Pages

Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Sống không phải là ký sinh trùng của thế gian, sống để mưu đồ một công cuộc hữu ích gì cho đồng bào tổ quốc. (Phan Chu Trinh )Mở mang dân trí , Chấn động dân khí.Vun trồng nhân tài. Kỳ vọng ở những người làm quan, lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ được nhiều người xem là có giá trị về phương diện cổ động nhân sĩ và giới cầm quyền có tâm huyết đem tài sức ra giúp nước.(Khi Phan Bội Châu viết tập "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" )"Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn và vô trách nhiệm."“Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc [độc lập, tự do] thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?”“… đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thứ này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.”(Fukuzawa Yukichi) .Tôi tư duy nên tôi hiện hữu; nghĩa là: Vì tôi tư duy nên tôi biết mình hiện hữu.( René Descartes) John Paul II xưng thú tội lỗi tổng quát trong 7 mục sau đây:1. Xưng thú “tội lỗi chung”.2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý”.3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”

My Blog List

Blogger templates

Monday, December 30, 2013

QUAN ĐIỂM “ĐẠO ĐỨC” CỦA NHO GIÁO TỪ KHỔNG TỬ ĐẾN MẠNH TỬ



I. TÓM TẮT CHUNG : 

  • Khổng Tử - Người sáng lập ra Nho giáo với quan điểm chủ yếu là dùng “Đạo Đức” cai trị hay nói khác hơn là đường lối “Đức Trị”. Tuy nhiên, phải đến Mạnh Tử đường lối "Đức Trị" mới được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối Nhân Chính (chính trị nhân nghĩa). Tìm hiểu được quá trình phát triển đó sẽ giúp chúng ta hiểu sâu thêm sức sống lâu bền của tư tưởng "Đức Trị" ở các nước Châu Á.

  • Nho học về thực chất là một học thuyết chính trị đạo đức mà biểu hiện tập trung ở đường lối "Đức Trị". Đối với các xã hội phong kiến Châu Á, đường lối "Đức Trị" luôn luôn là đường lối trị nước duy nhất trong hơn hai nghìn năm lịch sử. Một đường lối trị nước được độc tôn lâu dài. Như vậy trong lịch sử rất cần được đi sâu vào nghiên cứu. Hơn nữa, đối với các xã hội Á Đông đương đại, Nho học trong đó có tư tưởng "Đức Trị" không phải là vấn đề cổ xưa, càng không phải là vấn đề đã hoàn toàn thuộc về lịch sử. Trên thực tế sự hiện diện của Nho học với những mức độ khác nhau, vẫn luôn luôn mang tính thời sự mới mẻ. Không nghi ngờ gì nữa ý nghĩa hiện đại của nhiều yếu tố trong Nho học trong đó có tư tưởng "Đức Trị" đang ngày càng nổi lên. Một sự nghiên cứu có hệ thống về quan điểm“Đạo Đức“ hay đường lối "Đức Trị" trong triết lý Nho học lại càng cần thiết.

II. QUAN ĐIỂM VỀ “ĐỨC TRỊ” CỦA KHỔNG TỬ :
    1. Quan niệm về "Đạo Đức"- đường lối "ĐứcTrị ": Nhân, Lễ, Chính danh 

    Với Khổng Tử "Đạo Đức" là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói đến "Đạo Đức":
Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân..
  • "Đức" với Khổng Tử là lời nói đi đôi với việc làm trên cơ sở cái thiện: "Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được" Chính trên cơ sở đó, Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức Trị" - đường lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Khổng Tử quan niệm: "Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)

  • Trước sau Khổng Tử vẫn tin rằng: "Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính

  • Trong đời mình, dù là luận thuyết việc trị nước cứu đời hay dạy học, đào tạo nhiều lớp môn sinh tài đức, thì trước sau Khổng Tử đều nói nhiều đến đức nhân. Khổng Tử coi "Nhân" là Đức căn bản nhất của con người cả về xử thế lẫn Tu Thân, và bao gồm gần đủ các đức khác. Thật vậy "Nhân" vừa là Tu Thân, vừa là ái Nhân, lại vừa là xử kỷ vừa là tiếp vật. 

  • Đối với Khổng Tử, điều quan trọng nhất trong tư tưởng về "Nhân" là biểu hiện về mặt chính trị của nó. Có lẽ với Khổng Tử thái độ đối với dân là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá đức nhân của người cầm quyền: "Sai khiến dân thì phải thận trọng như trong một cuộc tế lớn, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người". Trong nước không ai oán mình, trong "Nhà" một đại phu không ai oán mình". Ông từng nói "Tài trí đủ để trị dân (có người hiểu là đủ để biết mọi lẽ) mà không biết dùng đức nhân để giữ dân, thì sẽ mất dân...". 

  • Sau "Nhân" Khổng tử quan tâm nhiều đến "Lễ", bởi “Lễ” cần thiết để duy trì trật tự xã hội, và có trật tự xã hội thì vua mới được tôn trọng, Nước mới được trị. Mặt khác, lễ có nội dung luân lý của nó, trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời với Nhân. Khổng Tử xem điều lễ là hình thức của Nhân, là chính đạo mà mọi người nên thi hành, còn nếu con người chạy theo dục vọng của mình mà trái ngược với chính đạo tức là trái ngược với điều Nhân. Vì vậy, người cầm quyền phải giữ lễ: "Vua khiến bề tôi phải giữ lễ, bề tôi thờ vua phải trung (hết lòng)". 
  • Đáng chú ý là, trong quan niệm của Khổng Tử Lễ chỉ quan trọng khi gắn bó với điều Nhân, là biểu hiện của Nhân. Nếu tách rời nhân thì Lễ chỉ là vô nghĩa. "Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì ? ". Thật vậy không có lòng Nhân thì Lễ mà làm gì ? Nhà cầm quyền không có đức nhân thì Lễ chỉ càng làm thủ cựu, càng làm nghiệt ngã và tàn khốc. 

  • Khổng Tử đề xướng "Lễ Trị" nhằm ổn định xã hội. Thực hành đúng Lễ vừa là biểu hiện của Nhân, đồng thời cũng thể hiện con người phải làm đúng bổn phẩn, thân phận của mình, tức là phải Chính danh. 
  • Trong công việc chính trị, theo Khổng Tử "Chính danh" phải đặt lên trước nhất, bởi "Nếu danh (hiệu) không chính (xác) thì lời nói không thuận lý (vì danh hiệu không hợp với thực tế), lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết đặt chân vào đâu (không biết làm thế nào cho phải).

     2. Chính sách trị dân và mẫu người cầm quyền Quân Tử 

  • Tư tưởng “Đức Trị” của Khổng tử còn thể hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng Tử quan niệm: "Không giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược" . Khổng Tử chủ trương giảm hình phạt, coi nhẹ hình phạt vì ông thật sự không bao giờ tin vào bá đạo:
  •  "Có thể (dùng sức mạnh) bắt được một vị nguyên soái, chứ chí hướng của một thường dân thì không (dùng sức mạnh mà) đoạt nổi.
  •  “Lấy sức mạnh để phục người thì người không tâm phục thật sự, bởi vì sức không chống lại được mà thôi. Lấy đức để phục người thì trong lòng người vui vẻ mà nghe theo thật sự vậy.” 

  • Khổng Tử cho việc thi ân rộng rãi cứu giúp dân chúng là sự nghiệp của thánh Vương mà Nghiêu, Thuấn chưa chắc đã làm được như vậy. “Dưỡng dân“ theo Khổng Tử trước hết phải làm cho dân no đủ, giàu có. Ông coi trọng việc dưỡng dân còn hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hoá dân nữa. Dưỡng dân còn phải biết "Sử dân dĩ thời" nghĩa là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể là vào lúc dân rảnh việc nhà nông. Như vậy "Sử dân dĩ thời" vừa thể hiện sự nhân đạo trong chính sách trị dân, vừa là bổn phận của người cầm quyền, người được tôn là cha mẹ dân. 

  • Để thực thi đường lối “Đức Trị”, đương nhiên cần phải có một mẫu người cầm quyền thích hợp. Đó là mẫu người Quân tử với những tiêu chuẩn về tài đức nhất, xứng đáng được nắm quyền trị dân. Đức của người quân tử là "Lấy Nghĩa làm gốc, theo Lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc", "Sửa mình để cho trăm họ yên trị". 

Tư cách người quân tử là :

 Lo không đạt đạo chứ không lo nghèo", 
"Hòa hợp nhưng không a dua", 
"Thư thái mà không kiêu căng".
  • Tài năng kiến thức của người quân tử "không phải như một đồ dùng", tức là phải hiểu rộng, biết nhiều làm được nhiều việc và nhất là phải có "Tài trí đủ để trị dân". Người quân tử còn phải là "Thận trọng về lời nói, mau mắn về việc làm", thờ Vua phải trung nhưng là trung một cách sáng suốt "không nên lừa gạt vua, nhưng không ngại xúc phạm vua (mà phải dám can gián)". 

  • Có thể khẳng định đường lối “Đức Trị”của Khổng Tử "lấy đạo Nhân làm gốc, lấy hiếu - đễ, Lễ - Nhạc làm cơ bản cho sự giáo hoá, lấy việc thực hiện chính sách "Thân dân" làm cơ sở; lấy tư cách phẩm chất mẫu mực của người cầm quyền làm gương để thực hiện "Đức Trị", "Lễ Trị", "Nhân Trị" nhằm tạo lập một xã hội phong kiến theo thể chế có trật tự, tôn ti.

III. MẠNH TỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI NHÂN CHÍNH :

      Thời đại của Mạnh Tử là thời đại Chiến quốc, một thời đại mà mọi tư tưởng được giải phóng mạnh mẽ, cho nên, ông phải đảm đương sứ mệnh người thừa kế, bảo vệ và phát triển tư tưởng của Khổng Tử trong thời đại mới. Có thể khẳng định với Mạnh Tử, học thuyết của Nho gia do Khổng Tử sáng lập đã được phát triển nâng lên một tầm mức mới trở thành Nho giáo Khổng Mạnh. Đó là đường lối "Nhân chính" của Mạnh Tử với những nội dung chủ yếu sẽ lần lượt được trình bày dưới đây.

Mạnh Tử
    1. Đề cao sức mạnh nhân nghĩa : 

  • Mạnh Tử cũng đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử về "Tính tương cận, tập tương viễn" và đi đến luận điểm nổi tiếng: "Nhân tính chi thiện giã" (cái bản tính của người ta khi sinh ra vốn lương thiện). Từ đó ông khẳng định sức mạnh vô địch của tính nhân nghĩa: "Đối với người nhân dẫu kẻ địch có đông cũng chẳng làm gì được mình. Này, nếu một vị Quốc quân thích làm "Nhân chính" thì trong thiên hạ chẳng ai địch nổi". Không ai địch nổi người nhân đức là ý niệm chính trị mà Mạnh Tử suốt đời tin tưởng theo đuổi. Quả thật là Mạnh Tử rất nhất quán trong quan niệm lấy nhân đức làm nguyên tắc chỉ đạo chính trị của mình. Trước sau như một, ông luôn luôn chỉ nói đến Nhân Nghĩa và chỉ đề cao Nhân Nghĩa. 
 Mạnh Tử khuyên con người ta nên sử dụng thái độ chân thành, lòng khoan dung rộng lượng để đối xử: 
  • Đối với người hiểm ác thì nên sợ mà tránh xa, đối với người hiền đức thì nên thân mà gần gũi. Người đem điều ác đến thì ta lấy điều thiện đáp lại. Người đem lừa dối đối xử thì ta lấy ngay thẳng đáp lại. Như vậy ai mà oán thù được mà chỉ có người tâm phục mà thôi."
  • Lấy oán báo oán, oán thù chập chùng, lấy đức báo oán , oán thù tiêu giải” 

 Quan điểm của ông thật rõ ràng :
  • "Người ưa điều thiện thì dư sức cai trị thiên hạ... nếu nhà cầm quyền ưa điều thiện, ắt người trong bốn biển sẽ khinh thường đường xa muôn dặm mà đến với mình, để mách bảo điều thiện với mình". 

Người Nhân là người vô địch trong thiên hạ, bởi vì "điều nhân thắng điều bất nhân, cũng như nước thắng lửa".

   2. Coi Trọng Dân 

  • Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng "Dân Tín", coi đó là điều quan trọng nhất không thể bỏ được trong phép trị nước, thì Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: "Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất lòng dân... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được thiên hạ... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng". 
  • Ông nói: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là trong nước nhân dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn là gốc nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. 
  • Từ đó Mạnh Tử chủ trương thi hành một chế độ "Báo dân" và khuyến cáo các bậc vua chúa: "Nếu người bậc trên mà vui với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu mình buồn với sự buồn của dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bậc quốc trưởng mà chia vui với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của mình cũng có bề hưng vượng đó". Với các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân muốn việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ". 

   Nếu Khổng Tử coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc, nhưng mới dừng lại ở những nguyên tắc có tính đường lối, thì Mạnh Tử quan tâm nhiều hơn đến các biện pháp kinh tế cụ thể nhằm tạo ra cho dân số một sản nghiệp no đủ.
Mạnh Tử đòi hỏi bậc minh quân phải

  • "Chế định điền sản mà chia cho dân cày cấy, cốt khiến cho họ trên đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới đủ nuôi sống vợ con, nhằm năm trúng mùa thì mãi mãi no đủ, phải năm mất mùa thì khỏi nạn chết đói", và "Thánh nhân cai trị thiên hạ, phải làm cho dân có đậu thóc nhiều như nước lửa, khi đậu thóc nhiều như nước lửa thì dân chẳng còn ai bất nghĩa nữa". 

Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng "Sử dân dĩ thời" của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề xuất một định hướng kinh tế khá hoàn chỉnh nhằm hướng đến cải thiện đời sống của dân,
  • "Nếu bậc quốc trưởng làm cho việc ruộng nương được dễ dàng (đừng bắt họ làm sâu lúc cày cấy gặt hái) và bớt thuế má cho dân, thì dân trở nên phú túc... bậc thánh nhân cai trị thiên hạ, khiến ai nấy đều có đủ ruộng và lúa, cũng như họ có đủ nước và lửa vậy. Nếu dân chúng có bề phú túc về đậu và lúa cũng như họ có đủ về nước và lửa thì họ còn ăn ở bất nhân làm chi".

   Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm có ý nghĩa đối với dân chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân theo đường lối "Nhân chính".

    3. Nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân 

  • Trong đường lối "Nhân chính" ngoài việc lấy Nhân Nghĩa làm gốc, coi "Dân là gốc”, thi hành chế độ điền địa và thuế khoá công bằng, Mạnh Tử còn chủ trương phải giảm nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử trước sau tôn sùng "Vương đạo" phản đối "Bá đạo". Mạnh Tử coi việc giảm hình phạt phải là một chính sách của "Đức Trị". Ông nói: Vua cần phải thi hành phép cai trị Nhân - Đức đối với dân: Giảm hình phạt, bớt thuế - liễm, khiến dân siêng lo việc cày sâu cuốc bẫm, làm vườn làm tược".

  • Theo Mạnh Tử cần phải nhẹ hình phạt bởi nếu "Dân khờ khạo mà phạm luật nước, đó không phải là tội của họ, mà chính là tội của nhà cầm quyền chẳng biết giữ gìn, giáo hoá họ". Có một điều nhất quán giữa Khổng - Mạnh trong chủ trương nhẹ hình phạt là cả hai ông đều xem chính hình và thưởng phạt khéo léo có thể giúp cho sự giáo hoá dân chúng. Mạnh Tử, cũng xem trọng giáo hoá như Khổng Tử, nhưng cái mới ở ông là rất quan tâm đến việc quảng bá giáo dục, thông qua việc xây dựng hệ thống trường học rộng khắp. Ông chủ trương hình thành một mạng lưới trường học đa dạng từ làng xã đến kinh đô, từ trường hương học đến trường quốc học; đó là những Trường, Tự, Học, Hiệu, để giáo hoá dân chúng. Như vậy, so với Khổng Tử chủ trương giáo hoá của Mạnh Tử có tính quảng bá và phổ cập hơn. Ngoài việc chú ý đề cao giáo dục đạo đức nhân luân như Khổng Tử, Mạnh Tử còn thấy được trách nhiệm của người trị dân là phải dạy dân cấy gặt, chăn nuôi, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất hơn.

  • Ông chỉ rõ: "Vua Thuấn đã cho ông Hậu Tắc việc dạy dân cấy gặt và gieo trồng năm giống lúa chín, nhân dân nhờ đó mà sống". Có thể thấy rõ quan điểm giáo dục và giáo hóa dân của Mạnh Tử thể hiện một bước tiến mới so với Khổng Tử trước đó và là một nội dung quan trọng hợp thành đường lối chính trị nhân nghĩa mà Mạnh Tử đã suốt đời cổ vũ.

0 comments

Post a Comment