Nguyên văn: Dịch kinh
易經
Biên dịch: Nguyễn Hiến Lê
Giải đoán 64 quẻ
(Giang Nam lãng tử biên tập)
Nguồn gốc Kinh dịch:
Hoàng đế Phục Hy vạch ra 64 quẻ dựa theo Hà đồ và Lạc thư (thần linh ban cho hai bảo bối).
Chu Văn Vương giải thích “hoán từ”
Chu Cơ Đán con thứ của ngài tiếp tục giải “Hào từ”
Sau nữa Khổng tử giải thành “Dịch truyện” (Thập dực: 10 cánh chim)
Mỗi quẻ có 6 hào, một từ/hào gọi là Hào từ.
Giảng quẻ : Khái quát, từng hào rồi kết luận.
DANH MỤC 64 QUẺ
Thượng kinh 30 | Hạ kinh 34 |
|
|
1. Thuần Càn
Nội quái, ngoại quái đều là Càn.
còn gọi là quẻ Càn (乾 qián), tức Trời, là quẻ số 1 trong Kinh Dịch.
Trời
* Nội quái là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天).
* Ngoại quái là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天
乾: 元, 亨, 利, 貞.
Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
Dịch : Càn (có bốn đức / đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền.
Giảng: Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng.
Về sau, tác giả Thóan truyện (tương truyền
là Khổng tử, nhưng không chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn
gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho
trời.
Trời có đức “nguyên” vì là nguồn gốc của
vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến
vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ
được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa) .
Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự.
Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm
một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử
. người quân tử có bốn đức.
Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người , tức như đức “nguyên” của trời.
Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời.
Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời.
Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có
biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như
đức “trinh” chính và bền – của trời.
Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ , nghĩa, trí,
(bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia
mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi.
Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho,
các nhà Nho chính thống. Còn vài cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học
giả gần đây, như Phùng Hữu Lan, Tào Thăng, Cao Hanh (mà ở phần I, Chương
IV, chúng tôi đã ghi lại rồi).
Hào từ
Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.
Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.
初 九: 潛 龍 勿 用
Sơ cửu: Tiềm long vật dụng. Dịch : hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được. Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn. Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.
Sơ cửu: Tiềm long vật dụng. Dịch : hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được. Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn. Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.
九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人 .
Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi.
Giảng: hào 2 là dương, ở giữa nội quái là
đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích cho đời được: lại thêm
hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai
quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực mà hiện lên cánh
đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiến đại nhân).
Văn ngôn: Khuyên người có tài đức gặp thời
này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ
lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung
chính của hào 2.
九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎.
Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.
Dịch: hào
3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận
trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi.
Giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương,
như vậy là rất cương, mà không đắc trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội
quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở một chỗ chông chênh, rất
khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có đức
tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên
tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi.
Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung
tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự
nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự
nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo
(coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. ) Lời khuyên đó cũng tựa như lời
khuyên ở hào 2
九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎.
Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi.
(Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi).
Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như
vậy là bất chính và bất trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông
chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà
thóai thì dở dang. Cho nên phải thận trọng xem xét thời cơ, nên tiến thì
tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm trong
vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định.
Tuy bất chính, bất trung như nó có chất
cương kiện (hào dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc quân tử,
biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi.
Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được.
Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.
九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人.
Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi.
Giảng : Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương
cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở giữa ngọai quái), như vậy là có đủ
những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng
với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất
trong quẻ , cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và ngôi của nó là
ngôi chí tôn (ngôi vua).
Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi.
Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn
chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước
chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo
cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo
loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp,
hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ
(…) các tùy kỳ loại dã).
上 九 . 亢 龍 有 悔.
Thượng cửu: Kháng long hữu hối.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận.
Giảng: hào dương này ở trên cao của quẻ ,
cương kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao quá, không xuống được
nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì
tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả cửu)…
Văn ngôn:
giảng thêm: Hào 5 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có
ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở
dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở
nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho
nên hào 6 mà họat động thì tất có điều phải ăn năn. (Lời giảng trong
Văn ngôn, tác giả Hệ Từ truyển dẫn lại trong thiên thương, Chương VIII,
Tiết 9).
Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử .
用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 .
Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.
Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt.
Chú thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này
mà sáu hào (dương) đều biến (ra âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì
tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng (sáu hào dương) mà không đầu
(tức là nhu) để diễn ý đó.
J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi
mà không giảng gì thêm. Duy Phan Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý
bảo “Dụng cửu” không phải là một hào. “quần long vô thủ” là sáu hào
dương đều biến cả. Con rồng họat động khác thường là cốt ở cái đầu. Sáu
hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình tích họat động nữa, cho
nên gọi là rồng không đầu.
Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ
mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì
sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi.
- Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng không
đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy
mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời, tốt”.
Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng
cửu” có nghĩa gì đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho
biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho
“dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là
một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều
từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không ?
- Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu “ là
hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu mối. Đạo
Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu, vạn vật nhờ đó mà thành
công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó hợp
thời thì tốt.
Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn.
- Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái
kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã – đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng
cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào thuần dương, Thuần dương là cái đức
của trời, là gốc của vạn vật không có gì ở trước nó được, ở trước nó thì
xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của hai chữ “vô thủ” Nghĩa này
theo tôi, khó chấp nhận được.
- Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn nhiều thuyết nữa.
Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho
câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô thủ, cát “không phải là một tiết riêng
mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng cửu”
Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch
thời cổ, cho đến đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời
sau thêm vào v.v. . .
Tóm lại câu
“dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật, không ai hiểu rõ
nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức trường hợp
cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu lần
chưa chắc đã xảy ra một (1), các sách bói, đóan số không khi nào dùng nó
cả. Về triết lý, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là
biết cương mà cũng biết nhu, hợp thời mới tốt.
*
Phụ lục quẻ Càn
Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 quẻ Càn của một số học giả gần đây, để độc giả so sánh.
- Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn)
“Rồng có 81 cái vảy ! đủ chín lần chín,
cho nên dùng nó để tượng trưng hào dương. Rồng tới tiết xuân phân thì
lên trời, tiết thu phân thì nấp dưới vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là
tháng giêng theo lịch nhà chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới động ở
suối vàng (hòang tuyền) chưa manh nha, còn tiềm phục, như người có thánh
đức ở giữa đám người ngu . . .cho nên chưa dùng được, tài đức chưa thi
thố được.”
- Tào Thăng (sách đã dẫn).
“Người thời cổ thấy con rồng khéo biến
hóa, cho nó là thần kỳ, dùng nó để đại biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long”
(rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng thì con rồng ở dưới vực không dùng
được, vì năng lực nó còn tiềm phục, chưa hiện, chưa sinh tác dụng được
(. . .)
Dùng cái phép của hào mà giảng thì hào 1 ở
dưới hào 2, hào 2 chưa động thì hào 1 không thể động trước. Hào 1 biến
động quẻ Càn này thành quẻ Cấu (trên là Thiên, dưới là Phong) thì cũng
chỉ là mới gặp “ở âm” (?)mà thôi, cho nên bảo là rồng còn ẩn náu, chưa
dùng được (Cấu có nghĩa là gặp).
- Cao Hanh (sách đã dẫn) Tôi chỉ trích câu
cuối: “Con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà
không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành.
Chúng tôi không biết các học giả Trung Hoa
gần đây còn những cách giảng nào mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên
không kỹ gì hơn cách của người xưa, mà cũng chẳng phát huy thêm được gì.
2. Quẻ Thuần Khôn
Nội quái, ngoại quái đều là Khôn.
Nội quái, ngoại quái đều là Khôn.
Thuần Khôn
Đồ hình quẻ
坤 : 元, 亨, 利, 牝 馬 之 貞 . 君 子 有 攸 往 . 先 迷 後 得. 主 利 . 西 南 得 朋 . 東 北 喪 朋 . 安 貞 吉 .
Khôn: Nguyên, hanh , lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng. An trinh, cát.
Khôn: Nguyên, hanh , lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng. An trinh, cát.
Dịch: Khôn
có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của
con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người
khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. chỉ cốt lợi ích cho vạn vật.
đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng
giữ đức bên vững, tốt.
Giảng
: Quẻ Càn gồm 6 hào dương, quẻ Khôn gồm 6 hào âm. Càn “tượng” (1) trời
thì không “tượng” đất. Càn cương kiện thì Khôn nhu thuận. Càn tạo ra vạn
vật ở vô hình, thuộc phần khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu
hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn như công của Càn;
chỉ khác Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn; cho nên các
đức nguyên, hanh, lợi, Khôn có đủ như Càn; chỉ riêng về đức trinh (chính
và bền) thì Khôn hơi khác: tuy chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương
dùng con ngựa cái để “tượng” Không: ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có
tính thuận theo ngựa đực.
Cũng vì Khôn
có đức thuận, cho nên khởi xướng phải là Càn, Khôn chỉ tiếp tục công
việc của Càn. Người quân tử nếu ở vào địa vị khôn, phải tùy thuộc người
trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng để khỏi lầm lẫn, chờ người ta
khởi xướng rồi mới theo thì được việc, như vậy là có đức dày như đất,
chở được muôn vật, lớn cũng không kém đức của trời (Càn): “Quân tử dĩ tự
cường bất tức” là bài học rút ra từ quẻ Càn.
Chu công còn
khuyên đi về phía Tây Nam vì trên Hậu thiên bát quái Khôn ở phía Tây
nam (có học giả hiểu là phía Tây và phía Nam) thì được bạn (hoặc được
tiền bạc, vì chữ “bằng” cò thể hiểu là bằng hữu, cũng có thể hiểu là
bằng bối: bối là vỏ sò ngao xưa dùng làm tiền, 1 bằng là 2 hoặc 10 bối)
nếu đi về phía Đông bắc thuộc dương thì mất bạn (hoặc tiền bạc).
Được quẻ này, nến theo những lời khuyên đó mà an lòng, giữ đức bền vững thì tốt.
Câu “Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc”
có người hiểu là: “Người quân tử có đi đâu thì trước lầm sau đúng”, mà
không giảng tại sao lại như vậy. Hiểu như chúng tôi ở trên thì có lý
hơn, làm rõ cái đạo “thuận tòng thì tốt” của Khôn. Chữ “du” ở trong kinh
Dịch thường dùng như chữ “sở”
Tác giả Văn ngôn không giảng gì thêm chỉ tóm tắt lại: Đạo Khôn là thuận theo trời mà tiến hành không ngừng.
Hào từ:
1) 初 六: 履 霜, 堅 冰 至
Sơ lục: Lý sương, kiên băng chí.
Giảng: Đây
là hào âm đầu tiên trong quẻ. Âm thì lạnh, nên Chu Công ví với sương
lạnh mới kết lại thì thành sương, rồi lần lần, lạnh hơn, nước sẽ đông
lại thành băng. Hao này có hàm cái ý phải thận trọng từ bước đầu. Tiểu
tượng truyện không giảng thêm, còn Văn ngôn truyện thì khuyên ta:
“Nhà nào tích lũy điều lành thì tất có
thừa phúc (để đến đời sau); nhà nào tích lũy điều chẳng lành thì tất có
thừa tai vạ (để đến đời sau). Như việc bề tôi giết vua, con giết cha,
nguyên do không ở trong một buổi sớm chiều; tất dần dà có từ lâu rồi, mà
người ta không biết lo toan từ sớm vậy” (tích thiện chí gia tất hữu dư
khách, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương: Thần thí kỳ quân, tử thí
kỳ phụ, phi nhất triều nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hĩ. Do
biện chi bất tảo biện dã).”
Chúng ta để
ý: hào 1 quẻ Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu đức luyện tài chờ thời;
còn hào 1 quẻ Khôn này. Dịch răn phải đề phòng từ đầu, nếu không sẽ gặp
họa; như vậy Dịch tin ở Dương hơn đạo Âm, trọng Dương hơn Âm .
2) 六 二: 直 方 大, 不 習 无 不 利
Lục nhị: trực phương đại, bất tập vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, âm (Đức của mình) thẳng, vuông, lớn thì chẳng phải học tập mà cũng không có gì là không lợi.
Giảng: Hào này rất tốt:
thể là âm, vị cũng là âm ( hào chẳn), thế là đắc chính, cho nên bảo là
có đức thẳng (trực) nó lại đắc trung, (ở giữa nội quái) cho nên bảo là
vuông vức (phương) (1) nó lại ở trong quẻ Khôn, có qui mô lớn, nên chẳng
cần học tập khó khăn mà hành động nào cũng hợp đạo lý.
Văn ngôn
giảng thêm: người quân tử muốn như hào 2 này mà ngay thẳng ở trong lòng
thì phải có đức kinh; vuông ở ngòai (khi tiếp vật) thì phải có đức
nghĩa. Có hai đức kính, nghĩa đó thì sẽ không cô lập (?). Nguyên văn:
“bất cô”, Chu Hi giảng là to lớn, tức có ý cho rằng: Kính thì “trực”,
nghĩa thì “phương”. Có đủ kính và phương thì là “đại”. Chúng tôi hiểu
theo câu: Đức bất cô, tất hữu lân” (người có đức thì không lẻ loi, tất
có bạn cũng trọng đạo đức như mình (bạn đây là hào 5, ứng với 2) không
biết có đúng không.
3) 六 三: 含 章 可 貞, 或 從 王 事, 无 成 有 終
Lục tam: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.
Dịch: Hào 3, âm: Ngậm chứa (đừng để lộ ra)
đức tốt mà giữ vững được, có khi theo người trên mà làm việc nước, đừng
chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả.
Giảng: Hào 3 là âm mà ở vào địa vị dương
(lẻ), như vậy là không chính, nhưng nó vốn có đức nhu thuận của quẻ
Khôn, thêm được tính cương kiện của vị dương, thì lại là tốt (đây là lẽ
biến hóa của Dịch).
Nó đứng trên
cùng nội quái, tức có thể có chức phận, cho nên bảo là có lúc theo bề
trên làm việc nước. Nhưng nó nên nhũn, nhu thuận (đức của Khôn) chỉ làm
trọn nghĩa vụ mà đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết
quả.
Văn ngôn bàn thêm: Ngậm chứa đức tốt, theo
người trên làm việc mà không dám chiếm lấy sự thành công, đó là đạo của
Đất, của vợ, của bề tôi (địa đạo, thê đạo, thần đạo). Đó là cách cư xử
của người dưới đối với người trên.
4) 六 四: 括 囊, 无 咎, 无 譽.
Lục cửu: quát nang, vô cữu, vô dự.
Dịch: Hào 4 âm: như cái túi thắt miệng lại, (kín đáo giữ gìn) thì khỏi tội lỗi mà cũng không danh dự.
Giảng: hào 4 là âm ở địa vị âm trong một
quẻ tòan âm, mà không đắc trung như hào 2, ví như người quá nhu thuận,
vô tài, không có chút cương cường nào. Đã vậy, mà ở sát hào 5, tức là có
địa vị một đại thần, tài thấp mà địa vị cao, nên phải thận trọng thì
mới khỏi tội lỗi, an thân, mặc dầu không có danh dự gì.
Hào 4 quẻ Càn cũng ở địa vị như hào này,
nhưng là dương, có tài năng, nên còn có thể bay nhảy, tiến được (hoặc
dược), khác nhau ở chỗ đó.
Văn ngôn cho
hào này có cái tượng “âm cự tuyệt dương” (vì không có chút dương nào cả
từ bản thể tới vị), như vậy là âm dương cách tuyệt nhau, trời đất không
giao nhau (thiên địa bế), lúc đó hiền nhân nên ở ẩn (hiền nhân ẩn), rất
thận trọng thì không bị tai họa.
5) 六 五: 黄 裳, 元 吉.
Lục ngũ: hoàng thường, nguyên cát.
Dịch : hào 5, âm: như cái xiêm màu vàng, lớn, tốt (rất tốt).
Giảng Hào 5 là hào chí tôn trong quẻ , đắc
trung. Tuy nó không đắc chính vì là âm mà ở vị dương; nhưng ở trong quẻ
Khôn,như vậy lại tốt vì có chút cương, không thuần âm, thuần nhu, như
hào 4, tức là có tài, nhưng vẫn là Khiêm nhu (vì là âm). Âm còn hàm ý
văn vẻ nữa, trái với dương cương kiện là võ. Cho nên Chu Công cho là hào
này rất tốt, và “tượng” bằng cái xiêm màu vàng. Vàng là màu của đất,
của trung ương (hàm ý không thái quá, không bất cập) của vàng, đồng, nên
người Trung Hoa thời xưa rất quí, chỉ vua chúa mới được dùng màu vàng
trong y phục. xiêm là một bộ phận y phục ở phía dưới, đẹp đẽ, hàm cái
nghĩa khiêm hạ, không tự tôn.
Văn ngôn bàn
thêm: người quân tử có đức trung (màu vàng) ở trong mà thông suốt đạo
lý, ở ngôi cao mà vẫn khiêm, tự coi mình ở thể dưới (như cái xiêm); như
vậy là chất tốt đẹp ở bên trong mà phát ra bề ngòai, làm nên sự nghiệp
lớn, tốt đẹp như vậy là cùng cực.
Như vậy Dịch
tuy coi âm (Khôn) không quí bằng dương (Càn), nhưng có lúc coi trọng
đức khiêm nhu, mà Dịch cho là đức của người văn minh. Tinh thần đó là
tinh thần hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Hào 5 quẻ Càn, Chu Công cho là đại
quí (long phi tại thiên) nhưng chỉ bảo: “Lợi kiến đại nhân”; còn hào 5
quẻ không thì khen là”nguyên cát” hào tốt nhất trong Kinh Dịch, là có
nghĩa vậy.
6) 六 上: 龍 戰 于 野, 其 血 玄 黄.
Lục thượng: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng. Dịch: Hào trên cùng âm : Như rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng. Giảng: hào này âm lên tới điểm cực thịnh. Âm dương tuy bổ túc nhau, nhưng bản thể vẫn là ngược nhau, đối địch nhau. Khi âm cực thịnh, dương cũng vậy ( hào 6 quẻ Càn) thì hai bên tất tranh nhau, và cả hai đều bị hại. Đạo đến đó là cùng rồi. cũng vẫn cái nghĩa thịnh cực thì suy như hào 6 quẻ Càn. Văn ngôn: không giảng gì khác, chỉ cho biết rằng “huyền hoàng”: là sắc của trời đất, âm dương . Cao Hanh ngờ rằng hai chữ đó [玄 黄] thời xưa dùng như hai chữ [ ] (vì đọc như nhau) và có nghĩa là chảy ròng ròng. Không rõ thuyết nào đúng, nhưng đại ý vẫn là tai hại cả cho hai bên.
Lục thượng: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng. Dịch: Hào trên cùng âm : Như rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng. Giảng: hào này âm lên tới điểm cực thịnh. Âm dương tuy bổ túc nhau, nhưng bản thể vẫn là ngược nhau, đối địch nhau. Khi âm cực thịnh, dương cũng vậy ( hào 6 quẻ Càn) thì hai bên tất tranh nhau, và cả hai đều bị hại. Đạo đến đó là cùng rồi. cũng vẫn cái nghĩa thịnh cực thì suy như hào 6 quẻ Càn. Văn ngôn: không giảng gì khác, chỉ cho biết rằng “huyền hoàng”: là sắc của trời đất, âm dương . Cao Hanh ngờ rằng hai chữ đó [玄 黄] thời xưa dùng như hai chữ [ ] (vì đọc như nhau) và có nghĩa là chảy ròng ròng. Không rõ thuyết nào đúng, nhưng đại ý vẫn là tai hại cả cho hai bên.
7) 用 六: 利 永 貞.
Dụng lục: Lợi vĩnh trinh.
Dịch: (nghĩa từng chữ) dùng hào âm: phải (nên) lâu dài, chính và bền.
Giảng: Hai chữ “dụng lục” ở đây cũng như
hai chữ “dụng cửu” ở quẻ Càn rất tối nghĩa, và câu 7 này mỗi nhà giảng
một khác. Dưới đây tôi chỉ đưa ra ba thuyết:
• Thuyết của tiên nho: sáu hào âm biến ra
sáu hào dương, tức Thuần khôn biến thành Thuần Càn, như một người nhu
nhược biến ra một người cương cường, cho nên bảo là: phải (nên) lâu dài,
chính và bền.
• Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát hay hung lâu dài, mà được “hào” này thì lợi.
• Thuyết của Tào Thăng: Khôn thuận theo
Càn cho nên gọi là lợi; Không động thì mở ra, tĩnh thì đóng lại. Cho nên
bảo chính và bền, ý muốn nói: đạo Khôn đơn giản mà tác tác thành vạn
vật.
Chú ý: chỉ hai quẻ Càn và Khôn là có Văn ngôn truyện, Dụng Cửu và dụng Lục; từ quẻ sau trở đi không còn những tiết đó nữa.
3. QUẺ THỦY LÔI TRUÂN
Đồ hình quẻ
Ngọai quái
(ở trên) là Khảm, nội quái (ở dưới) là Chấn. Khảm là thủy (mà cũng là
vân: mây), chấn là lôi (sấm) cho nên quẻ này gọi là Thủy lôi (hoặc Vân
Lôi), có nghĩa là Truân
Theo Tự quái
truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất
rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó
khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn (gian truân)
屯 : 元, 亨, 利, 貞, 勿 用 有 攸 往, 利 建 侯.
Truân: Nguyên, hanh, lợi , trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.
Dịch: Gặp lúc gian truân, có thể hanh
thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng
tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người
giỏi lên tước hầu).
Giảng: Thoán truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên
mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa
là hiểm trở) (1) cho nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quái có một hào dương
(cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu,
dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian
nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể
tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước
hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc
đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì
cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu trong nội quái (chấn) có nghĩa
họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan
thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó
là ý nghĩa quẻ Truân.
Hào từ:
初 九: 磐 桓, 利 居 貞, 利 建 侯 .
Sơ cửu: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu.
Dịch: Hào 1, dương : còn dùng dằng, giữ
được điều chính thì lợi, được đặt lên tước hầu (nghĩa là được giao cho
việc giúp đời lúc gian truân) thì lợi.
Giảng: Như trên tôi đã nói, hào này là
dương, tượng người có tài, lại đắc chính vì dương ở dương vị, cho nên
giữ được điều chính và có lợi; sau cùng nó là dương mà lại dưới hai hào
âm trong nội quái, có cái tượng khiêm hạ, được lòng dân. Vậy là người
quân tử mới đầu tuy còn do dự, sau sẽ được giao cho trọng trách giúp
đời.
六 二: 屯 如 邅 如, 乘 馬 班 如, 匪 寇 婚 媾 . 女 子 貞 不 字, 十 年 乃 字 .
Lục nhị: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như. Phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.
Dịch : hào 2, âm : Khốn đốn khó khăn như
người cưỡi ngựa còn dùng dằng lẫn quẩn (Nhưng hào 1 kia) không phải là
kẻ cướp, chỉ là muốn cầu hôn với mình thôi. Mình cứ giữ vững chí, đừng
chịu, mười năm nữa sẽ kết hôn (với hào 5).
Giảng: Hào 2, âm, vừa đắc trung lẫn đắc
chính, lại ứng với hào 5 cũng đắc trung đắc chính ở trên, như vậy là
tốt. Chỉ hiềm cách xa hào 5 mà lại ở sát ngay trên hào 1, dương , bị 1
níu kéo, cho nên còn ở trong cảnh truân chuyên (khó khăn). Nhưng đừng
ngại, hào 1 có tư cách quân tử , không phải là kẻ xấu muốn hảm hại mình,
chỉ muốn cưới mình thôi (1 là dương, 2 là âm). Đừng nhận lời, cứ giữ
vững chí, mươi năm nữa sẽ kết hôn với hào 5.
Chữ tự [ 字 ] ở đây nghĩa là gả chồng. Theo kinh Lễ, con gái tới tuổi gã chồng thì cài trâm và đặt tên tự.
六 三: 即 鹿, 无 虞, 惟 入 于 林 中. 君 子 幾, 不 如 舍, 往 吝 .
Lục tam: Tức lộc, vô ngu, duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả, vãng lận.
Dịch: Hào 3 âm: đuổi hươu mà không có thợ
săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không bắt được). Người quân
tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tíếp tục tiến nữa thì sẽ hối
hận.
Giảng: Hào 3 là âm, ở dương vị, bất chính
bất trung; tính chất đã không tốt mà ở vào thời truân; hào 6 ở trên cũng
là âm nhu không giúp được gì mình, như vậy mà cứ muốn làm càn, như
người ham đuổi hươu mà không được thợ săn giúp (chặn đường con hươu,
đuổi nó ra khỏi rừng cho mình bắt) thì mình cứ chạy theo con hươu mà
càng vô sâu trong rừng thôi. Bỏ đi là hơn.
六 四: 乘 馬 班 如 . 求 婚 媾, 往 吉, 无 不 利 .
Lục tứ: Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi.
Dịch: Hào 4, âm: cưỡi ngựa mà dùng dằng. Cầu bạn trăm năm (hay đồng tâm) ở dưới (ở xa) thì không gì là không tốt.
Giảng: Hào này âm nhu, đắc chính là người
tốt nhưng tài tầm thường, gặp thời Truân không tự mình tiến thủ được.
Tuy ở gần hào 5, muốn cầu thân với 5, nhưng 5 đã ứng với 2 rồi, thế là 4
muốn lên mà không được, như người cưỡi ngựa muốn tiến mà dùng dằng. Chu
Công khuyên hào 4 nên cầu hôn với hào 1 ở dưới thì hơn: (vì 1 có tài
đức) mà cùng nhau giúp đời, không gì là không lợi.
Chúng ta để ý: cặp 5-2 rất xứng nhau, cả
hai đều đắc chính, đắc trung, rất đẹp, cặp 4-1 không đẹp bằng: 4 bất
trung, kém 2; cho nên phải kết hợp với 1 ở dưới, 1 tuy ở dưới mà đắc
chính, như vậy là xứng đôi. Đó là luật: “dĩ loại tụ”, họp với nhau thì
phải xứng nhau, đồng tâm, đồng đạo.
九 五: 屯 其 膏; 小 貞 吉, 大 貞 凶 .
Cửu ngũ: Truân kì cao; tiểu trinh cát, đại trinh hung
Dịch: Hào 5, dương: Ân trạch không ban bố
được (nguyên văn: dầu mỡ (cao) không trơn (truân), chỉnh đốn việc nhỏ
thì tốt, việc lớn thì xấu.
Giảng: Hào cửu ngũ này vừa chính vừa
trung, ở địa vị chí tôn, đáng lẽ tốt; nhưng vì ở trong thời gian truân
(quẻ Truân) lại ở giữa ngọai quái là Khảm, hiểm, nên chỉ tốt vừa thôi.
Hào 2 tuy ứng với nó nhưng âm nhu , không giúp được nhiều; lại thêm hào 1
ở dưới, có tài đức, được lòng dân, uy quyền gần như lấn 5, mà ân trạch
của 5 không ban bố khắp nơi được. Cho nên 5 phải lần lần chỉnh đốn các
việc nhỏ đã, đừng vội làm việc lớn mà hỏng.
Nghĩa là tuy có tài đức, có địa vị, nhưng cũng phải đợi có thế có thời nữa.
上六: 乘 馬 班 如, 泣 血 漣 如 .
Thượng lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như.
Dịch: Hào trên cùng âm. Cưỡi ngựa mà dùng dằng, khóc tới máu mắt chảy đầm đìa.
Giảng: Hào này ở trên cùng, là thời gian
truân tới cực điểm. Nếu là hào dương (có tài trí) thì gian truân cùng
cực sẽ biến thông; nhưng hào này là hào âm, bất tài, bất trí, nhu nhược,
chỉ biết lên lưng ngựa rồi mà vẫn dùng dằng mà khóc đến chảy máu mắt
(Hào tuy ứng với hào 6 nhưng cũng âm nhu, chẳng giúp được gì.)
Đọc xong ba quẻ đầu này chúng ta cũng đã
thấy: thể của hào chỉ cò: âm và dương, vị của hào chỉ có 6: từ hào sơ
đến hào thượng; nhưng ý nghĩa mỗi hào rất thay đổi, tùy ý nghĩa của trọn
quẻ, cho nên hào 1 dương quẻ Càn không giống hào 1 dương quẻ Truân; hào
5 dương quẻ Truân cũng không giống hào 5 dương quẻ Càn; hào 2 âm quẻ
Khốn không giống hào đó quẻ Truân, hào 6 âm quẻ Truân cũng không giống
hào đó qủe khôn. ý nghĩa của quẻ quyết định ý nghĩa của hào, nói cách
khác: quẻ là cái thời chung của các hào, mà hào là mỗi việc, mỗi hoàn
cảnh trong thời chung đó.
4. Quẻ SƠN THỦY MÔNG
Trên là Cấn (núi) dưới là Khảm (nước)
Đồ hình quẻ Sơn Thủy Mông
Quẻ số 3 là
Truân, lúc vạn vật mới sinh. Lúc đó vạn vật còn non yếu, mù mờ, cho nên
quẻ 4 này là Mông. Mông có hai nghĩa: non yếu và mù mờ
Thoán từ :
蒙: 亨, 匪我 求 童 蒙, 童 蒙 求 我 .
初 筮 告, 再 三 瀆, 瀆 則 不 告 .利 貞 . Mông: Hanh, Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh. Dịch: trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công). Giảng : Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông. Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng “đồng mông”, cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu). Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông. Tư cách của thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò phải cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là nhàm, không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì lợi thành công. Hào từ :
初 筮 告, 再 三 瀆, 瀆 則 不 告 .利 貞 . Mông: Hanh, Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh. Dịch: trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công). Giảng : Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông. Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng “đồng mông”, cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu). Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông. Tư cách của thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò phải cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là nhàm, không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì lợi thành công. Hào từ :
1. 初 六: 發 蒙, 利 用 刑 人, 用 說 桎 梏, 以 往 吝.
Sơ lục: phát mông, lợi dụng hình nhân, Dụng thoát chất cốc, dĩ vãng lận.
Dịch: Hào 1, âm: mở mang
cái tối tăm (cho hạng người hôn ám) thì nên dùng hình phạt cốt cho họ
thoát khỏi gông cùm, nhưng đừng đi quá mức sẽ hối tiếc.
Giảng: Hào âm này vị ở
thấp nhất trong quẻ Mông là tượng kẻ hôn ám nhất, phải dùng hình phạt
trừng trị mới cởi cái gông cùm (vĩ vật dục) cho họ được; khi có kết quả
rồi thì thôi, đừng quá dùng hình phạt mà sẽ ân hận.
Chữ : “dụng hình nhân”, dịch sát là dùng người coi về hình, tức dùng hình phạt.
2. 九 二 . 包 蒙 吉 . 納 婦 吉 . 子 克 家 .
Cửu nhị: Bao mông cát, nạp phụ cát, tử khắc gia.
Dịch: Hào, dương: Bao
dung kẻ mờ tối, dung nạp hạng người nhu ám như đàn bà, tốt; (ở ngôi dưới
mà gánh vác việc trên) như người con cai quản được việc nhà.
Giảng: Hào 2 dương, cương
cường, nhưng đắc trung cho nên bảo là có đức bao dung; nó làm chủ nội
quái, thống trị cả bốn hào âm, cho nên bảo nó dung nạp được các hào âm,
tức hạng người nhu ám như đàn bà, nó ở dưới thấp mà lại là hào quan
trọng nhất trong quẻ, nên ví nó như người con cai quản được việc nhà.
Tóm lại hào này tốt.
Phan Bội Châu giảng ba chữ “tử khắc
gia”cách khác: Cụ cho hào 5 ở địa vị tôn trong quẻ trên (ngoại quái) tức
như cha trong nhà, hào 2 ở dưới, tức như con. Cha nhu nhược (vì là âm),
con cương cường sáng suốt (vì là dương), cảm hóa được cha mà cha hết
hôn ám, như vậy là con chỉnh lý được việc nhà.
Cao Hanh chỉ đứng về phương diện bói, mà
không đứng về phương diện đạo lý, không cho Kinh Dịch có ý nghĩa triết
lý, xử thế, cho nên hiểu khác hẳn: giảng “nạp phụ” là cưới vợ cho con
“tử khắc gia” là con thành gia thất, đó là cái việc tốt của người làm
bếp mắt không có đồng tử (bao mông, theo ông là : bào mông, bào là người
làm bếp, mông là mắt không có đồng tử). Đại khái cách hiểu của Cao Hanh
như vậy, xin đơn cử làm thí dụ.
3. 六 三: 勿 用 取 女 見 金 夫 .
不 有 躬, 无 攸 利. Lục tam: Vật dụng thủ nữ kiến kim phu. Bất hữu cung, vô du lợi. Dịch : hào 3, âm: đừng dùng hạng con gái thấy ai có vàng bạc là (theo ngay) không biết thân mình nữa; chẳng có lợi gì cả. Giảng: Hào 3 là âm nhu (ở trong quẻ Mông, là hôn ám) bất trung, bất chính, cho nên ví với người con gái không có nết, bất trinh, ham của. Mà hạng tiểu nhân thấy lợi quên nghĩa cũng vậy (âm còn có nghĩa là tiểu nhân). Phan Bội Châu cho hào này xấu nhất; hạng người nói trong hào không đáng dùng, không đáng giáo hóa nữa.
不 有 躬, 无 攸 利. Lục tam: Vật dụng thủ nữ kiến kim phu. Bất hữu cung, vô du lợi. Dịch : hào 3, âm: đừng dùng hạng con gái thấy ai có vàng bạc là (theo ngay) không biết thân mình nữa; chẳng có lợi gì cả. Giảng: Hào 3 là âm nhu (ở trong quẻ Mông, là hôn ám) bất trung, bất chính, cho nên ví với người con gái không có nết, bất trinh, ham của. Mà hạng tiểu nhân thấy lợi quên nghĩa cũng vậy (âm còn có nghĩa là tiểu nhân). Phan Bội Châu cho hào này xấu nhất; hạng người nói trong hào không đáng dùng, không đáng giáo hóa nữa.
4. 六 四 : 困, 蒙, 吝 .
Lục tứ : Khốn, mông, lận.
Dịch: Hào 4, âm: Bị khốn trong vòng hôn ám, hối tiếc.
Giảng: Quẻ Mông chỉ có
hào 2 và 6 là dương cương, có thể cởi mở sự hôn ám được, còn hào 4 kia
đều là âm hết. Hào 4 này cũng hôn ám như hào 3, nhưng còn tệ hơn hào 3
vì ở xa hào 2 dương (hào 3 còn được ở gần hào 2 dương ), mà chung quanh
đều là âm hết (hào 3 và hào 5), như bị nhốt trong vòng hôn ám, tất bị
khốn sẽ phải hối tiếc, xấu hổ.
Tiểu tượng truyện giảng: nó phải hối tiếc,
xấu hổ vì chỉ một mình nó trong số bốn hào âm là ở xa các hào “thực”
tức các hào dương. Hào dương là nét liền, không khuyết ở giữa, nên gọi
là “thực” (đặc, đầy) hào âm là vạch đứt, khuyết ở giữa nên gọi là “hư” ;
“thực” tượng trưng người có lương tâm “hư” tượng người không có lương
tâm.
5. 六 五: 童 蒙 吉 .
Lục ngũ: Đồng mông cát.
Dịch: Hào 5, âm: Bé con, chưa biết gì (nhưng dễ dạy), tốt.
Giảng: hào 5 này là hào
âm tốt nhất như chúng tôi đã nói khi giảng Thóan từ của Văn Vương, vì nó
có đức nhu (âm) trung (ở giữa ngọai quái), lại ứng với hào 2 cương ở
dưới, có thể ví nó với đứa trẻ dễ dạy, biết nghe lời thầy (hào 2).
Phan Bội Châu coi hào này như ông vua (vì ở ngôi cao quí nhất trong quẻ) biết tín nhiệm hiền thần (hào 2).
6. 上 九: 擊 蒙 不 利 為 寇 , 利 禦 寇.
Thượng cửu: Kích mông bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
Dịch : Hào trên cùng,
dương : phép trừ cái ngu tối mà nghiêm khắc quá thì kẻ mình dạy dỗ sẽ
phẫn uất, có thể thành giặc, như vậy không có lợi, ngăn ngừa giặc ở
ngoài (tức những vật dục quyến rũ kẻ đó) thì có lợi.
Giảng: Hào này ở trên
cùng quẻ Mông, có nghĩa sự ngu tối tới cùng cực; nó là dương, ở trên
cùng, mà bất trung, cho nên tuy có tài mở mang sự ngu tối nhưng quá
nghiêm khắc, làm cho kẻ ngu tối phẫn uất, phản kháng, bất tuân giáo hóa,
có thể thành giặc, có hại (chữ “khấu có cả hai nghĩa: giặc, có hại),
nên tìm cách ngăn ngừa những vật dục quyến rũ nó thì hơn; mà “cả thầy
lần trò đều thuận đạo lý (thượng hạ thuận dã, Tiểu tượng truyện).
Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm khắc quá mà nên ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6).
5. QUẺ THỦY THIÊN NHU
Trên là Khảm (nước), dưới là Càn (trời)
Trên là Khảm (nước), dưới là Càn (trời)
Đồ hình quẻ Thủy Thiên Nhu
Quẻ trên là
Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này
là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần
thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy.
Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác:
Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải
hiểu là chờ đợi.
*
Thoán từ :
需: 有 孚, 光 亨, 貞, 吉 . 利 涉 大 川 .
Nhu: Hữu phu, quang hanh, trinh, cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch:
Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững
điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.
Giảng: Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.
Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở
vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà
lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa,
hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà
thành công.
Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái
như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là
mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ “ăn
uống yến lạc” (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà
đợi lúc mưa đổ.
Hào từ:
1. 初 九: 需 于 郊, 利 用 恆 , 无 咎 .
Sơ cửu: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.
Sơ cửu: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.
Dịch:
Hào 1 là dương, cương kiện, sáng suốt mà ở xa ngoại quái là Khảm, tức
xa nước, xa chỗ hiểm (cũng như còn ở ngòai thành, không gần sông nước),
đừng nóng nảy xông vào chỗ hiểm nạn, cứ chịu chờ đợi thì không có lỗi.
Chu Công khuyên như vậy vì hào dương này không đắc trung mà có ý muốn
tiến.
2. 九 二: 需 于 沙 , 小 有 言 , 終 吉 .
Cửu nhị: Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát.
Dịch: Hào 2, dương: Đợi ở bãi cát, tuy có khẩu thiệt một chút, nhưng sau sẽ tốt.
Giảng: Hào này đã gần quẻ
Khảm hơn, ví như đã tới bãi cát ở gần sông, chưa tới nỗi sụp hiểm; mà
hào lại đắc trung, cho nên tuy là dương cương mà biết khôn khéo, ung
dung, không nóng nảy như hào 1, cho nên dù có điều tiếng nho nhỏ, rốt
cuộc cũng vẫn tốt.
3. 九 三 : 需 于 泥 . 致 寇 至.
Cửu tam: Nhu vu nê, trí khấu chí.
Dịch: Hào 3, dương : đợi ở chỗ bùn lầy, như tự mình vời giặc đến.
Giảng: Hào này đã ở sát
quẻ Khảm, tuy chưa sụp xuống nước, nhưng đã ở chỗ bùn lầy rồi; thể của
nó là dương cương, vị của nó cũng là dương, mà lại không đắc trung, có
cái “tượng rất táo bạo nóng nảy, làm càn, tức như tự nó vời giặc đến, tự
gây tai họa cho nó. Nếu nó biết kính cẩn, thận trọng thì chưa đến nỗi
nào, vì tai họa vẫn còn ở ngoài (ở ngoại quái) (theo tiểu tượng truyện).
4. 六 四 : 需 于 血, 出 自 穴 .
Lục tứ: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt.
Dịch: Hào 4, âm: như đã chờ đợi ở chỗ lưu huyết mà rồi ra khỏi được.
Giảng: hào này đã bắt đầu
vào quẻ Khảm, tức chỗ hiểm (như vào chỗ giết hại), nhưng nhờ nó là âm,
nhu thuận lại đắc chính (ở vị âm) , nên tránh được họa.
5. 九 五 : 需 于 酒 食, 貞 吉 .
Cửu ngũ: Nhu vu tửu thực, trinh cát.
Dịch: Hào 5, dương: Chờ đợi ở chỗ ăn uống no say (chỗ yên vui), bền giữ đức trung chính thì tốt.
Giảng: Hào 5, địa vị tôn quí, mà là dương cương trung chính, cho nên tốt, nhưng muốn hạnh phúc được bền thì phải giữ đức trung chính.
6.上 六:. 入 于 穴 , 有 不 速 之 客 三 人 來 , 敬 之 , 終 吉 .
Thượng lục: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung cát.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Vào chỗ cực hiểm rồi, nhưng có ba người khách thủng thẳng tới, biết kính trọng họ thì sau đựơc tốt lành.
Giảng: Hào này ở trên
cùng ngọai quái là Khảm, cho nên bảo là chỗ cực hiểm. Nó có hào 3 ở dưới
ứng với nó, hào 3 là dương , kéo theo cả hào 1 và 2 cũng là dương, cho
nên nói là có 3 người khách sẽ tới; họ không tới ngay được vì họ ở xa
hào 6, cho nên nói là họ thủng thẳng sẽ tới.
Hào 6 âm, có đức Khiêm, nhu thuận, biết
trong và nghe theo ba vị khách đó, cho nên cuối cùng sẽ được họ cứu ra
khỏi chỗ hiểm mà được tốt lành.
Tiểu tượng truyện: bàn thêm: Tuy hào 6 không xứng vị (bất đáng vị), nhưng không đến nỗi thất bại lớn.
Chu Hi hiểu chữ “vị” đó , là ngôi chẵn (âm
vị) ; hào âm ở âm vị, là “đáng” chứ sao lại “bất đáng”, cho nên ông bảo
là :”chưa hiểu rõ” (vị tường).
Phan Bội Châu hiểu chữ “vị” là ngôi cao
hay thấp; hào 6 ở trên cùng, tức là ngôi cao nhất, mà là âm nhu, bất
tài, cho nên bảo “bất đáng” là phải .
+
Quẻ này chỉ cho ta cách xử thế khi chờ
đợi, tùy họa ở gần hay ở xa, cốt nhất là đừng nóng nảy, mà phải giữ
trung chính. Chúng ta để ý: hào 5 ở giữa quẻ Khảm, tức giữa cơn nguy
hiểm mà Chu Công vẫn cho là tốt chỉ vì hào đó cương mà trung chính,
nghĩa là cương một cách vừa phải, sáng suốt, chính đáng.
6. QUẺ THIÊN THỦY TỤNG
Trên là Càn (trời), dưới là Khảm (nước) ngược hẳn với quẻ 5.
Trên là Càn (trời), dưới là Khảm (nước) ngược hẳn với quẻ 5.
Hình quẻ Thiên Thủy Tụng
Tự quái
truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn uống mà
người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu là quẻ
Tụng (có nghĩa là kiện cáo)
Thoán từ:
訟 . 有 孚 , 窒, 惕 . 中 吉 . 終 凶 . 利 見 大 人 . 不 利 涉 大 川.
Tụng: Hữu phu, trất, dịch. Trung cát, chung hung
Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Kiện cáo vì mình
tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch). Nếu giỡ đạo trung
(biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện cho đến cùng thì
xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo thì chỉ có lợi, nếu
không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có lợi.
Giảng: Theo tượng quẻ này
có thể giảng: người trên ( quẻ Càn) là dương cương, áp chế người
dưới,mà người dưới ( quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo, hoặc
cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái
là Khảm), mà ngoài thì cương cường (ngoại quái là Càn), tất sinh sự gây
ra kiện cáo.
Thoán từ của Chu Công không hiểu hai cách
đó mà cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực (hữu phu) mà
bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho, cho nên lo sợ, phải đi
kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh
oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu cứ đeo đuổi cho tới cùng, quyết
thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu.
Quẻ khuyên người đó nên đi tìm bậc đại
nhân công minh (tức hào 5 – ứng với hào 2, vừa trung ,chính, vừa ở ngôi
cao), mà nghe lời người đó thì có lợi; nếu không thì là tự mình tìm sự
nguy hại, như lội qua sông lớn.
Đại tượng truyện (Hệ từ) đưa ra một cách
giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi lên; Khảm (nước) có xu hướng
chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược nhau, cũng như hai nơi bất đồng
đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và Đại tượng truyện khuyên người
quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo.
Hào từ
1. 初 六: 不 永 所 事 , 小 有 言 , 終 吉 .
Sơ lục: Bất vinh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát.
Dịch: Hào 1 âm: đừng kéo dài (vụ kiện) làm gì, tuy bị trách một chút, nhưng sau được tốt.
Giảng: Hào 1, âm nhu ở dưới, được hào 4
cương kiện ở trên ứng viện, tức là có chỗ dựa; nhưng đừng nên ỷ thế sinh
sự kéo dài vụ kiện; có bị trách một chút thì cũng thôi, kết quả được
biện minh, thế là tốt.
2. 九 二: 不 克 訟 , 歸 而 逋. 其 邑 人 三 百 戶, 无 眚.
Cửu nhị: Bất khắc tụng, qui nhi bô. Kì ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh.
Dịch: Hào 2, dương :
không nên kiện, lui về mà tránh đi, ấp mình chỉ có ba trăm nóc nhà thôi
(ý nói địa vị mình thấp, thế mình nhỏ), như vậy thì không bị họa.
Giảng: Trong phần I,
chương IV, chúng tôi đã nói: các hào ứng với nhau (1 với 4, 2 với 5, 3
với 6) phải một dương một âm thì mới có “tình” với nhau, mới đứng vào
một phe, viện trợ nhau, tức trường hợp hào 1 và hào 4 quẻ này; nếu cả
hai cùng là dương hay là âm thì tuy ứng nhau đấy, nhưng có thể kị nhau,
cũng như hào 2 và hào 5 quẻ này. Hai hào này đều là dương cả, cho nên
coi là địch nhau, đứng vào hai phe ở trong quẻ tụng (kiện cáo).
Hào 2 ở dưới, trung chứ không chính, ở
giữa nội quái là Khảm (hiểm) lại bị hai hào âm 1 và 3 vậy, nên thế yếu,
muốn kiện hào 5 (vì 2 có tính dương cương) nhưng thế không địch nổi, vì 5
trung , chính lại ở ngôi cao. Dưới kiện trên khác gì trứng chọi đá,
không nên, thà rút lui về, tránh đi còn hơn, như vậy không bị tội lỗi.
Tiểu tượng truyện còn dặn thêm: nếu dưới
mà kiện trên, tai họa tới là tự mình vơ lấy đấy: hoạn chí xuyết (cũng
đọc là chuyết, là đoát) dã:
Phan Bội Châu giảng hào này, dẫn việc
Nguyễn Hoàng muốn kình với Trịnh Kiểm (sự thực Trịnh Kiểm muốn hại
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng sợ), cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đáp: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, có ý
khuyên nên trốn tránh vào Nam cho thoát nạn; đó là ý nghĩa ba chữ “qui
nhi bô” trong hào này.
3. 六 三 : 食 舊 德, 貞 厲, 終 吉 . 或 從 王 事 , 无 成.
Lục tam: Thực cựu đức, trinh lệ, Chung cát; hoặc tòng vương sự, vô thành. Dịch: Hào 3 âm, Cứ (yên ổn) hưởng cái đức (ân trạch) cũ của mình (Chu Hi hiểu là giữ cái nếp cũ), ăn ở cho chính đáng mà thường để lòng lo sợ thì kết quả sẽ tốt; nếu phải đi theo làm với người trên (chữ vương ở đây trở người trên, không nhất định là vua), thì cũng đừng mong thành công. Giảng: Hào 3 đã âm nhu lại bất chính (vì hào âm mà ở ngôi dương, ở chông chênh trên cùng quẻ Khảm (hiểm), chung quanh đều là kẻ thích gây sự, kiện cáo (vì hào 2 và 4 đều là dương), cho nên 3 thường phải lo sợ (lệ), nếu hiểu vậy mà biết giữ gìn thì rốt cuộc sẽ yên ổn. Hào 3 có hào 5 ở trên ứng và có “tình” với mình, 6 là dương cương lại là bề trên (ngôi cao), nên có khi lôi kéo 3 theo nó; trong trường hợp đó, 3 nên an phận thủ thường, cứ phục tùng 6, đừng mong thành công (chẳng hạn 6 muốn đứng ra kiện, kéo 3 theo thì 3 chỉ nên giúp 6 lấy lệ thôi, đừng ham lập công).
Lục tam: Thực cựu đức, trinh lệ, Chung cát; hoặc tòng vương sự, vô thành. Dịch: Hào 3 âm, Cứ (yên ổn) hưởng cái đức (ân trạch) cũ của mình (Chu Hi hiểu là giữ cái nếp cũ), ăn ở cho chính đáng mà thường để lòng lo sợ thì kết quả sẽ tốt; nếu phải đi theo làm với người trên (chữ vương ở đây trở người trên, không nhất định là vua), thì cũng đừng mong thành công. Giảng: Hào 3 đã âm nhu lại bất chính (vì hào âm mà ở ngôi dương, ở chông chênh trên cùng quẻ Khảm (hiểm), chung quanh đều là kẻ thích gây sự, kiện cáo (vì hào 2 và 4 đều là dương), cho nên 3 thường phải lo sợ (lệ), nếu hiểu vậy mà biết giữ gìn thì rốt cuộc sẽ yên ổn. Hào 3 có hào 5 ở trên ứng và có “tình” với mình, 6 là dương cương lại là bề trên (ngôi cao), nên có khi lôi kéo 3 theo nó; trong trường hợp đó, 3 nên an phận thủ thường, cứ phục tùng 6, đừng mong thành công (chẳng hạn 6 muốn đứng ra kiện, kéo 3 theo thì 3 chỉ nên giúp 6 lấy lệ thôi, đừng ham lập công).
4. 九 四 : 不克 訟 , 復 即 命, 渝 , 安 貞 吉 .
Cửu tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, du, an trinh cát.
Dịch: Hào 4, dương : không thể kiện cáo được, trở lại theo thiên mệnh (lẽ chính đáng), đổi ý đi, ở yên theo điều chính thì tốt.
Giảng:
Hào này dương cương mà bất trung, bất chính, “tượng” một người ham kiện
cáo. Nhưng không thể kiện ai được: kiện 5 thì 5 ở trên mình, ngôi tôn,
không dám kiện; kiện 3 thì 3 nhu thuận, chịu thua trứơc rồi; kiện 2 thì 2
vừa cương, chính , trung, sáng suốt, đã tiên liệu rồi, không chịu kiện;
còn 1 thì đã về phe với 4. Đành phải bỏ ý ham kiện đi, theo lẽ phải, ở
yên, giữ điều chính, như vậy thì tốt.
5. 九 五 : 訟, 元 吉 .
Cửu ngũ: Tụng, nguyên cát.
Dịch: Hào 5 dương : xử kiện hay đi kiện, đều rất tốt.
Giảng : Hào 5 này ở ngôi
chí tôn, cương mà minh, trung và chính. Nếu là người xử kiện thì là bậc
có đức, có tài (như Bao Công); nếu là người đi kiện thì gặp đựơc quan
tòa có đức, có tài. Không gì tốt bằng.
6. 上 九 : 或 錫 之 鞶 帶 , 終 朝, 三 褫 之.
Thượng cửu: hoặc tích chi bàn đái, chung triêu, tam sỉ chi.
Dịch: hào trên cùng, dương : (kiện ) may mà được cái đai lớn (của quan chức) thì trong một buổi sáng sẽ bị cướp ba lần.
Giảng: Hào dương này ở
trên cùng quẻ Tụng là kẻ rất thích kiện, kiện tới cùng. Nó ở ngôi 6 là
bất chính, cho nên dù có may ra được kiện, thì chẳng bao lâu cũng sẽ mất
hết, rốt cuộc vẫn không lợi.
* Quẻ tụng này ý nghĩa các hào rất nhất trí, sáng sủa.
Trước sau chỉ là răn người ta đừng ham
tranh nhau kiện cáo: hào 3 không kiện với ai, tốt; hào 2 muốn kiện mà
sau thôi không kiện, cũng tốt; hào 1 bị kiện thì nên nhường nhịn một
chút, rốt cuộc sẽ tốt, duy có hào 6 bằng kiện tới cùng thì dù có thắng,
cũng hóa xấu.
Còn hào 5 diễn cái ý: có một Tòa án công minh thì phục cho dân biết bao.
7. QUẺ ĐỊA THỦY SƯ
Hình quẻ Địa Thủy Sư
Kiện tụng
là tranh nhau, tranh nhau thì lập phe, có đám đông nổi lên; cho nên sau
quẻ Tụng tới quẻ Sư , Sư là đám đông, cũng có nghĩa là quân đội.
Thoán từ:
師: 貞 , 丈 人 吉 , 无 咎 .
Sư : Trinh, trượng nhân cát, vô cữu.
Dịch: quân đội mà chính đáng (có thể hiểu là bên chí), có người chỉ huy lão thành thì tốt, không lỗi.
(Có sách hảo hai chữ “trượng [ 丈] nhân” chính là “đại [大] nhân) người tài đức)
Giảng: Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội ? có 4 cách giảng:
– Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông.
– Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên,
Khôn là thuận; người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông
dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là
giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).
– Chu Hi còn giảng cách nữa: hào 2 là
dương, nằm ở giữa nội quái là tượng ông tướng, 5 hào kia là âm nhu, mềm
mại, giao quyền cho 2 điều khiển quân lính (4 hào kia).
Thoán truyện giảng: xuất quân là việc nguy
hiểm (quẻ Khảm), độc hại, nhưng nếu xuất quân vì chính nghĩa (trinh
chính), để trừ bạo an dân thì dân sẽ theo (Khôn: thuận), sẽ giúp đỡ
mình, mình sai khiến được, thì sẽ tốt, lập được nghiệp vương thống trị
thiên hạ, không có tội lỗi.
Hào từ
1. 初 六 : 師, 出 以 律 , 否 臧, 凶 .
Sơ lục: sư, xuất dĩ luật, phủ tàng, hung
Dịch: Hào 1, âm: Ra quân thì phải có kỷ luật, không khéo (chữ phủ tàng nghĩa là bất thiện ) thi xấu.
Giảng: Đây là bước đầu ra quân, phải cẩn thận, có kỷ luật nghiêm nhưng khéo để khỏi mất lòng dân, quân.
2. 九 二 : 在 師, 中, 吉, 无 咎 , 王 三 錫 命 .
Cửu nhị: Tại sư, trung, cát, vô cữu, vương tam tích mệnh.
Dịch: Hào 2 dương: Trong quân, có đức trung thì tốt, không tội lỗi, được vua ba lần ban thưởng.
Giảng: Hào này là hào
dương độc nhất trong quẻ, thống lĩnh quần âm. Nó đắc cương , đắc trung,
lại được hào 5, âm ở trên ứng thuận với nó, như một vị nguyên thủ giao
toàn quyền cho một vị tướng. Nhờ nó đắc trung; nên tốt, không bị tội
lỗi, mà được nhiều lần ban thưởng (có người giảng là được nhiều lần vua
trao lệnh cho).
3. 六 三 : 師, 或 輿 尸 , 凶 .
Lục tam: Sư, hoặc dư thi, hung.
Dịch: Hào 3, âm: bất chính (vì hào âm ở ngôi dương) lại bất trung ,xấu, thất trận, có thể phải chở xác chết về . .
4. 六 四 : 師, 左 次 , 无 咎 .
Lục tứ: Sư, tả thứ, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Ra quân rồi mà lui về đóng (thứ) ở phía sau (tả) không có lỗi.
Giảng: hào này tuy bất
trung nhưng đắc chính, không có tài (hào âm) nhưng biết liệu sức mình,
hãy tạm lui, không tiến để khỏi hao quân, đó là phép thường hễ gặp địch
mạnh thì tránh đi, cho nên không bị lỗi.
5. 六 五 : 田 有 禽 . 利 執 言 . 无 咎 . 長 子 帥 師 . 弟 子 輿 尸 . 貞 凶 .
Lục ngũ: Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu.
Trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.
Dịch: Hào 5 âm: Như đồng cỏ muông thú (về phá), bắt chúng (chữ ngôn [言] ở đây,dùng như chữ chi [之], thay chữ cầm [禽]) thì lợi.
(dùng) người lão thành làm tướng súy để
cầm quân, nếu dùng bọn trẻ (tài kém) thì phải chở thây mà về, và dù danh
nghĩa chính đáng (trinh) kết quả vẫn xấu.
Giảng: Hào 5 này, âm, ở
vị chí tôn, tượng ông vua ôn nhu và thuận đạo trung, không gây chiến, vì
quân địch lấn cõi (như muông thú ở rừng về phá đồng) nên phải đánh đuổi
đi, bắt chúng mà không có lỗi.
Ông vua ấy giao quyền cầm quân cho vị lão
thành (hào 2 ởdưới) là người xứng đáng , nếu giao cho bạn trẻ bất tài
(như hào 3) hoặc để chúng tham gia vào thì sẽ thất bại, dù chiến tranh
có chính nghĩa, cũng phải chở xác về , mang nhục.
6. 上 六 : 大 君 有 命 . 開 國 承 家 , 小 人 勿 用 .
Thượng lục: đại quân hữu mệnh.
Khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng.
Dịch Hào trên cùng, âm: (Sau khi khải
hòan) vua ra lệnh gì quan hệ đến việc mở nước trị nhà thì đừng dùng kẻ
tiểu nhân (dù họ có công chiến đấu).
Giảng: Hào này ở trên cùng, trỏ lúc thành
công, vua luận công mà khen thưởng. Kẻ tiểu nhân tuy có tài chiến đấu,
lập được công thì cũng chỉ thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho
để cai trị, giao cho địa vị trọng yếu trong nước, vì công việc kiến
thiết quốc gia phải người có tài, đức mới gánh nổi.
*
- Quẻ sư này rất hay, lời gọn, ý đủ và đúng. Chúng ta nên nhớ:
– Bất đắc dĩ mới phải ra quân, ra quân phải có chính nghĩa.
– Dùng tướng phải xứng đáng (như hào 2), đừng để cho kẻ bất tài (như hào 3) tham gia.
– Phải cẩn thận từ lúc đầu, kỷ luật nghiêm minh, nhưng phải khéo để khỏi mất lòng dân quân.
– Nếu gặp kẻ địch đương ở thế mạnh thì hãy tạm tránh, không sao.
– Khi thành công rồi, luận công ban thưởng
thì kẻ tiểu nhân có công chỉ nên thưởng họ tiền bạc, đừng giao cho họ
trọng trách; trọng trách phải về những người tài đức như vậy nước mới
thịnh được.
Chỉ dùng hai nét liền, đứt mà suy diễn được như vậy, tài thật.
8. QUẺ THỦY ĐỊA TỈ
Trên là Khảm (nước), dưới là Khôn (đất)
Trên là Khảm (nước), dưới là Khôn (đất)
(đồ hình ::::|:)
Hình quẻ Thủy Địa Tỷ
Sư là đám
đông, trong đám đông người ta gần gũi nhau, liên lạc với nhau, cho nên
sau quẻ Sư là quẻ Tỉ (tỉ là gần gũi, liên lạc).
Chúng ta để ý: quẻ này Khảm trên, Khôn dưới, ngược hẳn với quẻ trước Khôn trên, khảm dưới.
Thoán từ:
比 吉 . 原 筮 , 元 永 貞 , 无 咎 . 不 寧 方 來 , 後 夫 凶 .
Tỉ cát. Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu.
Bất ninh phương lai, hậu phu hung.
Dịch: Gần gũi thì tốt. Bói lần thứ nhì mà được như lần đầu (nguyên phệ) rất tốt, lâu dài, chính thì không có lỗi.
Kẻ nào ở chỗ chưa yên (hoặc gặp trắc trở) sẽ lại với mình (hoặc mình nên vời lại) l kẻ nào tới sau (trễ) thì xấu.
Giảng: Quẻ này là trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có nghĩa là gần gũi, thân thiết, giúp đỡ nhau.
Lại thêm một hào dương cương, trung chính (
hào 5) thống lĩnh năm hào âm, có cái tượng ông vua (hay người trên)
được toàn thể dân (hay người dưới) tin cậy, qui phục do lẽ đó mà gọi là
“tỉ”. Nhưng hào 5 đó ở địa vị chí tôn nên phải thận trọng, tự xét mình
kỹ càng (nguyên phệ) mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới
thật không có lỗi.
“Bất ninh phương lai”, Chu Hi giảng là
trên dưới ứng hợp với nhau, chắc là muốn nói hào 5 (trên) và hào 2
(dưới), một dương một âm. Còn ba chữ “hậu phu hung” thì không sách nào
cho biết là ám chỉ hào nào, có lẽ là hào trên cùng chăng?
Hào từ.
1.初 六 : 有 孚 比 之 , 无 咎 . 有 孚 盈 缶 , 終 來 有 他 吉 .
Sơ lục: Hữu phu, tỉ chi, vô cữu.
Hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha cát.
Dịch: Hào 1, âm : (Mới
đầu) có lòng thành tín mà gần gũi nhau thì không có lỗi. Nếu lòng thành
tín nhiều như đầy một cái ảng thì có thêm điều tốt khác nữa.
2.六 二 : 比 之 自 內 , 貞 吉 .
Lục nhị: tỉ chi tự nội, trinh cát.
Dịch: Hào 2, âm: Tự trong mà gần gũi với ngòai, chính đáng thì tốt.
Giảng: hào này âm nhu,
đắc trung và chính, ở nội quái, ứng hợp với hào 5 dương cương cũng đắc
trung và chính ở ngoại quái, cho nên nói là tự trong mà gần gũi với
ngoài. Hai bên thân nhau vì đạo đồng chí hợp (cùng trung, chính cả), chứ
không phải vì 2 làm thân với bề trên để cầu phú quí, như vậy là chính
đáng, không thất thân, nên tốt.
3.六 三 : 比 之 匪 人 .
Lục tam: Tỉ chi phỉ nhân
Dịch: Hào 3 âm: Gần gũi người không xứng đáng.
Giảng: Hào này âm nhu, không trung không chính, chung quanh lại toàn là âm nhu, cho nên ví với người xấu, không xứng đáng.
4. 六 四 : 外 比 之 , 貞 吉 .
Lục tứ: Ngoại tỉ chi, trinh cát.
Dịch: Hào 4, âm: Gần gũi với bên ngoài (hào 5) giữ đạo chính thì tốt.
Giảng: hào âm ở ngôi 4
đắc chính ,tốt hơn hào 3; lại ở gần hào 5, như vậy là thân với người
hiền ( 5 trung và chính ) và phục tòng bề trên, cho nên tốt.
5.九 五 : 顯 比, 王 用 三 驅
Cửu ngũ: Hiển tỉ, vương dụng tam khu Giảng: hào này ở ngôi chí tôn, dương cương mà trung chính, cho nên cả 5 hào âm (cả thiên hạ) đều phục tòng; đạo gần gũi như vậy, là rất quang minh. Ai tòng phục vua thì cứ tới, không tùng phục mà chống lại thì cứ rút lui, không ép ai cả; để cho mọi người tự do tới lui, cũng như đi săn, không bao vây cả bốn mặt mà chừa một mặt cho cầm thú thoát ra. Do đó người chung quanh được cảm hóa, không phải răn đe mà họ cũng giữ được đào trung chính như vua.
Cửu ngũ: Hiển tỉ, vương dụng tam khu Giảng: hào này ở ngôi chí tôn, dương cương mà trung chính, cho nên cả 5 hào âm (cả thiên hạ) đều phục tòng; đạo gần gũi như vậy, là rất quang minh. Ai tòng phục vua thì cứ tới, không tùng phục mà chống lại thì cứ rút lui, không ép ai cả; để cho mọi người tự do tới lui, cũng như đi săn, không bao vây cả bốn mặt mà chừa một mặt cho cầm thú thoát ra. Do đó người chung quanh được cảm hóa, không phải răn đe mà họ cũng giữ được đào trung chính như vua.
6. 上 六 : 比 之 无 首 , 凶 .
Thượng lục: tỉ chi vô thủ, hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: không có đầu mối để gần gũi, xấu.
Giảng: Hào âm này ở trên
cùng bất trung, không sao gần gũi với những hào âm dưới được, thế là
không có đầu mối, là vô thủy (thủ ở đây có nghĩa là thủy) mà vô thủy thì
vô chung, cho nên xấu.
*
Quẻ này nói về phép nhóm bạn tìm thầy.
Phải cẩn thận từ lúc đầu, thành tín, trung chính, vì đạo chứ không vì
lợi. Và phải để cho tự do, không nên ép buộc.
9. QUẺ PHONG THIÊN TIỂU SÚC
Trên là Tốn (gió) dưới là Càn (trời)
Đồ hình quẻ Phong Thiên Tiểu Súc
Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ]
Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục
súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa:
ngăn lại, kiềm chế.
Thoán từ
小 畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 .
Tiểu súc: Hanh: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao.
Dịch: Ngăn căn nhỏ (hoặc
chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông.
Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta.
Giảng: Có ba cách giảng theo tượng của quẻ:
– Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn.
– Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc.
– Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị;
hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn
cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc
(nhỏ ngăn được lớn).
Ngăn được
hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó
nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng
kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ
“ngã” (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo
Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam.
Chu Hi cho rằng chữ “ngã” đó là Văn Vương
tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà “cõi
tây của ta” tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương.
Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở
trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý
văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị.
Hào từ
1. 初 九 : 復 自 道 , 何 其 咎 ? 吉 .
Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát.
Dịch: Hào 1, dương : trở về đạo lý của mình, có lỗi gì đâu? Tốt.
Giảng: hào này là dương
cương lại ở trong nội quái Càn, có tài, có chí tiến lên, nhưng vì ở
trong quẻ Tiểu Súc, nên bị hào 4, ứng với nó ngăn cản. Nó đành phải quay
trở lại, không tiến nữa, hợp với đạo tùy thời, như vậy không có lỗi gì
cả.
2. 九 二 : 牽 復 , 吉 .
Cửu nhị: khiên phục, cát.
Dịch: Hào 2, dương . Dắt nhau trở lại đạo lý thì tốt.
Giảng: hào này với hào 5
là bạn đồng chí hướng: cùng dương cương, cùng đắc trung, cùng muốn tiến
cả, nhưng cùng bị hào 4 âm ngăn cản, nên cùng dắt nhau trở lại cái đạo
trung , không để mất cái đức của mình.
3. 九 三 : 輿 說 輻 , 夫 妻 反 目 .
Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục.
Dịch: Hào 3, dương : Xe rớt mất trục; vợ chồng hục hặc với nhau.
Giảng: Hào 3 quá cương
(vì thể vị đều là dương ) mà bất trung, hăng tiến lên lắm, nhưng bị hào 4
ở trên ngăn chặn, nên tiến không được, như chiếc xe rớt mất trục. Hào
này ở sát hào 4, dương ở sát âm, mà không phải là ứng của hào 4, như một
cặp vợ chồng hục hặc với nhau. Lỗi ở hào 3 vì không biết tùy thời,
không nhớ mình ở trong thời Tiểu súc mà nhịn vợ.
4. 六 四 : 有 孚 , 血 去, 惕 出 . 无 咎 .
Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: nhờ có lòng chí thành, nên thương tích được lành, hết lo sợ, mà không có lỗi.
Giảng: hào này là âm, nhu
thuận mà đối với các hào dương thì khó tránh được xung đột, có thể lưu
huyết và lo sợ, nhưng nó đắc chính (âm ở ngôi âm), ở gần hào 5 là thân
với bậc chí tôn, lại ở vào thời Tiểu súc, có hào 1 ứng hợp với nó, hào 2
cùng giúp nó, nên nó tránh được lưu huyết, lo sợ, không có lỗi.
Tiểu tượng truyện giảng: hết lo sợ, nhờ hào trên ( hào 5) giúp đỡ nó.
5. 九 五 : 有 孚, 攣 如 . 富 以 其 鄰 .
Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân.
Dịch: Hào 5, dương. Có lòng thành tín, ràng buộc dắt dìu (cả bầy hào dương ), nhiều tài đức , cảm hóa được láng giềng.
Giảng: hào này ở ngôi chí
tôn, có uy tín, làm lãnh tụ các hào dương khác; nó trung chính, tức có
lòng thành tín, kéo các hào dương kia theo no, mà giúp đở hào âm 4 ở
cạnh nó, ảnh hưởng tới 4, sai khiến được 4, khiến cho 4 làm được nhiệm
vụ ở thời Tiểu súc.
Chữ [ 攣 ] có người đọc là luyến và giảng là có lòng quyến luyến.
6. 上 九 : 既 雨, 既 處 , 尚 德 載 . 婦 貞 厲 . 月 幾 望 , 君 子 征 凶 .
Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái.
Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung.
Dịch: Hào trên cùng,
dương: Đã mưa rồi, yên rồi, đức nhu tốn của 4 đã đầy (ngăn được đàn ông
rồi), vợ mà cứ một mực (trinh) ngăn hoài chồng thì nguy (lệ) đấy. Trăng
sắp đến đêm rằm (cực thịnh), người quân tử (không thận trọng, phòng bị)
vội tiến hành thì xấu.
Giảng: Đây đã tới bước
cuối cùng của quẻ tốn mà cũng là bước cuối cùng của quẻ Tiểu súc. Hào 4
đã thành công đến cực điểm , các hào dương hòa hợp với nó cả rồi, như
đám mây kịt đã trút nước, mọi sự đã yên. Tới đó, hãy nên ngưng đi, cứ
một mực ngăn chặn các hào dương thì sẽ bị họa đấy. Mà các hào dương
(quân tử ) cũng nên lo đề phòng trước đi vì sắp tới lúc âm cực thịnh
(trăng rằm) rồi đấy. Âm có nghĩa là tiểu nhân.
*
Đọc quẻ Tiểu súc này chúng tôi nhớ tới Võ
Hậu đời Đường và Từ Hi Thái Hậu đời Thanh. Họ như hào 4, thông minh, có
tài, mới đầu nhu thuận, nhờ ở gần vua (hào 5), được vua sủng ái, che
chở, lại lấy được lòng người dưới (hào 1, hào 2), gây phe đảng rồi lần
lần “thống lĩnh quần dương “, cả triều đình phải phục tòng họ. Tới khi
họ thịnh cực, sắp suy, bọn đại thần có khí tiết, mưu trí mới họp nhau
lật họ. Ngoài đời không đúng hẳn như trong quẻ, nhưng cũng không khác
mấy.
Ở các thời đó, chắc nhiều nhà Nho Trung Hoa đọc lại quẻ này.
10. QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ
Trên là Càn (trời), dưới là Đoài (chằm)
Trên là Càn (trời), dưới là Đoài (chằm)
Đồ hình quẻ Thiên Trạch Lý
Đầu quẻ Tiểu Súc đã nói súc còn có nghĩa là chứa, nhóm (như súc tích)
Tự quái truyện dùng nghĩa đó mà giảng: khi
đã nhóm họp nhau thì phải có trật tự, có trên có dưới, không thể hỗn
tạp được, nghĩa là phải có lễ. Sống trong xã hội phải theo lễ, dẫm lên
cái lễ, không chệch ra ngoài (chúng ta thường nói dẫm lên dấu chân của
một người để diễn cái ý theo đúng đường lối người ấy); mà dẫm lên, chữ
Hán gọi là ☲, do đó sau quẻ Tiểu súc, tới quẻ Lí. Cách giải thích đó có
phần nào gượng ép.
Thoán từ:
履 虎 尾 , 不 咥 人 , 亨 .
Lí hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh.
Dịch: Dẫm lên đuôi cọp, mà cọp không cắn, hanh thông.
Giảng: Trên là dương
cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm, vậy là trên
dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm nhu, vui
vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như cọp, cũng
tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp không
cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi cọp, chỉ nên hiểu là
đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó với sự cương cường.
Thoán truyện bàn thêm: Hào 5 quẻ này là dương mà trung, chính, xứng với ngôi chí tôn, chẳng có tệ bệnh gì cả mà lại được quang minh.
Đại tượng truyện: bảo
trên dưới phân minh (có tài đức ở trên, kém tài đức ở dưới) như vậy lòng
dân mới không hoang mang (định dân chí) không có sự tranh giành.
Hào từ:
1. 初 九 : 素 履, 往 , 无 咎 .
Sơ cửu: tố lý, vãng, vô cữu.
Dịch: hào 1, dương : giữ bản chất trong trắng mà ra với đời thì không có lỗi.
Giảng: hào 1 này như
người mới ra đời, còn giữ được bản chất trong trắng (ý nghĩa của chữ tố)
chưa nhiễm thói đời, vì là hào dương, quân tử, có chí nguyện, cứ giữ
chí nguyện mình thì không có lỗi.
2. 九 二 : 履 道 坦 坦 , 幽 人 貞 吉 .
Cửu nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát.
Dịch: Hào 2, dương: như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt.
Giảng: Hào 2, dương : như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt.
Giảng: Hào dương này đắc trung, vẫn là hiền nhân, quân tử, bình thản giữ đạo trung không để cho lòng rối loạn thì tốt.
Tuy có hào 5 ở trên ứng với , nhưng 5 cũng
là dương, không hợp, (phải một dương một âm mới tìm nhau, hợp nhau,
viện nhau) cho nên bảo hào này là cô độc.
Chúng ta để ý: quẻ Càn, hào 2 và hào 5
cũng đều là dương cả, mà Hào từ bảo 2 và 5 nên tìm nhau mà làm việc; còn
quẻ Lý này thì không , như vậy là phải tùy theo ý nghĩa của quẻ (tùy
thời) mà giảng.
3. 六 三 : 眇, 能 視 ; 跛, 能 履 . 履 虎 尾 , 咥 人, 凶 . 武 人 為 于 大 君 .
Lục tam: Miễu, năng thị; bả, năng lý.
Lý hổ vĩ, diệt nhân, hung. Võ nhân vi vu đại quân.
Dịch:Hào 3, âm: chột (mà
tự phụ là) thấy tỏ, thọt (mà tự phụ là) đi nhanh, như vậy thì nguy như
dẫm lên đuôi cọp mà bị nó cắn. Đó là kẻ vũ phu mà đòi làm việc của một
ông vua lớn.
Giảng: Hào này âm nhu mà ở
ngôi dương cương, bất chính, bất trung, trên dưới đều là hào dương cả,
không lượng tài mình kém (âm) mà đua đòi theo các hào dương, không khác
người thọt tự khoe là đi nhanh; đó là hạng võ phu mà đòi làm một ông vua
lớn, sẽ gặp họa, như dẫm lên đuôi cọp, bị cọp cắn.
4. 九 四 : 履 虎 尾 . 愬 愬 終 吉 .
Cửu tứ: Lí hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc)chung cát. Dịch: Hào 4, dương: Dẫm lên đuôi cọp, nhưng biết sợ hãi, nên quẻ sẽ tốt. Giảng: Hào này, dương mà ở vị âm, cũng bất trung, bất chính như hào 3, cũng ở sau một hào dương cương, cũng như dẫm lên đuôi cọp, nhưng hào 3 hung, hào 4 cát, chỉ do lẽ: 3 bản chất nhu, tài kém, u mê mà ở vị dương, chí hăng; còn 4 bản chất cương, có tài, sáng suốt mà ở vị âm, biết sợ hãi, thận trọng.
Cửu tứ: Lí hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc)chung cát. Dịch: Hào 4, dương: Dẫm lên đuôi cọp, nhưng biết sợ hãi, nên quẻ sẽ tốt. Giảng: Hào này, dương mà ở vị âm, cũng bất trung, bất chính như hào 3, cũng ở sau một hào dương cương, cũng như dẫm lên đuôi cọp, nhưng hào 3 hung, hào 4 cát, chỉ do lẽ: 3 bản chất nhu, tài kém, u mê mà ở vị dương, chí hăng; còn 4 bản chất cương, có tài, sáng suốt mà ở vị âm, biết sợ hãi, thận trọng.
5. 九 五 : 夬 履 貞 厲 .
Cửu ngũ: Quyết lý, trinh lệ.
Dịch: Hào 5, dương : Quyết tâm hành động quá thì tuy chính đáng cũng có thể nguy.
Giảng: Hào 5 đắc chính,
đắc trung ,rất tốt, nhưng ở địa vị chí tôn trong quẻ Lý (nói về cách ở
đời) thì e có lòng cương quyết quá mà tự thị, ỷ thế, mà hóa nguy.
6. 上 九: 視 履, 考 祥 . 其 旋, 元 吉 .
Thượng cửu: Thị lý, khảo tường, kỳ toàn, nguyên cát.
Dịch: Hào trên cùng,
dương, xem cách ăn ở trong đời người, cho nên Hào từ diễn ý nghĩa của
toàn quẻ chứ không diễn ý nghĩa của riêng hào cuối. Cũng là một lệ ngoại
như hào cuối cùng quẻ Tiểu súc.
Quẻ này tên là Lí có nghĩa là lễ, là dẫm
lên, nhưng cả 6 hào đều nói về cách ăn ở trong suốt đời người : mới ra
đời thì phải giữ tính chất phác trong trắng, rồi sau giữ vững đường
chính (hào 2); biết sức mình, đừng tự phụ (hào 3) để tránh nguy, biết
thận trọng, sợ hãi thì tốt (hào 4), và ở địa vị cao nhất, đừng ỷ thế mà
cương quyết quá (hào 5), cách ăn ở được như vậy cho tới cuối đời thì tốt
không gì bằng.
Chúng ta để ý: Quẻ này cũng chỉ có một hào âm mà không có nghĩa thống lĩnh quần dương như quẻ tiểu súc. Như vậy là biến dịch.
11. QUẺ ĐỊA THIÊN THÁI
Trên là Khôn (đất), dưới là Càn (trời)
Trên là Khôn (đất), dưới là Càn (trời)
Đồ hình quẻ 11 Địa Thiên Thái
Lý là lễ, có
trật tự trên dưới phân minh, như vậy thì yên ổn, Lý cũng có nghĩa là
dẫm, là giày (dép) đi giày thì được yên ổn; vì vậy sau quẻ Lý, tiếp tới
quẻ Thái. Thái nghĩa là yêu thích, thông thuận.
Thoán từ
泰: 小 往 大 來 , 吉, 亨 .
Thái: Tiểu vãn đại lai, cát, hanh.
Dịch: Thái là cái nhỏ (âm), đi, cái lớn (dương ) lại, tốt, hanh thông.
Giảng: Trong quẻ Lí, Càn là trời, cương, Đoài là chằm, nhu; trên dưới phân minh, hợp lẽ âm dương, tốt.
Trong quẻ Thái này, Càn không nên hiểu là
trời, vì nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn trên dưới phân
minh nữa, xấu. Nên hiểu Càn là khí dương, Khôn là khí âm “khí dương ở
dưới có tính cách thăng mà giao tiếp với âm, khí âm ở trên có tính cách
giao tiếp với khí dương”, hai khí giao hòa, mà mọi vật được yên ổn, thỏa
thích.
Một cách giảng nữa. Theo Phan Bội Châu (sách đã dẫn) thì:
Nguyên Thuần âm là quẻ Khôn, là âm thịnh
chi cực, cực thì phải tiêu, nhân đó một nét dương thay vào dưới, hào 1
của Khôn thành ra quẻ Phục, Phục là một dương mới sinh.
Dương sinh đến hào thứ hai thì thành quẻ
Lâm [ 臨 ] , thế là dương đã lớn thêm lần lần. Khí dương sinh đến hào thứ
3 thì thành quẻ Thái, trên là Khôn, dưới là Càn.
Khôn là âm nhu, là tiểu nhân; Càn là quân
tử . Quẻ Thái là tượng đạo tiểu nhân dương tiêu mòn, đạo quân tử dương
lớn mạnh, hai bên ngang nhau cho nên gọi là Thái.
Thoán từ bàn thêm:
“Thái là lúc cái nhỏ đi, cái lớn trở lại ( . . . ) là trời đất giao cảm
mà muôn vật thông, trên dưới giao cảm mà chí hướng như nhau. Trong (nội
quái) là dương, ngoài (ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận,
trong quân tử mà ngoài tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu
nhân thì tiêu lần.
Hào từ:
1. 初 九 : 拔 茅 茹 . 以 其 彙 . 征 吉 .
Sơ cửu: bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, chinh cát.
Dịch: Hào 1, dương : Nhổ rể cỏ mao mà được cả đám, tiến lên thì tốt.
Giảng: Hào nay là người
có tài, còn ở vị thấp, nhưng cặp với hào hai trên, như có nhóm đồng chí
dắt díu nhau tiến lên, để gánh việc thiên hạ, cho nên việc làm dễ có kết
quả như nhổ rể có mao, nhổ một cọng mà được cả đám.
2. 九 二 : 包 荒 , 用 馮 河 , 不 遐 遺 .朋 亡 , 得 尚 于 中 行 .
Cửu nhị : Bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di,
Bằng vong, đắc thượng vu trung hành.
Dịch: Bao dung sự hoang
phế (những tệ hại cũ), dùng cách cương quyết mạo hiểm như lội qua sông,
không bỏ sót những việc (hoặc người ) ở xa, không nghĩ đến bè đảng, mà
phải hợp với đạo trung.
Giảng: Hào dương, đắc
trung, đồng chí đã đông (hào 1 và 3) lại ứng hợp với hào 5 âm, cũng đắc
trung, tức với vị nguyên thủ tin cậy, nghe theo mình, vậy là có tài lớn
mà hoàn cảnh rất thuận lợi; nhưng cần có những đức này nữa:
– Có độ lượng, bao dung một số tệ hại cũ còn lại, đừng mong trừ tiệt ngay trong buổi đầu.
– Có đức cương quyết mạo hiểm như người có gan lội qua sông, như luận hgữ nói: bạo hổ bằng hà.
– Tính trước những việc xa xôi sẽ xảy tới (có người hiểu là đừng bỏ sót những người ở xa).
– Đừng có tinh thần đảng phái mà có hại cho đại nghĩa.
Cần nhất là giữ đạo trung của hào 2, việc gì cũng vừa phải thôi, chẳng hạn bao dung quá hay mạo hiểm quá đều là hại cả.
3. 九 三 : 无 平 不 陂 , 无 往 不 復 . 艱 貞 无 咎 , 勿 恤, 其 孚 , 于 食 有 福 .
Cửu tam: Vô hình bất bí, vô vãng bất phục.
Gian trinh vô cửu, vật tuất, kỳ phu, vu thực hữu phúc.
Dịch: Hào 3, dương: không
có cái gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại, trong
cảnh gian nan mà giữ được chính đáng thì không lỗi. Đừng lo phiền, cứ
tin ở điều chính thì được hưởng phúc.
4. 六 四 : 翩 翩 , 不 富, 以 其 鄰 , 不 戒 以 孚 .
Lục tứ: Phiên phiên, bất phú, dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu.
Dịch: Hào 4, âm : Dập dìu (hoặc hớn hở) với nhau, không giàu mà thành một xóm, chẳng ước hẹn mà cũng tin nhau.
Giảng: đây đã qua nửa quẻ
Thái, dương suy, bày âm (ba hào âm) tức bọn tiểu nhân kết hợp với nhau,
tuy chúng không “giàu”, không có tài đức (âm có nghĩa là hư, trái với
thực – dương – cho nên bảo là không giàu) nhưng cũng thành một xóm đông,
đồng tâm với nhau chẳng ước hẹn mà cùng tin nhau, vì cùng sẵn lòng gian
tà cả.
5. 六 五 : 帝 乙 歸 妹 . 以 祉, 元 吉 .
Lục ngũ: Đế Ất qui muội, dĩ chỉ, nguyên cát.
Dịch: Như vua đế Ất (đời Thương) cho em gái về nhà chồng, có phúc, rất tốt.
Giảng: Hào âm này đắc
trung, tuy ở địa vị chí tôn mà khiêm nhu, lại ứng hợp với hào 2, dương ở
dưới, như em gái vua Đế Ất, chịu làm vợ một người hiền trong giới bình
dân, sẽ được hưởng phúc.
6. 上 六 : 城 復 于 隍 , 勿 用 師 , 自 邑 告 命, 貞 吝 .
Thượng lục: Thành phục vụ hoàng, vật dụng sư,
Tự ấp cáo mệnh, trinh lận.
Dịch: Hào trên cùng, âm:
thành đổ sụp xuống, lại chỉ là đống đất. Đừng dùng quân nữa, bất quá
mệnh lệnh chỉ ban ra đựơc trong ấp mình thôi. Dù hành động của mình
chính đáng nhưng vẫn thất bại mà xấu hổ.
Giảng: Đây tới lúc cuối
cùng của thời Thái, sắp bĩ rồi, như cái thành sụp xuống. Vì là hào âm
lại ở địa âm, đừng tranh giành (dùng quân ) nữa, không cứu vãn được đâu,
có ban lệnh cũng chỉ một ấp mình nghe thôi.
Hai chữ “trinh lận”, R. Wilhem giaeng là :
dù có kiên nhẫn (chống đỡ) cũng thất bại mà xấu hổ. Chúng tôi nghĩ hào
cuối này âm nhu thái quá, không có chí kiên nhẫn được, nên dịch theo Chu
Hi.
*
Dưới đây chúng tôi chép thêm lời bàn của
Phan Bội Châu (tr. 285 – 286) “Chúng ta đọc Dịch từ lúc có Càn, Khôn,
trải qua trung gian, nào Truân mà kinh luận: nào Mông mà giáo dục; nào
Nhu mà sinh tụ; nào Tụng, nào sư mà sắp đặt việc binh, việc hình; nào
Súc, nào Lý mà chỉnh đốn việc kinh tế, việc lễ chế; hao tổn biết bao tâm
huyết, chứa trữ biết bao thì giờ. Kể về phần Khảm (hiểm) trải qua đến 6
lần:
1. Truân, Khảm thượng 2. Mông . khảm hạ
3. Nhu , Khảm thượng 4. Tụng, Khảm hạ.
5. Sư, Khảm hạ 6. Ti, Khảm thượng.
Thoát khỏi 6 lần nguy hiểm rồi. Vậy sau,
trong có chốn nuôi trữ là Tiểu súc, ngoài có chốn bằng tạ (nhờ cậy, ỷ
vào) là Lý. Bây giờ mới làm nên Thái.
Thái vừa đến cuối cùng, tức khắc ra Bĩ
(coi quẻ sau ). Ghê gớm thật ! Làm nên tốn vô số công phu mà làm hư chỉ
trong chốc lát, vun đắp biết bao nền tảng mà đánh đổ chỉ trong nháy mắt.
Không chắc đó đã là thâm ý của người sắp đặt các quẻ, nhưng việc đời quả có như vậy: Kiến thiết lâu, suy rất chóng.
12. QUẺ THIÊN ĐỊA BĨ
Trên là Càn (trời) dưới là Khôn (đất)
Trên là Càn (trời) dưới là Khôn (đất)
Đồ hình quẻ Thiên Địa Bĩ
Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ.
Thoán tử.
否之匪人, 不利君子貞, 大往小來.
Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
Dịch: Bĩ không phải đạo người (phi nhân
nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không lợi cho đạo chính của quân tử
(Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà cái nhỏ (âm) lại.
Giảng: Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở
dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi
lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế
tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi
với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử
tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên.
Đại tượng truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì
người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng
giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả.
(Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn.
Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân,
người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế
tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân
mình thôi.
Hào từ.
1.
初六: 拔茅茹, 以其彙, 貞吉亨.
Sơ lục: Bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, trinh cát hanh.
Dịch: Hào 1 âm: Nhổ rễ cỏ mao mà được cả đám, hễ chính thì tốt mà hanh thông.
Giảng: Hào này rất giống hào 1 quẻ Thái:
cũng “bạt mao dĩ kỳ vị” vì quẻ Thái hào 1 cặp với hai hào trên, quẻ này
cũng vậy, cũng có đồng chí, làm việc dễ có kết quả; chỉ khác quẻ thái
hào 1 là dương, quân tử, quẻ này hào 1 là âm, tiểu nhân; cho nên quẻ
Thái khuyên cứ tiến lên (chính) sẽ tốt; còn quẻ này thì khuyên phải
“trinh” chính đáng (trinh – khác nhau ở hai chữ chính [正] và trinh [貞]
thì sẽ tốt và hanh thông.
Hào 1 quẻ Bĩ là tiểu nhân nhưng mới bước
đầu, cái ác chưa hiện rõ, lại ứng hợp với hào 4 ở trên là quân tử, cho
nên còn có hy vọng cải hóa được. Ðại tượng truyện bảo: nếu để tâm giúp
nước (chí tại quân – quân là vua, là quốc gia) như hào 4 thì sẽ tốt. Như
vậy là có ý khuyên tiểu nhân nên đứng vào phe quân tử .
2.
六二: 包承, 小人吉;大人否, 亨.
Lục nhị: Bào thừa, tiểu nhân cát; đại nhân bĩ, hanh.
Dịch: Hào 2, âm: Tiểu nhân chịu đựng và
vâng thuận người quân tử thì tốt: đại nhân (có đức lớn) nên giữ tư cách
trong cảnh bế tắc (khốn cùng) thì hanh thông.
Giảng: Hào này tuy là tiểu nhân, nhưng đắc
trung đắc chính, chung quanh là tiểu nhân cả, mà ứng hợp với hào 5 quân
tử ở trên, cho nên hào từ khuyên nó nên vâng thuận quân tử thì tốt. Còn
kẻ đại nhân được bọn tiểu nhân vâng thuận – vì chúng muốn mua danh –
thì cũng đừng theo chúng, cứ giữ khí tiết của mình trong thời khốn cùng,
như vậy sẽ hanh thông.
3.
六三: 包羞.
Lục tam: Bao tu .
Dịch: Hào 3, âm: Chứa chất sự gian tà, xấu hổ.
Giảng: Hào này, không trung, không chính,
là kẻ đứng đầu bọn tiểu nhân (vì ở trên cùng nội quái khôn), cho nên rất
xấu, đáng ghét.
4.
九四:有命, 无咎.疇離祉.
Cửu tứ: Hữu mệnh, vô cữu. Trù li chỉ.
Dịch : Hào 4 dương : có mệnh trời (tức như
thời vận đã tới) thì không lỗi mà bạn của mình cũng nhờ cậy mình mà
được hưởng phúc.
Giảng: Hào này ở quá nửa quẻ Bĩ, có mòi
sắp hết bĩ rồi, cho nên nói là thời vận đã tới; nó là dương ở trong
ngọai quái Càn, chính là người quân tử thực hiện được chí của mình. Bạn
của nó, tức hai hào 5, 6 cùng là dương cả – cũng sẽ được hưởng phúc.
5.
九五: 休否, 大 人吉.其亡, 其亡, 繫于苞桑.
Cửu ngũ: Hưu bĩ, đại nhân cát.
Kỳ vong, kỳ vong, hệ vu bao tang.
Dịch: Hào 5, dương : làm
cho hết bĩ, đó là đạo tốt của bậc đại nhân (tuy nhiên, phải biết lo). Có
thể mất đấy, (đừng quên điều đó thì mới vững như buộc vào một cụm dâu
(dây dâu nhiều rễ, ăn sâu dưới đất, rất khó nhổ).
Giảng: Hào này có đức
dương cương trung chính, lại ở vào ngôi chí tôn, trong thời Bĩ sắp hết,
cho nên lời đoán là tôt. Những vẫn phải thận trọng, đừng sai sót.
Theo Hệ từ hạ chương V thì Khổng tử đọc
tới hào này, bàn thêm rằng: “Người quân tử khi yên ổn thì không nên quên
rằng sẽ có thể nguy; khi vững thì không quên rằng có thể mất, khi trị
thì không quên rằng sẽ có thể loạn. Nhờ vậy mà thân an nước nhà giữ vững
được.”
6.
上九: 傾否, 先否, 後喜.
Thượng cửu: Khuynh bĩ, tiên bĩ, hậu hĩ.
Dịch: Hào trên cùng, dương: đánh đổ được cái bĩ, trước còn bĩ, sau thì mừng.
Giảng: Đây là thời cuối
cùng của Bĩ mà bĩ cực thì thái lai; người quân tử có tài sẽ dắt cả bạn
bè (trỏ hào 4 và 5) mà đánh đổ dược bĩ. Nhưng mới đầu còn phải lo lắng
(tiên bĩ) sau mới mừng là bước lên được cảnh Thái rồi.
Chúng ta để ý: Quẻ Thái, mới đến hào 3,
còn thịnh cực mà Dịch đã khuyên phải giữ được chính đáng trong cảnh gian
nan (gian trinh); còn quẻ Bĩ, khi mới tới hào 4, mới có mòi sắp hết bĩ
mà Dịch đã khuyên là thời đã tới, người quân tử nên thực hiện chí của
mình đi. Nghĩa là luôn luôn phải sẵn sàng để nắm ngay lấy cơ hội.
13. QUẺ THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN
Trên là Càn (trời), dưới là Li (lửa)
Trên là Càn (trời), dưới là Li (lửa)
đồ hình |:||||
Không thể bế tắc, cách tuyệt nhau mãi được, tất phải có lúc giao thông hòa hợp với nhau; cho nên sau quẻ Bĩ tới quẻ Đồng Nhân.
Đồng nhân là cùng chung với người, đồng tâm với người.
Thoán từ:
同人于野, 亨.利涉大川.利君子貞.
Đồng nhân vu dã, hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi quân tử trinh.
Dịch: Cùng với người ở cánh đồng (mênh
mông) thì hanh thông. (gian hiểm như) Lội qua sông lớn, cũng lợi. Quẻ
này lợi cho người quân tử trung chính.
Giảng: li ở dưới là lửa, sáng, văn mình,
Càn ở trên là Trời. Quẻ này có tượng lửa bốc lên cao tới trời, cũng soi
khắp thế giới (cánh đồng mênh mông có nghĩa đó). Cho nên tốt. dù có hiểm
trở gì, cũng vượt được (Phan Bội Châu bảo đó “chính là cảnh tương đại
đồng rất vui vẻ”) Muốn vậy phải có được trung chính của người quân tử .
Thoán truyện cùng hào 2 ở nội quái ly, hào âm độc nhất, quan trọng nhất trong 6 hào mà giảng thêm:
Hào đó âm nhu đắc vị (tức là chính) đắc
trung, lại ứng hợp với hào 5 dương cương cũng đắc vị đắc trung trong
ngọai quái Càn, thế là có hiện tượng nội ngọai tương đồng, nên gọi là
đồng nhân. Văn minh (Ly) ở phía trong, cương kiện (Càn) tức dụng ở
ngoài, mà được cả trung lẫn chính, ứng hợp với nhau, đó là tượng người
quân tử thông suốt được tâm tri của thiên hạ.
Đại tượng truyện bàn thêm: Người ta muốn
thực hiện được cảnh tượng mọi vật cùng sống chung với nhau thì phải phân
biệt từng loại của các chủng tộc, xét kỹ mỗi sự vật (quân tử dĩ loại
tộc, biện vật); hễ cùng loại thì đặt chung với nhau và cho mỗi vật được
phát triển sở năng, thỏa được sở nguyện, có vậy thì tuy bất đồng mà hòa
đồng được.
Hào từ:
1.
初九: 同人于門, 无咎.
Sơ cửu: Đồng nhân vu môn, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương : Ra khỏi cửa để cùng chung với người thì không có lỗi.
Giảng: Hào dương này, như người quân tử
mới bắt đầu ra đời, đã muốn “đồng” (cùng chung) với người khác thì có
lỗi, có gì đáng trách đâu?
2.
六二: 同人于宗, 吝.
Lục nhị: Đồng nhân vu tôn, lận.
Dịch: Hào 2, âm: (chỉ) chung hợp với người trong họ, trong đảng phái, xấu hổ.
Giảng: Hào này tuy đắc trung đắc chính,
nhưng ở vào thời Đồng nhân, nên cùng chung với mọi người mà lại chỉ ứng
hợp riêng với hào 5 ở trên, như chỉ cùng chung với người trong họ, trong
đảng phái của mình thôi, thế là hẹp hòi, đáng xấu hổ.
3.
九三: 伏戎于莽, 升其高陵, 三歲不興.
Cửu tam: Phục nhung vu mãng,
Thăng kì cao lăng, tam tuế bất hưng.
Dịch: Hào 3, dương : núp quân ở rừng rậm (mà thập thò) lên gò cao, ba năm chẳng hưng vượng được.
Giảng: Hào này muốn hợp với hào 2 (âm) ở
dưới, nhưng nó quá cương (dương ở dương vị), lại bất đắc trung, như một
kẻ cường bạo; mà 2 đã ứng hợp với 5 ở trên, 3 sợ 5 mạnh nên không dám
công kích 2, chỉ núp trong rừng, rình trộm, rồi thập thò lên đồi cao mà
ngó (3 ở trên cùng nội quái, nên nói vậy); như vậy ba năm cũng không
tiến (hưng lên) được.
4.
九四: 乘其墉, 弗, 克攻, 吉.
Cửu tứ: thừa kỳ dung, phất, khắc công, cát.
Dịch: Hào 4, dương : cưỡi lên tường đất rồi mà không dám đánh thế là tốt.
Giảng: hào này cũng là dương cương, bất
trung, bất chính, cũng muốn hợp với 2, lăng áp 3 mà cướp 2 (hào 3 ở giữa
2 và 4 cũng như bức tường ngăn cách 2 và 4, 4 ở trên 3 như đã cưỡi lên
bức tường đó); nhưng tuy cương mà ở vị âm, còn có chút nhu, nên nghĩ
lại, không thể lấn áp 3 được, như vậy không nên, cho nên Hào từ bảo “thế
thì tốt” .
Tiểu tượng truyện khen là biết phản tắc (反則) tức biết trở lại phép tắc.
5.
九五: 同人, 先號咷而. 後笑, 大師克相遇.
Cửu ngũ: Đồng nhân, tiên hào đào nhi
Hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ.
Dịch: Hào 5, dương: Cùng với người, trước thì kêu rêu, sau thì cười, phải dùng đại quân đánh rồi mới gặp nhau.
Giảng: hào này dương cương trung chính,
ứng hợp với hào 2, thật là đồng tâm đồng đức, tốt. Nhưng giữa 5 và 2,
còn có hai hào 3 và 4 ngăn cản, dèm pha, phá rối, nên mới đầu phải kêu
rêu, phải dùng đại quân dẹp 3 và 4 rồi 2 và 5 mới gặp nhau mà vui cười.
Công việc hòa đồng nào mới đầu cũng bị nhiều kẻ ngăn cản như vậy, không
dễ dàng thực hiện ngay được, dù là hợp với công lý, với hạnh phúc số
đông.
6.
上九: 同人于郊, 无悔.
Thượng cửu: Đồng nhân vu giao, vô hối.
Dịch: Hào trên cùng, dương : cùng với người ở cánh đồng ngoài đô thành, không hối hận.
Giảng: “Giao” là cánh đồng ngòai đô thành,
không rộng bằng “dã” (đồng nội nơi nhà quê). Hào này tuy ở cuối quẻ
Đồng nhân, không có hào nào ứng hợp với nó, cho nên chí chưa được thì
hành như mình muốn, mới chỉ như cùng với người ở cánh đồng ngoài đô
thành thôi, chưa ở giữa quãng đồng nội được.
*
Đọc quẻ này, chúng ta rút ra được hai lời khuyên:
– Muốn hòa đồng thì đừng có tinh thần đảng
phái; phải tôn trọng đặc tính của mỗi hạng người, khả năng cùng nhu cầu
của mỗi người.
– Công việc hòa động mọi người tuy rất chính đáng, mang hạnh phúc cho dân chúng nhưng cũng gian nan, bị nhiều kẻ phá.
14. QUẺ HỎA THIÊN ĐẠI HỮU
Trên là Ly (Lửa), dưới là Càn (trời)
Trên là Ly (Lửa), dưới là Càn (trời)
đồ hình ||||:|
Đã cộng
đồng với mọi người thì mọi người về với mình, mà sở hữu của mình cũng
lớn, cho nên sau quẻ Đồng nhân, tới quẻ Đại hữu (có lớn).
Thoán từ:
大有: 元亨.
Đại hữu: Nguyên hanh.
Dịch: Có lớn thì rất hanh thông.
Giảng: ☲ ở trên Càn là lửa ở trên trời,
chiếu sáng mọi vật như vậy là “có lớn” Ly lại có nghĩa là văn minh, Càn
là cương kiện, gồm cả văn minh và cương kiện cho nên rất hanh thông.
Theo Thoán truyện: Còn một cách giảng nữa:
quẻ này chỉ có một hào âm, nó thống lĩnh quần dương, 5 hào dương đều
theo nó, có nghĩa là mọi người về với nó, mà nó được “có lớn”. Sở dĩ nó
thống lĩnh được vì nó ở ngôi tôn mà lại đắc trung. Nó ứng hợp với hào 2,
dương ở giữa quẻ Càn, như vậy nó vừa văn minh vừa cương kiện, ứng với
trời (Càn) mà hành động đúng với thời.
Đại tượng truyện khuyên: người quân tử
trong quẻ này phải ngăn đón ngay điều dữ khi nó chưa phát hiện, và biểu
dương điều tốt khi nó còn mập mờ để thuận mệnh tốt của trời (át ác dương
thiện, thuận thiên hưu mệnh: chữ hưu ở đây là tốt).
Hào từ:
1.
初九: 无交害, 匪咎; 艱則无咎.
Sơ cửu: Vô giao hại, phỉ cữu; nan tắc vô cửu.
Dịch : Hào 1. dương : chưa làm việc gì tai
hại, chưa có lỗi; nhưng phải (cẩn thận) cư xử như gặp lúc gian nan thì
mới khỏi lỗi.
Giảng: Đại hữu là có lớn. Hào 1 như con
một nhà giàu sang, còn trẻ, chưa làm gì tai hại thì chưa có tội, nhưng
vì là con nhà giàu, ít người ưa, nếu lại kiêu căng xa xỉ thì sẽ gây oán
ghét, cho nên Hào từ khuyên sống trong cảnh gian nan thì mới khỏi tội.
2.
九二: 大車以載, 有攸往, 无咎.
Cửu nhị: đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cửu.
Dịch: Hào 2, dương : xe lớn chở nặng, đi chốn nào (ý nói làm gì) cũng được, không có lỗi.
Giảng: Hào này tốt nhất trong quẻ : dương
cương mà đắc trung, vừa có tài vừa khiêm tốn, được hào 5, âm ở trên ứng
hợp, như được vua hết sức tin dùng sẽ thành công, cho nên ví với cỗ xe
lớn chở nặng đi đường xa, đâu cũng tới được.
3.
九三: 公用亨于天子, 小人弗克.
Cửu tam: Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc.
Dịch: Hào 3, dương : như bậc công (hầu) mở tiệc mời thiên tử hạng tiểu nhân không đương nổi việc đó.
Giảng: Thời xưa chữ [ 亨 ] đọc là hanh
(nghĩa là hanh thông) mà cũng đọc là hưởng) nghĩa là hưởng dụng, dâng,
yến tiệc, lễ lớn) Chu Hi hiểu là triều hiến. R.Wilhem hiểu là đem đất
đai của cải dâng thiên tử, hoặc cho dân chúng.
Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như
trên. Hào 3 này dương cương đắc chính, đứng trên cùng nội quái, cho nên
ví với một bậc công; ở vào thời Đại hữu tất có nhiều đất đai, nhân dân;
nên bậc thiên tử cũng nể, tới dự tiệc do vị công đó đãi. Những phải là
người quân tử, có đức hạnh, không kiêu, mới làm như vậy được; còn hàng
tiểu nhân, thấy thiên tử tới nhà mình càng kiêu căng, xa xỉ thì không
đương nổi danh dự đó, mà chỉ hại thôi (tiểu nhân hại dã – lời Tiểu tượng
truyện)
4.
九四: 匪其彭, 无咎.
Cửu tứ: phỉ kỳ bành, vô cữu.
Dịch: Hão, dương: đừng làm ra vẻ thịnh vượng (khoe của, sống sang quá) thì không có lỗi.
Giảng: Chữ bành [ 彭 ] ở đây, Trình tử hiểu
là thịnh vượng; Phan Bội Châu dẫn câu “Hành nhân bành bành” trong Kinh
Thi mà hiểu là rầm rộ. Chúng tôi châm chước hai nghĩa đó mà dịch như
trên.
Hào này ở địa vị cao, gần hào 5, mà bất
trung , bất chính, e có họa tới nơi, nên Hào từ khuyên phải khiêm tốn,
tiết kiệm. Tiểu tượng truyện cũng khuyên phải phân biệt thị phi họa phúc
cho rành thì mới khỏi lỗi.
5.
六五: 厥孚交如, 威如, 吉.
Lục ngũ: quyết phu giao như, uy như, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Lấy đức tin, chí hành mà giao thiệp, và phải có uy thì tốt.
Giảng: Hào này ở vị chí tôn, đượccả 5 hào
dương theo, nên phải đem đức tin, lòng chí thành mà đối đãi với người
dưới. Nhưng vì là âm, nên ngại rằng quá nhu, nên Hào từ khuyên phải có
chút uy mới được.
Tiểu tượng truyện cơ hồ hiểu khác, bảo
phải dùng uy vũ, đừng khinh dị mà phải phòng bị đạo tắc (uy như chi cát,
dị nhi vô bị dã) .
6.
上九: 自天祐之, 吉, 无不利.
Thượng cửu: tự thiên hựu chi, cát, vô bất lợi.
Dịch: hào trên cùng, dương : tự trời giúp cho, tốt, không có gì mà chẳng lợi.
Giảng: Ở thời Đại hữu, thịnh trị, hào
dương cương này ở trên cùng mà chịu hạ mình theo hào 5, chỉ vì 5 có đức
thành tín; như vậy là không kiêu, tuy thịnh mà không đầy tràn, nên được
trời giúp cho, hóa tốt, chứ lẽ thường hào cuối cùng, Đại hữu đã đến màn
cuối, khó mà tốt được.
Khổng tử đọc tới hào này bảo: “Trời sở dĩ
giúp cho là vì thuận với đạo trời; người sở dĩ giúp cho là vì có lòng
thành tín” . Ông muốn nói hào 5 được các hào khác giúp là vì có lòng
thành tín; còn hào trên cùng được trời giúp vì thuận với đạo trời: trọng
người hiền (hào 5) không kiêu.
Quẻ này khuyên chúng ta sống trong cảnh giàu có, nên khiêm, kiệm: giao thiệp với người , nên chí thành.
Phan Bội Châu nhận xét rằng trong 64 quẻ ,
không quẻ nào tốt đều như quẻ này: hào 1, 2, 3 đều không có lỗi, hào 4
được hanh thông, hào 5 tốt, hào 6 đã tốt hơn nữa, “không có gì mà chẳng
lợi”. Ngay đến quẻ Càn, quẻ Thái hào cuối cùng cũng xấu, kém quẻ này.
Đại hữu chính là thời thịnh trị sau thời đại đồng.
15. QUẺ ĐỊA SƠN KHIÊM
Trên là Khôn (đất), dưới là Cấn (núi)
Trên là Khôn (đất), dưới là Cấn (núi)
䷎ đồ hình ::|::: Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm. Thoán từ 謙: 亨, 君子有終. Khiêm: Hanh, quân tử hữu chung. Dịch: Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối. Giảng: Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông. Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ. Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người . Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được. Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình (Biều đa ích quả, xứng vật bình thí). Hào từ 初六: 謙謙君子, 用涉大川, 吉. Sơ lục: khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên, cát. Dịch : Hào 1, âm – Nhún nhường, nhún nhường, người quân tử dùng đức ấy để qua sông lớn thì tốt. Giảng: Hào này âm như mà lại ở dưới cùng, thật là khiêm hạ, dầu gặp hoàn cảnh hiểm nguy nào cũng vượt được. Tiểu tượng truyện khuyên người quân tử trau giồi tư cách mình bằng đức khiêm hạ, (Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục) 2 六二: 鳴謙, 貞吉. Lục nhị: Minh khiêm, trinh cát. Dịch:Hào 2, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức khiêm, nếu chính đáng thì tốt. Giảng: hào này nhu thuận, đắc trung, đắc chính, rất tốt, cho nên bảo là tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm. Nhưng ngại tiếng tăm lừng lẫy thì dễ ham danh, mà hóa ra quá khiêm đến mức giả nhún nhường hoặc nịnh bợ), nên Hào từ khuyên phải giữ đức trung, chính (trinh) của hào 2 thì mới tốt. 3. 九三: 勞謙, 君子 有終, 吉. Cửu tam: Lao khiêm, quân tử hữu chung, cát. Dịch: Hào 3, dương : Khó nhọc (có công lao) mà nhún nhường, người quân tử giữ được trọn vẹn, tốt. Giảng: hào này có đức dương cương, làm chủ cả quẻ, năm hào âm đều trông cậy vào, như người có địa vị (ở trên cùng nội quái), có tài năng (hào dương ) mà khiêm tốn (vì ở trong quẻ Khiêm), không khoe công, nên càng được mọi người phục, mà giữ được địa vị, đức độ tới cùng. Theo Hệ từ thượng truyện chương VIII, Khổng tử đọc hào này, giảng thêm: “Khó nhọc mà không khoe khoang, có công với đời mà chẳng nhận là ân đức, đức như vậy là cực dày”. 4. 六四: 无不利, 撝謙. Lục tứ: vô bất lợi, huy khiêm. Dịch: Hào 4, âm: Phát huy sự nhún nhường thì không gì là không lợi. Giảng: Hào này nhu thuận mà đắc chính, tốt đấy, nhưng vì ở trên hào 3 là người có công lao, mà lại ở gần hào 5, là vua, nên càng phải phát huy thêm đức khiêm, mới tránh được mọi khó khăn mà không gì là không lợi. 5. 六五: 不富以其鄰, 利用侵伐, 无不利. Lục ngũ: Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạt, vô bất lợi. Dịch: Hào 5, âm: chẳng cần giàu (có thế lực) mà thâu phục đựơc láng giềng (được nhiều người theo); nhưng phải có chút uy, chinh phạt kẻ nào chưa phục mình thì mới không gì là không lợi. Giảng: Hào này âm nhu, đắc trung, ở địa vị chí tôn, nên tự nhiên thâu phục được nhiều người, nhưng nếu nhu quá, thiếu uy thì không phải là tư cách một ông vua, nên Hào từ khuyên nên dùng uy võ đối với kẻ nào chưa phục mình. Hào này có thể dùng uy được vì ở vị dương (lẻ). 6. 上六: 鳴謙, 利用行師, 征邑國. Thượng lục: Minh khiêm, lợi dụng hành sư, chính ấp quốc. Dịch: Hào trên cùng, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm, được nhiều người theo có thể lợi dụng điều đó mà ra quân, nhưng cũng chỉ trị được những kẻ trong ấp của mình không phục mình thôi. Giảng: hào này thể nhu, vị nhu, ở vào thời cuối cùng quẻ Khiêm, cho nên khiêm nhu cùng vực, tiếng tăm lừng lẫy, nhiều người theo đấy; nhân đó mà có thể ra quân chinh phạt những kẻ không theo mình, nhưng vì tài kém, nên chỉ trị được những kẻ trong ấp mình thôi, chưa thỏa chí được. * Quẻ này hào nào cũng tốt không nhiều thì ít, không kém quẻ Đại hữu bao nhiêu. Đa số các triết gia Trung Hoa rất đề cao đức Khiêm, nhất là Khổng tử và Lão tử, vì họ cho rằng luật trời hễ đầy quá thì vơi, trong khi đầy phải nghĩ tới lúc sẽ vơi, phải khiêm hạ, đừng tự phụ. Không thể dẫn hết những châm ngôn của Trung Hoa về đức khiêm được; trong quẻ này chúng ta đã thấy được mấy câu như Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm, nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm, khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục. Trong Đạo đức kinh, cũng rất nhiều câu, như: Hậu kỳ thân nhi thân tiên; Qúi dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ; Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi: Bất cảm vi thiên hạ tiên . . Nhưng khiêm nhu của Lão tử có vẻ triệt để, tuyệt nhiên không tranh hơn với ai, mà khiêm nhu trong Dịch thì không thái quá, vẫn trọng đức trung (hào 2).
16 QUẺ LÔI ĐỊA DỰ
Trên là Chấn (sấm sét,) dưới là Khôn (đất)
Trên là Chấn (sấm sét,) dưới là Khôn (đất)
đồ hình :::|::
Đã Đại hữu mà lại Khiêm thì tất nhiên là vui vẻ, sung sướng, cho nên sau quẻ Khiêm, tới quẻ Dự (vui, sướng).
Thoán từ :
豫: 利建侯, 行師.
Dự: Lợi kiến hầu, hành sư.
Dịch: vui vẻ: Dựng tước hầu (để trị dân), ra quân thì tốt.
Giảng: Có ba cách giảng ý nghĩa quẻ này.
– Chấn ở trên, Khôn ở dưới, có nghĩa là ở trên thì động, hành động; ở dưới thuận theo, như vậy tất vui vẻ.
– Sấm ở trên đất, nghĩa là khí dương phát động (chấn thuộc dương) mà muôn vật ở trên phát sinh, cũng là cảnh tượng vui vẻ.
– Quẻ này chỉ có một hào dương (hào 4), 5
hào âm đều theo nó, nó làm chủ trong quẻ , như một người tài đức, làm
việc gì cũng thuận cả, tất thành công, sẽ vui vẻ, an ổn.
– Thuận với lẽ tự nhiên thì dù trời đất cũng nghe theo, huống hồ là việc dựng tước hầu, ra quân, dân há lại không theo.
– Thoán truyện bàn rộng thêm: Cái đạo
thuận lẽ mà hành động đó là đạo trời, cho nên mặt trời mặt trăng thay
nhau chiếu sáng ban ngày ban đêm, không bao giờ lầm; bốn mùa thay nhau
chẳng bao giờ sai. Thánh nhân thuận lẽ mà hành động thì hình phạt không
phiền phức mà dân chúng phục tòng.
Hào từ:
1.
初六: 鳴豫, 凶.
Sơ lục: Minh dự, hung.
Dịch: Hào 1, âm: Khoe mình vui sướng một cách ồn ào, xấu.
Giảng: Chữ Dự, tên quẻ có nghĩa là trên
dưới thuận nhu hành động mà cùng vui vẻ; còn chữ dự trong các hào thì có
nghĩa là cá nhân vui vẻ.
Như hào âm nhu ở dưới cùng này, bất trung,
bất chính, là một tiểu nhân, ỷ có hào 4 cương kiện và có địa vị ở trên
ứng viện, lấy làm đắc ý, bộc lộ nỗi sung sướng của mình một cách ồn ào,
thế là kiêu mạn, xấu.
2.
六二: 介于石, 不終日, 貞吉.
Lục nhị: giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.
Dịch: Hào 2, âm: Chí vững như đá, chẳng đợi hết ngày (mà ứng phó ngay), chính đính, bền, tốt.
Khổng tử, theo Hệ từ hạ truyện, Chương V,
cho rằng người quân tử biết trước được triệu chứng từ khi mới có dấu
hiệu, cho nên ứng phó mau, giao tiếp với kẻ trên thì không nịnh, với kẻ
dưới thì không nhờn, biết lúc nào nên nhu, lúc nào nên cương.
3.
六三: 盱豫, 悔遲, 有悔.
Lục tam: Hu dự, hối trì, hữu hối .
Dịch: Hào 3, âm: Ngửa mặt lên trên (mong
được phú quí) mà vui mừng, như vậy thế nào cũng ăn năn, mà sửa đổi chậm,
lại càng ăn năn hơn.
Giảng: Hào này cũng bất trung, bất chính,
như kẻ tiểu nhân ngó lên trên là hào 4 dương cương, mong được phú quí mà
vui mừng; không sớm rút chân ra khỏi cái bẩy quyền thế thì sẽ ân hận
lớn.
4.
九四: 由豫, 大有得; 勿疑, 朋盍簪.
Cửu tứ: Do dự, đại hữu đắc; vật nghi, bằng hạp trâm.
Dịch: Hào 4, dương : người khác nhờ mình
mà vui, mình có thể thành công lớn được; cứ hết lòng chí thành, đừng
nghi ngờ thì các bạn thanh khí sẽ lại giúp mình đông mà chóng.
Giảng: Hào này làm chủ trong quẻ , có tài,
có địa vị cao, lại được hào 5 (vua) hết lòng tin, nên tạo hạnh phúc
được cho người , thành công lớn được.
Nhưng là hào dương độc nhất trong quẻ một
mình đảm đương gánh nặng, có lúc chán nản, nghi ngờ, nên Hào từ khuyên
cứ chí thành, thì sẽ có nhiều bạn tới giúp.
5.
六五: 貞疾, 恆, 不死.
Lục ngũ: Trinh tật, hằng, bất tử.
Dịch: hào 5, âm : Bệnh hoài, dai dẳng nhưng không chết.
Giảng: Hào 5, ở địa vị chí tôn, nhưng âm
nhu, và có hào 4 được lòng dân, gánh hết việc thiên hạ, chuyên quyền; 5
chẳng phải làm gì cả, chỉ chìm đắm trong cảnh hoan lạc (vì ở thời Dự),
nên ví với một người bị bệnh hoài. Nhưng may là có 5 đắc trung mà 4 cũng
không áp bức, nên vẫn giữ được hư vị, cũng như bị bệnh dai dẳng mà
không chết.
Phan Bội Châu cho hào 5 này đúng là trường hợp các vua Lê nhu nhược bị chúa Trịnh chuyên quyền, nhưng vẫn giữ được hư vị.
6.
上六: 冥豫,成有渝, 无咎.
Thượng lục: Minh dự, thành hữu du, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, âm: mê tối vì hoan lạc, nhưng nếu biết sửa đổi nết xấu thì không lỗi.
Giảng: hào này âm nhu, bất trung bất
chính, lại ở thời cuối quẻ Dự, cho nên ví với người mê tối vì hoan lạc.
Nhưng cũng may, hào này ở trong ngoại quái Chấn, Chấn có nghĩa là động,
có hy vọng nhúc nhích tự cường được, như vậy sẽ không xấu.
*
Chúng ta nhận thấy tên quẻ là Vui, mà sáu
hào chỉ có hai hào (2 và 4) là tốt, còn 4 hào kia xấu nhiều hay ít cả,
xấu nhất là hào 1 vì kiêu mạn, khoe khoang ồn ào cái vui bất chính của
mình; mà tốt nhất là hào 2, vì không ham vui mà giữ vững chí mình.
Phan Bội Châu dẫn câu “Sinh ư ưu hoạn, nhi
tử ư an lạc” của Mạnh tử để kết, là tóm tắt được triết lý của quẻ này.
Quốc gia cũng như cá nhân, hễ sống trong cảnh vui sướng, vui vẻ quá thì
sẽ mau chết.
17. QUẺ TRẠCH LÔI TÙY
Trên là Đoài (chằm), dưới là Chấn (động, sấm sét)
đồ hình |::||: Dự là vui vẻ, vui vẻ thì có nhiều người theo nên tiếp sau là quẻ Tùy. Tùy là theo. Thoán từ 隨: 元, 亨, 利, 貞, 无咎. Tùy: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vô cữu. Dịch: Theo nhau: rất hanh thông, nhưng phải theo điều chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có lợi, không có lỗi. Giảng: Đoài ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động; đó là cái tượng hành động mà được người vui theo. Lại có thể giảng: Chấn là sấm, Đoài là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là tùy. Lời thoán từ quẻ này chỉ khác lời Thoán từ quẻ Càn vì có thêm hai chữ “vô cữu” (không có lỗi) ở sau, mà nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi dịch như trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất hanh thông) là “đức” (tính cách) của Tùy; còn trinh (chính đáng) là điều kiện để cho Tùy có lợi mà không có lỗi. Phan Bội Châu hiểu hơi khác: cả nguyên, hanh, lợi, trinh đều là điều kiện để “Tùy” có lợi mà không có lỗi. Theo người nhưng phải theo cái hay, theo đạo ; người có rất thiện (nguyên) , việc có thông thuận (hanh), có cái lợi công (lợi), thì mới nên theo, và khi theo thì phải giữ tiết tháo (trinh) thì mới không có lỗi. Đại khái ba cách hiểu đó cũng không khác nhau mấy. Mà quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xa. Thoán truyện bàn rộng thêm, đưa một điều kiện nữa: Theo mà phải đúng thời mới được. Ví dụ thời Hán, Vương Mãng cũng đã muốn làm một cuộc cách mạng xã hội; rất công bằng, tốt; nhưng thời đó sớm qua, nên thất bại. Tới đời Tống, Vương an Thạch cũng thất bại, như vậy là không hợp thời. Và Thoán truyện nhấn mạnh vào cái nghĩa tùy thời đó. (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai!) Hào từ; 1. 初九: 官有渝, 貞吉, 出門交有功. Sơ cửu: Quan hữu du, trinh cát, xuất môn giao hữu công. Dịch: Hào 1, dương : chủ trương thay đổi, hễ chính thì tốt, ra ngoài giao thiệp thì có công. Giảng: chữ “quan” ở đây có nghĩa là chủ, chữ “du” có nghĩa là thay đổi . Chu Hi hiểu là chủ trương thay đổi. Phan Bội Châu hiểu là cái thể của mình thay đổi, vì hào 1 là dương đáng lẽ làm chủ hai hào âm ở trên, nhưng ngược lại phải tùy hai hào đó (vì hào dương ở dưới cùng). Hiểu theo cách nào thì vẫn : cứ chính đáng, theo lẽ phải, thì tốt (trinh cát). Đừng theo tư tình, mà theo người ngoài (xuất môn) nếu họ phải , thì thành công. 2. 六二: 係小子, 失丈夫. Lục nhị: Hệ tiểu tử, thất trượng phu. Dịch: Hào 2, âm: Ràng buộc với kẻ thấp kém (nguyên văn là : con nít) mà mất kẻ trượng phu. Giảng: Hào này âm nhu,không biết giữ mình, gần đâu tùy đấy, nên ràng buộc với hào 1 dương (tiểu tử), mà bỏ mất hào 5 cũng dương , ở trên, ứng hợp với nó. Quẻ này, hễ là hào âm thì không dùng chữ tùy là theo, mà dùng chữ hệ là ràng buộc, có ý cho rằng âm nhu thì vì tư tình, hoặc lợi lộc mà quấn quít, còn dương cương thì vì chính nghĩa mà theo. 3. 六三: 係丈夫, 失小子; 隨有求得, 利居貞. Lục tam: Hệ trượng phu, thất tiểu tử; Tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh. Dịch: Hào 3, âm: Ràng buộc với trượng phu, bỏ kẻ thấp kém; theo như vậy cầu xin cái gì thì đựơc đấy, nhưng phải chính đáng mới có lợi. Giảng: Hào này cũng âm nhu như hào 2, gần đầu thân cận đấy, cho nên thân với hào 4 dương cương, có địa vị ở trên (tức với trượng phu) mà bỏ hào 1 (tiểu tử). Nó xin 4 cái gì cũng được vì 4 hơi có thế lực; nhưng Hào từ khuyên đừng xu thế trục lợi, phải giữ tư cách chính đáng thì mới tốt. 4. 九四: 隨有獲, 貞凶.有孚, 在道, 以明何咎. Cửu tứ: Tùy hữu hoạch, trinh, hung. Hữu phu, tại đạo, dĩ minh hà cữu. Dịch: Hào 4, dương : Theo thì thu hoạch được lớn đấy, nhưng dù lẽ vẫn ngay mà cũng có thể gặp hung được. Cứ giữ lòng chí thành, theo đạo lý, lấy đức sáng suốt mà ứng phó thì không có lỗi. Giảng: Hào này như một vị cận thần, được vua tin cậy (5 và 4 cùng là dương cả), ở vào thời Tùy là thiên hạ theo mình, như vậy thu hoạch được lớn (có thể hiểu là được lòng dân, hoặc lập được sự nghiệp); nhưng chính vì vậy mà có thể gặp hung (chẳng hạn bị ngờ là chuyên quyền, bị vua ganh ghét như Nguyễn Trãi). Cho nên Hào từ khuyên giữ lòng chí thành theo đạo lý sáng suốt ứng phó (nghĩa là có đủ ba đức: tín, nhân, trí) thì mới khỏi lỗi. 5. 九五: 孚于嘉, 吉. Cửu ngũ: phu vu gia, cát. Dịch: Hào 5, dương. Tín thành với điều thiện thì tốt. Giảng: Hào 5, dương cương, ở vị tôn, trung và chính, lại ứng hợp với hào 2, cũng trung chính, cho nên rất tốt. “Gia” , điều thiện, ở đây là đức trung chính. 6. 上六: 拘係之, 乃從維之.王用亨于西山. Thượng lục: câu hệ chi, mãi tòng duy chi. Vương dụng hanh vu Tây Sơn. Dịch: Hào trên cùng, âm. Ràng buộc lấy, theo mà thắt chặt lấy; Thái Vương nhà Chu, được nhân tâm như vậy mới lập được nghiệp vương hanh thịnh ở Tây sơn (tức Kỳ sơn). Giảng: Hào này ở cuối quẻ Tùy, là được nhân tâm theo đến cùng cực, như thắt chặt với mình, như vua Thái Vương nhà Chu, lánh nạn rợ Địch, bỏ ấp Mân mà chạy sang đất Kỳ Sơn (năm -1327), người ấp Mân già trẻ trai gái dắt díu nhau theo, đông như đi chợ. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch câu: “Vương dụng hanh vu Tây sơn” như vậy. Chu Hi bảo chữ [ 亨 ] phải đọc là hưởng và hiểu là : vua dùng ý thành mà làm tế hưởng ở đất Tây Sơn. J. Legge cũng dịch như Chu Hi. R.Wilhem cũng đọc là hưởng mà hiểu khác nữa: Vua cho những công thần được phụ hưởng (thờ chung với tổ tiên nhà Chu) ở nhà Thái Miếu tại Tây Sơn. * Quẻ này khuyên chúng ta chỉ nên theo chính nghĩa (chứ đừng vì tư tình, vì lợi) và biết tùy thời, như vậy thì tốt tới cùng được (hào cuối, đạt đến cực điểm mà vẫn không xấu.)
Trên là Đoài (chằm), dưới là Chấn (động, sấm sét)
đồ hình |::||: Dự là vui vẻ, vui vẻ thì có nhiều người theo nên tiếp sau là quẻ Tùy. Tùy là theo. Thoán từ 隨: 元, 亨, 利, 貞, 无咎. Tùy: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vô cữu. Dịch: Theo nhau: rất hanh thông, nhưng phải theo điều chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có lợi, không có lỗi. Giảng: Đoài ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động; đó là cái tượng hành động mà được người vui theo. Lại có thể giảng: Chấn là sấm, Đoài là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là tùy. Lời thoán từ quẻ này chỉ khác lời Thoán từ quẻ Càn vì có thêm hai chữ “vô cữu” (không có lỗi) ở sau, mà nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi dịch như trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất hanh thông) là “đức” (tính cách) của Tùy; còn trinh (chính đáng) là điều kiện để cho Tùy có lợi mà không có lỗi. Phan Bội Châu hiểu hơi khác: cả nguyên, hanh, lợi, trinh đều là điều kiện để “Tùy” có lợi mà không có lỗi. Theo người nhưng phải theo cái hay, theo đạo ; người có rất thiện (nguyên) , việc có thông thuận (hanh), có cái lợi công (lợi), thì mới nên theo, và khi theo thì phải giữ tiết tháo (trinh) thì mới không có lỗi. Đại khái ba cách hiểu đó cũng không khác nhau mấy. Mà quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xa. Thoán truyện bàn rộng thêm, đưa một điều kiện nữa: Theo mà phải đúng thời mới được. Ví dụ thời Hán, Vương Mãng cũng đã muốn làm một cuộc cách mạng xã hội; rất công bằng, tốt; nhưng thời đó sớm qua, nên thất bại. Tới đời Tống, Vương an Thạch cũng thất bại, như vậy là không hợp thời. Và Thoán truyện nhấn mạnh vào cái nghĩa tùy thời đó. (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai!) Hào từ; 1. 初九: 官有渝, 貞吉, 出門交有功. Sơ cửu: Quan hữu du, trinh cát, xuất môn giao hữu công. Dịch: Hào 1, dương : chủ trương thay đổi, hễ chính thì tốt, ra ngoài giao thiệp thì có công. Giảng: chữ “quan” ở đây có nghĩa là chủ, chữ “du” có nghĩa là thay đổi . Chu Hi hiểu là chủ trương thay đổi. Phan Bội Châu hiểu là cái thể của mình thay đổi, vì hào 1 là dương đáng lẽ làm chủ hai hào âm ở trên, nhưng ngược lại phải tùy hai hào đó (vì hào dương ở dưới cùng). Hiểu theo cách nào thì vẫn : cứ chính đáng, theo lẽ phải, thì tốt (trinh cát). Đừng theo tư tình, mà theo người ngoài (xuất môn) nếu họ phải , thì thành công. 2. 六二: 係小子, 失丈夫. Lục nhị: Hệ tiểu tử, thất trượng phu. Dịch: Hào 2, âm: Ràng buộc với kẻ thấp kém (nguyên văn là : con nít) mà mất kẻ trượng phu. Giảng: Hào này âm nhu,không biết giữ mình, gần đâu tùy đấy, nên ràng buộc với hào 1 dương (tiểu tử), mà bỏ mất hào 5 cũng dương , ở trên, ứng hợp với nó. Quẻ này, hễ là hào âm thì không dùng chữ tùy là theo, mà dùng chữ hệ là ràng buộc, có ý cho rằng âm nhu thì vì tư tình, hoặc lợi lộc mà quấn quít, còn dương cương thì vì chính nghĩa mà theo. 3. 六三: 係丈夫, 失小子; 隨有求得, 利居貞. Lục tam: Hệ trượng phu, thất tiểu tử; Tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh. Dịch: Hào 3, âm: Ràng buộc với trượng phu, bỏ kẻ thấp kém; theo như vậy cầu xin cái gì thì đựơc đấy, nhưng phải chính đáng mới có lợi. Giảng: Hào này cũng âm nhu như hào 2, gần đầu thân cận đấy, cho nên thân với hào 4 dương cương, có địa vị ở trên (tức với trượng phu) mà bỏ hào 1 (tiểu tử). Nó xin 4 cái gì cũng được vì 4 hơi có thế lực; nhưng Hào từ khuyên đừng xu thế trục lợi, phải giữ tư cách chính đáng thì mới tốt. 4. 九四: 隨有獲, 貞凶.有孚, 在道, 以明何咎. Cửu tứ: Tùy hữu hoạch, trinh, hung. Hữu phu, tại đạo, dĩ minh hà cữu. Dịch: Hào 4, dương : Theo thì thu hoạch được lớn đấy, nhưng dù lẽ vẫn ngay mà cũng có thể gặp hung được. Cứ giữ lòng chí thành, theo đạo lý, lấy đức sáng suốt mà ứng phó thì không có lỗi. Giảng: Hào này như một vị cận thần, được vua tin cậy (5 và 4 cùng là dương cả), ở vào thời Tùy là thiên hạ theo mình, như vậy thu hoạch được lớn (có thể hiểu là được lòng dân, hoặc lập được sự nghiệp); nhưng chính vì vậy mà có thể gặp hung (chẳng hạn bị ngờ là chuyên quyền, bị vua ganh ghét như Nguyễn Trãi). Cho nên Hào từ khuyên giữ lòng chí thành theo đạo lý sáng suốt ứng phó (nghĩa là có đủ ba đức: tín, nhân, trí) thì mới khỏi lỗi. 5. 九五: 孚于嘉, 吉. Cửu ngũ: phu vu gia, cát. Dịch: Hào 5, dương. Tín thành với điều thiện thì tốt. Giảng: Hào 5, dương cương, ở vị tôn, trung và chính, lại ứng hợp với hào 2, cũng trung chính, cho nên rất tốt. “Gia” , điều thiện, ở đây là đức trung chính. 6. 上六: 拘係之, 乃從維之.王用亨于西山. Thượng lục: câu hệ chi, mãi tòng duy chi. Vương dụng hanh vu Tây Sơn. Dịch: Hào trên cùng, âm. Ràng buộc lấy, theo mà thắt chặt lấy; Thái Vương nhà Chu, được nhân tâm như vậy mới lập được nghiệp vương hanh thịnh ở Tây sơn (tức Kỳ sơn). Giảng: Hào này ở cuối quẻ Tùy, là được nhân tâm theo đến cùng cực, như thắt chặt với mình, như vua Thái Vương nhà Chu, lánh nạn rợ Địch, bỏ ấp Mân mà chạy sang đất Kỳ Sơn (năm -1327), người ấp Mân già trẻ trai gái dắt díu nhau theo, đông như đi chợ. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch câu: “Vương dụng hanh vu Tây sơn” như vậy. Chu Hi bảo chữ [ 亨 ] phải đọc là hưởng và hiểu là : vua dùng ý thành mà làm tế hưởng ở đất Tây Sơn. J. Legge cũng dịch như Chu Hi. R.Wilhem cũng đọc là hưởng mà hiểu khác nữa: Vua cho những công thần được phụ hưởng (thờ chung với tổ tiên nhà Chu) ở nhà Thái Miếu tại Tây Sơn. * Quẻ này khuyên chúng ta chỉ nên theo chính nghĩa (chứ đừng vì tư tình, vì lợi) và biết tùy thời, như vậy thì tốt tới cùng được (hào cuối, đạt đến cực điểm mà vẫn không xấu.)
18. QUẺ SƠN PHONG CỔ
Trên là Cấn (núi), dưới là Tốn (gió)
đồ hình :||::|
Trên là Cấn (núi), dưới là Tốn (gió)
đồ hình :||::|
Vui theo thì
tất có công việc làm, cho nên sau quẻ Tùy, tới quẻ Cổ. Cổ có hai nghĩa:
đổ nát và công việc. Hễ đổ nát thì phải sửa sang lại, thế là có công
việc.
Thoán từ:
蠱: 元亨, 利涉大川.先甲三日, 後甲三日.
Cổ: Nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên
Tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật.
Dịch: Đổ nát mà làm lại mới thì rất tốt,
vượt qua sông lớn thì lợi. Ba ngày trước ngày giáp (nghĩa là phải tìm
nguyên nhân từ trước), ba ngày sau ngày giáp (phải nghĩ đến tương lai
nên thể nào).
Giảng: Quẻ này trên là núi, dưới là gió, gió đụng núi, quật lại, đó là tượng loạn, không yên, tất phải có công việc.
Cũng có thể giảng như sau: tốn ở dưới là
thuận, mà Cấn ở trên là ngưng chỉ; người dưới thì thuận mà người trên cứ
ngồi im; hoặc người dưới một mực nhu, người trên một mực cương (Tốn
thuộc âm, mà hào 1 cùng là âm, còn Cấn thuộc dương, mà hào cuối cùng
thuộc dương ), để nén người dưới, như vậy mọi sự sẽ đổ nát, phải làm
lại.
Đổ nát mà làm lại thì rất nên, rất tốt; phải xông pha nguy hiểm, nhưng rồi sẽ có lợi.
Tuy nhiên phải suy nghĩ, có kế hoạch trước
sau. Ví dụ bắt tay vào việc là ngày giáp, thì phải nghĩ tới ba ngày
trước ngày giáp, tức ngày tân [辛], tìm xem vì lẽ gì mà có sự đổ nát, và
muốn đổi cũ sang mới (mới cũng là tân, nhưng chữ tân này [新], người
Trung Hoa thường có cách mượn một chữ đồng âm để diễn một ý khác) thì
phải làm sao. Rồi lại nghĩ đến ba ngày sau, tức ngày đinh [ 丁] , mà đinh
ninh (chữ [丁 寧] này) phòng bị cho tương lai.
Làm lại mới mà được như vậy thì rất tốt.
Thoán truyện và Đại tượng truyện không giảng gì khác.
Hào từ:
1.
初六: 幹父之蠱, 有子, 考无咎, 厲, 終吉.
Sơ lục: Cán phụ chi cổ, hữu tử, khảo vô cữu , lệ, chung cát.
Dịch: Hào 1, âm: Sửa sang sự đổ nát của
cha; nhờ con mà cha không lỗi; nhưng cũng có thể nguy đấy, phải biết răn
sợ, sau mới tốt.
Quẻ Cổ này lấy việc trong nhà làm thí dụ, nên nói đến cha, con.
2.
九二: 幹母之蠱, 不可貞.
Cửu nhị: Cán mẫu chi cổ, bất khả trinh.
Dịch: Hào 2, dương : Sửa sang sự đổ nát của mẹ, không nên cố chấp (trinh)
Giảng: Hào này dương cương, đắc trung,
trên ứng với hào 5 âm nhu, nên ví như con (2) với mẹ (5). Hào 2 có tài,
sửa sang được, nhưng tính cương cường, có thể xung đột với 5, cho nên
Hào từ khuyên đừng cố chấp mà phải mềm dẻo.
3.
九三: 幹父之蠱, 小有悔, 无大咎.
Cửu tam: Cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu.
Dịch: Hào 3, dương: sửa sang sự đổ nát của cha, có chút hối hận những không có lỗi lớn.
Giảng: Hào này là dương lại ở vị dương, là
quá cương, nóng nảy, không hợp đạo trung cho nên làm vài việc đáng ăn
năn; nhưng làm nổi việc, đắc chính, nên không đến nỗi có lỗi lớn.
Ví như người con trung ngôn, trực gián mà giữ được đạo lý cho cha.
4.
六四: 裕父之蠱, 往見吝.
Lục tứ: Dụ phụ chi Cổ, vãng kiến lận.
Dịch: Hào 4, âm: (Vì dùng dằng mà chỉ) kéo dài sự đổ nát của cha, nếu cứ như vậy hoài thì sẽ hối tiếc.
Giảng: Hào âm, nhu lại ở vị âm, là người
thiếu nghị lực, nhút nhát, không dám cương quyết sửa sự đổ nát của cha,
để cho nó kéo dài hoài thì xấu cho cả gia đình mà phải hối hận.
5.
六五: 幹 父之蠱, 用譽.
Lục ngũ: Cán phụ chi cổ, dụng dự
Dịch: Hào 5, âm: sửa sự đổ nát cho cha, mà được tiếng khen.
Giảng: Âm nhu ở ngôi chí tôn, không đủ tài
sáng nghiệp, nhưng nhờ có đức trung mà ở dưới ứng với hào 2, dương
cương là người có tài, sửa sự đổ nát được, rốt cuộc thành công, cả hai
được tiếng khen.
6.
上九: 不事王侯, 高尚 其事.
Thượng cửu: Bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự.
Dịch: Hào trên cùng, dương : Không xu phụ bậc vương hầu, mà nêu cao tư cách (đức của mình.)
Giảng: Hào này dương cương ở trên hào 5,
như một vị hiền nhân quân tử cao khiết, ở ngoài mọi việc, không màng phú
quí, không xu phụ vương hầu, giữ chí hướng của mình làm phép tắc trong
thiên hạ.
*
Người Trung
Hoa rất trọng đức hiếu, mà có hiếu trước hết là giữ được danh dự cho
gia đình, làm vẻ vang cho tổ tiên, cho nên nếu cha mẹ làm điều gì trái
đạo lý thì con có bổn phận can ngăn (cha có con như vậy là nhà có phúc),
nếu còn nhu nhược quá, dùng dằng không dám can thì có lỗi lớn; nếu
cương cường quá mà xung đột với cha mẹ thì có lỗi, nhưng nhẹ, tốt nhất
là giữ đạo trung, mềm mỏng mà kiên trì, ngoài nhu mà trong cương.
Quẻ này kết một cách bất ngờ: hào trên
cùng không nói gì về việc sửa sang sự đổ nát cả, mà chỉ khen bậc hiền
nhân treo gương danh tiết cho thiên hạ soi.
Nên để ý: Cổ là đổ nát, rất xấu mà thoán
từ khen là tốt, chỉ vì đổ nát thì phải làm lại, canh tân, mà canh tân là
điều rất tốt. Không có gì suy cực mà không thịnh lên, tới lúc cùng mà
không bắt đầu trở lại.
19. QUẺ ĐỊA TRẠCH LÂM
Trên là Khôn (đất), dưới là Ðoài (chằm). ䷒
Trên là Khôn (đất), dưới là Ðoài (chằm). ䷒
, đồ hình ||::::
Tự quái truyện giảng: Cổ là công việc, có công việc rồi mới làm lớn được; cho nên sau quẻ Cổ tới quẻ Lâm. Lâm có nghĩa là lớn.
Nhưng Lâm còn có nghĩa nữa là tới (như lâm chung là tới lúc cuối cùng, tới lúc chết; hoặc lâm hạ: người trên tới người dưới).
Thoán từ:
臨: 元亨, 利貞.至于八月有凶.
Lâm: Nguyên hanh, lợi trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung.
Dịch: (dương) lớn lên và tới, rất hanh thông, chính đính thì lợi. Đến tháng 8 (hoặc tám tháng nữa) sẽ xấu.
Giảng: Mới đầu là quẻ Khôn, 5 hào âm. Một
hào dương tới thay hào 1 âm ở dưới, rồi một hào dương nữa tới thay hào 2
âm, thành ra quẻ Lâm . Thế là dương cung lớn dần, tới ngày thịnh lớn,
nên gọi là Lâm.
Một cách giảng nữa: trên chằm (đoài) có đất, tức là đất tới sát nước, nên gọi là Lâm (tới gần).
Theo cách giảng thứ nhất, dương cương lớn lần mà âm nhu tiêu lần, thế là đạo gần tới lúc thông, cho nên bảo là rất hanh thông.
Xét theo hào thì hào 2 cương trung, ứng với hào 5, nhu trung, nhân sự có phần vui vẻ, cũng hanh thông nữa (Thoán truyện) .
Trong cảnh hanh thông, đừng nên phóng túng
mà nên giữ vững chính đạo, (lợi trinh): nếu không thì đến tháng 8 (hoặc
tám tháng nữa) sẽ hung.
Có nhiều thuyết giảng hai chữ “bát nguyệt”
ở đây chúng tôi không biết tin thuyết nào chỉ xin hiểu đại ý là “sau
này sẽ hung”; mà không chép những thuyết đó.
Đại tượng truyện bàn thêm: đất tới sát
chằm, có cái tượng quân tử tới dân, giáo hóa dân không bao giờ thôi, bao
dung, giữ gìn dân không có giới hạn (vô cương) .
Hào từ
1.
初九: 咸臨, 貞吉.
Sơ cửu: Hàm lâm, trinh cát.
Dịch: Hào 1, dương : Cùng tới, giữ chính đạo thì tốt.
Giảng: Trong quẻ này chỉ có hai hào dương
tới lấn bốn hào âm, cho nên hai hào dương phải hợp lực nhau cùng tới,
mới chiến thắng được. Hào 1 đắc chính (vì là dương mà ở vị dương lẻ) cho
nên khuyên nên giữ chính đạo của mình.
Chu Hi, theo Trình Di cho chữ “hàm” ở đây
có nghĩa là cảm, hào 1 dương ứng hợp với hào 4 âm, như vậy là vì cảm ứng
với hào 4 mà tới.
2.
九二: 咸臨, 吉, 无不利.
Cửu nhị: Hàm lâm, cát, vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, dương : cùng tới, tốt, không gì là không lợi.
Giảng: Nghĩa cũng như hào 1. Hào 2, dương
cương đắc trung, gặp lúc dương đương lên, cho nên hiện tại tốt lành mà
tương lai cũng thuận lợi.
Tiểu tượng truyện thêm 4 chữ: vị thuận
mệnh dã (chưa thuận mệnh vậy). Trình Di giảng là hào 2, dương trung, cảm
ứng với hào 5 âm trung , hai hào đó cảm ứng với nhau không phải vì theo
mệnh của người trên, cho nên tốt, không gì là không lợi. Chu Hi không
chấp nhận lời giảng đó, bảo: “chưa rõ ý nghĩa ra sao”
Phan Bội Châu giảng: hào 1 và 2 phải cùng
tới thì mới tốt, phải lấy sức người giúp mệnh trời, chứ không ngồi yên
mà chờ mệnh trời.
3.
六三: 甘臨, 无攸利; 既憂之, 无咎.
Lục tam: Cam lâm, vô du lợi; Kí ưu chi, cô cửu.
Dịch: Hào 3 âm: Ngọt ngào (a dua) mà tới
(để dụ dỗ hào 2) thì không có lợi đâu; nhưng đã biết lo sửa tính thì
không có lỗi nữa.
Giảng: Hào này âm nhu, bất trung, bất chính nên ví với bọn tiểu nhân, dùng lời ngọt ngào mà dụ dỗ hào 2.
4.
六四: 至臨, 无咎.
Lục tứ: Chi lâm, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Hết lòng thành thực tới với hào 1, không có lỗi.
Giảng: Hào này cũng là âm nhu, nhưng đắc
chính (âm ở vị âm), có lòng thành thực, lại ứng với hào 1 là người có
tài, chính đáng (hào 1 cũng đắc chính), nên không có lỗi gì cả.
5.
六五: 知臨, 大君之宜, 吉.
Lục ngũ: Trí lâm, đại quân chi nghi, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Dùng đức sáng suốt mà tới, đúng là tư cách một vị nguyên thủ, tốt.
Giảng: hào âm này ở vị chí tôn, có đức
trung, ứng hợp với hào 2, dương , có thể ví với một vị nguyên thủ tuy ít
tài (âm) nhưng sáng suốt, biết người nào có tài (hào 2), tín nhiệm, ủy
thác việc nước cho người đó, như vậy kết quả chắc tốt.
6.
上六: 敦臨, 吉, 无咎.
Thượng lục: Đôn lâm, cát, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Lấy lòng đôn hậu mà tới (với đời), tốt, không có lỗi.
Giảng: Hào này là âm, ở cuối cùng ngoại
quái Khôn, là có đức rất nhu thuận, ở thời Lâm, tức thời của dương, của
quân tử đương tiến, nó hướng về hai hào dương ở dưới cùng (mặc dầu không
hào nào trong 2 hào đó ứng với nó) mà dắt mấy hào âm kia theo hai hào
dương đó, cho nên khen nó là đôn hậu, tốt, không có lỗi.
20. QUẺ PHONG ĐỊA QUÁN
Trên là Tốn (gió) dưới là Khôn (đất)
đồ hình ::::|| Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thấy, cho nên sau quẻ Lâm tới quẻ Quán cũng đọc là Quan. Quán là biểu thị cho người ta thấy, Quan là xem xét Thoán từ: 觀: 盥而不薦, 有孚顒若. Quán: Quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược. Dịch: Biểu thị (làm mẫu mực cho người ta thấy) cũng như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay (quán ) cho tinh khiết, bấy nhiêu cũng đủ rồi, không cần phải bày mâm cỗ dâng lên (tiến); mình chí thành (phu) như vậy thì người khác cũng chí thành tín ngưỡng (ngung) mình. Giảng: Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài. Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo. Đó là giải nghĩa tên quẻ. Thoán từ và Thoán truyện đưa một thí dụ cho ta dễ hiểu. Muốn biểu thị (quán) là mẫu mực cho người khác thấy thì nên có lòng chí thành như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay cho tinh khiết, đó là điều quan trọng nhất, còn việc dâng cỗ, thuộc về vật chất, có nhiều cũng được, có ít cũng được, ví dụ như không có, chỉ dùng hương, hoa cũng tốt. Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo. Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục. Hào từ: 1 初六: 童觀, 小人无咎, 君子吝. Sơ lục: Đồng quan, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận. Dịch: Hào 1, âm: Trẻ con nhìn lên (không hiểu gì), tiểu nhân thì không đáng trách, quân tử mà như vậy thì hối tiếc. Giảng: Tên quẻ thì đọc là Quán, người trên (hào 5) biểu thị, làm gương cho người dưới. Nhưng xét từng hào thì đọc là quan, người dưới xem xét tư cách, hành vi của người trên. Hào 5, dương , đắc trung làm chủ quẻ, tượng trưng cho người trên, ông vua. Hào nào cũng nhìn lên hào 5 cả, hào 1 ở xa quá, như con nít tò mò mà nhìn lên, không hiểu gì cả, nhưng vì là con nít, không đáng trách; người quân tử mà như vậy mới đáng trách. 2. 六二: 闚觀, 利女貞. Lục nhị: Khuy quan, lợi nữ trinh. Dịch: Hào 2, âm: Nhìn lên, chỉ thích hợp với nết trinh của đàn bà thôi. Giảng: Hào này âm nhu, trung chính, là người con gái có nết trinh, ngó lên hào 5, không thấy được đạo lý của 5, con gái như vậy thì được. Người trượng phu mà như thế thì đáng xấu hổ (khả xú dã – Tiểu tượng truyện.) 3. 六三: 觀我生, 進退. Lục tam: Quan ngã sinh, tiến thoái. Dịch: Hào 3, âm: Xét bản thân, hành vi của mình, xem nên tiến lên (theo hào 4) hay nên đứng yên, đừng để phải lui xuống 2. Giảng: Hào này bất chính (âm mà ở vị dương), lại ở trên cùng nội quái, có thể tiến hay thoái; Hào từ khuyên đừng ngó lên hào 5, cứ tự xét bản thân, hành vi của mình, nếu đối phó được với hoàn cảnh thì tiến lên, không thì thôi, như vậy là chưa sai đường lối. 4. 六四: 觀國之光, 利用 賓于王. Lục tứ: Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương. Dịch: Hào 4, âm: Xem cái quang vinh của nước mà lợi dụng địa vị thân cận với vua. Giảng: Hào này âm, đắc chính, ở ngay dưới hào 5, tức là vị thân cận với vua (quí khách của vua) được vua tín nhiệm, xem xét đức sáng của vua (vua hiền thì nước mới vinh quang, nền vinh quang của nước tức là đức sáng của vua), mà bắt chước, đem tài sức ra giúp đời. 5. 九五: 觀我生君子, 无咎. Cửu ngũ: Quan ngã sinh quân tử, vô cữu. Dịch: Hào 5, dương: Xét bản thân, hành động của ta hợp với đạo quân tử , như vậy là không có lỗi. Cũng có thể chấm câu như vầy: Quan ngã sinh, quân tử vô cữu; và dịch là người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của ta (tức hào 5) mà noi theo thì không có lỗi. Giảng: Hào 5 ngôi chí tôn, cương cường mà trung chính là bậc quân tử làm gương cho 4 hào ở dưới, mọi người đều ngó vào. Tiểu tượng truyện bàn rộng: “Quan ngã sinh, quan dân dã” nghĩa là muốn xem đức của ta (của vua) thì cứ xem phong tục đạo đức của dân”, vì vua mà hiền minh thì dân tình tốt, vua u mê thì dân tình xấu. 6. 上九: 觀其生君子, 无咎. Thượng cửu: Quan kỳ sinh quân tử , vô cữu. Dịch: hào trên cùng, dương: xét bản thân, hành động của hào này hợp với đạo quân tử, như vậy là không có lỗi. Cũng có thể chấm câu như vầy: quan kỳ sinh, quân tử vô cữu; và dịch là : người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của nó (của hào cuối cùng) mà noi theo thì không có lỗi. Giảng: Hào từ: hào này y như hào từ 5, chỉ khác hào 5 dùng chữ ngã là ta, mà hào này dùng chữ kỳ là của nó (của hào trên cùng. Là vì hào 5 là vua, nói với hào 4 là cận thần, tự xưng là ta; còn hào này là lời Chu Công nói về hào trên cùng, cũng như đã nói về các hào 1, 2, 3, 5 ở dưới. Hào trên cùng này cũng là dương như hào 5, cũng là quân tử , tuy không phải ở ngôi chí tôn, nhưng ở trên cao hơn hết, cũng làm gương cho các hào âm trông vào. Vì nó có tư cách quân tử , nên không có lỗi. * Quẻ Quán này khuyên người trên nêu gương cho dưới và người dưới noi gương người trên; nhưng trẻ con và tiểu nhân thì nhiều khi chưa biết noi gương.
Trên là Tốn (gió) dưới là Khôn (đất)
đồ hình ::::|| Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thấy, cho nên sau quẻ Lâm tới quẻ Quán cũng đọc là Quan. Quán là biểu thị cho người ta thấy, Quan là xem xét Thoán từ: 觀: 盥而不薦, 有孚顒若. Quán: Quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược. Dịch: Biểu thị (làm mẫu mực cho người ta thấy) cũng như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay (quán ) cho tinh khiết, bấy nhiêu cũng đủ rồi, không cần phải bày mâm cỗ dâng lên (tiến); mình chí thành (phu) như vậy thì người khác cũng chí thành tín ngưỡng (ngung) mình. Giảng: Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài. Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo. Đó là giải nghĩa tên quẻ. Thoán từ và Thoán truyện đưa một thí dụ cho ta dễ hiểu. Muốn biểu thị (quán) là mẫu mực cho người khác thấy thì nên có lòng chí thành như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay cho tinh khiết, đó là điều quan trọng nhất, còn việc dâng cỗ, thuộc về vật chất, có nhiều cũng được, có ít cũng được, ví dụ như không có, chỉ dùng hương, hoa cũng tốt. Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo. Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục. Hào từ: 1 初六: 童觀, 小人无咎, 君子吝. Sơ lục: Đồng quan, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận. Dịch: Hào 1, âm: Trẻ con nhìn lên (không hiểu gì), tiểu nhân thì không đáng trách, quân tử mà như vậy thì hối tiếc. Giảng: Tên quẻ thì đọc là Quán, người trên (hào 5) biểu thị, làm gương cho người dưới. Nhưng xét từng hào thì đọc là quan, người dưới xem xét tư cách, hành vi của người trên. Hào 5, dương , đắc trung làm chủ quẻ, tượng trưng cho người trên, ông vua. Hào nào cũng nhìn lên hào 5 cả, hào 1 ở xa quá, như con nít tò mò mà nhìn lên, không hiểu gì cả, nhưng vì là con nít, không đáng trách; người quân tử mà như vậy mới đáng trách. 2. 六二: 闚觀, 利女貞. Lục nhị: Khuy quan, lợi nữ trinh. Dịch: Hào 2, âm: Nhìn lên, chỉ thích hợp với nết trinh của đàn bà thôi. Giảng: Hào này âm nhu, trung chính, là người con gái có nết trinh, ngó lên hào 5, không thấy được đạo lý của 5, con gái như vậy thì được. Người trượng phu mà như thế thì đáng xấu hổ (khả xú dã – Tiểu tượng truyện.) 3. 六三: 觀我生, 進退. Lục tam: Quan ngã sinh, tiến thoái. Dịch: Hào 3, âm: Xét bản thân, hành vi của mình, xem nên tiến lên (theo hào 4) hay nên đứng yên, đừng để phải lui xuống 2. Giảng: Hào này bất chính (âm mà ở vị dương), lại ở trên cùng nội quái, có thể tiến hay thoái; Hào từ khuyên đừng ngó lên hào 5, cứ tự xét bản thân, hành vi của mình, nếu đối phó được với hoàn cảnh thì tiến lên, không thì thôi, như vậy là chưa sai đường lối. 4. 六四: 觀國之光, 利用 賓于王. Lục tứ: Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương. Dịch: Hào 4, âm: Xem cái quang vinh của nước mà lợi dụng địa vị thân cận với vua. Giảng: Hào này âm, đắc chính, ở ngay dưới hào 5, tức là vị thân cận với vua (quí khách của vua) được vua tín nhiệm, xem xét đức sáng của vua (vua hiền thì nước mới vinh quang, nền vinh quang của nước tức là đức sáng của vua), mà bắt chước, đem tài sức ra giúp đời. 5. 九五: 觀我生君子, 无咎. Cửu ngũ: Quan ngã sinh quân tử, vô cữu. Dịch: Hào 5, dương: Xét bản thân, hành động của ta hợp với đạo quân tử , như vậy là không có lỗi. Cũng có thể chấm câu như vầy: Quan ngã sinh, quân tử vô cữu; và dịch là người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của ta (tức hào 5) mà noi theo thì không có lỗi. Giảng: Hào 5 ngôi chí tôn, cương cường mà trung chính là bậc quân tử làm gương cho 4 hào ở dưới, mọi người đều ngó vào. Tiểu tượng truyện bàn rộng: “Quan ngã sinh, quan dân dã” nghĩa là muốn xem đức của ta (của vua) thì cứ xem phong tục đạo đức của dân”, vì vua mà hiền minh thì dân tình tốt, vua u mê thì dân tình xấu. 6. 上九: 觀其生君子, 无咎. Thượng cửu: Quan kỳ sinh quân tử , vô cữu. Dịch: hào trên cùng, dương: xét bản thân, hành động của hào này hợp với đạo quân tử, như vậy là không có lỗi. Cũng có thể chấm câu như vầy: quan kỳ sinh, quân tử vô cữu; và dịch là : người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của nó (của hào cuối cùng) mà noi theo thì không có lỗi. Giảng: Hào từ: hào này y như hào từ 5, chỉ khác hào 5 dùng chữ ngã là ta, mà hào này dùng chữ kỳ là của nó (của hào trên cùng. Là vì hào 5 là vua, nói với hào 4 là cận thần, tự xưng là ta; còn hào này là lời Chu Công nói về hào trên cùng, cũng như đã nói về các hào 1, 2, 3, 5 ở dưới. Hào trên cùng này cũng là dương như hào 5, cũng là quân tử , tuy không phải ở ngôi chí tôn, nhưng ở trên cao hơn hết, cũng làm gương cho các hào âm trông vào. Vì nó có tư cách quân tử , nên không có lỗi. * Quẻ Quán này khuyên người trên nêu gương cho dưới và người dưới noi gương người trên; nhưng trẻ con và tiểu nhân thì nhiều khi chưa biết noi gương.
21. QUẺ HỎA LÔI PHỆ HẠP
Trên là ly (lửa), dưới là Chấn (sấm)
đồ hình |::|:| Tự quái truyện giảng: tình, lý có chỗ khả quan rồi sau mới hợp nhau được; nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách đã, cho nên sau quẻ Quan, tới quẻ Phệ hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp là hợp. Thoán từ: 噬嗑: 亨, 利用獄. Phệ hạp: Hanh, lợi dụng ngục. Dịch: Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông; dùng vào việc hình ngục thì có lợi . Giảng: Quẻ Phệ hạp này nói về việc hình ngục. Hào sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên và hàm dưới; ở giữa có ba vạch đứt, là miệng há ra; xen vào một vạch liền như một cái quẻ cản ngang miệng, làm gián cách hai hàm răng; Phải cắn gãy, trừ nó đi rồi hai hàm mới hợp với nhau được. Trong xã hội, kẻ gián cách đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng bít kẻ trên người dưới mà trên không thông tới dưới, dưới không đạt tới trên. Cho nên phải dùng hình ngục để trừ chúng. Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng suốt. Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt. Lại xét riêng hào 5, hào làm chủ trong quẻ; nó ở ngôi cao, âm nhu mà đắc trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương, nhưng vẫn nên có một chút nhu, hiếu sinh; nếu chỉ cương thôi thì hóa ra tàn khốc, hiếu sát mất. Đó là đại ý Thoán truyện. Đại tượng truyện bảo tiên vương theo ý nghĩa quẻ Phệ hạp này mà làm sáng tỏ sự trừng phạt và răn bảo bằng pháp luật. (Tiên vương dĩ minh phạt, sắc pháp: 先王以明罰, 敕法 cũng có người hiểu là sắp đặt pháp luật hoặc ban bố pháp luật) Hào từ . 1. 初九: 屨校滅趾, 无咎. Sơ cửu: Lí giảo diệt chỉ, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương : ví như chân đạp vào cái cùm mà đứt ngón chân cái, không có lỗi lớn. Giảng: Trong quẻ này hào 1 và hào trên cùng là người không có chức vị, bị chịu hình; còn 4 hào kia là người có chức vị áp dụng hình pháp. Hào 1 ở dưới cùng là hạng dân thường, mới làm bậy mà bị tội nhẹ (cùm chân, chặt ngón chân cái) thì sẽ sợ phép nước mà sau không làm điều ác nữa, cho nên không có lỗi lớn. 2. 六二: 噬膚, 滅鼻, 无咎. Lục nhị: Phệ phu, diệt tị, vô cữu. Dịch: Hào 2, âm: Cắn miếng thịt mềm, sứt cái mũi, không có lỗi. Giảng: hào này cũng như ba hào sau, dùng chữ phệ (cắn) để trỏ người dùng hình pháp. Hào 2 âm nhu đắc trung, chính lại được hào 5 ứng, tức là người được vua ủy cho quyền hình pháp, vì vậy dễ thu phục được kẻ có tội, công việc dễ như cắn miếng thịt mềm. Nhưng vì hào 2 cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải quá tay một chút, kẻ bị tội chịu hình phạt khá đau, như bị cắn vào mũi, đó là lỗi của hắn chứ hào 2 vẫn là trung chính, không có lỗi. 3. 六三: 噬腊肉, 遇毒, 小吝, 无咎. Lục tam: Phệ tích nhục, ngộ độc, tiểu lận, vô cữu. Dịch: Hào 3, âm: Cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc, đáng ân hận một chút, nhưng không có lỗi. Giảng: Hảo 3, âm: Không trung chính, dùng hình ngục và không được người phục, có phần bị oán nữa, như cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc; những ở vào quẻ Phệ hạp, dùng hình pháp để giữ trật tự cho xã hội, cho nên việc làm của mình tuy đáng ân hận, mà không có lỗi lớn. 4. 九四: 噬 乾胏, 得金矢, 利艱貞, 吉. Cửu tứ: phệ can trỉ (có người đọc là tỉ) đắc kim thỉ , lợi gian trinh, cát. Dịch: Hào 4, dương : Cắn phải thứ thịt liền xương mà phơi khô, được mũi tên đồng, chịu khó nhọc mà vững lòng giữ đường chính thì tốt. Giảng: Hào này dương cương ở gần ngôi chí tôn (hào 5) là người cương trực, có trách nhiệm; lại ở ngoại quái Ly, nên có tài minh đóan, cho nên dù gặp kẻ ngoan cố cũng trị được dễ dàng, như cắn được miếng thịt liền xương (cứng) phơi khô, mà vẫn giữ được đạo cương trực, tượng bằng mũi tên bằng đồng. Nhưng vì hào này cương, mà cương quyết thì e gặp khó khăn, nên Hào từ khuyên phải chịu khó nhọc, tuy cương mà vị lại nhu (hào thứ 4, chẳn), nên lại khuyên phải vững chí. Có hai điều kiện đó thì mới tốt. 5. 六五: 噬乾肉, 得黃金, 貞厲, 无咎. Lục ngũ: phệ can nhục, đắc hoàng kim, trinh, lệ, vô cữu. Dịch: Hào 5, âm: Cắn miếng thịt khô, được vàng (danh dự quí báu); phải giữ vững đạo, thường lo sợ, thì không có lỗi. Có sách giảng về hai chữ “hoàng kim” như sau: kim là vật quí, tượng trưng ngôi chí tôn của hào 5, hoàng là sắc của đất, của trung ương (đen là màu của phương bắc, đỏ của phương nam, xanh của phương đông, trắng của phương tây), tượng trưng đức trung của hào 5. 6. 上九: 何校滅耳, 凶. Thượng cửu: Hạ giảo diệt nhĩ, hung. Dịch: Hào trên cùng, dương : cổ tra vào gông, bị tội cắt tai, xấu. Giảng: Hào này lại nói về kẻ thụ hình như hào 1. Xấu hơn hào 1, vì dương cương lại ở cuối quẻ, trỏ hạng cực ác, nên bị tội nặng: đeo gông, cắt tai. Theo hệ từ hạ truyện, chương V thì Khổng tử bàn như sau: “. . .không tích lũy nhiều điều ác thì không đến nỗi bị diệt thân thể (như hào này). Kẻ tiểu nhân cho rằng (. . .) một điều ác nhỏ là vô hại, nên cứ làm; vì vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc( . . ) tội hóa lớn mà không thể tha thứ được”. *
Trên là ly (lửa), dưới là Chấn (sấm)
đồ hình |::|:| Tự quái truyện giảng: tình, lý có chỗ khả quan rồi sau mới hợp nhau được; nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách đã, cho nên sau quẻ Quan, tới quẻ Phệ hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp là hợp. Thoán từ: 噬嗑: 亨, 利用獄. Phệ hạp: Hanh, lợi dụng ngục. Dịch: Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông; dùng vào việc hình ngục thì có lợi . Giảng: Quẻ Phệ hạp này nói về việc hình ngục. Hào sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên và hàm dưới; ở giữa có ba vạch đứt, là miệng há ra; xen vào một vạch liền như một cái quẻ cản ngang miệng, làm gián cách hai hàm răng; Phải cắn gãy, trừ nó đi rồi hai hàm mới hợp với nhau được. Trong xã hội, kẻ gián cách đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng bít kẻ trên người dưới mà trên không thông tới dưới, dưới không đạt tới trên. Cho nên phải dùng hình ngục để trừ chúng. Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng suốt. Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt. Lại xét riêng hào 5, hào làm chủ trong quẻ; nó ở ngôi cao, âm nhu mà đắc trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương, nhưng vẫn nên có một chút nhu, hiếu sinh; nếu chỉ cương thôi thì hóa ra tàn khốc, hiếu sát mất. Đó là đại ý Thoán truyện. Đại tượng truyện bảo tiên vương theo ý nghĩa quẻ Phệ hạp này mà làm sáng tỏ sự trừng phạt và răn bảo bằng pháp luật. (Tiên vương dĩ minh phạt, sắc pháp: 先王以明罰, 敕法 cũng có người hiểu là sắp đặt pháp luật hoặc ban bố pháp luật) Hào từ . 1. 初九: 屨校滅趾, 无咎. Sơ cửu: Lí giảo diệt chỉ, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương : ví như chân đạp vào cái cùm mà đứt ngón chân cái, không có lỗi lớn. Giảng: Trong quẻ này hào 1 và hào trên cùng là người không có chức vị, bị chịu hình; còn 4 hào kia là người có chức vị áp dụng hình pháp. Hào 1 ở dưới cùng là hạng dân thường, mới làm bậy mà bị tội nhẹ (cùm chân, chặt ngón chân cái) thì sẽ sợ phép nước mà sau không làm điều ác nữa, cho nên không có lỗi lớn. 2. 六二: 噬膚, 滅鼻, 无咎. Lục nhị: Phệ phu, diệt tị, vô cữu. Dịch: Hào 2, âm: Cắn miếng thịt mềm, sứt cái mũi, không có lỗi. Giảng: hào này cũng như ba hào sau, dùng chữ phệ (cắn) để trỏ người dùng hình pháp. Hào 2 âm nhu đắc trung, chính lại được hào 5 ứng, tức là người được vua ủy cho quyền hình pháp, vì vậy dễ thu phục được kẻ có tội, công việc dễ như cắn miếng thịt mềm. Nhưng vì hào 2 cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải quá tay một chút, kẻ bị tội chịu hình phạt khá đau, như bị cắn vào mũi, đó là lỗi của hắn chứ hào 2 vẫn là trung chính, không có lỗi. 3. 六三: 噬腊肉, 遇毒, 小吝, 无咎. Lục tam: Phệ tích nhục, ngộ độc, tiểu lận, vô cữu. Dịch: Hào 3, âm: Cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc, đáng ân hận một chút, nhưng không có lỗi. Giảng: Hảo 3, âm: Không trung chính, dùng hình ngục và không được người phục, có phần bị oán nữa, như cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc; những ở vào quẻ Phệ hạp, dùng hình pháp để giữ trật tự cho xã hội, cho nên việc làm của mình tuy đáng ân hận, mà không có lỗi lớn. 4. 九四: 噬 乾胏, 得金矢, 利艱貞, 吉. Cửu tứ: phệ can trỉ (có người đọc là tỉ) đắc kim thỉ , lợi gian trinh, cát. Dịch: Hào 4, dương : Cắn phải thứ thịt liền xương mà phơi khô, được mũi tên đồng, chịu khó nhọc mà vững lòng giữ đường chính thì tốt. Giảng: Hào này dương cương ở gần ngôi chí tôn (hào 5) là người cương trực, có trách nhiệm; lại ở ngoại quái Ly, nên có tài minh đóan, cho nên dù gặp kẻ ngoan cố cũng trị được dễ dàng, như cắn được miếng thịt liền xương (cứng) phơi khô, mà vẫn giữ được đạo cương trực, tượng bằng mũi tên bằng đồng. Nhưng vì hào này cương, mà cương quyết thì e gặp khó khăn, nên Hào từ khuyên phải chịu khó nhọc, tuy cương mà vị lại nhu (hào thứ 4, chẳn), nên lại khuyên phải vững chí. Có hai điều kiện đó thì mới tốt. 5. 六五: 噬乾肉, 得黃金, 貞厲, 无咎. Lục ngũ: phệ can nhục, đắc hoàng kim, trinh, lệ, vô cữu. Dịch: Hào 5, âm: Cắn miếng thịt khô, được vàng (danh dự quí báu); phải giữ vững đạo, thường lo sợ, thì không có lỗi. Có sách giảng về hai chữ “hoàng kim” như sau: kim là vật quí, tượng trưng ngôi chí tôn của hào 5, hoàng là sắc của đất, của trung ương (đen là màu của phương bắc, đỏ của phương nam, xanh của phương đông, trắng của phương tây), tượng trưng đức trung của hào 5. 6. 上九: 何校滅耳, 凶. Thượng cửu: Hạ giảo diệt nhĩ, hung. Dịch: Hào trên cùng, dương : cổ tra vào gông, bị tội cắt tai, xấu. Giảng: Hào này lại nói về kẻ thụ hình như hào 1. Xấu hơn hào 1, vì dương cương lại ở cuối quẻ, trỏ hạng cực ác, nên bị tội nặng: đeo gông, cắt tai. Theo hệ từ hạ truyện, chương V thì Khổng tử bàn như sau: “. . .không tích lũy nhiều điều ác thì không đến nỗi bị diệt thân thể (như hào này). Kẻ tiểu nhân cho rằng (. . .) một điều ác nhỏ là vô hại, nên cứ làm; vì vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc( . . ) tội hóa lớn mà không thể tha thứ được”. *
Quẻ này xét
về việc hình ngục, đại ý khuyên: Người xử hình phải sáng suốt trước hết,
cương quyết mà cũng cần có đức nhu (để bớt cương đi), có chút từ tâm,
và luôn luôn phải giữ đạo chính, thận trọng (hào 5).
Hào 4 cũng tốt, vì vừa cương vừa nhu, có tài và có địa vị.
– Nên răn đe dân từ khi dân mới mắc phải tội nhỏ, nếu không dân sẽ quen làm bậy, ác cứ tích lũy mà mắc tội lớn.
22. QUẺ SƠN HỎA BÍ
Trên là Cấn (núi), dưới là Ly (lửa)
đồ hình |:|::| Đám đông, hợp lại với nhau thì phải có trật tự, uy nghi, có văn vẻ, cho nên tiếp theo quẻ Phệ Hạp là quẻ Búi là văn vẻ, rực rỡ, sáng sủa trang sức. Thoán từ: 賁: 亨, 小利, 有攸往. Bí: hanh, tiểu lợi, hữu du vãng. Dịch: Trang sức văn vẻ thì hanh thông; làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi bé nhỏ mà thôi. Giảng: Trên là núi, dưới là lửa; lửa chiếu sáng mọi vật ở trên núi, như vậy làm cho núi đẹp lên, trang sức cho núi. Còn một cách giảng nữa: trong nội quái (vốn là quẻ đơn Càn) hào 2, âm, vốn ở quẻ đơn Khôn, thay vào hào 2 dương của quẻ đơn Càn, thành quẻ đơn Ly, như vậy là tô điểm cho quẻ đơn Càn. Trong ngoại quái (vốn là quẻ đơn Khôn) hào trên cùng vốn ở quẻ đơn Càn, lại thay hào trên cùng của quẻ đơn khôn, thành quẻ đơn Cấn. Nói cách khác, vắn tắt mà không sai mấy thì nội quái có một hào âm trang sức cho hai hào dương , còn ngoại quái có một hào dương trang sức cho hai hào âm, vì vậy mà gọi là quẻ Bí: trang sức. Vật gì cũng vậy: có chất, tinh thần; mà lại thêm văn, hình thức, thì tốt (hanh thông), nhưng nếu chỉ nhờ ở trang sức mà thành công thì lợi ít thôi. Thoán truyện bàn rộng thêm: âm nhu và dương cương giao với nhau, thay đổi lẫn nhau (tức hào 2 và hào trên cùng như trên mới giảng). Ðó là cái văn vẻ tự nhiên (thiên văn) của trời; còn cái văn vẻ nhân tạo (nhân văn) thì nên hạn chế (quẻ Cấn ở trên có nghĩa là ngăn, hạn chế), vì tuy nó có công giáo hóa thiên hạ, nhưng nhiều quá thì văn thắng chất, xấu. Đại tượng truyện còn khuyên: Việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được; còn việc quan trọng như phán đoán hình ngục thì đừng nên quả quyết, tô điểm thêm. Hào từ. 1. 初九: 賁其趾, 舍車而徒. Sơ cửu: Bí kì chỉ, xả xa nhi đồ. Dịch: Hào 1, dương, Trang sức, trau giồi ngón chân (địa vị thấp) của mình; bỏ cách sung sướng là ngồi xe mà nên đi bộ (chịu khó nhọc). Giảng: Hào này dương cương, ở cuối cùng nội quái Ly, tức như người có đức sáng suốt mà ở địa vị thấp nhất. Chỉ nên trau giồi phẩm hạnh của mình trong địa vị đó (ví như ngón chân, bộ phận thấp nhất trong thân thể), mà an bần, chịu đi bộ chứ đừng ngồi xe. 2. 六二: 賁其須. Lục nhị: Bí kì tu. Dịch: Hào 2, âm: trang sức bộ râu. Giảng: Chữ tu ở đây nghĩa là râu, cũng như chữ tu : 鬚 Hào này làm chủ nội quái ly, có công dụng trang sức cho quẻ Ly, đặc biết là cho hào 3 dương ở trên nó, cho nên ví nó như bộ râu trang sức cho cái cằm (hào 3). Nó phải phụ vào hào 3 mà hành động. Hào 3 có tốt thì tác động của hào 2 mới tốt, cũng như phải có cài cằm đẹp thì để râu mới thêm đẹp, nếu cằm xấu thì để râu càng thêm khó coi. Nói rộng ra thì bản chất phải tốt, xứng với sự trang sức; chất và văn phải xứng nhau. 3. 九三: 賁如濡如, 永貞吉. Cửu tam: Bí như, nhu như,vĩnh trinh cát. Dịch: Hào 3, dương: Trang sức mà đằm thắm, hễ giữ vững chính đạo thì tốt. Giảng: Hào này dương cương, đắc chính, lại ở trên cùng nội quái ly, có cái nghĩa rất văn minh; tượng trưng người có tài trang sức cho hai hào âm ở trên và dưới nó, tính rất đằm thắm với hai hào âm (có người dịch “nhu như” là trang sức một cách nhuần nhã, thấm nhuần). Vì vậy mà nên coi chừng, đừng say mê vì tư tình, mà phải bền giữ chính đạo thì mới tốt, không bị người xâm lấn (mạc chi lăng dã: Tiểu tượng truyện). 4. 六四: 賁如皤如, 白馬翰如, 匪寇, 婚媾. Lục tứ: Bí như, bà (có người đọc là ba) như, bạch mã hàn như, phỉ khấu, hôn cấu. Dịch: hào 4 âm: Muốn trang sức cho nhau (nhưng không được) nên chỉ thấy trắng toát. Hào 4 như cưỡi ngựa trắng mà chạy như bay (đuổi kịp hào 1), rốt cuộc cưới nhau được vì kẻ gián cách hai bên (hào 3) không phải kẻ cướp (người xấu). Giảng: hào 4 âm nhu, ứng với hào 1 dương cương, cả hai đều đắc chính ,tình ý hợp nhau, muốn trang sức cho nhau, nhưng bị hào 3 ở giữa ngăn cách, nên không trang sức cho nhau được, chỉ thấy trắng toát (trắng nghĩa là không có màu, không trang sức). Mặc dầu bị 3 cản trở, 4 vẫn cố đuổi theo 1, rốt cuộc 3 vốn cương chính, không phải là xấu, không muốn làm hại 4 và 1, cặp này kết hôn với nhau được. 5. 六五: 賁于丘園, 束帛戔戔, 吝, 終吉. Lục ngũ: bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên, lận, chung cát. Dịch : Hào 5, âm: Trang sức ở gò vườn, mà dùng tấm lụa nhỏ, mỏng, tuy là bủn xỉn, đáng chê cười đấy, nhưng rốt cuộc được tốt lành. Giảng: Hào 5, âm nhu, đắc trung, làm chủ quẻ Bí; vì là âm nhu nên có tính quá tằn tiện, lo trang sức cái gì hữu dụng như vườn tược thôi, mà lại chỉ dùng tấm lụa nhỏ, mỏng cho đỡ tốn, cho nên bị cười chê, nhưng như vậy còn hơn là xa hoa, mà biết trọng cái gốc là sự chất phác, cho nên cuối cùng vẫn được tốt lành, có hạnh phúc cho dân (hữu hỉ dã: lời Tiểu tượng truyện.) 6. 上九: 白賁, 无咎. Thượng cửu: Bạch bí, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, dương: lấy sự tố phác, như màu trắng (không màu mè gì cả) làm trang sức, không có lỗi. Giảng: Hào này là thời cuối cùng của quẻ Bí, trang sức, màu mè đã cùng cực rồi; mà vật cực tắc phản, người ta lại trở lại sự chất phác, nên không có lỗi gì cả. Trong văn học sử, chúng ta thấy sau những thời duy mĩ quá mức, người ta lại “phục cổ”, trở lại lối văn bình dị, tự nhiên thời xưa. * Đại ý quẻ Bí này là có văn vẻ, có trang sức mới là văn minh, nhưng vẫn nên trọng chất hơn văn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng, và không nên xa hoa, màu mè quá.
Trên là Cấn (núi), dưới là Ly (lửa)
đồ hình |:|::| Đám đông, hợp lại với nhau thì phải có trật tự, uy nghi, có văn vẻ, cho nên tiếp theo quẻ Phệ Hạp là quẻ Búi là văn vẻ, rực rỡ, sáng sủa trang sức. Thoán từ: 賁: 亨, 小利, 有攸往. Bí: hanh, tiểu lợi, hữu du vãng. Dịch: Trang sức văn vẻ thì hanh thông; làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi bé nhỏ mà thôi. Giảng: Trên là núi, dưới là lửa; lửa chiếu sáng mọi vật ở trên núi, như vậy làm cho núi đẹp lên, trang sức cho núi. Còn một cách giảng nữa: trong nội quái (vốn là quẻ đơn Càn) hào 2, âm, vốn ở quẻ đơn Khôn, thay vào hào 2 dương của quẻ đơn Càn, thành quẻ đơn Ly, như vậy là tô điểm cho quẻ đơn Càn. Trong ngoại quái (vốn là quẻ đơn Khôn) hào trên cùng vốn ở quẻ đơn Càn, lại thay hào trên cùng của quẻ đơn khôn, thành quẻ đơn Cấn. Nói cách khác, vắn tắt mà không sai mấy thì nội quái có một hào âm trang sức cho hai hào dương , còn ngoại quái có một hào dương trang sức cho hai hào âm, vì vậy mà gọi là quẻ Bí: trang sức. Vật gì cũng vậy: có chất, tinh thần; mà lại thêm văn, hình thức, thì tốt (hanh thông), nhưng nếu chỉ nhờ ở trang sức mà thành công thì lợi ít thôi. Thoán truyện bàn rộng thêm: âm nhu và dương cương giao với nhau, thay đổi lẫn nhau (tức hào 2 và hào trên cùng như trên mới giảng). Ðó là cái văn vẻ tự nhiên (thiên văn) của trời; còn cái văn vẻ nhân tạo (nhân văn) thì nên hạn chế (quẻ Cấn ở trên có nghĩa là ngăn, hạn chế), vì tuy nó có công giáo hóa thiên hạ, nhưng nhiều quá thì văn thắng chất, xấu. Đại tượng truyện còn khuyên: Việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được; còn việc quan trọng như phán đoán hình ngục thì đừng nên quả quyết, tô điểm thêm. Hào từ. 1. 初九: 賁其趾, 舍車而徒. Sơ cửu: Bí kì chỉ, xả xa nhi đồ. Dịch: Hào 1, dương, Trang sức, trau giồi ngón chân (địa vị thấp) của mình; bỏ cách sung sướng là ngồi xe mà nên đi bộ (chịu khó nhọc). Giảng: Hào này dương cương, ở cuối cùng nội quái Ly, tức như người có đức sáng suốt mà ở địa vị thấp nhất. Chỉ nên trau giồi phẩm hạnh của mình trong địa vị đó (ví như ngón chân, bộ phận thấp nhất trong thân thể), mà an bần, chịu đi bộ chứ đừng ngồi xe. 2. 六二: 賁其須. Lục nhị: Bí kì tu. Dịch: Hào 2, âm: trang sức bộ râu. Giảng: Chữ tu ở đây nghĩa là râu, cũng như chữ tu : 鬚 Hào này làm chủ nội quái ly, có công dụng trang sức cho quẻ Ly, đặc biết là cho hào 3 dương ở trên nó, cho nên ví nó như bộ râu trang sức cho cái cằm (hào 3). Nó phải phụ vào hào 3 mà hành động. Hào 3 có tốt thì tác động của hào 2 mới tốt, cũng như phải có cài cằm đẹp thì để râu mới thêm đẹp, nếu cằm xấu thì để râu càng thêm khó coi. Nói rộng ra thì bản chất phải tốt, xứng với sự trang sức; chất và văn phải xứng nhau. 3. 九三: 賁如濡如, 永貞吉. Cửu tam: Bí như, nhu như,vĩnh trinh cát. Dịch: Hào 3, dương: Trang sức mà đằm thắm, hễ giữ vững chính đạo thì tốt. Giảng: Hào này dương cương, đắc chính, lại ở trên cùng nội quái ly, có cái nghĩa rất văn minh; tượng trưng người có tài trang sức cho hai hào âm ở trên và dưới nó, tính rất đằm thắm với hai hào âm (có người dịch “nhu như” là trang sức một cách nhuần nhã, thấm nhuần). Vì vậy mà nên coi chừng, đừng say mê vì tư tình, mà phải bền giữ chính đạo thì mới tốt, không bị người xâm lấn (mạc chi lăng dã: Tiểu tượng truyện). 4. 六四: 賁如皤如, 白馬翰如, 匪寇, 婚媾. Lục tứ: Bí như, bà (có người đọc là ba) như, bạch mã hàn như, phỉ khấu, hôn cấu. Dịch: hào 4 âm: Muốn trang sức cho nhau (nhưng không được) nên chỉ thấy trắng toát. Hào 4 như cưỡi ngựa trắng mà chạy như bay (đuổi kịp hào 1), rốt cuộc cưới nhau được vì kẻ gián cách hai bên (hào 3) không phải kẻ cướp (người xấu). Giảng: hào 4 âm nhu, ứng với hào 1 dương cương, cả hai đều đắc chính ,tình ý hợp nhau, muốn trang sức cho nhau, nhưng bị hào 3 ở giữa ngăn cách, nên không trang sức cho nhau được, chỉ thấy trắng toát (trắng nghĩa là không có màu, không trang sức). Mặc dầu bị 3 cản trở, 4 vẫn cố đuổi theo 1, rốt cuộc 3 vốn cương chính, không phải là xấu, không muốn làm hại 4 và 1, cặp này kết hôn với nhau được. 5. 六五: 賁于丘園, 束帛戔戔, 吝, 終吉. Lục ngũ: bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên, lận, chung cát. Dịch : Hào 5, âm: Trang sức ở gò vườn, mà dùng tấm lụa nhỏ, mỏng, tuy là bủn xỉn, đáng chê cười đấy, nhưng rốt cuộc được tốt lành. Giảng: Hào 5, âm nhu, đắc trung, làm chủ quẻ Bí; vì là âm nhu nên có tính quá tằn tiện, lo trang sức cái gì hữu dụng như vườn tược thôi, mà lại chỉ dùng tấm lụa nhỏ, mỏng cho đỡ tốn, cho nên bị cười chê, nhưng như vậy còn hơn là xa hoa, mà biết trọng cái gốc là sự chất phác, cho nên cuối cùng vẫn được tốt lành, có hạnh phúc cho dân (hữu hỉ dã: lời Tiểu tượng truyện.) 6. 上九: 白賁, 无咎. Thượng cửu: Bạch bí, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, dương: lấy sự tố phác, như màu trắng (không màu mè gì cả) làm trang sức, không có lỗi. Giảng: Hào này là thời cuối cùng của quẻ Bí, trang sức, màu mè đã cùng cực rồi; mà vật cực tắc phản, người ta lại trở lại sự chất phác, nên không có lỗi gì cả. Trong văn học sử, chúng ta thấy sau những thời duy mĩ quá mức, người ta lại “phục cổ”, trở lại lối văn bình dị, tự nhiên thời xưa. * Đại ý quẻ Bí này là có văn vẻ, có trang sức mới là văn minh, nhưng vẫn nên trọng chất hơn văn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng, và không nên xa hoa, màu mè quá.
23. QUẺ SƠN ĐỊA BÁC
Trên là Cấn (núi) dưới là Khôn (đất)
Trên là Cấn (núi) dưới là Khôn (đất)
Đồ hình quẻ Sơn Địa Bác
Bí là trang
sức, trau giồi; trau giồi tới cực điểm thì mòn hết. Cho nên sau quẻ Bí
tới quẻ Bác. Bác là mòn, là bóc, lột bỏ cho tiêu mòn lần đi.
Thoán từ
剝: 不利有攸往.
Bác: Bất lợi hữu du vãng.
Dịch: Tiêu mòn: Hễ tiến tới (hành động) thì không lợi.
Giảng: Theo tượng quẻ, năm hào âm chiếm
chỗ của dương, âm tới lúc cực thịnh, dương chỉ còn có một hào, sắp đến
lúc tiêu hết. Do đó gọi là quẻ thịnh, dương, chỉ còn một hào sắp đến lúc
tiêu hết. Do đó gọi là quẻ Bác. Ở thời tiểu nhân đắc chí hoành hành,
quân tử (hào dương ở trên cùng) chỉ nên chờ thời, không nên hành động.
Chờ thời vì theo luật tự nhiên, âm thịnh cực rồi sẽ suy, mà dương suy
cực rồi sẽ thịnh . (Lão Tử khuyên: “đại trí nhược ngu, đại dũng nhược
khiếp, đại xảo nhược chuyết (vụng) “nghĩa là phải tạm giấu cái khôn, cái
khéo, cái dũng của mình để được yên thân đợi chờ cơ hội).
Thoán truyện: giảng thêm: nên thuận đạo
trời mà ngưng mọi hoạt động vì nội quái là Khôn, có nghĩa là thuận,
ngoại quái là Chấn có nghĩa là ngưng; mà đạo trời là hết hao mòn (tiêu)
thì sẽ phát sinh (tức) – nói về các chào dương; mà hết đầy (doanh) thì
sẽ trống không (hư) – nói về các hào âm trong quẻ này.
Đại tượng truyện: chỉ xét tượng của quẻ mà
đưa ra một nghĩa khác: ngoại quái là núi, nội quái là đất; núi ở trên
đất, đất là nền móng của núi; đất có dày thì núi mới vững; vậy người
trên (nhà cầm quyền) phải lo cho dân an cư lạc nghiệp thì địa vị của
người trên mới vững. Ý đó thêm vào, không có trong thoán từ.
Hào từ:
1.
初六: 剝床以足, 蔑貞, 凶.
Sơ lục: Bác sàng dĩ túc, miệt trinh, hung.
Dịch: Hào 1, âm: như cắt (phá hoại) chân giường, dần dần sẽ làm tiêu diệt đạo chính của người quân tử, xấu.
Giảng: âm (tiểu nhân) bắt đầu tiêu diệt dương (quân tử ), cũng như bắt đầu phá cái giường từ dưới chân trở lên.
2.
六二: 剝床以辨, 蔑貞, 凶.
Lục nhị: bác sàng dĩ biện, miệt trinh, hung.
Dịch: Hào 2, âm: như phá tới then giường
(có người dịch là thành giường, hay sườn giường), tiêu diệt đạo chính
của người quân tử, xấu.
Giảng: Nghĩa hào này cũng như hào 1: bọn tiểu nhân đã tiến thêm một bước nữa, phá tới then giường rồi, chưa tới mặt giường.
3.
六三: 剝之, 无咎.
Lục tam: Bác chi, vô cữu.
Dịch: Hào 3 âm: Phá bỏ bè đảng của mình, không có lỗi.
Giảng: Hào này cũng là âm nhu, tiểu nhân,
nhưng vì ứng với hào dương, quân tử, ở trên cùng, cho nên theo hào đó mà
bỏ các hào âm ở trên và dưới nó (tức các hào 1, 2, 4) chịu mất lòng với
các hào âm này (lời Tiểu tượng truyện) mà theo đạo chính, cho nên không
có lỗi.
4.
六四: 剝床以膚, 凶.
Lục tứ: Bác sàng dĩ phu, hung.
Dịch: hào 4, âm: phá giường mà xẻo tới da thịt người nằm trên giường nữa, xấu.
Giảng: Hào âm này đã lên tới ngoại quái,
thế là tiểu nhân đã hoành hành, quân tử bị hại quá đau, tai họa bức
thiết quá rồi; xấu.
5.
六五: 貫魚, 以宮人寵, 无不利.
Lục ngũ: Quán ngư, dĩ cung nhân sủng, vô bất lợi.
Dịch: Hào 5, âm: Dắt bầy cung nhân như một
xâu cá (ám chỉ bầy tiểu nhân), để lên hầu vua (tức theo người quân tử,
hào dương ở trên cùng), như vậy là tiểu nhân biết thuận tòng quân tử,
không có gì là không lợi.
Giảng: Hào này làm thủ lãnh bầy âm. Theo
nghĩa mấy hào trên, chúng ta tưởng hào này càng phá mạnh hạng quân tử
hơn nữa; nhưng ngược lại. Hào từ lấy lẽ rằng hào 5, ở sát hào dương ở
trên cùng thân cận với 6, chịu ảnh hưởng tốt của 6, nên dắt cả bầy âm
(ví như một xâu cá – cá thuộc loài âm) để theo hào 6 quân tử cũng như bà
hậu dắt bầy cung phi lên hầu vua. Thế là theo đạo chính, cho nên không
gì là không lợi.
Theo Phan Bội Châu, sở dĩ cổ nhân tới hào
này bỏ cái nghĩa âm tiêu diệt dương, mà cho cái nghĩa âm thuận theo
dương, là để khuyến khích tiểu nhân cải tà qui chánh, mà giúp đỡ quân
tử. Kinh dịch “Vị quân tử mưu” (lo tính cho quân tử) là nghĩa đó. Có thể
như vậy. Lý do chính thì coi hào sau ta sẽ thấy.
6.
上九: 碩果不食, 君子得輿, 小人剝廬.
Thượng cửu: thạc quả bất thực,
Quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Còn một trái
lớn trên cây, không hái xuống ăn (ý nói dương tức quân tử không bao giờ
hết). Quân tử ở hào này được quần chúng (dư) theo; còn tiểu nhân thì
biết rằng nếu diệt hết quân tử tức lá phá đổ nhà chúng ở (chúng cũng
không còn).
Giảng: Cả quẻ chỉ có mỗi hào này là dương
cho nên ví với trái cây lớn còn lại trên cây, không hái xuống ăn thì có
ngày nó sẽ rụng mà mọc mầm, như vậy là đạo quân tử không bao giờ hết.
Hào 3 và 5 kéo các hào âm khác theo hào dương này, cho nên bảo là quân
tử được dân chúng theo. Hào dương này ở trên cùng, cũng như cái nhà che
cho tất cả các hào âm ở dưới. Nếu bọn tiểu nhân phá nhà đó cho sập –
nghĩa bóng là không còn quân tử thì quốc gia suy vong, chủng tộc tiêu
diệt- thì chúng cũng không sống được, không có chốn dung thân.
Vậy ta thấy sở dĩ Chu Công, người viết Hào
từ, cho hào 5 theo hào trên cùng (âm theo dương) là vì lẽ có thế xã hội
mới tồn tại được, không khi nào người tốt bị diệt hết.
Quẻ này nói về thời âm thịnh dương suy,
tiểu nhân tàn hại quân tử, tiểu nhân tuy rất đông, nhưng vẫn có một số
(hào 3 và 5) hiểu đạo cải quá, đứng về phe quân tử, và khi xã hội lâm
nguy thì ủng hộ quân tử. Người quân tử mới đầu chỉ nên im hơi lặng tiếng
mà chờ thời, chuẩn bị cho lúc thịnh trở lại.
Đó là luật âm dương trong vũ trụ; vũ trụ
luôn luôn có đủ cả âm, dương ; khi âm cực thịnh, vẫn còn dương, khi
dương cực thịnh cũng vẫn còn âm, âm dương cứ thay nhau lên xuống, thế
thôi.
24. QUẺ ĐỊA LÔI PHỤC
Trên là Khôn (đất), dưới là Chấn (sấm)
đồ hình |::::: Vật không bao giờ tới cùng tận; quẻ Bác, hào dương ở trên cùng thì lại quay trở xuống ở dưới cùng (cùng thượng phản hạ); cho nên sau quẻ Bác tới quẻ Phục. Phục là trở lại (phát sinh ở dưới). Như vậy là đạo tiểu nhân thịnh cực thì phải tiêu, đạo quân tử suy cực thì lại thịnh lần. Thoán từ. 復: 亨, 出入无疾, 朋來无咎. 反復其道, 七日來復, 利有攸往 Phục: Hanh, Xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu. Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng. Dịch: Trở lại: Hanh thông. Ra vào không gặp tai nạn, bạn bè sẽ lần lượt tới, không lầm lỗi nữa. Vận trời phản phục (tráo đi trở lại), cứ bảy ngày thì trở lại, hành động việc gì cũng có lợi. Giảng: Khí dương bây giờ trở lại, cho nên hanh thông. Người quân tử (dương) ra vào tự do, không bị tai nạn; rồi sẽ có các hào dương khác kéo nhau tới, cũng như bạn bè tới, không còn lầm lỗi nữa (ý muốn nói; sau quẻ này sẽ tới quẻ Lâm, có hai hào dương ở dưới, rồi tới quẻ Thái, có ba hào dương ở dưới, tới quẻ Đại tráng (4 hào dương) quẻ Quải, (5 hào dương) quẻ Càn (cả 6 hào đều dương), thế là sáu quẻ dương cứ tăng lần. đó là vận phản phục của trời đất, cứ bảy ngày thì trở lại. Chữ nhật (ngày) ở đây thay cho chữ hào; bảy ngày mới trở lại vì sau quẻ Càn, tới quẻ Cấu, một hào âm sinh ở dưới 5 hào dương, ngược lại với quẻ Phục (một hào dương ở dưới 5 hào âm), lúc đó mới hết một vòng (1). Thoán truyện giảng thêm: Sở dĩ ra vào không bị tai nạn, bạn bè kéo tới, không còn lầm lỗi, vì tượng của quẻ: nội quái Chấn là động, ngoại quái Khôn là thuận; hoạt động mà thuận theo đạo trời thì tốt. Cái đạo của trời đó là tĩnh lâu rôi thì động, ác nhiều rồi thì thiện, có vậy vạn vật mới sinh sôi nẩy nở. Xem quẻ Phục này thấy một hào dương bắt đầu trở lại, tức là thấy cái lòng yêu, nuôi dưỡng vạn vật của trời đất (kiến thiên địa chí tâm). Đại tượng truyện bảo các vua đời xưa tới ngày đông chí, ngày mà dương bắt đầu sinh (tượng của quẻ Phục: sấm nấp ở dưới đất) thì đóng các cửa ải, không cho khách đi đường và con buôn qua lại mà vua cũng không đi xem xét các địa phương, là có ý muốn yên lặng để nuôi cái khí dương mới sinh. Hào từ. 1. 初九: 不遠復, 无祇悔, 元吉. Sơ cửu: Bất viễn phục, vô kì hối, nguyên cát. Dịch: Hào 1, dương. Tuy lầm lỗi nhưng thời gian chẳng xa, trở lại tốt lành ngay, thì không đến nỗi ăn năn lớn; rất tốt (chữ Kì ở đây có nghĩa là lớn). Giảng: Hào 1, dương cương, ở đầu quẻ Phục, có nghĩa là người đầu tiên trở lại đạo, biết tu thân, nên rất tốt. Theo Hệ từ hạ truyện chương V, thì Khổng tử cho rằng Nhan Hồi có đức của hào 1 này, vì Nhan có lỗi lầm gì thì biết ngay mà biết rồi thì sửa liền không mắc lần thứ nhì nữa. 2. 六二: 休復, 吉. Lục nhị: Hưu phục, cát. Dịch: Hào 2, âm: Trở lại đẹp đẽ (hữu), tốt. Giảng: Hào này âm nhu đắc trung, chính, vốn tốt rồi, mà lại ở gần hào 1 là người quân tử, tức là người biết khắc kỉ, trở lại đạo nhân nghĩa; cho nên tuy là âm mà tốt lành. 3. 六三: 頻復, 厲, 无咎. Lục tam: Tần phục, lệ, vô cửu. Dịch: hào 3, âm (Mắc lỗi nhưng) sửa lại nhiều lần, tuy đáng nguy, mà kết quả không có lỗi. Giảng: Hào này bất trung, bất chính, lại ở thời cuối cùng của nội quái Chấn (có nghĩa là động), ví như người không bền chí, theo điều thiện không được lâu, sửa lỗi rồi lại mắc lỗi trở lại, như thế là đáng nguy (lệ), nhưng lại biết phục thiện sửa đi sửa lại nhiều lần, nên rốt cuộc không có lỗi. 4. 六四: 中行, 獨復. Lục tứ: Trung hành, độc phục. Dịch: Hào 4, âm: ở giữa các tiểu nhân (các hào âm: 2,3 và 5,6 ) mà một mình trở lại theo quân tử (hào 1), tức theo đạo. Giảng: hào này âm nhu, đắc chính ở giữa các hào âm, nhưng chỉ một mình nó ứng với hào 1 là dương, quân tử, cho nên Hào từ khen là một mình nó biết theo người thiện. 5. 六五: 敦復, 无悔. Lục ngũ: Đôn phục, vô hối. Dịch: Hào 5, âm: Có đức dày trở lại điều thiện, không có gì hối hận. Giảng: Hào này nhu thuận, đắc trung lại ở vị tôn quí, như một người có đức dày phục thiện (trở lại điều thiện), biết tự sửa mình, cho nên không hối hận. 6. 上六: 迷復, 凶.有災眚. 用行師, 終有大敗, 以其國君凶, 至于十年, 不克征. Thượng lục: Mê phục, hung, hữu tai sảnh, Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kì quốc quân hung, chí vu thập niên, bất khắc chính. Dịch: Hào trên cùng, âm: Mê muội, không trở lại, sẽ bị tai vạ từ ngoài đưa đến (tai) và tự mình gây nên (sảnh); đã vậy lại cậy võ lực mà dùng quân đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, làm cho quốc quân cũng bị khốn nạn (hung), tới mười năm (tới chung cục) cũng không khá được. Giảng: hào này ở trên cùng, như kẻ tiểu nhân hôn mê đến cùng cực, không biết trở lại, cho nên bị đủ thứ tai vạ. Nó có thế lực nhất trong các hào âm (đám tiểu nhân ) vì ở trên cùng, muốn dùng võ lực đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, gây vạ lây cho nước nó, không bao giờ khá được. Chữ thập (số 10) là số cuối cùng (số 1 là số đầu) cho nên thập niên ở đây có nghĩa là tới cùng, chớ không nhất định là 10 năm. Tiểu tượng truyện bảo hào trên cùng này sở dĩ hung là vì làm trái đạo vua (phản quân đạo), tức đạo của hào 1. Hào 1 này là hào dương duy nhất trong quẻ, làm chủ cả quẻ cho nên gọi là vua. * Quẻ này xét về sự sửa lỗi để trở về đường chính. Tốt nhất là hạng người tự nhận thấy lỗi rồi sửa liền, không mắc phải lần nữa, rồi tới hạng ở gần người tốt, mà bắt chước vui vẻ làm điều nhân, nghĩa; sau tới hạng có đức dày trở lại điều thiện, hạng ở giữa kẻ xấu mà một mình theo đạo; hạng không bền chí, giữ điều thiện được lâu, nhưng biết phục thiện thì cũng không lỗi. Xấu nhất là hạng mê muội không biết trở lại đường chính. Ý nghĩa không có gì đặc biệt.
Trên là Khôn (đất), dưới là Chấn (sấm)
đồ hình |::::: Vật không bao giờ tới cùng tận; quẻ Bác, hào dương ở trên cùng thì lại quay trở xuống ở dưới cùng (cùng thượng phản hạ); cho nên sau quẻ Bác tới quẻ Phục. Phục là trở lại (phát sinh ở dưới). Như vậy là đạo tiểu nhân thịnh cực thì phải tiêu, đạo quân tử suy cực thì lại thịnh lần. Thoán từ. 復: 亨, 出入无疾, 朋來无咎. 反復其道, 七日來復, 利有攸往 Phục: Hanh, Xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu. Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng. Dịch: Trở lại: Hanh thông. Ra vào không gặp tai nạn, bạn bè sẽ lần lượt tới, không lầm lỗi nữa. Vận trời phản phục (tráo đi trở lại), cứ bảy ngày thì trở lại, hành động việc gì cũng có lợi. Giảng: Khí dương bây giờ trở lại, cho nên hanh thông. Người quân tử (dương) ra vào tự do, không bị tai nạn; rồi sẽ có các hào dương khác kéo nhau tới, cũng như bạn bè tới, không còn lầm lỗi nữa (ý muốn nói; sau quẻ này sẽ tới quẻ Lâm, có hai hào dương ở dưới, rồi tới quẻ Thái, có ba hào dương ở dưới, tới quẻ Đại tráng (4 hào dương) quẻ Quải, (5 hào dương) quẻ Càn (cả 6 hào đều dương), thế là sáu quẻ dương cứ tăng lần. đó là vận phản phục của trời đất, cứ bảy ngày thì trở lại. Chữ nhật (ngày) ở đây thay cho chữ hào; bảy ngày mới trở lại vì sau quẻ Càn, tới quẻ Cấu, một hào âm sinh ở dưới 5 hào dương, ngược lại với quẻ Phục (một hào dương ở dưới 5 hào âm), lúc đó mới hết một vòng (1). Thoán truyện giảng thêm: Sở dĩ ra vào không bị tai nạn, bạn bè kéo tới, không còn lầm lỗi, vì tượng của quẻ: nội quái Chấn là động, ngoại quái Khôn là thuận; hoạt động mà thuận theo đạo trời thì tốt. Cái đạo của trời đó là tĩnh lâu rôi thì động, ác nhiều rồi thì thiện, có vậy vạn vật mới sinh sôi nẩy nở. Xem quẻ Phục này thấy một hào dương bắt đầu trở lại, tức là thấy cái lòng yêu, nuôi dưỡng vạn vật của trời đất (kiến thiên địa chí tâm). Đại tượng truyện bảo các vua đời xưa tới ngày đông chí, ngày mà dương bắt đầu sinh (tượng của quẻ Phục: sấm nấp ở dưới đất) thì đóng các cửa ải, không cho khách đi đường và con buôn qua lại mà vua cũng không đi xem xét các địa phương, là có ý muốn yên lặng để nuôi cái khí dương mới sinh. Hào từ. 1. 初九: 不遠復, 无祇悔, 元吉. Sơ cửu: Bất viễn phục, vô kì hối, nguyên cát. Dịch: Hào 1, dương. Tuy lầm lỗi nhưng thời gian chẳng xa, trở lại tốt lành ngay, thì không đến nỗi ăn năn lớn; rất tốt (chữ Kì ở đây có nghĩa là lớn). Giảng: Hào 1, dương cương, ở đầu quẻ Phục, có nghĩa là người đầu tiên trở lại đạo, biết tu thân, nên rất tốt. Theo Hệ từ hạ truyện chương V, thì Khổng tử cho rằng Nhan Hồi có đức của hào 1 này, vì Nhan có lỗi lầm gì thì biết ngay mà biết rồi thì sửa liền không mắc lần thứ nhì nữa. 2. 六二: 休復, 吉. Lục nhị: Hưu phục, cát. Dịch: Hào 2, âm: Trở lại đẹp đẽ (hữu), tốt. Giảng: Hào này âm nhu đắc trung, chính, vốn tốt rồi, mà lại ở gần hào 1 là người quân tử, tức là người biết khắc kỉ, trở lại đạo nhân nghĩa; cho nên tuy là âm mà tốt lành. 3. 六三: 頻復, 厲, 无咎. Lục tam: Tần phục, lệ, vô cửu. Dịch: hào 3, âm (Mắc lỗi nhưng) sửa lại nhiều lần, tuy đáng nguy, mà kết quả không có lỗi. Giảng: Hào này bất trung, bất chính, lại ở thời cuối cùng của nội quái Chấn (có nghĩa là động), ví như người không bền chí, theo điều thiện không được lâu, sửa lỗi rồi lại mắc lỗi trở lại, như thế là đáng nguy (lệ), nhưng lại biết phục thiện sửa đi sửa lại nhiều lần, nên rốt cuộc không có lỗi. 4. 六四: 中行, 獨復. Lục tứ: Trung hành, độc phục. Dịch: Hào 4, âm: ở giữa các tiểu nhân (các hào âm: 2,3 và 5,6 ) mà một mình trở lại theo quân tử (hào 1), tức theo đạo. Giảng: hào này âm nhu, đắc chính ở giữa các hào âm, nhưng chỉ một mình nó ứng với hào 1 là dương, quân tử, cho nên Hào từ khen là một mình nó biết theo người thiện. 5. 六五: 敦復, 无悔. Lục ngũ: Đôn phục, vô hối. Dịch: Hào 5, âm: Có đức dày trở lại điều thiện, không có gì hối hận. Giảng: Hào này nhu thuận, đắc trung lại ở vị tôn quí, như một người có đức dày phục thiện (trở lại điều thiện), biết tự sửa mình, cho nên không hối hận. 6. 上六: 迷復, 凶.有災眚. 用行師, 終有大敗, 以其國君凶, 至于十年, 不克征. Thượng lục: Mê phục, hung, hữu tai sảnh, Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kì quốc quân hung, chí vu thập niên, bất khắc chính. Dịch: Hào trên cùng, âm: Mê muội, không trở lại, sẽ bị tai vạ từ ngoài đưa đến (tai) và tự mình gây nên (sảnh); đã vậy lại cậy võ lực mà dùng quân đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, làm cho quốc quân cũng bị khốn nạn (hung), tới mười năm (tới chung cục) cũng không khá được. Giảng: hào này ở trên cùng, như kẻ tiểu nhân hôn mê đến cùng cực, không biết trở lại, cho nên bị đủ thứ tai vạ. Nó có thế lực nhất trong các hào âm (đám tiểu nhân ) vì ở trên cùng, muốn dùng võ lực đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, gây vạ lây cho nước nó, không bao giờ khá được. Chữ thập (số 10) là số cuối cùng (số 1 là số đầu) cho nên thập niên ở đây có nghĩa là tới cùng, chớ không nhất định là 10 năm. Tiểu tượng truyện bảo hào trên cùng này sở dĩ hung là vì làm trái đạo vua (phản quân đạo), tức đạo của hào 1. Hào 1 này là hào dương duy nhất trong quẻ, làm chủ cả quẻ cho nên gọi là vua. * Quẻ này xét về sự sửa lỗi để trở về đường chính. Tốt nhất là hạng người tự nhận thấy lỗi rồi sửa liền, không mắc phải lần nữa, rồi tới hạng ở gần người tốt, mà bắt chước vui vẻ làm điều nhân, nghĩa; sau tới hạng có đức dày trở lại điều thiện, hạng ở giữa kẻ xấu mà một mình theo đạo; hạng không bền chí, giữ điều thiện được lâu, nhưng biết phục thiện thì cũng không lỗi. Xấu nhất là hạng mê muội không biết trở lại đường chính. Ý nghĩa không có gì đặc biệt.
25. QUẺ THIÊN LÔI VÔ VỌNG
Trên là Càn (trời), dưới là Chấn (sấm)
Trên là Càn (trời), dưới là Chấn (sấm)
đồ hình |::|||
Đã trở lại thiên lý, chính đạo rồi thì không làm càn nữa, cho nên sau quẻ Phục, tới quẻ Vô vọng. Vọng có nghĩa là càn, bậy.
Thoán từ.
无妄: 元亨, 利貞. 其匪正有眚, 不利有攸往.
Vô vọng: Nguyên hanh, lợi trinh.
Kì phỉ chính hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng.
Dịch: không càn bậy thì rất hanh thông,
hợp với chính đạo thì có lợi. Cái gì không hợp với chính đạo thì có hại,
có lỗi, hành động thì không có lợi.
Giảng: Tượng quẻ này: nội quái là Chấn
(nghĩa là động, hành động); ngoại quái là Càn (trời), hành động mà hợp
với lẽ trời thì không càn bậy, không càn bậy thì hanh thông, có lợi.
Thoán truyện giảng rõ thêm:
Nội quái nguyên là quẻ Khôn, mà hào 1, âm
biến thành dương, thành quẻ Chấn. Thế là dương ở ngoài tới làm chủ nội
quái, mà cũng làm chủ cả quẻ vô vọng, vì ý chính trong Vô vọng là: động,
hành động. Động mà cương kiên như ngoại quái Càn, tức là không càn bậy.
Xét về các hào thì hào 5 dương cương,
trung chính ứng, ứng với hào 2 cũng trung chính, thế là hợp với thiên
lý, rất hanh thông.
Ở thời Vô vọng (không càn bậy) mình không
giữ chính đạo mà đi thì đi đâu được? Chữ đi (vãng) ở đây nghĩa rộng là
hành động (nguyên văn: Vô vọng chi vãng, hà chi hĩ? Nên hiểu là : vô
vọng: phỉ chính chi vãng, hà chi hĩ; chữ chi thứ nhì này có nghĩa là
đi). Trái lẽ trời thì trời không giúp, làm sao đi được ?
Đại tượng truyện bàn thêm về cái đạo của
trời (đất) là nuôi nấng, và thánh nhân cũng theo đạo đó mà nuôi nấng vạn
dân. Chúng tôi cho là ra ngoài đề.
Hào từ:
1.
初九: 无妄, 往吉.
Sơ cửu: vô vọng, vãng cát.
Dịch: Hào 1, dương: không còn bậy, mà tiến đi thì tốt.
Giảng: Hào này dương cương, làm chủ nội quái, là người có đức, cho nên khen như vậy.
2.
六二: 不耕穫, 不菑畬, 則利有攸往.
Lục nhị: Bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng.
Dịch: Khi cày thì không nghĩ tới lúc gặt,
khi mới khai phá (tri) thì không nghĩ đến ruộng đã thuộc (dự), như vậy
mà tiến tới thì có lợi.
Giảng: Lời hào này quá vắn tắt, hơn điện tín ngày nay nữa, nên tối nghĩa, có nhiều sách cứ dịch từng chữ; không thông.
Chu công muốn bảo: Khi cày mà không nghĩ
tới lúc gặt, khi mới khai phá mà không nghĩ tới khi ruộng đã thuộc, có
nghĩa là thấy việc chính đáng phải làm thì làm mà không nghĩ đến cái lợi
rồi mới làm, không chỉ trông mong vào kết quả, như vậy mới tốt.
Hào 2, âm, vừa trung vừa chính, ứng với
hào 5 cũng trung chính; nó vốn là âm có đức thuận ở trong nội quái Chấn
là động, như một người tốt hành động hợp với trung, chính, cho nên Hào
từ bảo như vậy mà tiến thì có lợi.
Có lẽ chính vì ý nghĩa hào này mà Sử ký
của Tư Mã Thiên chép tên quẻ là 无 望 (vô vọng :không mong) với nghĩa làm
điều phải mà “không mong” có lợi, có kết quả. Hiểu như vậy cũng được.
3.
六三: 无妄之災, 或繫之牛, 行人之得, 邑人之災.
Lục tam: vô vọng chi tai, hoặc hệ chi ngưu,
Hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.
Dịch: Hào 3, âm: không còn bậy mà bị tai
vạ tự nhiên đến như có kẻ cột con bò ở bên đường (rồi bỏ đi chỗ khác),
một người đi qua (thấy bò không có ai coi), dắt trộm đi, được bò, mà
người trong ấp bị nghi oan là lấy trộm bò, mà mắc họa.
Giảng: cả 6 hào trong quẻ này đều là không
càn bậy, nhưng hào này khác một chút là bất trung, bất chính, nên bị
tai vạ; tai vạ đó chỉ là vô cớ mà mắc.
4.
九四: 可貞,无咎.
Cửu tứ: khả trinh, vô cữu.
Dịch : Hào 4, dương: nên giữ vững tư cách thì không có lỗi (hoặc: có thể giữ vững được tư cách, cho nên không có lỗi).
Giảng : chữ “Trinh” có hai nghĩa: chính
đáng và bền. Ở đây nên hiểu là bền. Hào 4 này dương, không ứng hợp với
hào nào cả. (vì hào 1 cũng là dương cương như nó), không nên họat động,
nhưng nó cương kiện, có thể giữ vững được tư cách.
5.
九五: 无妄之疾, 勿藥, 有喜.
Cửu ngũ: vô vọng chi tật, vật dược, hữu hỉ.
Dịch: Hào 5, dương: Không càn bậy mà vô cớ bị bệnh (gặp tai họa) thì đừng uống thuốc, sẽ hết bệnh.
Giảng: Hào này ở địa vị cao, trung chính
lại ứng với hào 2 cũng trung chính, vậy là rất tốt, chẳng may có bị bệnh
(gặp tai họa) thì đừng uống thuốc (nghĩa bóng là đừng chạy chọt gì cả,
cứ thản nhiên như Khổng tử khi bị giam ở đất Khuông) rồi sẽ tai qua nạn
khỏi (như Khổng tử sau được thả ra, vì người Khuông nhận là rằng họ lầm
ông với Dương Hổ, một người mà họ ghét.)
6.
上九: 无妄, 行有眚, 无攸利.
Thượng cửu: Vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi.
Dịch: Hào trên cùng, dương. Không càn bậy, nhưng đi (hành động) thì bị họa, không lợi gì.
Giảng: Hào từ khuyên không nên hành động,
mặc dầu vẫn là “vô vọng”, chỉ vì hào này tới cuối cùng của quẻ rồi, chỉ
nên yên lặng chờ thời.
*
Quẻ này cũng nhấn mạnh vào lẽ tùy thời. Cả
6 hào đều là “vô vọng” cả, không càn bậy mà tùy thời, có lúc hoạt động
thì tốt như hào 1, 2; có lúc lại nên thản nhiên, chẳng làm gì cả, như
hào 5, có lúc không nên hành động như hào 4 (nếu hoạt động thì bị họa)
và như hào trên cùng.
26. QUẺ SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
Trên là Cấn (núi), dưới là Càn (trời)
Trên là Cấn (núi), dưới là Càn (trời)
đồ hình |||::|
Mình không
có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức,
hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này
cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: Nhóm chứa,
nuôi nấng, ngăn lại. Thoán từ dùng theo nghĩa chứa (súc tích, uẩn súc),
mà Hào từ dùng với nghĩa ngăn lại.
Thoán từ:
大畜: 利貞, 不家食,吉; 利涉大川.
Đại súc: Lợi trinh, bất gia thực, cát; lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Chứa lớn: Chính đáng (theo chính
đạo) thì lợi. Không phải ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của vua), tốt;
vượt qua sông lớn (làm việc khó khăn, gian nguy để giúp nước) thì lợi.
Giảng: Trên là núi, dưới là trời, núi mà
chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói
về bậc quân tử thì phải “chứa” tài đức, nghĩa là tu luyện cho tài đức
uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực
rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật
tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi đến chốn, làm cho đến
nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).
Người nào “uẩn súc” được như vậy thì được
quốc gia nuôi, và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông
lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là
trời).
Hào từ:
1.
初九.有厲.利已.
Sơ cửu: Hữu lệ, lợi dĩ.
Dịch: Hào 1, dương : có nguy, ngưng lại thì lợi.
Giảng: Hào này cương kiện, muốn tiến lên
nhưng bị hào 4, âm ở trên chặn lại (trong các hào, súc có nghĩa là ngăn
chứ không có nghĩa là chứa), nếu cố tiến thì nguy, ngưng lại thì tốt.
2.
九二: 輿說輹.
Cửu nhị: Dư thoát phúc.
Dịch: Hào 2, dương, như chiếc xe đã tháo cái trục.
Giảng: Hào này cũng bị hào 5, âm, ngăn lại
như hào 1, nhưng vì đắc trung (ở giữa nội quái), nên biết tự ngăn mình
(như tự tháo cái trục xe ra) để thôi không đi. Như vậy không có lỗi.
3.
九三: 良馬逐; 利艱貞.日閑輿衛, 利有攸往.
Cửu tam: Lương mã trục; lợi gian trinh,
Nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng.
Dịch: Hào 3, dương : như hai con ngựa tốt
chạy đua nhau; phải chịu khó giữ đạo chính thì có lợi, lại phải thường
ngày luyện tập, dự bị các đồ hộ thân thì tiến lên mới có lợi.
Giảng: Chúng ta để ý: hai hào 1, 2 đều là
dương cương mà đều bị hai hào âm nhu (4 và 5) ngăn cản, vì tuy cương mà ở
trong nội quái (quẻ dưới), cũng như các tướng tài năng phải phục tùng
Võ Hậu, Từ Hi Thái Hậu. Không phải thời nào dương cũng thắng âm cả đâu.
Tới hào 3 này, may được hào trên cùng cũng là dương, ứng với mình như
một đồng chí, cho nên cả hai hăng hái như hai con ngựa tốt đua nhau
chạy; nhưng hăng quá mà không nhớ rằng trên đường gặp nhiều gian nan,
không luyện tập đề phòng hàng ngày thì không tiến được xa, nên Hào từ
khuyên như trên.
4.
六四: 童牛之牿, 元吉.
Lục tứ: đồng ngưu chi cốc, nguyên cát.
Dịch: Hào 4, âm: như con bò mộng còn non, mới nhú sừng, đặt ngay mảnh gỗ chặn sừng nó, thì rất tốt.
Giảng: Trong quẻ Đại súc, hào âm này vẫn
ngăn chặn được hào 1, dương, vì tuy nó âm nhu, nhưng hào 1 ở đầu quẻ là
dương còn non, như con bò mọng mới nhú sừng, nếu kịp thời ngăn cản ngay,
chặn sừng nó lại thì không tốn công mà có kết quả rất tốt. đại ý là
phải đề phòng ngay từ khi họa mới có mòi phát.
5.
六五: 豶豕之牙, 吉.
Lục ngũ: Phần thỉ chi nha, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Như thể ngăn cái nanh con heo đã thiến thì tốt.
Giảng: Hào 2 là dương đã già giặn, không
non nớt như hào 1, cho nên dữ hơn 1, ví như nanh con heo (rừng). Hào 5
muốn chặn nó, mà chỉ bẻ nanh con heo thôi thì nó vẫn con hung; tốt hơn
hết là thiến nó để cho nó hết dữ, lúc đó dù nó còn nanh cũng không hay
cắn nữa. Hào 5, chặn được hào 2 là nhờ cách đó, trừ tận gốc, không tốn
công mà kết quả tốt.
6.
上九: 何天之衢, 亨.
Thượng cửu: hà thiên chi cù, hanh.
Dịch : Hào trên cùng, dương. Sao mà thông suốt như dương trên trời vậy.
Giảng: tới hào này là thời gian cản đã
cùng rồi, hết trở ngại, đường thật rộng lớn, bát ngát như đường trên
trời. Có nghĩa là đại lớn được thi hành.
*
Quẻ này Thoán từ nói về sự súc tích tài đức, mà Hào từ lại xét cách ngăn cản kẻ hung hãn.
Hai hào có ý nghĩa nhất là 4 và 5: muốn
ngăn thì phải ngăn từ khi mới manh nha; và muốn diệt ác thì phải diệt từ
gốc, tìm nguyên nhân chính mà trừ thì mới không tốn công, kết quả chắc
chắn.
27. QUẺ SƠN LÔI DI
Trên là Cấn (núi), dưới là Chấn (sấm)
䷚ đồ hình |::::|
Trên là Cấn (núi), dưới là Chấn (sấm)
䷚ đồ hình |::::|
Súc là chứa,
có chứa nhóm vật lại rồi mới nuôi được, cho nên sau quẻ Đại súc là quẻ
Di. Di có hai nghĩa: nuôi nấng và cái cằm. Nhìn hình quẻ, chúng ta thấy
như cái miệng mở rộng, hai nét liền ở trên và dưới như hai cái hàm, toàn
bộ gợi cho ta ý cái cằm (thay cái mép) lại gợi cho ta sự ăn uống để
nuôi sống.
Thoán từ
頤: 貞吉. 觀頤, 自求口實.
Di : Trinh cát. Quan di, tự cầu khẩu thực.
Dịch: Nuôi: hễ đúng chính đạo thì tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình.
Giảng: Nuôi tinh thần hay thể chất, cũng
phải hợp chính đạo thì mới tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình thì
biết tốt hay xấu.
Thoán truyện suy rộng ra: Trời đất khéo
nuôi vạn vật mà vạn vật sinh sôi nảy nở về mọi mặt; thánh nhân dùng
những người hiền giúp mình trong việc nuôi dân chúng; cái đạo nuôi nấng
lớn như vậy đó.
Đại tượng truyện đưa thêm một ý nữa: theo
cái tượng của quẻ, thì dưới núi có tiếng sấm, dương khí bắt đầu phát mà
vạn vật trong núi được phát triển như vậy là trời đất nuôi vật. Người
quân tử tự nuôi mình thì phải cẩn thận về lời nói để nuôi cái đức, và
tiết độ về ăn uống để nuôi thân thể (Quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm
thực). Là vì đời, “họa tòng khẩu xuât, bệnh tòng khẩu nhập” Phải giữ gìn
nhất cái miệng.
Hào từ
初九: 舍爾靈龜, 觀我朵頤, 凶.
Sơ cửu: Xã nhỉ linh qui, quan ngã đóa di, hung.
Dịch: hào 1, dương: chú bỏ con rùa thiêng (tượng trưng phần tinh thần quí báu) của chú đi mà cứ ngó ta, tới xệ mép xuống, xấu.
Giảng: Chúng ta nên để ý: nội quái là Chấn, có nghĩa là động, cho nên cả ba hào đều diễn cái ý mình đi cầu cạnh người .
Hào 1 này dương cương, khôn lanh, nhưng
ứng với hào 4 âm, có thế lực ở trên hăm hở theo âm đến nỗi bỏ thiên lí,
thèm thuồng cầu ăn ở người khác (hào 4) để nuôi xác thịt, mà quên phần
tinh thần của mình (nó quí như con rùa thiêng chỉ sống bằng khí trờii)
như vậy rất xâu. Hai chữ “đóa di”, thòng mép xuống, cực tả sự bỉ ổi của
bọn người chỉ ham ăn, nói rộng ra là bọn bị tư dục mê hoặc đến mất cả
liêm sỉ.
2.
六二: 顛頤, 拂經, 于丘 頤, 征凶.
Lục nhị: điên di, phất kinh, vu khâu di, chinh hung .
Dịch: Hào 2, âm: Đảo lộn cách nuôi mình, trái với lẽ thường, cầu sự nuôi dưỡng ở gò cao, tiến lên thì xấu.
Giảng: Hào này âm nhu, không tự sức nuôi
mình được, nên phải cầu ăn với hai hào dương 1 và 6. nhưng hào 1 ở dưới
mình, như vậy là người trên xin ăn người dưới, đảo lộn rồi, trái lẽ
thường (kinh) rồi; còn như cầu ăn ở hào trên cùng (ví như cái gò cao),
tì hào này không ứng với 2, 2 sẽ bị từ chối, bị khinh mà mắc nhục.
Nên để ý: theo thường lệ, hào 2 này đắc
trung, chính thì tốt mà đây lại xấu, vì ý nghĩa của quẻ nuôi dưỡng, mà
hào này lại không đủ sức tự dưỡng được.
3.
六三: 拂頤, 貞凶.十年勿用无攸利.
Lục tam: Phật di, trinh hung. Thập niên vật dụng vô du lợi.
Dịch: Hào 3 âm: Cách nuôi trái hẳn với chính đạo, xấu. Mười năm (có nghĩa là tới cùng) cũng không tốt được không làm nên gì.
Giảng: hào này âm nhu, bất trung, bất
chính, lại hay động (vi ở trên cùng nội quái Chấn) không chịu ngồi yên,
thấy đâu có ăn là đâm đầu vào. Rất xấu – Về hai chữ “thập niên” chúng ta
đã giảng ở hào cuối cùng của quẻ Phục.
4.
六四: 顛頤, 吉.虎視眈眈, 其欲逐逐, 无咎.
Lục tứ: điên di, cát. Hổ thị đam đam, kì dục trục trục, vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Đảo lộn cách nuôi mà tốt. Mắt hổ nhìn đăm đăm, lòng ham muốn day dứt không ngớt, không có lỗi.
Giảng: Hào này âm nhu đắc chính, ở vào địa
vị cao, được hào 5 chí tôn tương đắc với mình (cùng là âm cả) lại thêm
có hào 1 dương ứng với mình, như vậy là người trên biết trọng đạo nghĩa,
biết hạ mình cầu người dưới (hào 1) nuôi mình; tuy là điên đảo, trái lẽ
thường đấy, nhưng vì là người tốt (đắc chính), cầu 1 giúp mình để mình
lập nên sự nghiệp san sẽ giúp đỡ dân chúng, cho nên vẫn là tốt.
Nhưng phải chuyên nhất, không gián đoạn
(như mắt hổ nhìn đăm đăm, ham muốn không ngớt), cứ tiếp tục cầu 1 giúp
hoài thì mới có kết quả, không có lỗi.
Cầu nuôi ở hào này là cầu nuôi về tinh thần, chứ không phải về thể xác.
5.
六五: 拂經, 居貞, 吉.不可涉大川.
Lục ngũ: Phật kinh, cư trinh, cát. Bất khả thiệp đại xuyên.
Dịch: Hào 5, âm: Trái lẽ thường, bền chí giữ đạo chính thì tốt. Không thể vượt sông lớn được.
Giảng: Hào này như một vị nguyên thủ, có
trách nhiệm nuôi người, nhưng vì âm nhu, kém tài, nên phải nhờ người
(tức hào trên cùng) nuôi mình (giúp đỡ mình); tuy là trái lẽ thường,
nhưng cứ bền chí, giữ đạo chính thì tốt; vì nhờ người khác giúp đỡ để
mình làm trọn nhiệm vụ nuôi dân.
Tuy nhiên, vì tài kém (âm nhu), làm việc lớn gian hiểm không nổi, nên Hào từ khuyên: không thể qua sông lớn được.
Cầu nuôi ở hào này cũng là cầu nuôi về tinh thần.
6.
上九: 由頤, 厲吉, 利涉大川.
Thượng cửu: do di, lệ cát. Lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Hào trên cùng, dương. Thiên hạ nhờ
mình mà được nuôi, trách nhiệm mình lớn như vậy, mình phải thường lo
lắng, sợ hãi thì được tốt. Qua sông lớn được.
Giảng: Hào này dương cương mà ở trên cùng,
như bậc làm thầy cho vị nguyên thủ, vị nguyên thủ nhờ mình mà nuôi được
thiên hạ, thì cũng như chính mình nuôi thiên hạ. Trách nhiệm lớn như
vậy nên mình phải thường lo lắng, sợ hãi, rất thận trọng thì mới được
tốt lành, mà thiên hạ được phúc lớn (lời Tiểu tượng truyện).
Hào này dương cương có tài, không như hào 5, cho nên làm được việc lớn gian hiểm.
*
Tóm lại ba
hào cuối đều có nghĩa là nuôi về tinh thần, giúp đỡ dân chúng nên đều
được “cát” hết. Ba hào đầu có nghĩa là nhờ người nuôi thể xác của mình,
cho nên đều xấu .
28. QUẺ TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ
Trên là Đoài (chằm) dưới là Tốn (gió)
䷛ đồ hình :||||: Tự quái truyện giảng rất mù mờ, “Di là nuôi, không nuôi thì không thể động (bất dưỡng tức bất động) (?) cho nên sau quẻ Di đến quẻ Đại quá (lớn quá) “Phan Bội Châu giảng: “Có nuôi rồi sau mới có việc lớn quá” Chúng tôi nghĩ có thể giảng: Có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường. Chữ “đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần dương nhiều quá; – nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá.
Trên là Đoài (chằm) dưới là Tốn (gió)
䷛ đồ hình :||||: Tự quái truyện giảng rất mù mờ, “Di là nuôi, không nuôi thì không thể động (bất dưỡng tức bất động) (?) cho nên sau quẻ Di đến quẻ Đại quá (lớn quá) “Phan Bội Châu giảng: “Có nuôi rồi sau mới có việc lớn quá” Chúng tôi nghĩ có thể giảng: Có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường. Chữ “đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần dương nhiều quá; – nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá.
* Thoán từ
大過: 棟撓, 利有攸往, 亨.
Đại quá: đống nạo, lợi hữu du vãng, hanh.
Dịch: (Phần dương ) nhiều quá (phần âm ít
quá) như cái cột yếu, cong xuống (chống không nổi). Trên di thì lợi,
được hanh thông.
Giảng: Nhìn hình của quẻ, bốn hào dương ở
giữa, 2 hào âm hai đầu, như cây cột, khúc giữa lớn quá, ngọn và chân nhỏ
quá, chống không nổi, phải cong đi.
Tuy vậy, hai hào dương 2 và 5 đều đắc
trung, thế là cương mà vẫn trung; lại thêm quẻ Tốn ở dưới có nghĩa là
thuận, quẻ Đoài ở trên có nghĩa là hòa, vui, thế là hòa thuận, vui vẻ
làm việc, cho nên bảo là tiến đi (hành động) thì được hanh thông.
Đại tượng truyện bàn rộng: Đoài là chằm ở
trên, Tốn là cây ở dưới, có nghĩa nước lớn quá, ngập cây. Người quân tử
trong quẻ này phải có đức độ, hành vi hơn người, cứ việc gì hợp đạo thì
làm, dù một mình đứng riêng, trái với thiên hạ, cũng không sợ (độc lập
bất cụ); nếu là việc không hợp đạo thì không thèm làm, dù phải trốn đời,
cũng không buồn (độn thế vô muộn).
Hào từ:
1.
初六: 藉用白茅, 无咎.
Sơ lục: Tạ dụng bạch mao, vô cữu.
Dịch: Hào 1, âm: Lót (vật gì) bằng cây cỏ mao trắng, không có lỗi.
Theo Hệ tự thượng truyện Chương VIII,
Khổng tử bàn về quẻ này: “Nếu đặt vật gì xuống đất cũng được rồi mà lại
còn dùng cỏ mao trắng để lót thì còn sợ gì đổ bể nữa? Như vậy là rất cẩn
thận”.
2.
九二: 枯楊生稊, 老夫得其女妻, 无不利.
Cửu nhị: Khô dương sinh đề, lão phu đắc kì nữ thê, vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, dương : cây dương khô đâm rễ mới, đàn ông già cưới được vợ trẻ, không gì là không lợi.
Giảng: Dương cương mà ở vị âm (hào 2), như
vậy là cương mà có chút nhu, lại đắc trung. Nó thân cận với hào 1 âm,
thế là cương nhu tương tế, bớt cứng đi, như cây khô mà đâm rễ mới, rồi
cành là sẽ tươi tốt. Có thể ví với một người già cưới được vợ trẻ. . .
3.
九三: 棟橈, 凶.
Cửu tam: Đống nạo, hung.
Dịch: Hào ba, dương: cái cột cong xuống, xấu.
Giảng: Hào 3 dương ở vị dương, thế là quá
cương, định làm công việc lớn quá (thời Đại quá), quá cương thì cong
xuống, gẫy, việc sẽ hỏng.
Chúng ta để ý: Thoán từ nói về nghĩa toàn
quẻ , nên dùng hai chữ “đống nạo” mà vẫn khen là tốt (lí do đã giảng ở
trên). Còn Hào từ xét riêng ý nghĩa hào 3, chê là xấu, vì hào này quá
cương, mặc dầu ứng với hào trên cùng (âm nhu), cũng không chịu để hào đó
giúp mình.
4.
九四: 棟隆, 吉.有它, 吝.
Cửu tứ: Đống long, cát. Hữu tha, lận.
Dịch: Hào 4, dương : như cây cột lớn, vững , tốt. Nếu có ý nghĩa gì khác thì hối tiếc.
Giảng: cũng là hào dương nhưng ở vị âm
(4), vừa cương vừa nhu, như cái cột lớn vững đỡ nổi nhà. Ý nói làm được
việc lớn, không lo thất bại.
Nó lại ứng hợp với hào 1 âm, tiểu nhân ở
dưới, như vậy e nó quá nhu chăng, cho nên Hào từ khuyên: chớ quyến luyến
quá với 1, có ý nghĩ khác, mà đáng xấu đấy.
5.
九五: 枯楊生華, 老婦得其士夫, 无咎, 无譽.
Cửu ngũ: Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kì sĩ phu, vô cữu, vô dự.
Dịch: Hào 5, dương : Cây dương khô ra hoa, bà già có chồng trai tráng, không chê cũng không khen.
Giảng: Hào 5, dương cương, trung chính. Ở
ngôi chí tôn, đáng lẽ làm được việc rất lớn, nhưng ở thời đại quá, thì
quá cương, quá cương mà ở gần hào trên cùng, âm ở âm vị, là một người
quá nhu, không giúp nhau được việc gì, cũng như cây dương đã khô mà ra
hoa cuối mùa, sắp tiều tụy đến nơi rồi. Không khác gì bà già mà có chồng
trai tráng, chẳng mong gì sinh đẻ nữa.
Hào này khác với hào 2 ở chỗ hào 2 vừa
cương vừa nhu, nên tốt, ví với cây dương khô đâm rễ mới; hào 5 thì quá
cương, xấu, ví với cây dương khô, không dâm rễ mà ra hoa, nhựa sắp kiệt
rồi.
6.
上六: 過涉, 滅頂, 凶, 无咎.
Thượng lục: quá thiệp, diệt đính, hung, vô cữu.
Dịch : Hào trên cùng, âm. Lội qua chỗ nước sâu, nước ngập đầu, xấu: nhưng không có lỗi.
Giảng: Bản chất âm nhu, tài hèn mà ở vào
cuối thời Đại quá muốn làm việc lớn thì rất nguy thân, như người lội chỗ
nước sâu lút đầu. Nhưng làm công việc nguy hiểm đó để cứu đời, cho nên
không gọi là có lỗi được. Hào này trỏ hạng người “sát thân di thành
nhân” (tự hi sinh để làm nên điều nhân), đáng phục chớ không chê được.
Tên quẻ là Đại quá (lớn quá), mà Hào từ
lại ghét những người quá cương, (hào 3, 5) quá nhu như hào trên cùng tuy
không có lỗi, nhưng cũng cho là xấu. Vây Kinh Dịch có ý trọng đức trung
(vừa cương vừa nhu) hơn cả.
29. QUẺ THUẦN KHẢM
Trên và dưới đều là Khảm (nước) ䷜ đồ hình :|::|: Lẽ trời không thể quá (cực đoan) được mãi, hễ quá thì sẽ phải sụp vào chỗ hiểm. Vậy sau quẻ Đại quá, tới quẻ Thuần khảm. Khảm có nghĩa là sụp, là hiểm.
Trên và dưới đều là Khảm (nước) ䷜ đồ hình :|::|: Lẽ trời không thể quá (cực đoan) được mãi, hễ quá thì sẽ phải sụp vào chỗ hiểm. Vậy sau quẻ Đại quá, tới quẻ Thuần khảm. Khảm có nghĩa là sụp, là hiểm.
* Thoán từ :
習坎: 有孚, 維心亨, 行有尚.
Tập Khảm: Hữu phu, duy tâm hanh, hành hữu thượng.
Dịch: Hai lớp khảm (hai lớp hiểm), có đức tin, chỉ trong lòng là hanh thông, tiến đi (hành động) thì được trọng mà có công.
Giảng: Tập Khảm có nghĩa là trùng khảm,
hai lần Khảm. Nhìn hình quẻ Khảm ta thấy một hào dương bị hãm vào giữa
hai hào âm, cho nên Khảm có nghĩa là hãm, là hiểm.
Ta lại thấy ở giữa đặc (nét liền), ngoài
rỗng (nét đứt), trái với quẻ Ly ☲ giữa rỗng trên dưới đặc, như cái miệng
lò; chỗ rỗng đó là chỗ không khí vô để đốt cháy than, củi, cho nên Ly
là lửa. Khảm trái với Ly, chỗ nào trống thì nước chảy vào; Ly là lửa thì
Khảm là nước. Nguy hiểm không gì bằng nước sâu, không cẩn thận thì sụp
xuống, chết đuối, nên bảo nước là hiểm.
Xét theo ý nghĩa thì hào dương ở giữa,
dương là thực, thành tín, vì vậy bảo là Khảm có đức tin, chí thành (hữu
phu) ở trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm , có lòng chí
thành thì không bị tai nạn, hành động thì được trọng mà còn có công nữa.
Thoán truyện giảng thêm: Nước chảy hoài mà
không bao giờ ứ lại (lưu nhi bất doanh) chỗ hiểm trở nào cũng tới, cho
nên bảo là có đức tin.
Lòng được hanh thông vì hai hào giữa (hào 2 và 5), đã cương mà đắc trung.
Trời có tượng hiểm (vì không lên trời
được) ; đất có tượng hiểm, tức núi sông. Các bậc vương công theo tượng
trời và đất mà đặt ra những cái hiểm (tức đào hào, xây thành, đạt ra
hình pháp) để giữ đất đai và sự trật tự trong xã hội. Cái công dụng của
hiểm nếu hợp thời thì cực lớn.
Đại tượng truyện khuyên nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh mà tu tĩnh không ngày nào quên.
Hào từ:
初六: 習坎, 入于坎窞, 凶.
Sơ lục: Tập khảm, nhập vu khảm năm ( có người đọc là đạm, hạm, lăm), hung.
Dịch: Hào 1, âm: Hai lần hiểm, sụp vào hố sâu, xấu.
Giảng: hào 1 đã âm nhu, lại ở dưới cùng quẻ Thuần Khảm hai lần hiểm, nên rất xấu.
2.
九二: 坎有險, 求小得.
Cửu nhị: khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc.
Dịch: Hào 2, dương : ở chỗ nước (hiểm) lại có hiểm, mong làm được việc nhỏ thôi.
Giảng: Hào này dương cương, đắc trung, có
tài trí, nhưng ở giữa thời trùng hiểm, trên dưới bị hai hào âm nhu bao
vây, chưa thóat được; cho nên chỉ mong làm đựơc việc nhỏ thôi.
Hào 4 quẻ Dư (số 6) cũng là dương ở vị âm;
cũng bị hai hào âm bao vây, còn kém hào 2 quẻ Khảm vì không đắc
trung,vậy mà Hào từ cho là “đại hữu đắc” (thành côn lớn); còn hào 2 quẻ
Khảm này chỉ cầu được “tiểu đắc” thôi; chỉ vì thời khác; thời quẻ Dự là
thời vui vẻ, hanh thông, thời quẻ Khảm là thời gian nan, nguy hiểm.
3.
六三: 來之坎坎, 險且枕, 入于坎窞, 勿用.
Lục tam : Lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm năm, vật dụng.
Dịch: Hào 3, âm : tới lui (chử chi ở đây
nghĩa là đi) đều bị hãm, trước mặt là hiểm mà sau lưng lại kê (dựa) vào
hiểm, chỉ càng sụp vào chỗ sâu hơn thôi, chớ dùng (người ở hoàn cảnh hào
3 này, không được việc gì đâu).
Giảng: Hào này âm nhu, bất trung, bất
chính, ở trên cùng quẻ nội khảm, mà tiến lên thì gặp ngoại khảm, trước
mặt là khảm, sau lưng là khảm, toàn là hiểm cả, cho nên chỉ sụp vào chỗ
sâu hơn thôi.
4.
六四: 樽酒簋, 貳 用缶, 納約自牖, 終无咎.
Lục tứ: Tôn tửu quĩ, nhị dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu.
Dịch: Hào 4, âm: Như thể chỉ dâng một chén
rượu, một quĩ thức ăn, thêm một cái vò dựng vài thức khác nữa (không
cần nhiều, hễ chí thành là được); (có thể tùy cơ ứng biến) dứt khế ước
qua cửa sổ (chứ không đưa qua cửa chính), như vậy không có lỗi.
Giảng: Lời hào này gọn quá, khó hiểu. Phan
Bội Châu giảng như sau: tôn là chén rượu, quĩ là đồ đựng thức ăn; nhị
là thứ nhì, phó (trái với chánh) là thêm sao, phẫu là cái vò. Tôn tữu
quí, nhị dụng phẫu nghĩa là rượu chỉ một chén, thức ăn chỉ một quĩ, các
thức khác thêm vào chỉ dùng một cái vò cũng đủ. Ý nói không cần nhiều,
miễn lòng chí thành là được. “Nạp ước tự dũ” Nghĩa là khế ước (để làm
tin) đáng lẽ phải nộp qua cửa lớn, nhưng lại dứt qua cửa sổ (dũ), như
vậy là không chính đại quang minh, nhưng gặp thờ ihiểm, khó khăn, có thể
“bất đắc dĩ nhi dụng quyền” (quyền này không phải là quyền hành, mà là
quyền biến: tùy cơ ứng biến), miễn là giữ được lòng chí thành.
Hào này như một vị đại thần, nhưng âm nhu,
vô tài, không cứu đời ra khỏi cảnh hiểm được; cũng may mà đắc chính,
chí thành, cứ giữ đức chí thành đó mà đối với vua, với việc nước, nếu
lại có chút cơ trí, biết tòng quyền , thì rốt cuộc không có lỗi.
5.
九五: 坎不盈, 祗既平, 无咎.
Cửu ngũ: Khảm bất doanh, chỉ kì bình, vô cữu.
Dịch : Hào 5, âm: Nước (hiểm) chưa đầy, nhưng đến lúc nước đầy rồi, lặng rồi, thì sẽ khỏi hiểm, không có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương, có tài, đắc
trung, đắc chính, ở ngôi chí tôn, mới trải qua già nữa thời Khảm, hiểm
chưa hết, nước còn dâng lên nữa, đến khi nào nước đầy rồi mới bình lại,
mà dắt dân ra khỏi hiểm được. Chữ Kì ở đây nghĩa là bệnh, tức hiểm nạn,
trỏ chữ khảm.
6.
上六: 係用黴纆, 寘于叢棘, 三歲不得, 凶.
Thượng lục: Hệ dụng huy mặc, trí vu từng cức, tam tuế bất đắc, hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: đã trói bằng dây thừng to, lại đặt vào bụi gai, ba năm không được ra , xấu.
Giảng: Hào này âm nhu, ở trên cùng quẻ
Khảm, chỗ cực kì hiểm, đã không có tài ra khỏi cảnh hiểm, lại không biết
hối mà sửa mình, nên bị họa rất nặng.
*
Quẻ này là cái tượng quân tử bị tiểu nhân
bao vây, chỉ có hai hào là tạm tốt (hào 2 và 5), còn các hào khác đều
xấu. Lời khuyên quan trọng nhất gặp thời hiểm, phải giữ lòng chí thành,
và biết tòng quyền.
30. QUẺ THUẦN LY
Trên dưới đều là Ly (lửa)
䷝ đồ hình |:||:| Khảm là hãm, hãm thì phải có chỗ nương tựa, cho nên sau quẻ Khảm tới quẻ Ly. Ly [離 ] là lệ [ 麗] ; thời xưa hai chữ đó đọc như nhau, dùng thay nhau được, như nước Cao Ly (Triều Tiên) viết là [高麗 ]. Mà lệ có nghĩa là phụ thuộc vào (như từ ngữ lệ thuộc), dựa vào. Theo hình quẻ, một nét âm ở giữa dựa vào hai nét dương ở trên, dưới. Ly còn nghĩa thứ nhì là sáng: nét ở giữa dứt, tức là ở giữa rỗng, rỗng thì sáng. Lửa sáng, mặt trời sáng, cho nên Ly có có tượng là lửa, là mặt trời. Sau cùng Ly còn có nghĩa là rời ra, như chia Ly. Kinh Dịch mở đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn (trời đất); tới giữa Kinh. (cuối phần thượng của Kinh) là hai quẻ Khảm, Ly, vì hai lẽ. Ba hào thuần dương là Càn, lấy một hào của Khôn thay vào hào giữa của Càn, thành Ly; ba hào thuần âm là Khôn, lấy một hào của Càn thay vào hào giữa của Khôn, thành Khảm; vậy Ly, Khảm là “thiên địa chi trung”, ở giữa trời, giữa đất; công dụng tạo hóa của trời đất nhờ lửa và nước (Ly và Khảm) cả. Khảm ở chính bắc, Ly ở chính nam; Khảm ở giữa đêm (giờ tí), Ly, ở giữa trưa (giờ ngọ). Khảm, ở giữa là nét dương, liền, thực, cho nên đức của nó là trung thực. Ly ở giữa là nét đứt, hư, rỗng, cho nên đức của nó là sáng, là văn minh. Thoán từ. 離: 利貞, 亨.畜牝牛, 吉. Ly: lợi trinh, hanh. Súc tẫn ngưu, cát. Dịch: Dựa, lệ thuộc: chính đáng thì lợi, hanh thông. Nuôi bò cái thì tốt. Giảng: Dựa vào chỗ chính đáng, chẳng hạn vào người quân tử thì hanh thông. Dựa vào người thì phải sáng suốt, và thuận theo người, vậy phải nuôi đức thuận, đức của con bò cái (loài này dễ bảo nhất) thì mới tốt. Ly còn nghĩa là sáng. Quẻ thuần Ly, trên dưới đều là Ly, sáng quá, sáng suốt quá, tỏ mình hơn người thì ít người ưa, cho nên phải giấu bớt cái sáng đi mà trau giồi đức thuận. Thoán truyện bảo phải có đức trung chính nữa như hào 2 và hào 5 (hào này chỉ trung thôi, nhưng đã đắc trung thì cũng ít nhiều đắc chính) như vậy mới cải hóa được thiên hạ, thành văn minh. Hào từ; 1. 初九: 履錯然, 敬之, 无咎. Sơ cửu: Lý thác nhiên, kính chi, vô cửu. Dịch: Hào 1, dương : Dẫm bậy bạ; phải thận trọng thì không có lỗi. Giảng: hào dương này có nghĩa nóng nảy, cầu tiến qua, mà còn non nớt, chưa có kinh nghiệm, như đứa trẻ vội vàng dẫm bậy bạ (Phan Bội Châu hiểu là sỏ giày nhố nhăng), tất có lầm lỗi, nên khuyên phải thận trọng (kính chi). 2. 六二: 黃離, 元吉. Lục nhị: Hoàng ly, nguyên cát. Dịch: Hào 2, âm : Sắc vàng phụ vào ở giữa, rất tốt. Giảng: hào này ở quẻ Ly có đức văn minh, lại đắc trung, đắc chính, trên ứng với hào 5 cũng văn minh, đắc trung, nên rất tốt. Vì ở giữa, văn minh, nên ví với sắc vàng, đẹp, sắc của trưng ương như đã giảng ở hào 5 quẻ Khôn và hào 5 quẻ Phệ hạp. 3. 九三: 日昃之離, 不鼓 缶而歌, 則大耋之嗟, 凶. Cửu tam: Nhật trắc chi Ly, bất cổ phẩu nhi ca, tắc đại diệt chi ta, hung. Dịch: Hào 3, dương : mặt trời xế chiều lặn, (ý nói người già, tính tình thất thường, không đáng vui mà vui. Không đáng buồn mà buồn). Khi thì gõ cái phẫu (vò bằng đất, đựng rượu mà cũng dùng làm nhạc khí) mà hát, lúc lại than thân già nua; xấu , (Hồi xưa khi hát thì gõ nhịp bằng cái phẫu). Giảng: Hào 3 này ở trên cùng nội quái ly, như mặt trời sắp lặn mà chưa lên ngoại quái Ly, chưa tới lúc mặt trời mọc (sáng hôm sau). Câu: “bất cổ phẫu nhi ca, tắc dại diệt chi ta”, Chu Hi hiểu là “chẳng yên phận mà vui vẻ, mà lại than thở vì già nua, thế là không biết tự xử.” 4. 九四: 突如, 其來如, 焚如, 死如, 棄如. Cửu tứ: Đột như, kì lai như, phần như, tử như, khí như. Dịch: Hào 4, dương: thình lình chạy tới, như muốn đốt người ta vậy, thì sẽ chết, bị mọi người bỏ. Giảng: Hão này dương cương, nóng nảy, bất chính, bất trung, mới ở nội quái lên, gặp hào 5 âm nhu, muốn lấn át 5, như một người ở đâu thình lình tới, lồn lộn lên muốn đốt người ta (hào 5) , táo bạo, vụng về như vậy làm sao khỏi chết, có ai dung được nó đâu. 5. 六五: 出涕沱若, 戚嗟若, 吉. Lục ngũ: xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát. Dịch: Hào 5, âm: Nước mắt ròng ròng, nhưng biết buồn lo than thở, nên tốt. Giảng: Hào này âm nhu, ở ngôi tôn, trung những không chính, bị ép giữa hào hào dương, mắc vào hoàn cảnh khó khăn, cho nên bảo là “nước mắt ròng ròng”; nhưng nhờ đức văn minh của quẻ Ly, nên là người biết lo tính, than thở, tìm cách đối pó với hoàn cảnh được, cho nên rồi sẽ tốt. 6. 上九: 王用出征, 有嘉; 折首, 獲匪其醜, 无咎. Thượng cửu: Vương dụng xuất chinh, Hữu gia; chiết thủ, hoạch phỉ kì xú, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, dương: vua dùng (người có tài, tức hào này) để ra quân chinh phạt, có công tốt đẹp, giết đầu đảng mà bắt sống kẻ xấu đi thì thôi, như vậy thì không có lỗi. Giảng: Hào này dương cương lại ở trên cùng quẻ Ly, thế là vừa cương quyết vừa sáng suốt đến cực điểm, vua dùng tài ấy để trừ kẻ gian tà thì thành công lớn. Nhưng vì cương quá thì dễ hóa tàn bạo, nên Hào từ khuyên dẹp loạn thì chỉ nên giết những kẻ đầu sỏ, còn những kẻ đi theo thì bắt sống thôi. Như vậy sẽ không có lỗi.
Trên dưới đều là Ly (lửa)
䷝ đồ hình |:||:| Khảm là hãm, hãm thì phải có chỗ nương tựa, cho nên sau quẻ Khảm tới quẻ Ly. Ly [離 ] là lệ [ 麗] ; thời xưa hai chữ đó đọc như nhau, dùng thay nhau được, như nước Cao Ly (Triều Tiên) viết là [高麗 ]. Mà lệ có nghĩa là phụ thuộc vào (như từ ngữ lệ thuộc), dựa vào. Theo hình quẻ, một nét âm ở giữa dựa vào hai nét dương ở trên, dưới. Ly còn nghĩa thứ nhì là sáng: nét ở giữa dứt, tức là ở giữa rỗng, rỗng thì sáng. Lửa sáng, mặt trời sáng, cho nên Ly có có tượng là lửa, là mặt trời. Sau cùng Ly còn có nghĩa là rời ra, như chia Ly. Kinh Dịch mở đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn (trời đất); tới giữa Kinh. (cuối phần thượng của Kinh) là hai quẻ Khảm, Ly, vì hai lẽ. Ba hào thuần dương là Càn, lấy một hào của Khôn thay vào hào giữa của Càn, thành Ly; ba hào thuần âm là Khôn, lấy một hào của Càn thay vào hào giữa của Khôn, thành Khảm; vậy Ly, Khảm là “thiên địa chi trung”, ở giữa trời, giữa đất; công dụng tạo hóa của trời đất nhờ lửa và nước (Ly và Khảm) cả. Khảm ở chính bắc, Ly ở chính nam; Khảm ở giữa đêm (giờ tí), Ly, ở giữa trưa (giờ ngọ). Khảm, ở giữa là nét dương, liền, thực, cho nên đức của nó là trung thực. Ly ở giữa là nét đứt, hư, rỗng, cho nên đức của nó là sáng, là văn minh. Thoán từ. 離: 利貞, 亨.畜牝牛, 吉. Ly: lợi trinh, hanh. Súc tẫn ngưu, cát. Dịch: Dựa, lệ thuộc: chính đáng thì lợi, hanh thông. Nuôi bò cái thì tốt. Giảng: Dựa vào chỗ chính đáng, chẳng hạn vào người quân tử thì hanh thông. Dựa vào người thì phải sáng suốt, và thuận theo người, vậy phải nuôi đức thuận, đức của con bò cái (loài này dễ bảo nhất) thì mới tốt. Ly còn nghĩa là sáng. Quẻ thuần Ly, trên dưới đều là Ly, sáng quá, sáng suốt quá, tỏ mình hơn người thì ít người ưa, cho nên phải giấu bớt cái sáng đi mà trau giồi đức thuận. Thoán truyện bảo phải có đức trung chính nữa như hào 2 và hào 5 (hào này chỉ trung thôi, nhưng đã đắc trung thì cũng ít nhiều đắc chính) như vậy mới cải hóa được thiên hạ, thành văn minh. Hào từ; 1. 初九: 履錯然, 敬之, 无咎. Sơ cửu: Lý thác nhiên, kính chi, vô cửu. Dịch: Hào 1, dương : Dẫm bậy bạ; phải thận trọng thì không có lỗi. Giảng: hào dương này có nghĩa nóng nảy, cầu tiến qua, mà còn non nớt, chưa có kinh nghiệm, như đứa trẻ vội vàng dẫm bậy bạ (Phan Bội Châu hiểu là sỏ giày nhố nhăng), tất có lầm lỗi, nên khuyên phải thận trọng (kính chi). 2. 六二: 黃離, 元吉. Lục nhị: Hoàng ly, nguyên cát. Dịch: Hào 2, âm : Sắc vàng phụ vào ở giữa, rất tốt. Giảng: hào này ở quẻ Ly có đức văn minh, lại đắc trung, đắc chính, trên ứng với hào 5 cũng văn minh, đắc trung, nên rất tốt. Vì ở giữa, văn minh, nên ví với sắc vàng, đẹp, sắc của trưng ương như đã giảng ở hào 5 quẻ Khôn và hào 5 quẻ Phệ hạp. 3. 九三: 日昃之離, 不鼓 缶而歌, 則大耋之嗟, 凶. Cửu tam: Nhật trắc chi Ly, bất cổ phẩu nhi ca, tắc đại diệt chi ta, hung. Dịch: Hào 3, dương : mặt trời xế chiều lặn, (ý nói người già, tính tình thất thường, không đáng vui mà vui. Không đáng buồn mà buồn). Khi thì gõ cái phẫu (vò bằng đất, đựng rượu mà cũng dùng làm nhạc khí) mà hát, lúc lại than thân già nua; xấu , (Hồi xưa khi hát thì gõ nhịp bằng cái phẫu). Giảng: Hào 3 này ở trên cùng nội quái ly, như mặt trời sắp lặn mà chưa lên ngoại quái Ly, chưa tới lúc mặt trời mọc (sáng hôm sau). Câu: “bất cổ phẫu nhi ca, tắc dại diệt chi ta”, Chu Hi hiểu là “chẳng yên phận mà vui vẻ, mà lại than thở vì già nua, thế là không biết tự xử.” 4. 九四: 突如, 其來如, 焚如, 死如, 棄如. Cửu tứ: Đột như, kì lai như, phần như, tử như, khí như. Dịch: Hào 4, dương: thình lình chạy tới, như muốn đốt người ta vậy, thì sẽ chết, bị mọi người bỏ. Giảng: Hão này dương cương, nóng nảy, bất chính, bất trung, mới ở nội quái lên, gặp hào 5 âm nhu, muốn lấn át 5, như một người ở đâu thình lình tới, lồn lộn lên muốn đốt người ta (hào 5) , táo bạo, vụng về như vậy làm sao khỏi chết, có ai dung được nó đâu. 5. 六五: 出涕沱若, 戚嗟若, 吉. Lục ngũ: xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát. Dịch: Hào 5, âm: Nước mắt ròng ròng, nhưng biết buồn lo than thở, nên tốt. Giảng: Hào này âm nhu, ở ngôi tôn, trung những không chính, bị ép giữa hào hào dương, mắc vào hoàn cảnh khó khăn, cho nên bảo là “nước mắt ròng ròng”; nhưng nhờ đức văn minh của quẻ Ly, nên là người biết lo tính, than thở, tìm cách đối pó với hoàn cảnh được, cho nên rồi sẽ tốt. 6. 上九: 王用出征, 有嘉; 折首, 獲匪其醜, 无咎. Thượng cửu: Vương dụng xuất chinh, Hữu gia; chiết thủ, hoạch phỉ kì xú, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, dương: vua dùng (người có tài, tức hào này) để ra quân chinh phạt, có công tốt đẹp, giết đầu đảng mà bắt sống kẻ xấu đi thì thôi, như vậy thì không có lỗi. Giảng: Hào này dương cương lại ở trên cùng quẻ Ly, thế là vừa cương quyết vừa sáng suốt đến cực điểm, vua dùng tài ấy để trừ kẻ gian tà thì thành công lớn. Nhưng vì cương quá thì dễ hóa tàn bạo, nên Hào từ khuyên dẹp loạn thì chỉ nên giết những kẻ đầu sỏ, còn những kẻ đi theo thì bắt sống thôi. Như vậy sẽ không có lỗi.
31- QUẺ TRẠCH SƠN HÀM
Trên là Đoài (chằm), dưới là Cấn (núi)
Trên là Đoài (chằm), dưới là Cấn (núi)
đồ hình ::|||:
Kinh thượng bắt đầu bằng hai quẻ Càn Khôn:
trời, đất. Có trời đất rồi mới có vạn vật, có vạn vật rồi mới có nam,
nữ; có nam nữ rồi mới thành vợ chồng, có cha con, vua tôi, trên dưới, lễ
nghĩa.
Cho nên đầu kinh thượng là Càn, Khôn, nói
về vũ trụ; đầu kinh hạ là Hàm, Hằng, nói về nhân sự. Hàm là trai gái cảm
nhau. Hằng là vợ chồng ăn ở với nhau được lâu dài.
Thoán từ:
咸: 亨, 利貞, 取女吉.
Hàm: Hanh, lợi trinh, thú nữ cát.
Dịch: giao cảm thì hanh thông, giữ đạo chính thì lợi, lấy con gái thì tốt.
Giảng: đoài là thiếu nữ ở trên, Cấn là
thiếu nam ở dưới (1). Cảm nhau thân thiết không gì bằng thiếu nam, thiếu
nữ. Cảm nhau thì tất hanh thông.
Thiếu nữ ở trên, thiếu nam phải hạ mình
xuống cạnh thiếu nữ; hồi mới gặp nhau thì phải vậy; chứ nếu thiếu nữ cầu
cạnh thiếu nam thì là bất chính, không tốt. Cho nên thoán từ bảo phải
giữ đạo chính mới có lợi. Hai bên giữ đạo chính cả thì cưới vợ chắc tốt
lành.
Hàm 咸 khác cảm 感 ở điểm: Cảm có chữ Tâm 心
là lòng, hàm thì không. Hàm là tự nhiên hai bên tương hợp, rồi cảm nhau,
không có tư ý, không vì một lẽ nào khác, phải hư tâm (trống rỗng trong
lòng) .
Đại tượng truyện khuyên: “dĩ hư tâm thụ nhân”. Như trên núi có chỗ trũng xuống (hư) để nước đọng lại mà thành cái chằm.
Hư tâm thì lòng được tĩnh, như cái núi
(nội quái là Cấn), mà vui như tính của cái chằm (ngoại quái là Đoài)
(chỉ nhi duyệt; lời Thoán truyện); muốn giữ được lòng tĩnh thì phải
“khắc kỉ phục lễ” tự chủ được mình mà giữ lễ.
Tóm lại, Thoán từ cho rằng trai gái cảm
nhau phải chân thành, tự nhiên, vì nết, vì tài thì mới tốt; mà khi cảm
nhau rồi phải tự chủ, giữ lễ, đừng để đến nỗi hóa ra bất chánh.
Coi đạo âm dương giao cảm mà sinh hóa vạn
vật, thánh nhân chí thành mà cảm được thiên hạ, thì thấy được chân tình
của thiên địa, vạn vật. Đạo cảm nhau quả là quan trọng.
Hào từ:
1
初六: 咸其拇.
Sơ lục: Hàm kì mẫu.
Dịch: Hào 1, âm: Như cảm ngón chân cái.
Giảng: Hào từ lấy thân người làm thí dụ.
Hào 1 ở dưới cùng. Nó ứng với hào 4, thấp mà cảm với trên cao, sức cảm
còn nhỏ, chưa động được lòng người, mới hơi động được ngón chân thôi.
Không khen cũng không chê.
2.
六二: 咸其腓, 凶; 居吉.
Lục nhị: Hàm kì phì, hung; cư cát.
Dịch: Hào 2, âm: Cảm được bắp chân, xấu; ở yên thì tốt.
Giảng: Hào 2, cao hơn một chút, ví như bắp
chân. Nó ứng với hào 5, nhưng nó là âm, phận gái, mà còn ở dưới thấp,
nếu nóng lòng cầu thân với 5 thì xấu. Nó nên giữ nết trung chính (vì là
hào 2 đắc trung, đắc chính) của nó thì mới tốt, như vậy mới hợp đạo lý.
Thoán truyện bảo: quẻ Hàm này, hễ tĩnh thì tốt; cho nên hào 2 này khuyên không nên động.
3.
九三: 咸其股, 執其隨, 往吝.
Cửu tam: Hàm kì cổ, chấp kì tùy, vãng lận.
Dịch: Hào 3, dương : cảm được tới đùi, chỉ muốn theo người, cứ như vậy mà tíến thì xấu.
Giảng: Hào này ở trên cùng nội quái, nên
ví với bắp đùi. Nó là dương cương, ham tiến, muốn theo hào 4 cũng dương
cương ở trên nó; trong thời Hàm, nên tĩnh mà nó động, lại động theo
người nữa, đáng chê.
4.
九四: 貞吉悔亡; 憧憧往來, 朋從爾思.
Cửu tứ: Trinh cát hối vong; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư.
Dịch: Hào 4, dương: hễ chính đáng thì tốt,
mà mất hết những điều đáng ăn năn. Nhược bằng nếu lăng xăng tính toán
có qua có lại với nhau thì những người qua lại với anh chỉ là những
người anh nghĩ tới mà thôi (ý nói: số bạn không đông, đoàn thể không
lớn).
Giảng: Hào này đã lên ngoại quái, dương
cương, lại ở quẻ đoài (vui vẻ), tức là có tình hoà duyệt, nặng về cảm
tính, cho nên ví với trái tim (tấm lòng). Tình cảm phải chính đáng, chí
công vô tư, như vậy mới tốt, không phải ăn năn. Nếu có óc tính toán, tốt
với người để mong người tốt lại với mình, có đi có lại thì số bạn không
được đông.
Theo Hệ từ truyện, Chương V, Khổng tử giảng hào này rất kỷ, chúng tôi trích ra đoạn dưới đây:
“ Đạo lý trong thiên hạ, cần gì phải ngẫm
nghĩ bằng ý riêng, tính toán bằng mẹo vặt, vì thiên hạ đường đi tuy khác
nhau mà qui kết thì ý như nhau: tính toán trăm lối mà cuối cùng chỉ tóm
vào một lẽ (lẽ đó là có cảm thì có ứng, ứng lại gây ra cảm) cần gì phải
ngẫm nghĩ bằng ý riêng, tính toán bằng mẹo vặt. . .”
5.
九五: 咸其脢, 无悔.
Cửu ngũ: Cảm kì mỗi, vô hối.
Dịch: Hào 5, dương : Cảm tới bắp thịt ở trên lưng, không hối hận.
Giảng: Bắp thịt ở trên lưng, cao hơn tim
(hay lòng) mà trái với tim, không cảm được vật. Không cảm được vật mà
cũng không có tư tâm, tư ý, nên cũng không có gì hối hận. Có lẽ vì hào 5
này dương cương, ở vị rất cao, trung, chính, cách biệt dân chúng quá,
cho nên Chu Hi bảo là “không cảm được vật” chẳng?
6.
上六: 咸其輔, 頰, 舌.
Thượng lục: Hàm kì phụ, giáp , thiệt.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Cảm người bằng mép, má, lưỡi.
Giảng: Hào này ở trên cùng Hàm, nên ví với
mép, má, lưỡi. Nó là âm nhu ở trong ngoại quái Đoài (vui vẻ), ham cảm
người ta bằng miệng lưỡi, không thành thực. Chẳng cần nói cũng biết là
đáng chê rồi.
* Đạo cảm người phải chí thành, tự nhiên, không dùng trí tính toán, nhưng cũng không nên có tư ý, tư tâm.
32. QUẺ LÔI PHONG HẰNG
Trên là Chấn (sấm), dưới là Tốn (gió) đồ hình :|||::
Ở đầu quẻ
Hàm, tôi đã nói tại sao sau quẻ Hàm (trai gái cảm nhau) tiếp tới quẻ
Hằng (đạo vợ chồng có tính cách lâu dài). Hàm: trên là Chấn trưởng na,
dưới là Tốn, trưởng nữ chồng trên, vợ dưới ,rất hợp đạo, thì tất được
lâu dài.
Thoán từ :
恆: 亨, 无咎; 利貞, 利有攸往.
Hằng: Hanh, vô cữu; lợi trinh, lợi hữu du vãng.
Dịch: Lâu dài thì hanh thông, không có lỗi; giữ được chính đạo thì có lợi, tiến hành việc gì cũng thành công.
Thoán truyện giảng: Cương (Chấn) ở trên,
nhu (Tốn) ở dưới, sấm gió giúp sức nhau, Chấn động trước, Tốn theo sau,
thế là thuận đạo. Lại thêm ba hào âm đều ứng với ba hào dương, cũng là
nghĩa thuận nữa, cả hai bên đều giữ được đạo chính lâu dài.
Hào từ:
1
初六: 浚恆, 貞凶, 无攸利.
Sơ lục: tuấn hằng, trinh hung, vô du lợi.
Dịch: Hào 1, âm: Quá mong được thân mật
lâu dài; cứ quyết (trinh) như vậy, không chịu bỏ thì xấu, không làm gì
được thuận lợi cả.
Giảng: Hào 1 ứng với hào 4, nhưng địa vị
mình quá thấp, địa vị 4 quá cao, mà 4 là dương cương, chỉ trông lên
không ngó xuống mình; lại thêm có 2 hào 2 và 3 ngăn cách vậy mà không
biết phận cứ tiến sâu (tuấn là sâu), mong được thân mật lâu dài, keo sơn
với 4, thành ra ngu. Cứ kiên cố giữ cách ấy thì xấu.
2.
九二: 悔亡.
Cửu nhị: hối vong.
Dịch: Hào 2, dương: hối hận tiêu hết.
Giảng: Hào này dương cương ở vị âm, đáng
lẽ có hối hận, nhưng vì đắc trung lại ứng với hào 5 cũng đắc trung, thế
là giữ được đạo trung, nên không có gì hối hận.
3.
九三: 不恆其德, 或承之羞, 貞吝.
Cửu tam: Bất hằng kì đức, hoặc thừa chi tu, trinh lận.
Dịch: Hào 3, dương : không thường giữ được cái đức của mình, có khi bị xấu hổ, dù chính đáng cũng đáng tiếc.
Giảng: Hào dương ở vị dương là đắc chính,
nếu thường giữ được đức “chính” đó thì tốt; nhưng vì quá cương mà bất
đắc trung, lại theo đòi với hào trên cùng âm nhu, thế là bỏ cái đức
chính của mình, muốn kết bạn với hào trên cùng, chưa biết chừng bị xấu
hổ đấy. Vậy 3 tuy “ chính “ đấy, chỉ vì không thường giữ được đức đó,
thì tuy chính mà vẫn đáng tiếc.
4.
九四: 田无禽.
Cửu tứ: Điền vô cầm.
Dịch: Hào 4, dương : như đi săn mà không được cầm thú.
Giảng: Hào dương mà ở vị âm, là không phải
chỗ của mình mà cứ ở lâu chỗ đó, vì trong quẻ Hằng thì chẳng nên việc
gì, chỉ mất công thôi, như đi săn mà không bắt được cầm thú.
5.
六五: 恆其德, 貞. 婦人吉, 夫子凶.
Lục ngũ: Hằng kỳ đức, trinh. Phụ nhân cát, phu tử hung.
Dịch : Hào 5, âm: giữ được thường (lâu) đức của mình, bền mà chính. Đàn bà thì tốt, đàn ông thì xấu.
Giảng: Hào 5, âm nhu, đắc trung, ứng với
hào 2 dương cương cũng đắc trung, nếu cứ thuận tòng từ trước tới sau thì
là bền mà chính đáng. Nhưng đó chỉ là đạo của đàn bà như hào 5, âm này
thôi; không hợp với đàn ông, vì theo quan niệm thời xưa, phu xướng phụ
tùy.
Tiểu tượng truyện giảng thêm, đàn ông phải tìm ra cái gì đáng làm thì làm (phu tử chế nghĩa), chứ cứ một mực theo vợ thì xấu.
6.
上六: 振恆, 凶.
Thượng lục: chấn hằng, hung.
Dịch: Hào trên cùng, âm: cử động hoài, không chịu yên thì xấu.
Giảng: Ở trên cùng quẻ Hằng và ngoại quái
Chấn, cho nên nói là ham động quá, lại âm nhu, không bền chí, ở yên
không được sẽ thất bại.
* Quẻ này quan trọng ở hào 5: đạo phu
xướng phụ tùy của Trung Hoa thời xưa. Một lời khuyên là theo lý mà làm,
đừng hành động càn.
0 comments
Post a Comment