mất đi
từ lâu, và giờ chỉ còn giới hạn trong thị tộc thôi. Theo truyền thuyết
của người Seneca, Gấu và Nai là hai thị tộc gốc, các thị tộc khác đều từ
đó mà ra. Khi thiết chế mới này đã trở nên bền vững, thì nó được biến
đổi khi cần; nếu các thị tộc của một bào tộc bị mất dần đi, thì có khi
một loạt thị tộc của các bào tộc khác sẽ được chuyển sang bào tộc nói
trên, để giữ cân bằng. Vì thế, ta thường thấy trong các bào tộc khác
nhau, và cả ở các bộ lạc khác nhau, lại có những thị tộc cùng tên.
Ở người Iroquois, các chức năng của bào tộc một phần có tính xã hội,
một phần lại có tính tôn giáo: 1) Các bào tộc đấu bóng với nhau: hai bên
cử ra những người giỏi nhất; những người khác tập hợp lại theo từng bào
tộc, theo dõi trận đấu và đánh cuộc với nhau về kết quả. 2) Tại hội
đồng bộ lạc, tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của mỗi bào tộc ngồi thành
hai nhóm, đối diện với nhau; và mỗi diễn giả đều nói với các đại biểu
của từng bào tộc, như nói với một đoàn thể riêng biệt. 3) Nếu án mạng
xảy ra trong bộ lạc, mà nạn nhân và hung thủ thuộc hai bào tộc khác
nhau, thị tộc của nạn nhân thường nhờ đến các thị tộc anh em ruột; các
thị tộc này lập ra hội đồng bào tộc, để yêu cầu bào tộc kia cũng lập ra
hội đồng của họ, nhằm dàn xếp vụ việc. Ở đây, bào tộc lại xuất hiện với
tư cách thị tộc cổ; có nhiều khả năng thành công hơn so với các thị tộc
con của nó, vốn là riêng rẽ và yếu hơn. 4) Khi một nhân vật quan trọng
qua đời, bào tộc của người quá cố sẽ đến dự đám tang, còn việc ma chay
và chôn cất là của bào tộc đối diện. Khi một tù trưởng từ trần, thì bào
tộc đối diện báo cho hội đồng của liên minh Iroquois biết là chức tù
trưởng bị khuyết. 5) Hội đồng bào tộc cũng tham gia việc bầu tù trưởng.
Việc các thị tộc anh em ruột phê chuẩn cuộc bầu cử thì ít nhiều được coi
là đương nhiên, nhưng các thị tộc của bào tộc kia có thể phản đối. Khi
đó, hội đồng của bào tộc đối diện họp lại; nếu hội đồng giữ nguyên ý
kiến phản đối, thì cuộc bầu cử bị coi là không có giá trị. 6) Xưa kia,
người Iroquois có những nghi lễ tôn giáo thần bí đặc biệt, mà người da
trắng gọi là medicine-lodges. Ở người Seneca thì các nghi lễ đó do hai
đoàn thể tôn giáo tổ chức, họ cũng có những nghi lễ để kết nạp thành
viên mới; và ở mỗi bào tộc có một đoàn thể. 7) Nếu trong thời kì bị
người Tây Ban Nha xâm chiếm, bốn lineage - sống ở bốn khu của thành
Tlascala - là bốn bào tộc, mà điều này là gần như chắc chắn; thì từ đó
ta có thể chứng minh rằng bào tộc còn là một đơn vị quân sự; giống như ở
bào tộc Hi Lạp, hay các tổ chức thân tộc tương tự của người Germania.
Bốn lineage nói trên xuất trận theo đội ngũ riêng; với đồng phục riêng,
cờ riêng, và chịu sự chỉ huy của thủ lĩnh quân sự riêng.