Mục Lục
Chương 1
THỜI ĐẠI
Khổng
Tử mất năm 479 trước Tây lịch (năm thứ
41 đời Chu Kính Vương) ở nước Lỗ.
Triều đình Lỗ và môn sinh tống táng ông rất trọng
hậu, chôn trên bờ sông Tứ, phía bắc kinh thành (ngày nay
ở huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông).
Hết
thảy các đệ tử đều coi ông như cha,
để tâm tang ba năm. Hơn trăm người làm nhà
gần mộ, coi mộ cho đến mãn tang (riêng Tử Cống
ở lại thêm ba năm nữa) rồi bùi ngùi chia tay nhau,
mỗi người đi một nơi : người thì
thanh tĩnh thủ tiết, không chịu ra làm quan mà ở ẩn
tại nước Vệ như Nguyên Hiến ; người
thì như Tử Cống, đem sở học ra giúp đời
lãnh một chức ở triều đình các vua chư hầu,
rán thực hiện một phần đạo trị nước
của thầy, mặc dầu không được bọn
vua chúa luôn luôn theo lời khuyên can, nhưng hầu hết
đều được họ kính trọng ; một số
nữa đem theo những bản chép các kinh Xuân Thu, Thi, Thư... về quê
nhà mở trường truyền đạo của thầy,
chép lại những lời dạy bảo của thầy rồi
giảng giải thêm theo ý kiến riêng của mình. Đạo
của Khổng tử rộng quá, bao quát nhiều vấn
đề quá, cho nên không một môn sinh nào hiểu thấu
được trọn, mỗi người chỉ chú trọng
vào một khía cạnh hợp với tính tình, tư chất
của mình, và càng ngày họ càng xa đạo gốc. Do
đó mà sinh ra nhiều phái : phái Tử Trương cốt
giữ lấy tinh thần, không câu chấp những điều
vụn vặt, có phần quá cao, quá phóng khoáng, tự nhiên;
phái Tử Hạ chú trọng về văn chương, lễ
nghi, thịnh hành một thời nhờ vua nước Ngụy
là Văn Hầu (423-387) tôn ông làm thầy và đặt chức
bác sĩ để học các kinh. Quan trọng hơn hết
là phái Tăng tử (tức Tăng Sâm) ở nước Lỗ.
Hồi còn sống, Khổng tử ít chú ý tới Tăng
Sâm, có lần chê là trì độn, nhưng chính Tăng Sâm có
công với đạo Khổng hơn tất cả các môn
đệ khác, một phần vì ông học rộng, thành thực
mà chắc chắn, ghi chép lời của thầy trong cuốn
Đại Học (một
trong tứ thư), một phần nữa vì ông may mắn
có một môn sinh rất xứng đáng, có phần vượt
ông nữa, tức Tử Tư, tác giả cuốn Trung Dung (cũng là một trong
tứ thư). Tử Tư tên là Không Cấp, là con của
Bá Ngư, cháu của Khổng tử. Bá Ngư tư cách tầm
thường, mà con lại vừa thông minh, hiểu
được phần uyên áo của Khổng giáo (dạo
trung dung và đức thành), vừa có một tư cách rất
cao, không hổ với ông nội.
Được
vua Lỗ Mục Công rất kính trọng, mà ông không nhận
một chức tước nào, chịu sống trong cảnh
nghèo không hề nhận một vật tặng nào nếu
người tặng không biết giữ lễ với ông,
dù người đó là vua chúa đi nữa. Hồi ông ở
Lỗ, Lỗ Mục Công thường sai người đến
thăm ông và tặng ông vài món thịt nấu chín. Lần
đầu ông nhận, nhưng rồi ông bực mình vì vua
đã không biết dùng mình, lại không biết cách tặng
mình nữa : lần nào, sứ giả tới cũng bảo
là do lệnh vua đem lại, khiến ông phải cúi đầu
lạy hai lạy mà tạ ơn, cho nên ông từ chối, nói
thẳng vào mặt sứ giả : “ngày nay ta mới biết
rằng vua nuôi ta như nuôi chó, ngựa". Lỗ Mục
Công đáng lẽ phải dặn sứ giả cứ tiếp
tục đem thịt hay lúa lại, mà âm thầm đưa
vào nhà trong, chứ đừng nói rằng do lệnh vua sai nữa,
thì mới hợp lẽ đãi hiền. (Mạnh tử - Vạn
chương hạ, bài 6).
Lần
khác, Lỗ Mục Công lại nhà Tử Tư thăm, rồi
hỏi:
-
Thời xưa, một ông vua có ngàn cỗ chiến xa -
nghĩa là ông vua một nước không lớn không nhỏ
như nước Lỗ - mà muốn làm bạn với một
kẻ sĩ, thì làm thế nào ?
Tử
Tư cũng lại tỏ vẻ khó chịu, đáp :
Người
xưa có nói : nên thờ bậc hiền sĩ như thầy".
Chứ đâu có nói : "Nên làm bạn với kẻ
sĩ".
Như
vậy là Tử Tư muốn bảo : xét về địa
vị thì ông là vua, tôi là bề tôi, tôi đâu dám làm bạn với
ông. Còn xét về đạo đức thì ông phải thờ
tôi, chứ đâu được làm bạn với tôi".
(Dĩ vị, tắc tử quân dã, ngã thần dã, hà cảm
dữ quân hữu dã ? Dĩ đức tắc tử sự
ngã giả dã, hề khả dĩ dữ ngã hữu dã ?)
以 位 則 子
君 也 我 臣 也 何 敢 與
君 友 也 敢?
以 德 則 子
事 我 者 也 奚 可 以 與 我
友 也?
- Mạnh tử Vạn-chương
hạ, bài 7).
Thái
độ của Tử Tư thật là hiên ngang, so với
thái độ của ông nội khác nhau xa . Khổng tử
khi vào điện vua Lỗ thì khom lưng cúi mình, và khi
đi ngang qua ngôi vua, dù là ngôi trống, cũng hơi biến
sắc, chân hơi run, tiếng nói phào phào như hụt
hơi (Luận-ngữ - Hương-đảng, bài 4).
Mới
cách có hai thế hệ, khoảng nửa thế kỉ, mà đã
như vậy . Có lẽ cũng do các vua chư hầu đã
ít được trọng mà địa vị cùng uy tín của
kẻ sĩ đã tăng lên nhiều; do đó ta mới hiểu
được thái độ của Mạnh tử đối
với các vua Lương, Tề... sau này .
Nhưng
lí do chính vẫn là tư cách, tính tình của Tử Tư ;
ông cũng như thầy là Tăng tử, rất chú trọng
về đạo đức, tới nỗi có vẻ câu chấp,
hẹp hòi .
(Khổng
tử coi đức nhân là
chính, dùng lễ, nhạc, hiếu đễ để gây
đức nhân ; Tăng tử trái lại, coi đức hiếu là gốc của các
đức khác).[1]
Tử
Tư không có môn đệ nào danh tiếng, nhưng trong số
môn đệ của môn đệ ông, có một người
rất xuất sắc, cả về tư tưởng lẫn
tư cách, chẳng những giữ được truyền
thống của Khổng tử - Tăng tử, Tử
Tư, mà còn phát huy thêm được đạo Nho,
được đời sau tôn là á thánh, chỉ kém Khổng
tử, người đó là Mạnh tử.
Coi bảng dưới đây (lập
theo tài liệu của Vũ Dũng trong Trung quốc triết
học đại cương -Thương vụ ấn
thư quán - 1958), chúng ta thấy Mạnh tử sinh sau Khổng
tử khoảng 180 năm, sau Mặc tử khoảng 90
năm, sau Dương Chu và Lão tử trên nửa thế kỉ,
lớn hơn Trang tử khoảng 10 tuổi, và có thể rằng
khi Tuân tử bắt đầu có tiếng tăm thì ông vẫn
còn sống.
Thời
Xuân thu: - 770 – 403.
Khổng tử sinh - 551 mất -
479
Mặc tử sinh
- 480 mất - 397
Dương tử sinh - 440 mất -
380
Lão tử sinh
- 430 mất - 340
Liệt tử sinh
- 430 mất - 349
Từ đây
trở xuống, các năm sinh và tử đều phỏng
chừng hết, có khi sai vài chục năm.
Trong cuốn
Chư tử khảo sách (Nhân dân xuất bản xã Bắc
kinh - 1959 chương Mạnh tử truyện La Căn Trạch
chép với 8 thuyết về năm sinh và năm tử của
Mạnh tử. Trừ hai thuyết hiển nhiên là sai, còn
sáu thuyết kia xê xích nhau tới ba chục năm: như một
thuyết nói Mạnh tử sinh năm đầu triều dại
Chu An vương ( -401), mất năm đầu triều đại
(-314); một thuyết bảo
sinh năm thứ tư triều đại Chu Liệt vương
(-372) mất năm thứ hai mươi sau triều đại (-289),rồi La Căn Trạch
đưa ý kiến: không thuyết nào có chứng cứ chắc
chắn ; đại khái có thể tin rằng Mạnh Tử
sinh vào khoảng năm đầu triều đại Chu Liệt
vương (-375 - Chư tử khảo sách in lầm là - 370)
và mất năm thứ hai mươi ba điều đại
Chu Noản vương (-290) chúng tôi thấy thuyết sinh -372,
mất - 289 được nhiều sách dùng nhất, mà cũng
chỉ xê xích thuyết La Căn Trạch có ba năm, nên có
thể tin Vũ Đồng được.
Trang tử sinh -360 mất -280
Tuân
tử sinh -330 mất -227
Hàn
Phi sinh -280 mất -233
Bảng
trên còn cho ta thấy ông thọ trên 80 tuổi, sống giữa
thời Chiến-quốc : khi ông sinh thì thời Chiến-quốc
mới bắt đầu dược khoảng ba chục
năm, và ông mất được trên 30 năm thì nhà Chu
dâng đất cho Tần (-256), từ đó Tần thôn tính
lần lần các nước khác mà thống nhất Trung quốc
năm -211.
Thời
Chiến quốc là một thời loạn nhất của
Trung-Hoa, các chư hầu đều "tranh thành dĩ chiến,
tranh địa dĩ chiến", "sát nhân doanh dã, sát
nhân doanh thành", có nước bắt hết các trai tráng,
cả ông già nữa phải tòng quân, ruộng đất
không ai cầy cấy phải bỏ hoang, gia súc chết gần
hết, dân tình cực kì điêu đứng (coi thêm phần
I, Chiến quốc sách - nhà Lá Bối tái bản năm 1973).
Chiến
tranh không còn giữ cái luật "quân tử” - không giết
kẻ bại - ta thường thấy ở thời Xuân
thu, mà có tính cách dã man, rừng rú : tàn phá cho thật nhiều,
đổ máu cho thật nhiều, chiếm đất bắt
dân lành làm nô lệ, còn lính địch thì giết hằng
ngàn, hằng vạn.
Các
vua chúa đại thần, hầu hết trụy lạc, sống
cực kì xa hoa trên xương máu của dân : vợ họ
đeo đầy châu báu, ngọc thạch, họ ngồi
trong những chiến xa phủ gấm vóc, sống trong những
lâu đài lộng lẫy, tiệc tùng suốt ngày này qua ngày
khác, có bữa tiệc gồm trăm món ăn, "tới
nỗi mắt không nhìn thấy hết được, tay
không gắp hết dược, miệng không nếm hết
được"[2]
. Một vị đại thần nước Ngụy
(cũng gọi là nước Lương) mà có mấy
trăm cỗ xe trang hoàng đẹp đẽ, cả ngàn
con ngựa mập, và mấy trăm nàng hầu ăn mặc
như các công chúa.
Như
vậy ta tưởng tượng cách sống của vua
nước lớn như Tề, Tần, Sở ra sao .
Dân
chúng bị nạn chiến tranh bất tuyệt, già nửa
phải đi lính, còn kẻ ở nhà thì phải nộp thuế
có khi tới ba phần tư hoa lợi . Cho nên Mạnh tử
đã phẫn uất, mắng vào mặt vua Lương Huệ
Vương: “bếp vua có thịt béo, tàu vua có ngựa mập,
mà dân thì có sắc đói, đồng ruộng la liệt những
kẻ chết đói; như vậy khác nào vua sai thú ăn
thịt người . Loài thú ăn thịt lẫn nhau
người ta còn ghét thay; nay làm cha mẹ dân, cai trị dân
mà sai thú ăn thịt người thì có đáng làm cha mẹ
dân không ?" (Bào hữu phì nhục,
cứu hữu phì mã, dân hữu cơ sắc, dã hữu ngã
biểu, thử suất thú khi thực nhân dã. Thú tương
thực, thả nhân ố chi .Vi dân phụ mẫu, hành chính
bất miễn ư suất thú nhi thực nhân, ố tại
kì vi dân phụ mẫu dã?)
庖
有 肥 肉, 廏 有 肥 馬,
民
有 饑 色 , 野 有 我
荸, 此 率 獸 而 食 人 也,
獸 相 食 且 人
惡 之,
爲 民 父 毋 行 政,不 免 於 率
獸
而
食 人, 惡 在 其 爲 民 父 母
也 ?
Những
năm được mùa, dân cũng không được
hưởng vì triều đình thu lúa hết để nuôi
lính, mà những năm mất mùa thì kẻ già người bệnh
chết hằng loạt trên đường, trong ruộng,
còn những kẻ khỏe mạnh nhất phiêu bạt
đi khắp nơi . Xã hội hoàn toàn tan rã, tan rã từ gốc,
tức nông thôn ; sự bất an gây sự bất bình : ai ai
cũng mong có một trật tự mới .
Thời
ấy tuy có thất hùng : Tề, Sở ,Tần, Yên, Hàn, Triệu,
Ngụy ; nhưng ba nước mạnh hơn cả là Tề,
Sở, Tần.
Trong
ba nước ấy, Tề đất đai nhỏ
hơn cả nhưng có một vị trí rất tốt ; nằm
trên hạ lưu sông Hoàng Hà, gồm nhiều đồng ruộng
phì nhiêu đã được trồng trọt từ lâu, dân
chúng được khai hóa, khéo tay và thuần tính ; quyền
hành dễ được tập trung vào triều đình,
không thường bị chia xẻ cho các lãnh chúa như tại
các nước nhiều núi non hiểm trở. Một nguồn
lợi rất lớn của Tề là muối, nhờ bờ
biển rất dài ; các ruộng muối do triều đình
khai thác rồi thương nhân chở đi bán khắp miền
đông Trung-Hoa, và phải đóng thuế cho nhà vua 50% giá bán.
Ngay hai ngàn năm sau, đời Minh, đời Thanh mà nghề
bán muối (và bán trà) vẫn có lợi nhất, tạo nên
nhiều gia sản lớn nhất. Hình như Tề còn có mỏ
sắt, cũng do triều đình khai thác. Do đó, Tề
thành nước giàu nhất, văn minh nhất trong thất
hùng. Từ thế kỉ thứ bảy trước Tây lịch,
Tề Hoàn Công (685-643) nhờ tướng quốc Quản
Trọng, một chính trị gia đại tài, tổ chức
lại chính quyền, quân đội, nhất là kinh tế,
mà hùng cường, thành một vị bá trong các chư hầu,
thao túng các nước khác, mười một lần hội
các chư hầu[3] để ra mệnh lệnh cho họ,
chẳng hạn để tuyên bố phạt Sở hoặc
trừng trị một chư hầu không chịu phục
tòng.
Tới
thế kỉ thứ tư, thời Mạnh tử, Tề
đã suy vì các vua bất tài, nhưng vẫn còn là nước
giàu nhất.
Đất
đai rộng nhất là Sở, phía đông từ Đông-
Hải, phía tây tới Hán-Trung, giáp với Tần; phía bắc
giáp Hàn, Tống, Lỗ, Tề, ở phía trên sông Hoài; phía nam
tới Động-đình hồ, ở dưới sông
Dương-tử: diện tích bằng diện tích Tề,
Yên, Triệu, Ngụy, Hàn nhập lại. Nhưng miền
đó chưa khai phá, đa số là rừng hoang và đầm
lầy, dân chúng thưa thớt mà còn dã man, nên sự cai trị
rất khó khăn.
Thế
kỉ thứ năm, vua Sở chắc đã nhiều lần
muốn tổ chức lại chính quyền và quân đội,
nhưng hình như không thành công, cho nên Sở lăm le muốn
tiến lên hướng bắc, chiếm miền trung nguyên (Hàn,
Ngụy, Tống, Lỗ, Tề mà không được.)
Tần nằm về
phía tây, đất đai cũng rất rộng, chỉ kém
Sở (nhất là sau khi nghe lời Tư Mã Thác, Tần Huệ
Vương đem quân chiếm dược đất Ba Thục
- coi bài 1, 7 - Tần sách trong Chiến-quốc sách).
Đất
cũng gồm nhiều rừng núi, dân chúng cũng còn bán
khai, nhưng được một lợi thế là có cửa
Hàm- Cốc, một hẻm núi rất hiểm trở, một
khi đóng lại thì thời đó có thiên binh vạn mã
cũng không qua được. Thành thử Tần không bị
các nước ở phía đông (Hàn, Ngụy, Tống...) tấn
công, có thể yên ổn tổ chức sự cai trị,
khai khẩn đất đai, trữ lương, luyện
binh để chờ thời. Nhất là từ năm -362 ,
Tần Hiếu Công dùng Vệ Ưởng (cũng gọi là
Thương Ưởng) làm tá thứ trưởng, áp dụng
biến pháp của Ưởng thì Tần càng mau mạnh. Ưởng
đặt ra pháp lệnh rất công bình, vô tư : phạt
thì không kiêng kẻ có uy quyền lớn, thưởng thì
không vì tình riêng. Hình pháp thi hành lên tới cả thái tử
(sau lên ngôi là Huệ Văn Vương, cũng gọi là Huệ
Vương) : thái tử có tội, Ưởng bắt quan
sư phó phải chịu tội thay, bị thích chữ vào
má. Ưởng còn đặt ra phép ngũ gia hoặc thập
gia liên bảo : năm nhà hoặc mười nhà phải
liên đới chịu trách nhiệm với nhau, một
người có tội mà những người kia không tố
cáo thì cả bọn bị tội, trái lại ai tố cáo
thì được thưởng. Lại ra lệnh người
nào ra khỏi làng, thì phải có "bằng cứ", tức
như thẻ căn cước ngày nay, nếu không thì không
nhà nào được chứa. Nhờ những pháp lệnh ấy,
trong nước hết trộm cướp, ngoài đường
không ai nhặt của rơi.
Ông
ta tổ chức lại hành chánh, chia nước làm 31 huyện,
đặt dưới quyền một huyện trưởng,
như vậy quyền hành tập trung cả vào triều
đình, không còn bọn lãnh chúa nữa. Đồng thời
ông khuyến khích canh nông, sửa sang đường sá, bỏ
chế độ tỉnh điền, cho nông dân tự do
khai thác đất đai, hoàn toàn làm chủ đất của
mình. Chế độ thuế khóa cũng thay đổi,
tùy theo diện tích của ruộng, như vậy triều
đình thu được một số thuế nhất
định, không tùy thuộc mùa màng trúng hay thất nữa.
Dùng
biến pháp mười sáu năm, Tần đã mạnh rồi,
Hiếu Công xưng bá (-343), nhiều chư hầu bắt
đầu thấy nguy cơ, năm -333, Yên, Triệu, Hàn,
Ngụy, Tề, Sở theo mưu kế của Tô Tần, hợp
tung để chống Tần, nhưng chỉ dược
một năm, phe hợp tung tan, Tần càng đắc thế,
xưng vương (-325). Tới năm -311, Trương
Nghi đề xướng thuyết liên hoành, liên kết các
nước từ đông sang tây và đứng về phe Tần
để phá các nước khác, và lần lần nhờ
tướng Bạch Khởi, Tần thắng được
Ngụy, Hàn, hạ được Sở, uy hiếp
được Tề, diệt được Triệu, chiếm
được Chu, Chu phải dâng hết đất cho Tần
(-256).
Dưới
dây là những biến cố lớn xảy ra trong đời
Mạnh tử :
-
372 Mạnh tử sinh.
-
362 Tần Hiếu Công lên ngôi.
-
359 Tần Hiếu Công dùng Vệ ương để biến
pháp.
-
350 Tần Hiếu Công dời đô lại Hàm-dương,
bỏ chính sách tỉnh điền.
-
343 Tần Hiếu Công xưng bá.
-
338 Tần Hiếu Công chết, Huệ Văn Vương nối
ngôi, giết Vệ Ưởng.
-
334 Tề, Ngụy xưng vương. – Sở diệt Việt.
-
333 Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở, hợp tung
để chống Tần. Tô Tần làm tung trưởng.
-
332 Tô Tần bỏ Triệu, phe hợp tung tan.
-
325 Tần xưng vương.
-
323 Trương Nghi làm tướng quốc Ngụy –Hàn,Yên
đều xưng vương.
-
317 Tần đại thắng Hàn ở Tu Ngư. Tề giết
Tô Tần -Trương Nghi làm tướng quốc Tần.
-
316 Tần chiếm đất Thục.
-
314 Tề Tuyên vương diệt Yên.
-
312 Sở đánh Tần, thua to, Tần chiếm được
Hán Trung.
-
311 Trương Nghi đề xướng thuyết liên
hoành.
-
299 Tần giam cầm Sở Hoài Vương. Khuất Nguyên
buồn rầu vì việc nước, đâm đầu xuống
sông Mịch La.
-
298 Tề, Hàn, Ngụy hợp lực phá quân Tần ở cửa
Hàm-cốc.
-
295 Triệu diệt Trung-sơn.
-
293 Ngụy, Hàn đánh Tần, tướng Tần là Bạch
Khởi đại thắng.
-
289 Mạnh tử chết. (Hơn ba chục năm sau, Chu
dâng hết đất cho Tần : - 256)
*
* *
Thời
Chiến-quốc là một thời đại loạn,
nhưng cũng là thời tư tưởng Trung-quốc
phát triển rất mạnh, như đương lên men.
Ngôn luận được hoàn toàn tự do, trừ ở Tần;
các vua chúa đã không nghi kị, mà còn tôn trọng kẻ Nho
sĩ, mời họ làm cố vấn, tuy không theo chính sách của
Khổng gia, nhưng đại họ rất hậu; còn hạng
biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghi, Phạm
Tuy, Công Tôn Diễn... thì một bước lên chức
tướng quốc.
Người
đời sau gọi thời đó là thời “bách gia chư tử”, không phải
là quá đáng. Các đại triết gia thì không nhiều,
độ năm sáu nhà như Mạnh tử, Trang tử,
Tuân tử, Huệ tử, Công Tôn Long, Trâu Diễn, nhưng
nhà nào cũng có một số đệ tử có tài; các triết
gia ít tên tuổi hơn thì chắc là rất nhiều,
như Cáo tử, Bành Mông, Điền Biền, Doãn Văn, Hứa
Hành, Trần Trọng, Ngụy Mâu.... sử không chép hết
được. Ngoài ra còn các chính trị gia, gọi là Pháp
gia, như Thân Bất Hại (mới đầu giúp Ngụy,
sau giúp Tần), Vệ Ưởng, Thận Đáo, nổi
tiếng nhất là Hàn Phi (cuối đời Chiến quốc)
; Thân Bất Hại chuyên bàn về thuật làm vua; Vệ Ưởng
chuyên bàn về pháp; Thận Đáo chuyên bàn về cái “thế”
của ông vua; Hàn Phi tổng hợp lại mà gián tiếp
giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung-quốc.
Còn
hạng biện sĩ (cũng gọi là sách sĩ) giỏi
biện luận, du thuyết bọn cầm quyền để
mưu bổng lộc, chức tước, và hạng
phương sĩ (cũng gọi là thuật sĩ), gồm
các thiên văn gia, y gia, nông gia.... (ngày nay ta gọi là kĩ
thuật gia) thì đếm không hết.
Thuyết
của cả trăm nhà đó chống đối nhau, mà
thuyết nào cũng có vẻ chấp nhận được,
thành thử nhà cầm quyền cũng như dân chúng không biết
nghe ai, không tìm ra được hướng đi nữa.
Sinh
trong một thời như vậy, hỗn loạn hơn
đời Khổng tử cả về phương diện
xã hội lẫn tư tưởng mà vẫn giữ đạo
nhân nghĩa của Không tử, lại chịu ảnh
hưởng tính tình cương cường bất khuất
của Tử Tư, thì dĩ nhiên Mạnh tử cũng phải
ôm hận như Không tử, mấy chục năm bôn ba các
nước Lương, Tề, Lỗ, Đằng rồi
rốt cuộc cũng lại trở về quê nhà trứ thư lập ngôn. Về
phương diện ấy, đời ông y hệt đời
Khổng tử.
Chương 2
ĐỜI SỐNG HOẠT
ĐỘNG CHÍNH TRỊ
Mạnh
tử là triết gia duy nhất thời Tiên Tần mà chúng
ta biết được ít điều về tuổi
thơ, nhờ bà mẹ hiền của ông. Ông thuộc dòng
dõi công bộc Mạnh-tôn ở nước Lỗ, tên là Kha,
tự là Tử Dư, sinh ở ấp Trâu, sát nước Lỗ.
Có sách nói cha là Khích Công Nghi, mẹ họ Chưởng
nhưng vô chứng cứ. Tới đời ông cha, chi của
ông đã sa sút, tuy là quý tộc mà sống như bình dân, về
điểm ấy ông giống Khổng tử. Có lẽ phần
đông các triết gia thời ấy cũng như ông : nhờ
thuộc dòng dõi quí tộc, ông mới được học
hành; rồi vì nghèo, không được lãnh một chức
vị tại triều, nên ông mới có chí lập thân.
Chúng
ta có thể nói giai cấp trung lưu thời nào cũng tạo
cho quốc gia, nhân loại được nhiều nhân tài
nhất, vì địa vị cao quá thì người ta thường
hưởng lạc hoặc phải sớm lo việc
nước, ít chú trọng đến sự học, còn thân
phận thấp quá thì không có phương tiện để
học, chí khí dễ bị hoàn cảnh khắt khe làm cho tiêu
ma.
Tương
truyền Mạnh tử mồ côi cha từ hồi ba tuổi,
nhưng chưa đáng tin, chỉ nên nhớ rằng ông sớm
mồ côi, được mẹ ở góa nuôi nấng. Không
nghe nói ông có anh em chị em.
Nhiều
người đã biết những giai thoại dưới
đây về cách dạy con của thân mẫu ông. Toàn là những
truyền thuyết chép trong Liệt
nữ truyện, nếu không đáng tin hết thì ít nhất
cũng phải nhận là có ý nghĩa, nên chúng tôi cũng nhắc
lại.
Giai
thoại thứ nhất là thân mẫu ông ba lần dời
chỗ ở để ông được sống trong một
hoàn cảnh tốt nhất. Mới đầu nhà ở gần
một nghĩa địa (có sách nói là ở gần một
lò làm thịt súc vật) cậu Kha ngày ngày trông thấy tang
lễ, đám táng, xúc động và bắt chước
người ta đào huyệt làm lễ chôn cất. Bà mẹ
bảo: "Chỗ này không phải là chỗ cho con tôi ở”,
rồi dời nhà lại gần chợ (có sách chép là tới
một xóm làm đồ mã). Cậu Kha thấy những
người bán rong cũng bắt chước, suốt ngày
làm bộ mua bán, rao hàng, trả giá. Thấy vậy bà mẹ
lại dời chỗ nữa, lần này tới gần một
trường học; kết quả thật đáng mừng
: con bà bắt chước thái độ, cử chỉ nghiêm
trang, kính cẩn của các học sinh, cũng lễ độ
nghiêng mình chào hỏi, cũng nhường bước cho
người lớn, khoan thai tiến lui.
Giai
thoại thứ nhì : một hôm cậu thấy một
người mổ một con heo, hỏi mẹ :
-
Người ta mổ thịt nó làm gì vậy, mẹ ?
Bà
mẹ đáp :
-
Để cho con ăn.
Rồi
suy nghĩ một lát, bà ân hận rằng mình đã nói
đùa. Bà nghĩ bụng : khi mình có mang nó, nếu chiếu
trải lệch thì mình không dám ngồi, thịt cắt không
ngay ngắn, mình không dám ăn. Như vậy là dạy nó từ
khi nó còn là bào thai, chưa biết gì Bây giờ nó đã bắt
đầu hiểu biết, không nên nói đùa như vậy
mà nó tưởng là mình nói dối, rồi cũng hóa ra nói dối".
Nghĩ vậy, bà bèn đi mua một ít thịt heo về
cho con ăn.
Giai
thoại thứ ba : cậu Kha đã hơi lớn rồi,
theo học một người trong môn phái Tử Tư. Mới
đầu cậu hơi làm biếng, có lần giữa buổi
học bỏ về nhà. Bà mẹ đương dệt vải,
thấy vậy cắt một khổ vải trong khung cửi.
(Có sách chép rằng cậu đương học bài thì bỏ
dở, bà đương khâu ở bên cạnh, bèn lấy
dao cắt đứt miếng vải). Cậu ngạc nhiên
hỏi tại sao. Bà đáp : "Đương học mà
bỏ về (hoặc bỏ dở) thì cũng như
đương dệt (hoặc đương khâu ) mà cắt
khổ vải đi. Cái học của con như khổ vải
của mẹ còn dùng gì được nữa đâu”. Lời
trách ấy in sâu vào tâm hồn cậu, từ đó cậu
siêng học, sau thành một học giả giỏi nhất
đương thời.
Chúng
ta không được biết gì về vợ con của Mạnh
tử. Chỉ có truyền thuyết này rất khó tin,
nhưng cũng lí thú. Một lần ông thấy vợ ngồi
trong phòng riêng mà ở trần. Ông nổi giận, cho như
vậy là vô lễ, mất nết, muốn đuổi vợ
đi. Nhưng cụ bà gọi ông lại một chỗ vắng,
rầy ông : theo lễ, một người đàn ông sắp
đi tới cửa phòng của một người đàn
bà, dù người đó là vợ, thì cũng phải đằng
hắng hay lên tiếng, cho người ta biết trước
; rồi khi bước vào phòng thì nên nhìn xuống để
người ta đừng ngờ mình có ý xoi mói. Con sồng
sộc đi vào phòng riêng của nó, là con vô lễ, mà lại
trách nó vô lễ, như vậy chẳng bất công ư
?". Ông nhận lỗi về mình và thôi không đuổi vợ
nữa.
Mấy
giai thoại ấy, nếu đúng, thì biểu lộ
được một phần tính tình của ông : có hiếu
với mẹ, có chí, nghiêm khắc, nhưng biết nhận
lỗi.
Ông
không có tiếng tăm sớm như Khổng tử, ngoài ba
mươi tuổi vẫn chưa được ai biết
tới. Có lẽ thời gian đó là thời gian chuẩn bị,
cần cù học hỏi, tìm hiểu đạo Khổng.
Đọc bộ Mạnh Tử,
thấy ông dẫn nhiều câu trong kinh Thi, kinh Thư thì
chúng ta đoán rằng ông chuyên về hai kinh đó, có thể
thêm kinh Xuân Thu nữa, còn các kinh khác : Lễ, Nhạc, Dịch
ông ít hoặc không nhắc tới.
Nhưng
vào khoảng bốn chục tuổi, ông nổi danh là một
đại nho, có nhiều môn sinh, được nhiều
người trọng vọng.
Tiếp
theo một khoảng hai chục năm, ông nhiệt tâm hoạt
động về chính trị, hồi năm chục tuổi
cùng với môn sinh bôn ba các nước Lỗ, Lương, Tề,
Đằng, Tống, rán tìm một vị minh chủ để
thực hành đạo của Khổng tử. Những lời
khuyên của ông được vua các nước đó coi
trọng và đôi khi áp dụng.
Theo
bài 4, chương Đằng Văn công, hạ, và bài 3,
chương Công tôn Sửu hạ, thì ông sống rất
sang, tới đâu cũng được các vua chúa tiếp
đãi cực kì trọng hậu. Mỗi khi qua nước
nào, ông “dắt theo cả mấy chục cỗ xe và mấy
trăm người tùy tùng và vua nước ấy phải
cung cấp lương thực" ; tới khi ông rời một
nước nào thì vua còn "dâng ông chút ít để ông lên
đường" nữa; "chút ít" đó là bảy
chục dạt vàng như hồi ông rời nước Tống.
Mỗi dạt bằng 24 hay 20 lượng vàng ! Khổng tử
có thấy cảnh ấy, chắc phải lắc đầu
than rằng : “hậu sinh khả úy thật ?" Thầy
trò cụ có lúc phải nhịn đói, mặt xanh như tàu
lá ; và môn sinh cụ quí nhất, Nhan Hồi, chỉ có một
giỏ cơm, một bàu nước. Thời thế đã
khác xa !
Nếu
ta so sánh với các biện sĩ như Tô Tần,
Trương Nghi... thì càng thấy rõ uy danh của thầy
trò Mạnh tử lớn ra sao. Hầu hết bọn biện
sĩ đều phải lao đao, ăn dầm nằm
đề ở một quán trọ một kinh đô nào
đó cả tháng, có khi cả năm, vung tiền ra mua chuộc
những kẻ hầu cận nhà vua để xin được
tiếp kiến. Khó tới nỗi Tô Tần đã phải
trách vua Sở :
Thức ăn ở Sở
đắt như ngọc, củi đắt như quế,
kẻ thông báo của nhà vua khó được thấy mặt
như quỉ, mà nhà vua khó được yết kiến
như Thượng Đế. Nay nhà vua giữ tôi lại
là bảo tôi ăn ngọc, đốt quế để xin
hội kiến với Thượng Đế ư ? (Chiến
quốc sách – Sở III.2).
Vì
vậy mà lần đầu Tô Tần lại yết kiến
vua Tần phải chầu chực đến nỗi rách
chiếc áo cừu và tiêu hết trăm dạt vàng (2.400
lượng), phải bỏ nước Tần về quê
nhà, hình dung tiều tụy, mặt mày xanh xạm, có vẻ
xấu hổ. (Chiến quốc sách - Tần I.2).
Trương
Nghi cũng không may mắn hơn, tới Sở phải chầu
chực cả tháng cả năm, nghèo khổ quá, bọn
đàn em đòi bỏ về, Trương Nghi phải dùng một
cách bỉ ổi để xoay tiền: vào yết kiến
vua Sở, bảo sẽ qua Tần kiếm gái đẹp
cho nhà vua; hoàng hậu và một sủng phi của vua Sở
hay tin, phải đút lót cho Trương, kẻ thì một
ngàn cân vàng, người thì năm trăm cân. (Chiến quốc
sách – Sở III.4).
Tài
liệu trong Chiến Quốc sách không đáng tin hẳn,
nhưng tác giả tất dựa trên sự thực lịch
sử rồi tưởng tượng thêm. Vậy ta có thể
tin rằng các biện sĩ thời Chiến quốc
thường không được các vua chúa kính trọng bằng
các triết gia có đạo đức như Mạnh tử
nhưng lại ưa dùng họ hơn là dùng các triết gia
: Tô Tần, Trương Nghi đều một bước
nhẩy lên chức tướng quốc còn Mạnh tử,
không được như Khổng tử nữa (Khổng
tử còn được cầm quyền tướng quốc
nước Lỗ trong mấy năm), không được
một ông vua nào giao cho một nhiệm vụ quan trọng ở
triều đình cả, chỉ đóng vai khách khanh, tức
như chức cố vấn ngoại quốc mà không có quyền
hành chi cả.
Bọn
triết gia được trọng mà không được
dùng là do bọn vua chúa mà cũng chính do họ nữa :
-
Bọn vua chúa chỉ muốn được cái tiếng tốt
là biết chiêu hiền đãi sĩ, chứ thực tâm cho họ
là vu khoát, không thực tế, hoặc không đủ đức
và kiên nhẫn để theo họ. Chính họ cũng giữ
đúng nguyên tắc quá, không chịu mềm dẻo để
tìm cách thực hành đạo của mình một phần nào
; đôi khi họ còn kiêu căng, ngạo mạn, không coi bọn
vua chúa ra gì cả.
Mạnh
tử bôn ba chư hầu có phần ít hơn Khổng tử,
và cũng như Khổng tử, ông không hề dặt chân
đến nước Chu (mặc dầu ông chủ
trương vẫn giữ chế độ phong kiến :
có thiên tử và các vua chư hầu), có lẽ vì ông cho rằng
các vua Chu không đủ tư cách hoặc phương tiện
làm nên việc lớn, thống nhất Trung-quốc. Ông
cũng không tới Sở và Tần, chê hai nước
đó còn bán khai, không dáng làm chủ Trung-quốc chăng ? Rốt
cuộc ông chỉ loanh quanh ở miền Lỗ, Đằng,
Tống, Lương, tức miền lưu vực Hoàng hà, đã
được khai hóa lâu đời hơn cả.
Bộ
Mạnh Tử mở đầu
bằng hai chương Lương Huệ vương
thượng và hạ. Có lẽ ông tới Lương
trước hết ; thời đó kinh đô Lương và
Tề là những đất văn vật nhất, đến
các hạng sĩ ( học sĩ, tức các triết gia
như ông, biện sĩ, thuật sĩ ) tới đông
hơn hết.
Ngay
từ buổi hội kiến đầu tiên với
Lương Huệ vương, ông đã tấn công nhà vua
liền. Lương bị các nước chung quanh uy hiếp,
năm -341 thua Hàn và Tề,
năm sau lại bị Tần đánh, phải dâng Tần
đất Hà-tây, dời đô qua Đại-Lương,
năm -318, lại thua Tần một lần nữa mặc
dầu được Sở, Triệu, Hàn, Yên giúp sức.
Vì vậy Huệ vương muốn cho Lương mạnh
lên, nên mới gặp mặt, đã hỏi ngay Mạnh tử
có cách gì làm lợi cho nước ông không.
Mạnh
tử gạt phăng :
-
Vua cần gì phải nói với lợi ? Chỉ nên nói tới
nhân nghĩa mà thôi. (Vương hà tất viết lợi? Diệc
hữu nhân nghĩa nhi dĩ hĩ.)
王 何 必 曰 利 ? 亦 有 仁
義 而 己 矣
Lương Huệ
vương, thượng - bài I).
Vì
làm vua một nước mà chỉ nghĩ tới cái lợi
cho nước mình thì từ các đại thần trở
xuống tới người dân thường, ai cũng chỉ
nghĩ tới cái lợi cho nhà mình, thân mình, như vậy
nước sẽ loạn. Vả lại mưu cái lợi
cho nước mình thì phải làm hại nước khác,
chính vì nước nào cũng chỉ tính cái lợi riêng cho
mình nên mới có chiến tranh mà thời Chiến quốc mới
kéo dài mấy trăm năm. Phải lo cái lợi chung cho
thiên hạ kia thì mới hết loạn, mà cái lợi chung
đó là nhân với nghĩa.
Ta
thấy lí tưởng ông hợp với truyền thống
Khổng tử, trái hẳn với chủ trương của
các chính trị gia, các pháp gia. Theo chính sách nhân nghĩa thì phải
lâu mới có kết quả, mà Huệ vương nóng lòng,
muốn nước mau mạnh, phàn nàn rằng đã hết
lòng trị nước, cứu giúp dân nghèo, mà sao kết quả
cũng không hơn gì các nước láng giềng, dân số
vẫn không đông hơn các nước ấy; Mạnh tử
lấy chiến trận ra giải thích cho nhà vua, bảo:
-
Tiếng trống lệnh nổi lên rồi, hai quân giao chiến
nhau, quân của nhà vua thua, cởi bỏ áo giáp, kéo đao
thương mà chạy, kẻ chạy trăm bước rồi
ngừng, kẻ năm chục bước rồi ngừng.
Kẻ chạy năm chục bước có quyền chê kẻ
chạy trăm bước không ?
Huệ
vương đáp không. Mạnh tử kết luận :
Vậy
thì nhà vua cũng đừng nên mong dân số nước Ngụy
đông hơn dân số các nước chung quanh.
Nghĩa
là chưa thấy kết quả chỉ tại chưa thi
hành nhân nghĩa đến nơi đến chốn, còn phải
kiên nhẫn nhiều, gắng sức nhiều nữa, mới
bấy nhiêu, tuy đã khá hơn các ông vua khác nhưng chưa
đủ.
Lần
khác, Mạnh tử tỏ ra nghiêm khắc quá mức. Huệ
vương vẫn lễ độ, rất nhiều thiện
chí, bảo xin nghe lời ông dạy bảo về việc
trị nước, ông đã chằng khuyến khích, còn mắng
ngay vào mặt Huệ vương là làm cha mẹ dân mà
"sai thú ăn thịt dân", vì "trong bếp vua có thịt
béo, tàu vua có ngựa mập mà ( . . . ) đồng ruộng
la liệt những kẻ chết đói) ( Lương Huệ
vương, thượng, bài 4, đã dẫn ở
chương I).
Ít
lâu sau những cuộc hội kiến ấy, Huệ
vương băng ; con là Tương vương lên nối
ngôi. Mới gặp lần đầu, Mạnh tử đã
có ác cảm ngay với Tương vương, khi ra khỏi
điện, chê rằng “ở xa coi, không có khí tượng
ông vua; lại gần chẳng có oai nghiêm khiến cho mình
kính hoặc sợ". Tương vương hỏi ông
làm sao thống nhất được thiên hạ, ông
đáp:
"Ai
không giết người thì thống nhất được
thiên hạ". Cũng lại là lời ngầm trách các vua
Lương bất nhân, không biết nuôi dân mà còn hiếu chiến.
Từ
đó ông chán ngán, hết trông cậy vào nước Lương
được, bỏ nước đó mà qua Tề.
Ông
ở Tề lâu nhất, khoảng bốn, năm năm mà
cũng hi vọng ở Tề nhiều nhất, vì như
trên chúng tôi đã nói, Tề là một nước phú cường
lại văn minh, được khai hóa từ lâu. Kinh
đô Tề hồi đó là nơi tụ họp những
danh sĩ bậc nhất Trung-quốc. Vua Tề trọng
đãi họ, cho họ ở những ngôi nhà lộng lẫy
ở cửa tây kinh đô, tặng họ chức tước
và lương bổng rất hậu, chỉ để thỉnh
thoảng hỏi ý kiến họ về việc nước,
hoặc mời họ vào triều giảng về đạo
lí, và viết sách truyền bá đạo của họ .
Mạnh
tử hai lần tới Tề, lần dầu gặp Tề
Tuyên vương hồi ông trên 50 tuổi. Chúng ta biết ông
Tề Tuyên vương này nhờ một câu trong Cung oán ngâm
khúc :
Bệnh Tề Tuyên đã nổi
lên đùng đùng.
Câu
ấy cho ta một cảm tưởng xấu về ông,
tưởng ông là hạng vua dâm đãng bậc nhất,
như Kiệt, Trụ chẳng hạn. Sự thực ông
không hiếu sắc gì hơn các vua chúa khác, có phần dễ
thương nữa vì thẳng thắn nhận những
nhược điểm của mình (như ham nghe nhạc,
săn bắn, gái đẹp) và có thiện chí muốn tu tỉnh,
lại có lòng thương người.
Mạnh
tử có cảm tình với Tuyên vương, nhận chức
khách khanh; đối với ông, không có giọng mạt sát
gay gắt như đối với Lương Huệ
vương và Tương vương. Trong bộ Mạnh Tử có 16 bài chép những
lời ông khuyên bảo Tuyên vương (mà chỉ có năm
bài về Lương Huệ vương và một bài về
Lương Tương vương).
Lần
đầu tiên (bài 7 - chương Lương Huệ
Vương, thượng) Mạnh tử khen Tuyên
vương có đủ đức để dựng nghiệp
vương (tức nuôi dân và thống nhất Trung-quốc),
vì biết thương loài vật, không nỡ thấy con bò
sợ hãi đi qua cửa điện, vô tội mà bị
đem giết để lấy máu làm lễ tôi chuông, mà bảo
kẻ tả hữu thả nó ra. Đem lòng nhân đó với
con bò mà cư xử với dân trong nước, ban bố ân
huệ trong nước, thì không lí gì không dựng được
nghiệp vương.
Tuyên
vương mừng lắm, phục ông là thấy rõ tâm can của
mình.
Rồi
khi Tuyên vương thành thực nhận tật ham thanh sắc,
săn bắn, Mạnh tử cũng không trách, tỏ ra rất
khéo léo, bảo những ham thích đó không làm hại cho việc
trị nước, trái lại có thể là cái phúc cho dân Tề
nữa. Nếu nhà vua biết cho dân hưởng chung cái vui
của mình (dữ bách tính đồng
lạc), như cho họ cùng nghe nhạc với mình, mở
cửa vườn hoa cho dân vào cắt cỏ, kiếm củi,
săn trĩ, bắn thỏ ; và trị nước sao cho
không có thiếu nữ nào buồn duyên về nỗi không chồng,
không có cậu trai nào tủi phận vì nỗi không vợ ;
nếu nhà vua ham thanh sắc và săn bắn theo cách đó
thì dân chúng sẽ quí mến mình, dựng nghiệp
vương có gì là khó. (Lương Huệ vương, hạ
- bài 1, 2 và 5). Mấy bài ấy là những bài hay nhất
trong bộ Mạnh Tử: lời
ôn tồn mà thấu đáo tâm lí, lí luận chặt chẽ,
đôi chỗ hùng hồn.
Nhưng
Tề Tuyên vương chỉ biết nghe mà không biết thực
hành đạo của ông, nên lần lần ông chán, giọng
lại hóa ra gay gắt. Như trong bài 6, Lương Huệ
vương, hạ, ông hỏi dồn Tuyên vương một
hơi :
-
Ví dụ có người bề tôi của nhà vua, nhờ bạn
trông nom giùm vợ con mình, qua chơi nước Sở, khi về
thấy bạn để cho vợ con mình đói rét, thì
người đó nên xử trí ra sao ?
Tuyên
vương đáp :
-
Nên tuyệt giao với người bạn ấy.
-
Lại ví dụ có một quan sĩ sư (quan đầu ti
hình pháp) mà không cai quản nổi những người
dưới quyền mình thì nên xử trí ra sao ?
-
Nên cách chức đi.
-
Lại ví dụ có một ông vua để cho nước rối
loạn thì nên xử trí cách nào ?
Tuyên
vương ngượng, ngó qua bên tả bên hữu, nói lảng
sang chuyện khác .
Có
lẽ từ đó Tuyên vương không muốn gặp ông
nữa. Một hôm ông sửa soạn vào triều yết kiến
nhà vua thì một sứ giả tới cho hay nhà vua bị cảm
hàn, muốn lại thăm ông mà không được, hôm sau
sẽ họp triều, mong được ông tới. Mạnh
tử biết nhà vua không thành thực, đáp rằng ông
cũng đau, hôm sau sẽ không vào triều được.
Và hôm sau ông đi thăm một người bạn. Vừa
ra khỏi nhà thì sứ giả dắt một ngự y tới
để săn sóc cho ông. Cháu của Mạnh tử tiếp
sứ giả phải nói dối rằng bệnh ông đã bớt,
ông đã đi vào triều rồi, và tức tốc sai mấy
người nhà đi kiếm ông, xin ông vào triều ngay
đi.
Nhưng
ông cứ thản nhiên, không thèm vào triều, tối đó ngủ
lại ở nhà người bạn (Công tôn Sửu, hạ
- bài 2).
Thấy
đạo của mình cũng không thi hành được ở
Tề, ông định tâm bỏ đi. Tuyên vương hay ý
đó, lại thăm ông và sai người thuyết phục
ông ở lại, ông không nghe. Nhà vua còn muốn dựng một
học viện, đón ông lại đó dạy đạo
lí, cấp cho ông mỗi năm mười ngàn chung thóc để
nuôi học trò, như vậy cho mọi người trong
nước, từ các quan đại phu với thường
dân, có một bực thầy để ngưỡng mộ
và noi gương. Mạnh tử cũng không chịu, nhất
định bỏ đi.
Tuy
nhiên, khi ra khỏi kinh đô Tề rồi, ông có ý nấn
ná, dừng chân ở ấp Trú ba ngày, mong Tuyên vương đổi
ý mà triệu ông trở lại. Ông kể lể tâm sự với
một môn sinh là Cao tử:
-
Thầy đã đi ba ngàn dặm, đến hội ngộ
với nhà vua (là để giúp vua trong việc trị nước
bình thiên hạ). Nay nhà vua không biết dùng thầy thì thầy
mới ra đi, chứ đâu có muốn vậy. Thầy dừng
chân ở ấp Trú ba ngày là mong nhà vua triệu thầy ở
lại. Khi không thấy nhà vua triệu lại, thầy mới
quyết tâm về quê nhà (...) Nếu nhà vua biết dùng thầy
thì thầy sẽ làm cho dân nước Tề được
an cư lạc nghiệp, mà toàn dân trong thiên hạ cũng
được vui cảnh thái bình nữa.
Ông
có vẻ rầu rầu, nói một đệ tử khác là
Sung Ngu :
-
Trời chưa muốn cho thiên hạ được bình trị.
Nếu
muốn thì ở thời này ngoài ta ra còn ai giúp được
? Được vậy thì ta mừng lắm chứ.
Tâm
trạng ông lúc đó cũng như tâm trạng Khổng tử
khi không
còn hành đạo ở nước Lỗ được nữa
mà phải bịn rịn bỏ đi.
Trong
số các vua chư hầu, người trung thành, tin ông nhất
là Đằng Văn công. Trong bộ Mạnh Tử có bảy bài chép những lời ông
khuyên Văn công.
Đằng
là một nước nhỏ xíu (theo Liu Wu Chi, chỉ rộng
mười sáu cây số vuông), ở vào giữa hai nước
mạnh lớn : Tề và Sở, cho nên bị cái cảnh
như trên đe dưới búa. Cổ nhân đã có bài
thơ vịnh nước Đằng như sau :
Đằng
quốc xưa nay vốn nhỏ nhoi,
Lại thêm Tề,
Sở ép hai bên
Quay đầu
về Sở, e Tề giận.
Ngửa mặt
sang Tề, sợ Sở ghen.
Chính vì ở tình thế khó xử
đó, nên vua Đằng cần được Mạnh tử
chỉ bảo. Ngay từ hồi trẻ còn là thế tử,
Đằng Văn công đã ngưỡng mộ Mạnh tử,
có lần nhân qua Sở, đi ngang qua nước Tống, lại
thăm ông, nghe ông giảng về tính thiện và đạo
của Nghiêu, Thuấn. Rồi khi ở Sở về, lại
ghé thăm ông nữa. Lần này ông ngờ thế tử
chưa tin hẳn lời ông giảng lần trước,
nên dẫn lời của Nhan Hồi, môn đệ Khổng
tử : “Ông Thuấn là người gì ? Ta là người gì
? Nếu ta gắng sức làm điều thiện thì
cũng như ông Thuấn.” Vậy
thế tử chịu thi hành nhân chính, thì cũng sẽ lập
được sự nghiệp Nghiêu, Thuấn. Nước
Đằng tuy nhỏ, bớt bề dài phụ cho bề
ngang, được mười lăm dặm[4]
nhưngthi hành nhân chính thì cũng thành một nước tốt.
Thế
tử mừng và tin ông lắm, cho nên chi vua cha là Định
công mất, thế tử nhờ sư phó của mình là
Nhiên Hữu lại nước Trâu hỏi Mạnh tử về
tang chế. Mạnh tử khen lòng hiếu của thế tử
và khuyên cử tang ba năm, trong thời gian đó, bận
áo sô gai, ăn cháo đạm bạc, theo tục lệ các
đời Hạ, Ân và Chu. Nhưng bậc cha anh trong họ
và các quan trong triều phản đối, bảo Đằng
không hề có tục ấy, cứ theo tang chế của
Đằng, đừng nên sửa đổi.
Nhiên
Hữu phải hỏi lại Mạnh tử một lần
nữa.
Mạnh
tử giữ vững chủ trương của mình, dẫn
lời của Khổng tử và bảo người bề
trên như gió, kẻ dưới như cỏ, gió lướt
tới đâu, cỏ rạp tới đó, hễ mình nêu
gương cho dân thì dân tất theo. ( Quân tử chi đức phong dã, tiểu nhân chi đức
thảo dã, thảo thượng chi phong tất yểu).
君 子 之 德 風 也, 小 人 之 德 草 也,
草 上 之 風 必 偃 .
Thế
tử nghe lời, bỏ cung điện, ra ở lều
tranh trong năm tháng, mọi việc nước đều
giao phó cho quan trủng tể; đến khi tống táng vua,
các vua chư hầu đến điếu, dân chúng bốn
phương trong nước đều tới coi, thấy
thế tử dung nhan tiều tụy, khóc lóc thảm
thương ai nấy đều phục lòng chí hiếu của
thế tử (Đằng Văn công, thượng - bài 2).
Ít
năm sau, Đằng Văn công vời Mạnh tử tới
triều để hỏi về việc nước :
Đằng
là nước nhỏ, bị ép ở giữa Tề và Sở,
vậy nên thờ Tề hay thờ Sở ?
Mạnh
tử đáp :
-
Mưu ấy tôi chưa tính tới. Nhưng nếu nhà vua
không muốn hàng phục thì cứ đào hào chung quanh thành
cho thật sâu rộng, xây thành quách cho thật cao dày, rồi
nhà vua cùng với dân chúng ra sức chống giữ, dân chúng
sẽ liều chết chứ không chạy đâu.
(Lương Huệ vương, hạ - bài 13).
Lần
khác Văn công thấy Tề đã chiếm nước Tiết,
đào hào xây lũy ở đấy, đâm hoảng, hỏi
Mạnh tử cách đối phó.
Mạnh
tử không biết đáp sao, chỉ bảo thời xưa
vua Thái vương còn ở đất Mân, bị rợ
Địch xâm lấn, không chống cự được
bèn bỏ đất Mân mà đến ở chân núi Kì. Đằng
Văn công cứ làm điều thiện đi, đời
sau con cháu sẽ có người lập được nghiệp
vương mà thống trị thiên hạ. (Cứ gắng
làm điều thiện đi, như vậy đủ rồi."
(Cưỡng vi thiện nhi
dĩ hĩ) . (Lương Huệ vương, hạ -
bài 14). Bỏ nước Đằng cho Tề chiếm thì
trốn đi đâu ? Lời khuyên đó thật mơ hồ
không thực tế, không thuyết phục nổi Đằng
Văn công.
Cho
nên lần khác, Văn công lại hỏi :
-
Đằng là nước nhỏ, hết sức thờ
nước lớn mà cũng không được yên, phải
làm sao bây giờ ?
Mạnh
tử không có ý kiến gì khác, lại đem việc vua Thái
vương nước Mân thời trước ra giảng,
và kết luận: chỉ có hai cách, một là cùng với dân
liều chết mà giữ thành; hai là bỏ nước mà
đi sống nơi khác, dân sẽ di theo. ( Lương Huệ
vương, hạ - bài 15).
Thực
ra, ai ở vào địa vị ông, cũng không có cách nào trả
lời khác được. Ở vào thời Chiến Quốc,
một nước như nước Đằng không sao tồn
tại lâu được, sớm muộn gì cũng bị
Tề hoặc Sở thôn tính, chắc Mạnh tử
cũng đã hiểu lẽ đó, nên buổi hội kiến
đầu tiên, ông chỉ bảo Đằng có thể thành
một nước tốt, chứ không bảo thành một
nước mạnh, thống nhất được Trung
Quốc. Sở dĩ ông nhận lời mời của
Văn công mà qua Đằng là để khỏi phụ lòng
ngưỡng mộ của nhà vua, chứ không mong gì Đằng
lập được nghiệp vương. Văn công còn
trẻ, ngây thơ, quá tin ở thuyết của ông, tưởng
đâu có thể theo lời dạy bảo của ông mà giữ
vững được xã tắc.
Thật
là chua chát cho Văn công : thành tâm theo đạo Nghiêu, Thuấn
mà không được; mà cũng buồn cho Mạnh tử:
ông vua một nước phú cường như Tề Tuyên
vương thì không nghe lời ông, chỉ muốn coi ông
như một vật trang sức cho triều đình; còn
người tin ông, chịu theo đạo ông, như Đằng
Văn công thì lại làm chủ một nước nhỏ
quá, lo bảo vệ giang sơn không xong. Rốt cuộc, về
chính trị ông còn thất bại hơn Khổng tử; ông
sớm biết vậy nên khoảng sáu mươi tuổi
trở về quê nhà chuyên dạy học và viết sách
như Khổng tử.
Chương 3
DẠY HỌC VÀ VIẾT SÁCH
Chắc
Mạnh tử dạy học non nửa thế kỉ từ
khi chưa đầy bốn mươi tuổi, (vì hồi
bốn mươi tuổi ông đã nổi danh và có một
đám đông môn sinh) cho tới khi chết (83 tuổi).
Trong khi hoạt động chính trị, đi đâu ông
cũng dắt theo hàng trăm đệ tử và tiếp tục
dạy họ.
Số
học trò, sử không chép là bao nhiêu, nhưng chắc đông,
trước sau ít nhất cũng trên số ngàn.
Trong
bộ Mạnh Tử, chúng
ta thấy tên của trên mười người và theo Trần
Trọng Kim trong Nho giáo quyển thượng, thì có ba
người giữ được ít nhiều truyền thống
của thầy: Nhạc Chính Khắc, Công tôn Sửu và Vạn
Chương. Trong ba người này, chỉ Nhạc Chính Khắc
được ông khen một lần là người thiện
và tín, nghĩa là người hành vi, nhân phẩm đáng yêu,
làm diều thiện theo lương tâm, không dối trá.(Tận
Tâm- hạ - bài 25)[5].
Nhưng
Nhạc Chính tử cũng bị ông mắng hai lần, một
lần vì đến nước Tề, không lại thăm
ông ngay, lo sắp đặt chỗ ở rồi mấy
ngày sau mới tới (Li lâu, thượng - bài 24); một lần
nữa không hiểu nguyên do ra sao mà ông bảo Nhạc Chính tử
lấy việc ăn uống làm trọng (Li Lâu. thượng
- bài 25).
Công
tôn Sửu, không có gì đặc biệt, cơ hồ không hiểu
chí hướng của thầy nữa, có lần hỏi thầy,
nếu được quyền cao chức trọng ở Tề
thì có phục hưng được công nghiệp của Quản
Trọng không, không biết rằng Mạnh tử chê Quản
Trọng là đê hèn (Công tôn Sửu, thượng - bài I).
Vạn
Chương chắc là người hiếu học, hay suy
nghĩ, thắc mắc về hành động của cổ
nhân, ý nghĩa trong kinh, sách, như khi hỏi thầy rằng
Tượng (em vua Thuấn) là người tàn bạo, mà sao
vua Thuấn không trị tội, còn phong đất cho nữa
(Vạn Chương, thượng - bài 3) hoặc khi hỏi
vua Nghiêu sao lại đem thiên hạ cho vua Thuấn, có ý
như trách vua Nghiêu làm một việc trái phép (Vạn
Chương, thượng-bài 5).
Ngoài
ba người đó ra, bộ Mạnh Tử còn chép thêm những
tên Công Đô tử, Từ Tịch, Bành Canh, Di Chi, Trần
Đại, Trần Trăn v.v... Trần Trăn cũng tựa
như Tử Lộ (môn đệ của Khổng tử ),
trực ngôn, thấy hành động của thầy có điều
gì khó hiểu, đáng ngờ thì hỏi liền, như trong
bài 3, chương Công Tôn Sửu, hạ, ông thắc mắc
về điểm tại sao có lần vua Tề tặng Mạnh
tử một trăm dạt vàng, Mạnh Tử không nhận;
rồi sau Mạnh tử lại nhận bảy chục dạt
vàng của vua Tống, năm chục dạt của vua Tiết,
như vậy: “Nếu ngày trước thầy chẳng nhận
vàng là phải, thì sau nhận vàng tất là không phải; hoặc
nếu sau là phải thì trước là không phải; trong hai
điều đó, thế nào thầy cũng phạm một
điều không phải” . Mạnh tử đáp :
-
Ba lần ấy thầy đều phải cả. Hồi ở
nước Tống, thầy sắp đi xa, vua Tống xin
dâng ít lễ vật để thầy lên đường,
lẽ nào thầy không nhận ? Hồi ở nước Tiết,
vì có người muốn hại thầy, vua Tiết tặng
thầy vàng trả công cho quân lính bảo vệ, hộ tống
thầy, như vậy lẽ nào thầy không nhận ? Còn hồi
ở Tề, thầy không có việc gì cần tới tiền,
vua Tề tặng thầy vàng là có ý mua chuộc dụ dỗ
thầy; người quân tử đâu lại để cho
người ta dùng tiền mà mua chuộc mình được
?
Mạnh
Tử về già chỉ tìm cái vui trong việc dạy học,
trong bài 20, chương Tận Tâm thượng, ông bảo:
-
Người quân tử có ba điều vui, mà làm bậc vua
cai trị thiên hạ không phải là một trong những
cái vui ấy.
Cha
mẹ còn mạnh khỏe, anh em chẳng hề gì, đó là
điều vui thứ nhất. Trông lên chẳng hổ với
trời, nhìn xuống chẳng thẹn với người,
đó là điều vui thứ nhì. Được bậc
anh tài trong thiên hạ mà dạy dỗ, đó là điều
vui thứ ba. (Quân tử hữu
tam lạc, nhi vương thiên hạ bất dự tồn
yên. Phụ mẫu câu tồn, huynh đệ vô cố, nhất
lạc dã. Ngưỡng bất quí ư thiên, phủ bất
tạc ư nhân, nhị lạc dã. Đắc thiên địa
anh tài nhi giáo dục chi, tam lạc dã).
君 子 石 三 樂, 而
王 天 下 不 與 存 焉. 父 母
俱 存,兄 弟 無 故, 一 樂 也. 仰 不 愧 於 天,俯
不 怍 於 人,二
樂 也. 得 天 下 英 才 而 教 育 之,三 樂
也.
Trong số cả ngàn môn sinh của ông,
thế nào chẳng có một số anh tài, nhưng đọc
bộ Mạnh Tử, ta
không thấy đoạn nào cho ta tưởng tượng
được cái vui giữa thầy trò, như khi ta đọc
Luận Ngữ. Những
trang thú nhất trong Luận Ngữ
là những chỗ chép lời thầy trò họ Khổng tâm
sự với nhau, nói đùa với nhau, những bài Khổng
tử hỏi ý chí của mỗi môn đệ, khen hoặc
chê họ, có khi mỉa mai, có khi rầy mắng họ, có
khi thương tiếc họ hơn con ruột, khiến
cho ta như trông thấy lớp học của ông, nét vui,
nét buồn của ông, mà vừa quí ông vừa cảm động[6]
.
Chúng
ta không thấy tình thân mật như cha con đó giữa thầy
trò Mạnh tử. Có lẽ vì Mạnh tử nghiêm, không khoan
hòa như Khổng tử mà hơi cách biệt với môn
sinh. Hình như ông không yêu một môn sinh nào hơn những
môn sinh khác, như Khổng tử yêu Nhan Hồi, và hình
như môn sinh của ông cũng không có người nào đặc
biệt xuất sắc về tài hoặc đức.
Vậy
thì cái vui dạy học của ông không sao so sánh được
với cái vui của Không tử. Ông không gây được
tình thắm thiết trong lòng môn đệ, môn đệ ông
không ai ngưỡng mộ ông như Nhan Hồi, Tử Cống...
ngưỡng mộ Khổng tử; sử sách cũng không
chép khi ông mất, lòng môn sinh thương tiếc ông ra sao.
Có
thể như vậy, mà cũng có thể rằng bộ Mạnh Tử do chính ông và môn
sinh ông viết, nên những chuyện tâm tình giữa thầy
trò không tiện chép ra chăng ? Những lời thầy khen
trò, trò ngưỡng mộ thầy cũng không tiện ghi lại
chăng ? Bộ Luận Ngữ
trái lại, do môn sinh hoặc môn sinh của môn sinh viết
sau khi Khổng tử mất đã lâu, mà lúc đó, lòng kính mộ,
nhớ tiếc thầy mới thực dào dạt, tự
nhiên, cho nên cả những chi tiết vụn vặt
cũng ghi hết, mà chính những chi tiết này mới làm
cho lời văn linh động và cảm động.
*
* *
Cách
Mạnh tử dạy học cũng không có gì đặc biệt,
hoặc không được chép kỹ lưỡng. Cả
bộ chỉ có chương Tận Tâm thượng là
lưu lại được dăm ba bài về những lời
chỉ dẫn môn sinh trong việc học.
Như
bài 5 khuyên phải tìm hiểu và quan sát: “Làm việc mà không hiểu
rõ tại sao mình làm như vậy, cứ theo thói quen mà không
chịu quan sát, trọn đời theo đó mãi mà chẳng
biết phải trái thế nào, hạng người như
vậy rất nhiều”. (Hành chi
nhi bất trứ yên, tập hĩ nhi bất sát yên, chung
thân do chi nhi bất tri kì đạo giả, chúng dã ).
行
之 而 不 蓍 焉 , 習 矣 而 不
察 焉, 終 身 由
之
而 不 知 其 道 者, 眾 也.
Tinh thần trong câu đó và câu“Tận
tín thư tắc bất như vô thư”
盡 信
書 則
不 如 無
書.
(bài 3, chương Tận tâm,
hạ)
chính là tinh thần của Descartes ở
Pháp, thế kỉ XVII : bất kì một tin tưởng gì,
một hành động gì cũng phải dùng h trí để
xét xem tại sao lại như vậy, làm như vậy có hợp
lí không, chứ không lấy lẽ rằng cổ nhân đã
nói vậy thì tất đúng, mọi người từ
xưa tới nay đều làm như vậy, mình đã quen
làm như vậy thì không nên sửa đổi cách làm nữa. Bài 24 cũng chương đó
khuyên học thì phải lập chí ở đạo,
nhưng phải kiên nhẫn cho tới khi tâm hồn thấm
nhuần đạo rồi tự nhiên biểu lộ ra
ngoài (hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ) thì mới gọi là
thành công. (Quân tử chi chí ư
đạo dã, bất thành chương, bất đạt
).
君子之志於道也不成章不達
Bài
40 cùng chương, chỉ cách dạy đạo tùy hạng
người :
-
Hạng người nghe được đạo lí thì hiểu
liền, sửa mình ngay, như cây cỏ gặp mưa phải
thời.
-
Hạng người vốn có đức rồi, nay phát huy
thêm.
-
Hạng người vốn có tài năng, nay bồi dưỡng
thêm.
-
Hạng người nhờ vấn đáp mà hiểu
được đạo lí.
-
Hạng người nhờ tự học (không trực tiếp
học một thầy nào, chỉ gián tiếp nghe lời giảng
truyền, hoặc đọc sách cổ nhân) mà đạt
đạo.
Bài
16, chương Cáo Tử hạ, còn chỉ một cách dạy
nữa. Ông bảo khi ông cự tuyệt không dạy một
người nào thì đó cũng là một cách dạy. (Dư bất tiết chi, giáo hối
dã giả, thị diệc giáo hối chi nhi dĩ hĩ).
予 不 屑 之, 教 誨
也 者, 是 亦 教 誨
之而 巳 矣
*
* *
Trở
lên trên là sự nghiệp dạy học của Mạnh tử,
về sự nghiệp trứ thư, Sử kí của Tư Mã Thiên bảo về già ông
trở về quê, cùng môn sinh là bọn Vạn Chương
viết bộ Mạnh Tử.
Thuyết
ấy, người đời sau bàn tán rất nhiều.
Đại khái có ba chủ trương :
-
Hàn Dũ đời Đường bác bỏ, bảo Mạnh
tử không viết mà chỉ có Vạn Chương và Công
Tôn Sửu là cùng nhau viết.
-
Tô Triệt đời Tống bênh vực thuyết của
Tư Mã Thiên: Mạnh tử có viết.
-
Chu Hi cũng đời Tống, lưng chừng, ngờ rằng
do Mạnh tử viết nhưng không chắc, vì từ
đầu tới cuối bộ, cùng một “thể”, tức
như chúng ta nói cùng một bút pháp.
Thôi
Thuật dời Thanh đưa ra ba lí do để bênh vực
chủ trương của Hàn Dũ:
1-
Trong sách có những chỗ chép sai, chẳng hạn như chỗ
bảo Y Doãn năm lần lại vua Thang, năm lần lại
vua Kiệt (Y Doãn ngũ tựu Thang, ngũ tựu Kiệt)[7],
nếu là Mạnh tử viết thì không thể sai như vậy
được.
2-
Theo tục, chỉ khi chết rồi, người ta mới
gọi tên thụy, mà trong Mạnh
Tử, các vua như Lương Huệ vương, Tề
Tuyên vương, Lỗ Bình Công, Đằng Văn công...
đều gọi theo tên thụy; không có lẽ khi Mạnh
tử chép truyện các vua đó, họ đều đã chết
cả.
3-
Nếu Mạnh tử viết thì không có lẽ ông lại gọi
các môn đệ của ông là “tử” (một tiếng tôn
xưng), như : Nhạc Chính tử, Công Đô tử v.v...
Sau
cùng Lương Khải Siêu trong cuốn Cổ thư chân ngụy cập kì niên đại
bác các lí lẽ của Thôi Thuật, bảo :
1
- Mạnh Tử cũng có thể lầm lẫn được,
mà bảo Y Doãn năm lần lại vua Thang, năm lần
lại vua Kiệt. Chính các nhà chuyên nghiên cứu về sử
còn lầm tay, huống hồ là Mạnh tử.
2.-
Khảo sát kĩ lưỡng rồi thì những ông vua nào
trong bộ Mạnh Tử gọi bằng tên thụy, quả
thực đã chết trước Mạnh tử.
Rốt
cuộc ông dung hòa các thuyết, kết luận rằng trong
sách, Vạn Chương, Công Tôn Sửu, không gọi tên tự,
còn các môn sinh khác đều gọi tên tự, vậy là do
hai người đó viết; nhưng chắc Mạnh Tử
đã duyệt lại. (Chư Tử khảo
sách – La Căn Trạch).
Chúng tôi đoán rằng một phần
nhỏ bộ Mạnh Tử
do Vạn Chương, Công Tôn Sửu viết theo kí ức;
một phần lớn hơn do Mạnh Tử kể cho họ
chép lại (như các cuộc đàm thoại với
Lương Huệ vương, Tề Tuyên vương,
Đằng Văn công...), sau cùng ông duyệt lại.
Ông
nhớ tới đâu, kể tới đó, chép xong rồi mới
sắp đặt lại qua loa, chứ không chú ý trình bày học
thuyết của mình một cách có hệ thống, cho nên nội
dung hơi lộn xộn.
Bộ Mạnh Tử dày gấp
rưỡi bộ Luận Ngữ,
gồm 14 chương :
I
Lương Huệ
vương, thượng.
II
Lương Huệ
vương, hạ.
III
Công Tôn Sửu, thượng.
IV
Công Tôn Sửu, hạ.
V
Đằng Văn công,
thượng.
VI
Đằng Văn công, hạ.
VII
Li Lâu, thượng.
VIII
Li Lâu, hạ.
IX
Vạn Chương, thượng.
X
Vạn Chương, hạ.
XI Cáo tử, thượng.
XII
Cáo tử, hạ.
XIII
Tận Tâm, thượng.
XIV
Tận Tâm, hạ.
Nhan
đề không luôn luôn hợp với nội dung :
Chương
I gồm 7 bài thì 6 bài nói về Lương Huệ
vương và con là Lương Tương vương ; bài
cuối, bài thứ 7, nói về Tề Tuyên vương.
Chương
II gồm 16 bài, nhan đề là Lương Huệ
vương, hạ, nhưng lại không nói gì tới
Lương Huệ vương, mà nói về Tề Tuyên
vương (nhiều nhất, 11 bài), Đằng Văn công
(3 bài), Lỗ Mục công (1 bài) và Lỗ Bình công (1 bài). Mười
lăm bài trên xét về cách trị dân, về nhân chính, bài cuối
nói về việc chôn cất cha mẹ và mạng trời. Không
hiểu tại sao ba bài về Đằng Văn công, không đưa
xuống chương V ; mà chương VI, nhan đề là
Đằng Văn công, hạ, lại không có một lời
về Đằng Văn công.
Nhan
đề chương III, chỉ do bài thứ nhất bắt
đầu bằng câu : Công tôn Sửu vấn viết...
Xét
chung thì chương I, II và chương XI (bàn về tính thiện)
tương đối nhất trí (nghĩa là có một vài
điểm chính trong nội dung) ; còn những chương
khác thì tạp và lộn xộn. Hai chương cuối
XIII, XIV cơ hồ gom những tư tưởng, lời
khuyên vụn, không biết đặt vào đâu.
Vì
những lẽ đó, chúng tôi nghĩ rằng Mạnh tử
không có ý trứ thư, nghĩa là trình bày học thuyết một
cách có hệ thống ít nhiều, như Lão tử trước
ông, hoặc như Trang tử, đồng thời với
ông, như Tuân tử sinh sau ông khoảng bốn chục
năm.
Ông
là một triết gia rất có nhiệt huyết, ham cứu
đời, tuy suy tư nhiều, có những tư tưởng
mới mẻ, sâu sắc (coi các chương sau), nhưng bản
tính vẫn là người hoạt động, thích chiến
đấu, thích tranh biện.
Chương 4
MUỐN THÀNH MỘT Á THÁNH
NỐI NGHIỆP KHỔNG TỬ
Hồi
Khổng tử bị người đất Khuông, một
ấp trong nước Vệ, thấy dung mạo ông, tưởng
lầm là Dương Hổ - một gia thần họ Quí,
tàn bạo, bị dân oán ghét - túa ra vây ông và toan hãm hại
ông, ông nói với môn sinh :
-
Vua Văn vương đã mất, lễ nhạc, chế
độ của ngài chẳng truyền lại cho thầy
đây ư ? Nếu Trời muốn để mất lễ
nhạc, chế độ ấy thì sao lại giao phó cho thầy
? Đã giao phó cho thầy thì người đất Khuông
làm gì được thầy ? (Luận-ngữ - Tử hãn,
bài 5).
Sau
người đất Khuông thấy mình lầm, xin lỗi
ông và thả ông ra.
Lần
khác, Khổng Tử than thở với đệ tử :
-
Thầy đã suy lắm rồi ! Đã lâu, thầy không mộng
thấy ông Chu công. (Luận-ngữ - Thuật nhi, bài 5).
Văn
vương tức là Tây Bá, diệt vua Trụ, dùng Lữ Vọng
mà dựng nên nhà Chu, truyền ngôi lại cho con là Võ
vương (1134 - 1115). Chu công là em Võ vương, giúp anh
trong việc trị dân, định chế độ lễ
nhạc và đặt ra nghi thức các việc quan, hôn, tang,
tế.
Hai bài trên cho ta thấy Khổng tử
có chí kế nghiệp Văn vương và Chu công, mà không
dược.
Nay
Mạnh tử lại có chí kế nghiệp Khổng tử.
Bài
9, chương Đằng Văn công, hạ, ông bảo :
-
Xưa ông Vũ (hiền thần của vua Nghiêu và vua Thuấn)
trị nước lụt mà thiên hạ được thái
bình, ông Chu công thu phục các rợ Di, Địch, đuổi
các loài mãnh thú mà trăm họ được an ninh. Ông Khổng
tử soạn xong bộ Xuân - Thu mà bọn loạn thần,
tặc tử sợ sệt . Ta cũng muốn chính nhân tâm,
chặn tà thuyết, đánh đổ những tật xấu,
trừ tuyệt những lời bậy bạ, để
tiếp tục công nghiệp của ba vị thánh ấy.
Rồi
ở cuối bộ, tức bài 38, chương Tận Tâm,
hạ, ông còn nói rõ hơn nữa :
-
Từ vua Nghiêu, vua Thuấn tới vua Thang là tên năm
trăm năm (-2357 – 1783 = 574 năm)
, ông Vũ, ông Cao Dao (hiền thần của Nghiêu, Thuấn)
được thấy tận mất vua Nghiêu, vua Thuấn
và biết đạo lí hai ngài. Đến vua Thang thì nghe
truyền tụng mà biết.
Từ
vua Thang đến vua Văn vương là trên năm
trăm năm , (-1783
– 1185 = 598 năm) ông Y Doãn, ông Lai Châu (hiền
thần vua Thang) được thấy tận mắt vua
Thang mà biết đạo lí của ngài. Đến vua
Văn vương thì được nghe truyền tụng
mà biết.
Từ
vua Văn vương đến Khổng tử, là trên
năm trăm năm, (-1185
– 551 năm) Thái công Vọng (tức Lữ
Vọng) và ông Tản Nghi Sanh (đều là hiền thần
vua Văn vương) được thấy tận mắt
vua Văn vương và biết đạo lí của ngài. Đến
Khổng tử thì được nghe truyền tụng mà
biết.
Từ
Khổng tử tới nay là trên một trăm năm,
như vậy là cách đời thánh nhân chưa xa gì, mà chỗ
ở của ngài (tức nước Lỗ) lại rất
gần , mà đã không còn ai thấy tận mắt ngài mà biết
đạo lí của ngài thì (năm trăm năm về sau)
cũng không có ai được nghe truyền tụng mà biết
đạo của ngài nữa.
(Do Nghiêu, Thuấn chí ư
Thang, ngũ bách hữu dư tuế, nhược Vũ, Cao
Dao tắc kiến nhi tri chi, nhược Thang tắc văn
nhi tri chi.
Do Thang chí ư Văn
vương, ngũ bách hữu dư tuế, nhược Y
Doãn, Lai Châu tắc kiến nhi tri chi, nhược Văn
vương tắc văn nhi tri chi.
Do Văn vương chí
ư Khổng Tử, ngũ bách hữu dư tuế,
nhược Thái công Vọng, Tản Nghi Sanh tắc kiến
nhi tri chi, nhược Khổng Tử tắc văn nhi tri
chi.
Do Khổng Tử nhi lai chí
ư kim, bách hữu dư tuế. Khứ thánh nhân chi thế,
nhược thử kì vị viễn dã, cận thánh nhân chi
cư, nhược thử kì thậm dã, nhiên nhi vô hữu hồ
nhĩ, tắc diệt vô hữu hồ nhĩ ).
Giọng
thật buồn man mác ! Đặt bài đó ở cuối bộ
như một lời than thở, kêu gọi để kết
thúc, quả là có ý nghĩa và khéo ?
Mạnh
tử thấy đương thời không có ai nối chí
Khổng tử, lo rằng sau này mỗi ngày một xa thì
đạo đó sẽ thất truyền mất, nên tự
cho mình trách nhiệm kế nghiệp Khổng tử; cho nên
bao sở nguyện của mình là theo đòi Không Tử ( nãi sở nguyện tắc học
Khổng tử dã - Công tôn Sửu: chương - bài 2), lại
bảo: như có ông vua nào muốn bình trị thiên hạ, thời
này đây, không dùng ta thì dùng ai ? (như
dục bình trị thiên hạ, đương kim chi thế,
xả ngã kì thùy dã ? - Công Tôn Sửu hạ - bài 13). Vì vậy
mà ông bôn ba các nước chư hầu hai chục năm,
đả đảo các “tà thuyết” nghĩa là những học
thuyết trái với đạo Khổng, rồi hồi sáu
mươi tuổi thấy các vua chúa không ai biết dùng
mình, ông về quê, dạy học, viết sách để truyền
lại hậu thế học thuyết Khổng tử.
Cũng
như Tăng tử, Tử Tư (và tất cả các Nho
gia sau này), ông chỉ lãnh hội được một phần
cái đạo rộng lớn của Khổng tử,
nhưng phần đó ông đã phát huy được
hơn hết thảy các nhà khác, đặc biệt là về
mấy điểm sau đây :
1
- Khổng tử khuyên ta phải luyện đủ cả
các đức : nhân (thuộc về tình cảm), trí (về
trí tuệ) và dũng (về ý chí) ; lại nhấn mạnh
vào lễ, nhạc, mà không nói tới nghĩa. Ông dùng nhân
để tu dưỡng cá nhân thôi. Mạnh tử cho nhân một
công dụng rộng hơn, đưa nó vào việc trị
nước và chính sách xã hội, có thể nói ông là người
đầu tiên giảng kỹ lưỡng về chế
độ nhân chính (trị dân bằng đức nhân); ông
đề cao “nghĩa”, cho nó luôn luôn đi kèm với “nhân”.
Ngay
đầu bộ Mạnh Tử,
ông đã bảo Lương Huệ vương đừng
nên nói tới lợi, chỉ nên nói việc nhân nghĩa thôi.
(Diệc hữu nhân nghĩa nhi
dĩ hĩ). Bốn bài sau, bài 5 - Lương Huệ
vương, thượng, ông nhắc lại: “Ông vua nhân
đức thì vô địch, xin nhà vua (Huệ vương) đừng
nghi ngờ điều dấy (Nhân
giả vô địch, vương thỉnh vật nghi ).
Bài
4, chương Tận tâm, hạ, ông lại nói: "Một
ông vua mà thích làm điều nhân thì không ai địch nổi"
(Quốc quân hiếu nhân, thiên hạ
vô địch yên.)
Trong
chương sau, chúng tôi sẽ trở lại chính sách nhân trị
của ông.
2.-
Khổng tử chỉ bảo "quân quân, thần thần":
vua giữ đạo vua thì bề tôi mới giữ đạo
bề tôi mà nước mới trị. Ông ôn nhu; Mạnh tử
gay gắt hơn, bảo thẳng vào mặt Tề Tuyên
vương:
-
Vua coi bề tôi như tay chân thì bề tôi sẽ coi vua
như bụng dạ; vua coi bề tôi như chó ngựa thì
bề tôi sẽ coi vua như kẻ qua đường; vua
coi bề tôi như đất cỏ, thì bề tôi sẽ
coi vua như kẻ thù, quân giặc.
(Quân chi thị thần
như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc tâm;
quân chi thị thần như khuyển mã, tắc thần thị
quân như quốc nhân; quân chi thị thần như thổ
giới, tắc thần thị quân như khấu thù -
Li Lâu, hạ - bài 3).
君 之 視
臣 如 手 足, 則 臣
視 君 如 腹 心
君 之 視
臣 如 犬 馬,
則 臣
視 君 如
國 人
君 之 視
臣 如 土
芥, 則
臣
視 君
如 寇 讎
Nghĩa
là bề tôi bị vua làm nhục thì có thể giết vua, mà
giết một kẻ tàn bạo như vua Trụ thì không
mang cái tội giết vua, không phải là giết vua, chỉ
là giết một tên thất phu, một tội nhân thôi. Cho
nên khi Tề Tuyên vương hỏi :
-
Vua Thành Thang đuổi vua Kiệt, vua Võ vương
đánh vua Trụ, có thật như vậy không ?
Mạnh
tử đáp :
-
Trong sử sách có chép vậy.
Tuyên
vương hỏi thêm :
-
Bề tôi mà giết vua, có nên không ?
Mạnh
tử đáp :
-
Kẻ làm hại đức nhân thì gọi là “tặc"
(giặc), kẻ làm hại đức nghĩa thì gọi là
"tàn" (tàn bạo). Kẻ tàn, kẻ tặc chỉ là
một người thường thôi (không đáng gọi là
vua). Tôi nghe nói vua Võ vương chỉ giết một
người thường tên là Trụ chứ chưa nghe
nói giết vua.
(Tặc nhân giả vị
chi tặc, tặc nghĩa giả vị chi tàn ; tàn tặc
chi nhân, vị chi nhất phu. Văn tru nhất phu Trụ
hĩ, vị văn thí quân dã) - Lương Huệ
vương, hạ.
賊 仁 者 謂 之 賊,
賊 義 者 謂 之 殘, 殘 賊 之
人 謂之一夫. 聞 誅 一 夫 紂
矣, 未 聞 弑 君 也.
Vậy
dân có thể giết vua, làm cách mạng. Về điểm
đó Mạnh tử cũng tiến xa hơn Khổng tử.
Không
tử chỉ đưa ra thuyết chính danh (vua mà không ra
vua, tàn bạo với dân thì không đáng gọi là vua), chứ
không hề nói đến việc có thể giết vua; ông
viết bộ Xuân-thu cũng là để làm rõ cái nghĩa
chính danh. Tư tưởng cách mạng của ông mới tiềm
tàng, tới Mạnh tử mới phát ra mạnh mẽ, một
phần cũng vì thời đã đổi, từ Khổng
tử tới Mạnh tử trên trăm rưởi năm,
hạng vua không ra vua nhiều quá mà việc thí quân cũng
đã quá thường.
3.-
Cũng do hoàn cảnh xã hội, thời Chiến Quốc
dân chúng bị nhiều nỗi điêu đứng hơn thời
Xuân- Thu nên Mạnh tử phẫn uất, bênh vực dân
hơn Khổng tử. Khổng tử tuy khuyên vua yêu dân, làm
lợi cho dân thì tự nhiên dân phục; nhưng ông vẫn
cho vua là chủ động, dân chỉ là bị động.
Mạnh
tử tiến một bậc, bảo quí trọng nhất
là dân, rồi tới xã tắc (đất đai), còn vua là
khinh, cho nên có được lòng dân rồi mới làm thiên tử.
(Dân vi quí xã tắc thứ chi,
quân vi khinh ; thị cố đắc hồ kì dân nhi vi thiên
tử). -Tận tâm, hạ - bài 14. Vì trời muốn trao
quyền cho ai là tùy theo ý dân (coi thêm chương sau). Điểm
đó, Khổng tử cũng chưa hề nói.
4.-
Từ Không Tử trở về trước, hai chữ
vương, bá chỉ có nghĩa quyền hành, không có
nghĩa đạo đức, như vua nhà Chu gọi là
vương, Tề Hoàn công gọi là bá, vua các nước nhỏ
hơn nữa gọi là hầu, như Lỗ hầu. Mạnh
tử có lẽ là người đầu tiên phân biệt
vương và bá về phương diện đạo
đức, chứ không xét về phương diện thế
lực : đất rộng, dân nhiều, binh mạnh mà
không theo nhân trị, ông cũng chỉ gọi là bá thôi; đất
hẹp, dân ít, binh yếu mà theo nhân trị, ông cũng gọi
là vương.
Chương
Công Tôn Sửu, thượng - bài 3, ông viết:
"Người
dùng sức mạnh mà mượn tiếng làm điều
nhân là bá; người làm bá tất phải có nước lớn.
Người lấy đức làm điều nhân là
vương: người làm vương không đợi có
nước lớn" (Dĩ
lực giả nhân giả, bá, bá tất hữu đại
quốc; dĩ đức hành nhân giả, vương,
vương bất đãi đại ).
以
力 叚 仁 者, 霸, 霸 必 有 大
國.
以
德 行 仁 者, 王,
王 不 符 大
Ông nói tiếp : "Dùng sức mạnh
mà thu phục người thì người ta (phải theo
mình nhưng) không tâm phục mình, sức mạnh không đủ
(để cho người ta tâm phục)[8]
. Lấy đức thu phục người thì người
ta vui lòng mà thành thực phục mình, như bảy
mươi đệ tử phục Khổng tử ".
Do đó ông chê Tề Hoàn công, Tấn
Văn công, Án tử và Quản Trọng. Khi Công tôn Sửu hỏi
ông nếu được cầm quyền ở Tề thì
có thể phục hưng được công nghiệp của
Án tử và Quản Trọng không (Quản trọng là một
chính trị gia đại tài, giúp Tề Hoàn công dựng nên
nghiệp bá; Án tử cũng giúp Tề Cảnh công khiến
Tề nổi danh là thịnh trị), ông mắng ngay :
-
Anh quả là người nước Tề, chỉ biết
Quản Trọng và Án tử mà thôi (...) Khi có người hỏi
Tăng Tây (cháu nội của Tăng tử): “Thầy với
Quản Trọng ai hơn ?" Tăng Tây bất bình,
đáp : “Sao lại ví tôi với Quản Trọng ? Quản
Trọng được Tề Hoàn công tín cẩn chuyên dùng,
cho cầm quyền lâu như vậy, mà sự nghiệp thấp
kém như vậy. Sao lại ví tôi với ông ấy ? ( . . . )
Làm cho nước Tề hưng vượng (như hai ông ấy)
là việc dễ như trở bàn tay mà !)” (Công Tôn Sửu,
thượng - bài l).
Trong
bài 7, Lương Huệ vương, thượng, khi Tề
Tuyên vương xin ông kể cho nghe sự nghiệp của
Tề Hoàn công, Tấn Văn công (cũng là một vị
bá), ông đáp :
-
Đệ tử của Trọng Ni (Khổng tử) không giảng
về sự nghiệp của Tề Hoàn công và Tấn
Văn công. Vì vậy truyện của hai ông ấy không
được truyền lại, mà tôi không được
nghe. Thôi thì để tôi nói về việc dựng nghiệp
vương, được không ? (Trọng Ni chi đồ vô đạo Hoàn, Văn chi
sự giá, thị dĩ hậu thế vô truyền yên, thần
vị chi văn dã. Vô dĩ tắc vương hồ?) Mạnh
tử đã nghiêm khắc hơn Khổng tử, ông không
thèm nói đến truyện Tề Hoàn công và Quản Trọng,
nhưng chính Khổng tử đã phục Hoàn công, khen Quản
Trọng : "Hoàn công kết hợp chư hầu, không
dùng tới binh xa (tức uy lực), đó là nhờ công của
Quản Trọng, ai có được đức nhân của
ông ấy (Quản Trọng), ai có được đức
nhân của ông ấy ?" (Luận-ngữ - Hiến vấn
- bài 17). Bài sau, 18, Khổng tử lại khen nữa :
"Quản Trọng làm tướng quốc cho Hoàn công,
giúp Hoàn công làm bá chư hầu, thiên hạ đương
loạn hóa trị, đến nay dân chúng còn được
hưởng ân đức của ông. Không có Quản Trọng
thì chúng ta đã phải gióc tóc, cài áo qua bên trái như người
man di rồi !".
5.-
Thời Chiến Quốc có một điểm tiến bộ
hơn thời Xuân-thu: vì tranh đấu để tồn tại,
các vua chư hầu phải dùng những người tài giỏi
về chính trị, ngoại giao, kinh tế, võ bị... bất
kì trong giai cấp nào, nên địa vị của kẻ
sĩ được thăng tiến, địa vị của
hạng thế tộc giảm lần, các giai cấp
được tương đối bình đẳng về
pháp luật. Vệ Ưởng, đồng thời với
Mạnh tử, khi cầm quyền nước Tần, sửa
đổi pháp luật, bắt từ trên xuống dưới
ai cũng phải theo. Lần đó thái tử phạm pháp,
Vệ Ưởng bảo : nhân dân bình đẳng về
pháp luật. Trong nước không nên có giai cấp khác nhau.
Nhưng thái tử là người sau này sẽ nối ngôi
vua, (tức Huệ Văn vương) không nên đem ra trị
tội, mà sư phó lãnh trách nhiệm dạy thái tử phải
chịu tội thay".
Do
không khí đó của thời đại, Mạnh tử
cũng trọng phép công hơn Không tử. Luận-ngữ,
chương Tử Lộ, bài 18 chép: "Diệp công có lần
nói với Không tử:
-
Ở xóm tôi, có người ngay thẳng rất mực :
như cha ăn trộm dê thì con đứng ra làm chứng,
khai thật.
Khổng
tử đáp :
-
Ở xóm tôi, người ngay thẳng cư xử có khác : cha
che lỗi cho con, con che lỗi cho cha, như vậy vẫn
là ngay thẳng".
Cha
con không nên tố cáo lẫn nhau, nhưng như vậy vẫn
là tình riêng nặng hơn phép công, hợp tình chứ không hợp
pháp. Cách xử sự của Mạnh tử hơi khác, trọng
pháp công hơn, không bênh vực cha khi cha có lỗi.
Đào
ứng hỏi ông :
-
Ông Thuấn làm thiên tử, ông Cao Dao coi bộ hình. Nếu
cha ông Thuấn là Cổ Tẩu phạm tội giết
người thì ông Cao Dao xử trí ra sao ?
Mạnh
tử đáp :
-
Cứ theo pháp luật mà thi hành (nghĩa là phải xử tử).
-
Vậy vua Thuấn không ngăn cản được sao ?
-
Kìa, vua Thuấn làm sao ngăn cản được ? Pháp luật
đã truyền lại thì phải thi hành chứ.
Đào
ứng lại hỏi nữa :
-
Như thế thì vua Thuấn nên làm ra sao ?
-
Vua Thuấn sẽ coi thiên hạ như đôi dép rách (
nghĩa là chằng màng ngôi thiên tử), lén cõng cha mà chạy,
ra bờ biển mà ở, trọn đời vui vẻ mà
quên thiên hạ (ngôi báu) đó. Giải quyết sự mâu thuẫn
giữa tình riêng và phép công theo cách đó, tuy tiến bộ
hơn Khổng tử, mặc dù ngày nay chúng ta vẫn
chưa cho là ổn thỏa, nhưng chúng ta nên nhớ rằng
đạo Khổng rất trọng chữ hiếu. Tằng
tử còn coi nó là cội rễ của các đức khác nữa.
6.-
Sau cùng Khổng tử rất ít nói đến tính, không giảng
cho môn đệ về tính và tâm. (Lời Tử Cống: Phụ tử chi ngôn tính (...) bất
khả đắc nhi văn dã - Luận-Ngữ - Công Dã
Tràng - bài 12). Mạnh tử trái lại, bàn rất nhiều
về tâm và tính khí, mở đường cho các nhà nho đời
Tống sau này. Có lẽ ông cũng chịu ảnh hưởng
của Tử Tư, hơi quan tâm tới phần siêu hình học.
Điểm đó là một phát huy lớn của Mạnh tử,
chúng tôi sẽ xét riêng trong một chương sau.
*
* *
Mạnh
tử còn có công đả đảo các đạo khác mà
ông gọi là tà thuyết, để bảo vệ đạo
Khổng.
Như
trên chúng tôi đã nói, thời Mạnh tử là thời “Bách
hoa tề khai”, cả chục học thuyết phát ra như
nấm gặp mưa cả trăm nhà đi thuyết phục
các vua chư hầu theo chính sách của mình, mà chính sách của
họ thường trái ngược nhau, khiến cho từ
vua chúa tới dân chúng đều hoang mang. Vì vậy Mạnh
tử tự cho có bổn phận bảo vệ đạo
Khổng.
Trong
bài 9, chương Đằng Văn công, hạ, một môn
đệ là Công Du tử hỏi Mạnh tử :
-
Người ngoài ai cũng bảo rằng thầy ưa biện
luận. Con xin hỏi thầy tại sao vậy ?
Ông
đáp :
-
Thầy đâu có ưa biện luận. Chẳng qua là bất
đắc dĩ đấy thôi (...). Thầy muốn sửa
lại lòng người cho ngay, chặn tà thuyết, đánh
đổ những nết bất chính, trừ tuyệt những
lời bậy bạ, để tiếp tục công nghiệp
của ba vị thánh (thời xưa : vua Vũ, ông Chu Công và
Khổng tử). Thầy đâu có ưa biện luận. Chẳng
qua là bất đắc dĩ đấy thôi. (Ngã (...) dục chính nhân tâm, tức
tà thuyết, cự bí hạnh, phóng dâm từ, dĩ thừa
tam thánh giả, khởi hiếu biện tai?Dư bất
đắc dĩ dã).
Ông
ghét nhất là học thuyết của Dương Chu và Mặc
Địch, bảo ai mà đánh đổ được học
thuyết của hai nhà đó thì đáng là môn đồ của
thánh nhân (Khổng tử) :
“Dương
tử giữ chủ nghĩa vị ngã, dù nhổ một
chiếc lông trên mình mà làm lợi cho thiên hạ thì cũng
không chịu. Mặc tử chủ
trương thuyết kiêm ái, dù mòn nấm thân từ đầu
tới gót chân mà có lợi cho thiên hạ thì cũng làm.”
Như
vậy đều là cực đoan, chấp nhất, không
chấp trung, quyền biến. Sự chấp nhất
đáng ghét vì hại cho đạo, được một
bề thì hỏng cả trăm bề. (Sở ố chấp nhất giả, vị kì tặc
đạo dã, cử nhất nhi phế bách dã - Tận
tâm, thượng - bài 26).
Bài
9, Đằng Văn công, hạ, giọng ông còn gay gắt
hơn : "Ngày nay bậc thánh vương không ra đời,
các vua chư hầu thì luông tuồng, mà hạng xử
sĩ (kẻ sĩ không ra làm quan) thì bàn ngang luận càn. Học
thuyết của Dương Chu và Mặc Địch lan
tràn thiên hạ, khi bàn bạc người nào không theo
Dương thì theo Mặc. Họ Dương vị ngã,
như vậy là không có vua, họ Mặc kiêm ái, như vậy
là không có cha. Không vua, không cha, tức là cầm thú”. (Thánh nhân bất tác, chư hầu
phóng tứ, xử sĩ hoành nghị. Dương Chu, Mặc
Địch chi ngôn doanh thiên hạ, thiên hạ chi ngôn bất
qui Dương tắc qui Mặc. Dương thị vị
ngã, thị vô quân dã, Mặc thị kiêm ái, thị vô phụ
dã. Vô phụ vô quân, thị cầm thú dã ).
聖
人 不 作, 諸 候 恣, 處 士 横
議, 楊 朱, 墨 翟 之 言 盈 天 下, 天下之言不 歸 楊 則 歸 墨. 楊 氏 爲 我,是 無 君 也, 墨 氏 兼
愛,是 無 父 也.無 父 無 君, 是 禽
獸 也.
Có
lẽ Mạnh tử khinh môn đồ của Dương
và Mặc, nên không tiếp xúc với họ. Một người
theo đạo Mặc là Di Chi, muốn được yết
kiến ông, ông từ chối. Chỉ dùng một môn sinh là Từ
Tịch, làm trung gian để nhắn Di Chi và Di Chi nhắn
lại ông thôi. Ông chê thuyết kiêm ái của đạo Mặc
coi người thân và người dưng cũng như
nhau, hỏi Di Chi có thể coi con của anh mình cũng thân
như con hàng xóm không ?
Trời
sinh ra con người chỉ có một gốc (tức cha mẹ,
dòng họ), mà Di Chi thì dường như có hai gốc (vì
thương cha mẹ cũng như người dưng). Lầm
lẫn ở chỗ đó. Và Di Chi bị ông thuyết phục,
nhận rằng ông đã khai thông cho mình.
Di
Chi có lẽ vào hạng tầm thường, không phải là
đối thủ của ông, cuộc “tranh luận cách bức”
ấy không gây cho ta chút hứng thú nào cả.
Mạnh
tử cũng cay độc mạt sát bọn ẩn sĩ,
sống khổ hạnh, môn đồ của Lão,Trang. Như
trong bài 10.
Đằng
Văn công, hạ, có người khen Trần Trọng tử
là kẻ sĩ có đức liêm, ông bảo :
Trọng
tử là dòng thế gia ở nước Tề. Anh ruột
là Đái, cai trị đất Cáp, hưởng lộc một
vạn chung thóc. Trọng tử chê lộc của anh là của
bất nghĩa, không chịu ăn, chê dinh thất của
anh là của bất nghĩa, không chịu ở, cho nên lánh
anh, rời mẹ, ra ở đất Ô-Lăng (mà sống
khổ hạnh). Nhưng rồi một ngày nọ, Trọng
tử về nhà anh, thấy một con ngỗng của ai biếu
anh, bực mình về tiếng kêu "quạc quạc"
của nó. Ít bữa sau, bà mẹ mổ thịt con ngỗng
(không cho Trọng tử hay), dọn cho Trọng tử
ăn. Đúng lúc đó, người anh từ ngoài đi
vào, bảo: "Em ăn thịt con vật kêu quạc quạc
đó". Trọng tử vội chạy ra ngoài mửa ra
hết.
Để
kết luận, Mạnh tử mỉa : "Như Trọng
tử, thức ăn của mẹ cho thì chẳng ăn, nhưng
của vợ mua thì ăn. Dinh thất của anh thì không ở,
nhưng nhà cửa ở Ô Lăng thì ở (...) Muốn giữ
cho trọn tiết tháo thanh liêm thì Trọng tử phải
làm con giun ở dưới đất (trên ăn đất
khô, dưới uống nước suối vàng) mới
được. Vậy ông chê bọn môn đồ Lão, Trang ở
ẩn, muốn được tiếng là liêm khiết mà
cư xử không hợp nghĩa.
Mạnh
tử còn đả thuyết của Hứa Hành, một triết
gia tự xưng là theo thuyết Thần Nông, chủ
trương mọi người từ vua tới dân đều
phải trồng lúa lấy mà ăn, dệt vải lấy
mà mặc, điểm này chúng tôi sẽ dành riêng để
xét trong chương sau.
Mặc
dầu có rất nhiều nhiệt huyết, lại có tài
ăn nói, lúc thì hùng hồn, lúc thì mỉa mai. Mạnh tử
vẫn thất bại trong việc đả đảo
các "tà thuyết ". Lẽ ấy dễ hiểu. Ở
một thời loạn mà ngôn luận được hoàn
toàn tự do, có cả chục học thuyết khác nhau, có
khi trái ngược nhau thì một học thuyết trung dung,
trọng nhân nghĩa như đạo Khổng không thể
nào được các vị vua chúa áp dụng, và dân chúng theo
đông. Lời của Mạnh tử: "thời nay, học
thuyết của Dương Chu và Mặc Địch lan
tràn thiên hạ" rất có thể đúng sự thực,
chứ không phải là lời nói quá. Cho tới hết thời
Chiến Quốc, đạo Khổng không được
hoan nghênh gì hơn các đạo khác, và phải đợi
đến đời Hàn Vũ Đế (khoảng 150
năm sau khi Mạnh tử chết), nhờ thích hợp với
một chế độ quân chủ mà đạo Khổng
mới gần như được độc tôn, mặc
dầu ảnh hưởng của Lão, Trang trong dân gian vẫn
còn mạnh. Còn học thuyết của Mạnh tử, suốt
ngàn năm sau cũng không lấn át nổi học thuyết
của Tuân tử, tới đời Đường bộ
Mạnh Tử mới
được sắp vào hàng tứ thư mà Tuân tử mới
mất ảnh hưởng. Nhưng từ khi đạo Khổng,
Mạnh được coi là quốc giáo thì nó cũng bắt
đầu ngạnh kết. Thiếu sự cạnh tranh thì
sinh khí không còn.
Chương 5
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
Suốt
hai chục năm bôn ba, có lần tới một nước
nhỏ nhất, chỉ bằng một ấp, như nước
Đằng, mà không khi nào Mạnh tử đặt chân tới
nước của “Thiên tử” tức nước Chu. Trong
bài 6, Lương Huệ vương, thượng, ông bảo
Lương Tương vương “ ai không thích giết
người thì thống nhất được thiên hạ”
(Bất thị sát nhân giả
năng nhất chi ). Vậy ông cho rằng bất kì ông
vua chư hầu nào hễ thi hành nhân chính là đáng thay vua
Chu mà làm thiên tử, nghĩa là ông không tôn Chu, thấy rõ các
vua Chu đều bất lực, vận nhà Chu sắp hết.
Không tôn Chu, nhưng ông vẫn “tòng Chu” , muốn giữ chế
độ của Chu.
Khi
Bắc Cung Ỷ (người nước Vệ) hỏi
ông :
-
Nhà Chu (hồi mới lập), ban tước vị và bổng
lộc ra sao ?
Ông
đáp :
-
Không sao biết được rõ ràng vì các vua chư hầu
thấy có hại cho quyền lợi của họ, nên hủy
bỏ hết sổ sách, nhưng Kha tôi có được
nghe đại khái như sau:
Về
tước vị các vua trong thiên hạ thì có năm bậc
: 1.- thiên tử, 2.- công, 3.- hầu, 4.- bá và 5.- tử với
nam cùng một bậc. Về tước vị các vua, quan
trong một nước thì có sáu bậc : 1.- vua (tức thiên
tử, công hầu hay bá, tử, nam, tùy nước lớn
nhỏ). 2.- quan khanh, 3.- quan đại phu, 4.- quan thượng
sĩ, 5.- quan trung sĩ, 6.- quan hạ sĩ.
Về
phép phong đất thì có bốn hạng : 1.- đất của
thiên tử vuông vức một ngàn dặm ; 2.- đất của
công và hầu, vuông vức một trăm dặm, 3.- đất
của bá bảy chục dặm, 4.- của tử và nam
năm chục dặm. Chư hầu nào đất vuông vức
không được năm chục dặm thì không được
trực tiếp triều cống thiên tử, phải tùy thuộc
một chư hầu (có từ năm chục dặm trở
lên); và nước nhỏ ấy gọi là phụ dung.
Ở
nước thiên tử thì quan khanh được lãnh phần
đất ngang với một vị tước hầu,
quan đại phu được phần đất ngang với
một vị tước bá, quan sĩ hạng nhất
được phần đất ngang với một vị
tước tử hay nam.
Ở
một nước lớn vuông vức một trăm dặm,
vua hưởng lộc bằng mười lần quan khanh,
quan khanh hưởng lộc bằng bốn lần quan
đại phu, quan đại phu bằng hai thượng
sĩ, thượng sĩ bằng hai trung sĩ, trung sĩ
bằng hai hạ sĩ [9].
Hạ sĩ với bình dân mà làm quan thì bổng lộc ngang
nhau. Bổng lộc cấp cho người bình dân làm quan
để thế cho số hoa lợi lúa thóc nếu họ
không làm quan mà làm ruộng.
Ở
một nước vừa vừa, vuông vức bảy chục
dặm, vua hưởng lộc bằng mười lần
quan khanh, quan khanh bằng ba lần quan đại phu, quan
đại phu bằng hai quan thượng sĩ, thượng
sĩ bằng hai trung sĩ, trung sĩ bằng hai hạ
sĩ. Hạ sĩ với bình dân mà làm quan thì bổng lộc
ngang nhau. Bổng lộc cấp cho người bình dân làm
quan là để thế cho số hoa lợi lúa thóc nếu họ
không làm quan mà làm ruộng.
Ở
một nước nhỏ vuông vức năm chục dặm,
vua hưởng lộc bằng mười lần quan khanh,
quan khanh bằng hai lần quan đại phu, quan đại
phu bằng hai quan thượng sĩ, thượng sĩ bằng
hai trung sĩ, trung sĩ bằng hai hạ sĩ. Hạ
sĩ với bình dân mà làm quan thì bổng lộc ngang nhau. Bổng
lộc cấp cho người bình dân mà làm quan là để
thế cho số hoa lợi lúa thóc nếu họ không làm quan
mà làm ruộng.
Ai
làm ruộng thì mỗi chủ gia đình được cấp
cho trăm mẫu. Nếu khéo bón phân thì hạng người
giỏi nhất có thể nuôi một gia đình chín miệng
ăn, hạng người giỏi bậc nhì nuôi nổi một
gia đình tám miệng ăn, hạng người trung bình
nuôi nổi bảy miệng ăn, kém hơn thì nuôi nổi
sáu miệng ăn, dở hơn hết cũng nuôi
được năm miệng ăn. Hạng bình dân mà làm
quan thì lãnh bổng lộc nhiều hay ít, bằng số hoa
lợi của một trong năm hạng làm ruộng kể
trên. (Vạn Chương, hạ - bài 2).
Đó
là trên nguyên tắc, trên thực tế thì đầu đời
Chu có thể đúng như vậy, rồi sau mỗi đời
mỗi sai đi, tới đời Mạnh tử chắc
đã khác hẳn, nên ông muốn phân phối lại lợi
tức quốc gia.
Một
qui tắc Mạnh tử rất tôn trọng là sự phân
công : trong xã hội, phải phân biệt hai hạng người,
hạng “quân tử”- tức hạng có tài có đức - lo
việc trị dân, và hạng bình dân lo cấp dưỡng
cho hạng trên, hai hạng đó mỗi hạng lãnh một
nhiệm vụ, nhưng cũng là giúp đỡ lẫn nhau
để đạt chung một mục đích : làm cho xã hội
bình an, thịnh trị. Ông bác thuyết “vua tôi đều cầy
cấy” của Hứa Hành.
Hứa
Hành là một triết gia, từ nước Sở lên
nước Đằng, tự xưng là theo thuyết vua Thần
Nông, tự cày cấy lấy mà ăn, tự dệt chiếu,
bện dép để dùng. Một môn đệ phái Hứa
Hành tên là Trần Tương lại thăm Mạnh tử,
khen thuyết “quân thần tịnh canh” của thầy, bảo
:
-
Vua Đằng là một ông vua tốt, nhưng chưa biết
đạo lí. Bậc vua hiền thì vừa trị dân vừa
cày ruộng với dân mà sống, nấu cơm lấy mà
ăn. Nhưng vua Đằng hiện nay chứa lúa đầy
lẫm, của cải dầy kho, bắt dân phải cực
khổ nuôi mình, như vậy làm sao gọi là hiền
được ?
Mạnh
tử dùng thuật đưa ra một loạt câu hỏi
để dồn Trần Tương vào chỗ bí :
-
Chắc Hứa tử trồng lúa lấy mà ăn, phải
không?
-
Phải.
-
Chắc ông ta cũng tự dệt vải mà mặc nữa
?
-
Không. Hứa tử bận áo bằng lông chiên.
-
Thế, ông ta có đội mũ không ?
-
Có.
-
Mũ bằng gì ?
-
Bằng lụa trắng.
-
Ông ta tự dệt lấy phải không ?
-
Không, đem lúa đổi lấy mũ.
-
Thế tại sao không tự dệt lấy ?
-
Vì dệt lấy thì hại cho công việc cày cấy.
-
Hứa tử có dùng nồi đồng, trách đất mà nấu
ăn không ?
-
Có.
-
Những thứ đó, ông ta chế tạo lấy ?
-
Không, ông đem lúa mà đổi.
-
Nếu ông ta đem lúa đổi lấy đồ dùng mà chẳng
làm thiệt hại gì cho người làm đồ gốm
và người thợ đúc, thợ rèn thì ngược lại,
những người này đem đồ vật chế tạo
ra đổi lấy lúa, có làm thiệt hại gì cho người
làm ruộng đâu ? Vả lại tại sao Hứa tử
không học nghề thợ gốm, thợ đúc, thợ
rèn, để chế tạo lấy đồ mà dùng ? Sao phải
rắc rối đổi chác với các người làm thủ
công như vậy, chẳng sợ làm phiền mình và người
ư ?
-
Nếu làm mọi nghề thủ công thì không làm sao đồng
thời cày cấy được nữa.
Bây
giờ Mạnh tử mới đưa ra kết luận,
trở về việc trị nước của bậc vua
chúa :
-
Vậy thì bậc cai trị thiên hạ có thể nào một
mình vừa cày ruộng vừa hành chính không ? Có phần việc
của người lớn (tức hạng người trị
dân), có phần việc của người nhỏ (hạng
bình dân, bị trị). Mỗi người phải nhờ
vào sự cung cấp vật cần dùng của mọi ngành
thủ công; nếu mỗi người phải tự mình
chế tạo lấy mọi vật thì khắp thiên hạ
phải chạy đôn chạy đảo mất. Cho nên bảo:
Có hạng người lao tâm, có hạng người lao lực.
Người lao tâm cai trị những người khác;
người lao lực bị người khác cai trị.
Người bị trị phải cung cấp cho bề
trên; người cai trị được người
dưới phụng dưỡng. Đó là lẽ thông
thường trong thiên hạ. (Nhiên
tắc trị thiên hạ, độc thả canh thả vi
dư ? Hữu đại nhân chi sự, hữu tiểu nhân
chi sự. Thả nhất nhân chi thân thi bách công chi sở vi
bị, như tất tự vi nhi như hậu dụng chi,
thị suất thiên hạ nhi lộ dã. Cố viết : Hoặc
lao tâm, hoặc lao lực. Lao tâm giả trị nhân, lao lực
giả trị ư nhân. Trị ư nhân giả tự nhân,
trị nhân giả tự ư nhân, thiên hạ chi thông
nghĩa dã ?) -Đằng Vằn công, thượng - bài
41.
Nguyên
tắc phân công là nguyên tắc căn bản cho mọi xã hội,
không có phân công thì không có xã hội. Nó dựa trên luật tự
nhiên này : vạn vật không giống nhau, không đồng
đều nhau về tính chất.
Cuối
bài kể trên, Mạnh tử đả đảo một
thuyết nữa của Hứa tử. Trần Tương
bảo :
-
Theo thuyết của Hứa tử thì hàng hóa ở chợ
chỉ có một giá thôi, như vậy khỏi xảy ra các
sự gian lận. Dù sai một đứa trẻ năm
thước (Mỗi thước thời
đó dài khoảng một gang tay, vậy năm thước
dài khoảng một mét bây giờ) đi chợ
cũng không bị ai gạt. Như vải lụa, dài ngắn
bằng nhau thì giá tiền như nhau. Dây gai, chỉ vải,
sợi tơ mịn và sợi tơ thô nặng nhẹ bằng
nhau thì giá tiền như nhau. Năm giống lúa nhiều ít
bằng nhau thì giá tiền như nhau. Giày dép lớn nhỏ
bằng nhau thì giá tiền như nhau.
Mạnh
tử bác :
-
Bản chất của mọi vật là không đồng
đều nhau. Có vật đáng giá gấp hai hoặc năm
lần vật khác, có vật đáng giá gấp mười
gấp trăm, hoặc gấp ngàn gấp vạn vật
khác. Anh muốn cho mọi vật đồng giá với nhau
tức là làm loạn thiên hạ. Nếu giày dép lớn hay nhỏ
bán bằng giá nhau thì ai chịu làm giày dép lớn nữa? Vậy
theo thuyết của Hứa Tử thì chỉ khiến cho
người ta hóa ra gian trá mà thôi, làm sao trị được
nước ? (Phù vật chi bất
tề, vật chi tình dã. Hoặc tương bội, tỉ
; hoặc tương thập, bách; hoặc tương thiên
vạn. Tử tỉ nhi đồng chi, thị loạn
thiên hạ dã. Cự lũ, tiểu lũ đồng giá,
nhân khỏi vi chi tai ? Tòng Hứa chi đạo, tương
suất nhi vi ngụy giả dã, Ô năng trị quốc?)
夫 物 之 不 齊
, 物 之 情
也 . 或 相 倍 蓰 或 相
什 百 ,
或 相 千 萬.子 比 而 同 之, 是
亂 天
下 也 .
巨 屢 小 屢 同
賈
,人豈 爲
之 哉 ?
從 許 子 之 道, 相 率 而 爲 僞 者 也,
惡 能 治 國.
Trang
tử nhỏ hơn Mạnh tử khoảng mười
hai tuổi, có viết thiên Tề
vật luận, đứng về phương diện
triết học, bảo lớn nhỏ, thọ yểu, thiện
ác gì thì cũng như nhau, vì cái gì cũng tương đối
hết, chẳng hạn ông Bành Tổ thọ bảy
trăm tuổi, so với thời gian vô cùng thì cũng không
hơn gì một em bé chết yểu.
Không
rõ Mạnh tử có biết thuyết đó không, nếu biết
thì trong bài này ông cũng không có ý đả Trang tử, chỉ
đứng về phương diện xã hội, kinh tế
mà bác thuyết bình đẳng của Hứa Hành thôi. Và ông
có lí.
Ngay
các nước cộng sản ngày nay cũng phải nhận
rằng con người sinh ra vốn bất bình đẳng,
hơn nữa chính tổ chức xã hội của họ
cũng dựng trên thuyết bất bình đẳng nữa.
Chúng ta chỉ có thể giảm sự bất bình đẳng
một phần nào bằng luật pháp (mọi giai cấp,
nam nữ bình đẳng trước pháp luật), chính sách
xã hội, thuế khóa (giúp đỡ người nghèo, trợ
cấp người thất nghiệp, giảm sự quá
cách biệt về lương giữa cấp trên cấp
dưới, khép bớt cây quạt lương bổng lại,
đánh thuế lũy tiến vào lợi tức, đánh thuế
nặng vào di sản...), nhất là bằng cách phổ thông
giáo dục giúp con nhà nghèo có những phương tiện
để học như con nhà giàu ; còn sự bình đẳng
bẩm sinh về trí tuệ, tài năng - nguyên nhân của sự
bất bình đẳng trên thang xã hội – thì không làm sao cho
mất được.
Sự
phân biệt ra hai hạng người : lao tâm thì cai trị
người, lao lực thì bị người cai trị,
không có ý nghĩa là khinh hạng bình dân, vì Mạnh tử chủ
trương “dân vi quí”.
Thượng đế sinh ra vạn vật, làm chủ vạn
vật, nhưng không thể săn sóc riêng từng vật,
đặc biệt là từng người một, cho nên mới
giao quyền cho vua thay mình để trị dân. Nhưng vua
cũng không thể trông nom mọi việc được,
cần có các quan giúp đỡ. Vậy vua và quan, tức hạng
cai trị người , sở dĩ có là vì có hạng “bị
cai trị” và bổn phận của họ là phải làm lợi
cho hạng này, tức cho dân chúng. Tư tưởng đó
diễn trong hai chữ “thiên mệnh” đã thấy trong kinh
Lễ, không phải là mới mẻ.
Sự
phát huy của Mạnh tử ở điểm dưới
đây : ở trên chúng ta đã biết ông theo chế độ
tước lộc đầu đời Chu, nhưng có
điểm khác là nhà Chu ban tước lộc cho hạng
quí tộc, còn ông thì ông muốn ban cho người hiền,
có tài, có đức.
Ông
phân biệt “thiên tước” (tước trời ban cho) và
“nhân tước” (tước người ban cho mình). Nhân,
nghĩa, trung, tín, vui làm điều thiện mà không chán,
đó là thiên tước; còn những chức công, hầu, khanh,
tướng, đại phu là nhân tước. (Hữu thiên tước giả,
hữu nhân tước giả. Nhân, nghĩa, trung, tín lạc
thiệt bất quyện, thử thiên tước dã; công,
khanh, đại phu thử nhân tước dã.)- Cáo tử,
thượng - bài 16.
有 天 爵 者 ,有
人 爵 者, 仁 義 忠 信, 樂 善 不
倦,
此 天 爵 也, 公
卿 大 夫, 此 人 爵 也.
Bài
2, Công tôn Sửu, hạ, ông lại nói : “Thiên hạ đều
trọng ba cái này : tước vị, tuổi tác và đạo
đức.”
Tại
triều đình tước vị được quí nhất,
ở làng xóm, tuổi tác được trọng nhất, về
việc giúp đời dạy dân thì đức được
trọng nhất. (Thiên hạ hữu đạt tôn tam :
tước nhất, xỉ nhất, đức nhất. Triều
đình mạc như tước, hương đảng mạc
như xỉ, phụ thế trưởng dân mạc như
đức.)
天 下
有 達 尊 三: 爵 一 齒 一 德
一.
朝 廷
莫 如 爵, 鄉 黨 莫 如 齒, 輔
世 長 民 莫 如 德.
Vậy
ông cho đức cũng đáng trọng ngang với tước
mà lại có ích cho dân hơn cả. Và khi thiên hạ có đạo,
nghĩa là bình trị, có kỉ cương thì kẻ đức
nhỏ thờ người đức lớn, kẻ hiền
ít thờ người hiền nhiều; nói cách khác, người
có đức lớn phải ở trên cả, phải làm
vua hoặc giữ những chức lớn nhất ở
triều đình. (Thiên hạ hữu
đạo, tiểu đức dịch đại đức
tiểu hiền dịch đại hiền.) -Li Lâu,
thượng - bài 7.
天 下 有 道, 小 德
役 大 德, 小 賢 役 大 賢.
Đó
là thiên lí (lẽ tự nhiên), thuận theo thiên lí thì còn, nghịch
với thiên lí thì mất.
Cho
nên vua phải trọng người hiền : bậc hiền
vương thời xưa quí các hiền sĩ, trong khi tiếp
xúc với họ, quên địa vị, quyền thế của
mình. Mà các hiền sĩ đời xưa lẽ nào không vậy
? Họ cũng vui cái đạo của mình mà quên địa
vị, quyền thế của người. Cho nên bậc
thiên tử và các vua chư hầu, nếu không hết lòng
kính trọng lễ độ thì không được thường
gặp các hiền sĩ (Cổ
chi hiền vương, hiếu thiện nhi vong thế. Cổ
chi hiền sĩ hà độc bất nhiên? Lạc kì đạo
như vong nhân chi thế. Cổ vương công bất tri
kính, tận lễ, tắc bất đắc cức kiến
chi - Tận tâm, thượng - bài 8).
Hơn
nữa, vua chúa có bổn phận phải nuôi hiền sĩ
một cách trọng hậu. Bành Canh, một môn đệ của
Mạnh tử, thấy thầy mình đi đâu thì dắt
theo cả trăm cỗ xe, mấy trăm người tùy
tùng, đến nước chư hầu nào thì vua nước
ấy phải cung phụng đầy đủ, hỏi Mạnh
tử :
-
(... ) Như vậy chẳng là thái quá ư ?
Mạnh
tử đáp :
-
Nếu mình không giữ đạo thì dù là một giỏ
cơm cũng không được nhận của người.
Nếu mình giữ đạo thì dù như ông Thuấn
được ông Nghiêu trao cho cả thiên hạ, cũng
không phải là thái quá. Sao anh lại cho (sự cung phụng
của các vua chư hầu) là thái quá?
Bành
Canh đáp :
-
Ông Thuấn nhận thiên hạ không phải là thái quá.
Nhưng kẻ sĩ chẳng làm được việc chi
cho vua mà ăn lộc vua thì là điều không nên.
Mạnh
tử giảng :
-
Nếu anh không trao đổi sản phẩm, đem món
dư của mình mà đổi lấy món mình thiếu thốn,
thì nông dân sẽ thừa thãi lúa thóc, mà người đàn bà
dệt vải sẽ dư vải. Nếu cho trao đổi
sản phẩm thì người thợ rừng, thợ mộc,
thợ làm bánh xe, đóng thùng xe đều có đủ món
để sống. Bây giờ có người hiếu thảo
với cha mẹ, kính thuận với huynh trưởng, gia
đạo của tiên vương, đem đạo đó
ra truyền lại cho học giả ( học giả
ở đây theo nghĩa xưa chỉ có nghĩa là người
học đạo) đời sau, mà lại
không được cung cấp vật thực. Sao anh lại
tôn trọng các thợ rừng, thợ mộc, thợ làm
bánh xe, đóng thùng xe, mà khinh những bậc làm nhân làm
nghĩa như vậy ?( Ư
thử hữu nhân yên, nhập tắc hiếu, xuất tắc
đễ, thủ tiên
vương chi đạo dĩ đãi hậu chi học
giả, nhi bất đắc tự ư tử. Tử hà
tôn tử, tượng, luận, dư, nhi khinh vi nhân
nghĩa giả tai ?)
Ông
cho rằng bậc hiền sĩ, dù chẳng lãnh chức vụ
gì ở triều đình, chỉ thi hành và giảng điều
nhân điều nghĩa thôi, để dạy đời và
làm gương cho đời thì cũng đáng được
nhà vua phải cung phụng mọi sự cần thiết rồi.
Và nếu có việc cần tiền mà nhà vua tặng hàng chục,
hằng trăm dạt vàng thì cũng có thể nhận
được; không cần tiền thì không nhận, phải
giữ tiết tháo đừng để người ta mua
chuộc mình bằng đồng tiền[10].
Sau cùng khi nhà vua muốn lựa bậc hiền tài để
giao trách nhiệm thì phải rất cẩn thận : Các quan
hầu cận đều cho người nào đó là bậc
hiền tài thì đừng vội tin. Các quan đại phu
đều cho người đó là bậc hiền tài thì
cũng đừng vội tin. Người trong nước
đều cho người đó là bậc hiền tài thì lúc
đó mới xét.
Xét
rồi, thấy người đó quả là hiền tài thì
lúc đó mới dùng (Tử hữu giai viết hiền,
vị khả dã. Chư đại phu giai viết hiền,
vị khả dã. Quốc nhân giai viết hiền nhiên hậu
sát chi, kiến hiền yên, nhiên hậu dụng chi -
Lương Huệ vương, hạ - bài 7).
Bài
đó cho ta thấy hai điểm trong tư tưởng Mạnh
tử :
1.
- Đáng gọi là người hiền thì phải là bậc
có đức rất cao, làm được gì cho quốc dân
để quốc dân ngưỡng mộ, có vậy ta mới
hiểu được tại sao bậc hiền sĩ
đáng được vua cung phụng đầy đủ.
2.
- Khi dùng người, vua phải tôn trọng ý dân, một lẽ
vì qui tắc dân vi quí , một
lẽ nữa vì ý cá nhân có thể sai, ý toàn dân mới có phần
chắc đúng hơn, chứ chưa nhất định
là đúng, vì vậy mà vua phải xét lại lần cuối
cùng nữa rồi mới dùng. Cách dùng người của Mạnh
tử quả là thận trọng.
Vì
tôn trọng đức hơn cả nên Mạnh tử
nghĩ rằng chức vị cao nhất trong thiên hạ, tức
ngôi thiên tử, phải thuộc về người có đức
cao nhất, vào hạng thánh nhân. Do đó chính sách “thiện
nhượng” (truyền ngôi cho người hiền) của
Nghiêu, Thuấn được ông coi là chế độ
chính trị lí tưởng.
Chương Vạn Chương,
thượng, có hai bài 5 và 6, đều rất quan trọng,
diễn một cách cặn kẽ chủ trương ấy.
Bài
5. - Vạn Chương, một môn đệ của ông, hỏi
:
-
Vua Nghiêu đem thiên hạ cho vua Thuấn, việc ấy có
không ?
Ông
đáp :
-
Không. Thiên tử không thể đem thiên hạ cho người
khác được.
-
Vậy thì vua Thuấn có thiên hạ là ai cho ?
-
Trời cho.
-
Trời cho thì chăm chắm bảo rõ ra hay sao ?
-
Không. Trời không nói, chỉ lấy đức hạnh và sự
nghiệp của ông Thuấn mà tỏ ra vậy thôi.
(Ta
để ý ba chữ “Trời không nói”. Mạnh tử
cũng như Khổng tử và tất cả các triết
gia khác thời đó không có quan niệm “thiên khải” (révélation
divine) cho một vị tiên tri (Moise hoặc Mahomet) như các
đạo Do Thái, Ki Tô và Hồi).
Vạn
Chương lại hỏi :
-
Lấy đức hạnh và sự
nghiệp của ông Thuấn mà tỏ ra, là ra làm sao ?
Mạnh
tử đáp :
-
Thiên tử có thể tiến cử một người với
Trời chứ không thể khiến Trời phải đem
thiên hạ cho người ấy. (Cũng như) vua chư
hầu có thể tiến cử một người với
thiên tử mà không thể khiến thiên tử phải
đem ngôi chư hầu cho người ấy (...) Thời
xưa vua Nghiêu tiến cử ông Thuấn với Trời
thì Trời nhận, rồi tuyên bố với dân (rằng
ông Thuấn sẽ kế vị mình), dân cũng chịu. Cho
nên ta bảo rằng Trời không nói, chỉ lấy đức
hạnh và sự nghiệp của ông Thuấn mà tỏ ra vậy
thôi.
Con
xin hỏi thêm : “Tiến cử với thời mà Trời nhận,
tuyên bố với dân mà dân chịu, là làm sao ?”
Vua
Nghiêu sai ông Thuấn thay mình làm chủ tế thì chư thần
đều hưởng lễ vật, đó là Trời nhận
ông Thuấn. Khi vua Nghiêu sai ông Thuấn thay mình cai quản việc
nước thì việc nước được ổn trị,
trăm họ được yên vui đó là dân chịu ông Thuấn.
Như
thế tức Trời và dân đều đem thiên hạ
cho ông Thuấn, cho nên ta mới nói: Thiên tử không có quyền
đem thiên hạ cho người khác.
Ông
Thuấn giúp vua Nghiêu cai trị hai mươi tám năm, việc
đó chẳng phải sức người làm được,
là do ý Trời đấy. Vua Nghiêu băng, sau ba năm
cư tang, ông Thuấn tự nhường quyền cho con
vua Nghiêu, lánh về miền nam sông Nam Hà. Nhưng khi triều
cận (yết kiến thiên tử), thì các vua chư hầu
trong thiên hạ chẳng đến con vua Nghiêu mà tìm đến
ông Thuấn ; khi có việc thưa kiện thì chẳng
đưa nhau đến con vua Nghiêu mà tìm đến ông Thuấn
(để ông Thuấn phân xử ); khi có lễ ca tụng
công đức thiên tử thì người ta chẳng ca tụng
con vua Nghiêu mà ca tụng ông Thuấn. Vì vậy ta nói là do ý Trời
đấy. Sau đó, ông Thuấn trở về kinh đô
Trung Quốc, lên ngôi thiên tử. Nếu ông Thuấn (khi vua Nghiêu
băng), ở luôn trong cung vua Nghiêu, bức hiếp con vua Nghiêu,
thì là tiếm ngôi chứ không phải là Trời cho. Thiên Thái
thệ (trong kinh Thư) có câu : “(Trời không có mắt có
tai), dân nhìn tức là Trời nhìn, dân nghe tức là Trời
nghe” là nghĩa vậy.
Bài
6. - Vạn Chương lại hỏi :
-
Người ta thường nói : “Đến dời vua
Vũ thì đức suy cho nên chẳng truyền ngôi cho
người hiền mà truyền ngôi cho con, có phải vậy
chăng ?".
Mạnh
tứ đáp :
-
Không, không phải vậy. Trời cho người hiền
thì cho người hiền. Trời cho con thì cho con. Thời
xưa, vua Thuấn tiến cử (một hiền thần
là) ông Vũ của Trời. Mười bảy năm sau vua
Thuấn băng. Hết ba năm cư tang, ông Vũ tự
nhường quyền cho con ông Thuấn, mà lánh ra ở
đất Dương-thành. Lúc ấy, dân chúng trong thiên hạ
theo ông Vũ cũng như sau khi vua Nghiêu băng, người
ta theo ông Thuấn, chứ không theo con vua Nghiêu.
Rồi
ông Vũ tiến cử (một bề tôi là ) ông Ích với
Trời. Bảy năm sau vua Vũ băng. Hết ba năm
cư tang, ông Ích tự nhường quyền cho con vua
Vũ (là ông Khải), lánh vào ở chân núi Kì Sơn. Lúc ấy,
các vua chư hầu tới triều cận, hoặc
trăm họ thưa kiện nhau, đều chẳng đến
với ông Ích mà đến với ông Khải, bảo: “Ngài
là con của vua chúng tôi”. Và khi có lễ ca tụng công đức
thiên tử, người ta chẳng ca tụng ông Ích mà ca tụng
ông Khải, bảo: “Ngài là con của vua chúng tôi".
Đan
Châu (con vua Nghiêu) là người bất hiếu (không giống
cha, tức người xấu), con vua Thuấn (là
Thương Quân) cũng là người bất tiếu (vì vậy
mà vua Nghiêu và vua Thuấn đều không truyền ngôi cho
con, mà dân chúng không theo con hai ông ấy). Ông Thuấn cai trị
giúp vua Nghiêu, ông Vũ cai trị giúp vua Thuấn, trải qua
nhiều năm, thi ân cho dân đã lâu. Đến ông Khải,
con ông Vũ, là người hiền có thể kính cẩn thừa
kế đạo của cha. Mà ông Ích giúp vua Vũ cai trị
dân chưa dược bao năm, thi ân cho dân chưa
được lâu. ông Thuấn và ông Vũ nhiếp chính lâu
hơn ông Ích, mà con vua Nghiêu và con vua Thuấn bất tiếu,
con vua Vũ thì hiền, mấy việc ấy đều do
ý Trời, không phải sức người mà làm được.
Việc gì mình không cố ý làm mà tự nhiên làm được,
đó là ý Trời; mình không cầu mà tự nhiên nó tới,
đó là mạng Trời .
Vậy
thiên tử muốn tự ý truyền ngôi lại cho con
đã không được mà muốn nhường ngôi cho
người ngoài cũng không được. Muốn
nhường ngôi phải thuận ý Trời, thuận ý dân.
Cho nên Khổng tử nói:
“Các đời Đường (Nghiêu),
Ngu (Thuấn) nhường ngôi cho người hiền, các
vua nhà Hạ (Vũ), Ân, Chu, truyền ngôi cho con cháu, ý
nghĩa như nhau (nghĩa là đều theo mạng Trời
và lòng dân)” (Đường, Ngu, hiền ; Hạ hậu, Ân,
Chu kế, kì nghĩa nhất dã ).
唐
虞 禪 , 夏 后, 殷 周 繼, 其 義 一 也.
Vậy
chế độ chính trị lí tưởng của Mạnh
tử là ngôi thiên tử phải thuộc về người
có cái đức của thánh nhân; khi thánh nhân ấy bắt
đầu già thì lựa một người bề tôi có tài
đức, giao lần trách nhiệm trị dân, thấy có kết
quả thì khi chết sẽ truyền ngôi cho.
Truyền
thuyết về các vua Nghiêu, Thuấn, một số học
giả Trung Hoa gần đây ngờ rằng chưa đáng
tin, nhưng trong các bộ lạc thời cổ ở
nước nào cũng có tục khi tù trưởng chết
thì dân trong bộ lạc cử người tài giỏi nhất
lên thay. Và ở La Mã thời cổ, cũng đã có một
thời ngôi vua không truyền tử mà truyền hiền.
Will và Ariel Durant trong cuốn Bài học của lịch sử,
chương X (Lá Bối - 1973) viết :
“Sau
hoàng đế Auguste (sinh năm -63 , mất năm + 14), các
hoàng đế Caligula, Néron và Domitien làm cho chế độ
quân chủ mất thanh thế, nhưng họ được
những người kế vị: Nerva, Trajan, Hadrien, Antonin
và Marc Aurèle, mà Renan phải khen là thế giới chưa bao
giờ được một loạt “minh quân tài giỏi
như vậy” .
Sử
gia Gibbon cũng bảo :
“Nếu
phải chỉ ra một thời đại mà nhân loại
được sung sướng nhất, thịnh vượng
nhất thì người ta nghĩ ngay tới thời từ
khi Nerva lên ngôi tới khi Marc Aurèle chết .(Từ
năm 96, năm Nerva lên ngôi
Hoàng đế đến năm 181, năm Marc Aurèle mất.)
Mấy triều đại đó gom lại thành một thời
đại duy nhất trong lịch sử mà nhà cầm quyền
chuyên lo tới hạnh phúc một đại dân tộc.”
Trong
thời đại rực rỡ ấy, các dân tộc qui phục
La Mã, lấy làm sung sướng về thân phận của họ,
chế độ quân chủ không có tính cách thế tập
mà có tính cách lập tự, nghĩa là ngôi vua không truyền tử
mà truyền hiền; nhà vua lựa người nào có tài
năng nhất mà nhận làm con nuôi, chỉ bảo cho việc
trị nước rồi tuần tự giao phó quyền
hành cho. Chính sách ấy không gặp trở ngại, một
phần vì cả Trajan lẫn Hadrien đều không có con
trai, còn các con trai của Antonin thì lại chết sớm.
Marc Aurèle có một người con trai tên là Commode, nối ngôi
ông . Vị hoàng đế hiền
triết ấy quên không chỉ định một người
kế vị, tức thì cảnh hỗn loạn phát ra liền.
Vậy chế độ ngôi vua truyền hiền đó của
La Mã không do một lí tưởng chính trị, chỉ do một
sự may mắn đặc biệt, khó tái diễn trong lịch
sử : nếu Trajan và Andrien đều có con trai thì có phần
chắc chắn là họ đã truyền tử chứ không
truyền hiền.
Một
điểm tiến bộ nữa trong học thuyết Mạnh
tử là ông dõng dạc tuyên bố phải phế bỏ những
ông vua làm hại dân và nếu là bạo chúa thì có thể giết,
nghĩa là có thể làm cách mạng (nghĩa cổ là đổi
mệnh vua, đổi triều vua).
Có
ba trường hợp :
1
- Truất ngôi vua. Một lần
Tề Tuyên vương hỏi về đạo nghĩa của
quan khanh (ở địa vị thủ tướng hoặc
bộ trưởng ngày nay).
Mạnh
tử đáp :
-
Vua muốn hỏi về hạng quan khanh nào ?
-
Có những hạng quan khanh khác nhau sao ?
-
Khác nhau. Có quan khanh trong dòng họ nhà vua, và có quan khanh không có
họ hàng với vua.
-
Xin hỏi về hạng quan khanh trong dòng họ nhà vua.
-
Hạng đó, nếu vua có lỗi lớn thì can gián, can gián
nhiều lần mà vua không nghe thì (phải họp cộng tộc,
triều đình) để (truất vua mà) tôn người
khác lên.
Nghe
xong, Tề Tuyên vương kinh sợ biến sắc (... );
một lát định thần lại rồi hỏi tiếp
về hạng quan khanh không có họ hàng với vua. Mạnh
tử đáp :
-
Vua có lỗi thì họ phải can gián, can gián nhiều lần
mà không nghe, thì họ nên trả chức mà đi.
( Hữu quí thích chi khanh, hữu dị
tánh chi khanh... [Quí thích chi khanh], quân hữu đại quá tắc
gián, phản phúc chi nhi bất thính, tắc dịch vị...
[dị lánh chi khanh] quân hữu quá tắc gián; phản phúc
chi nhi bất thính, tắc khứ. -Vạn Chương hạ
- bài 9).
有
貴 戚 之 卿....[
貴 戚 之 卿 ]
君
有 大 過 則 諫, 反 覆 之 而
不 聽, 則 易 位..
[異
姓 之 卿 ] 君 有 過 則 諫, 反
覆 之 而 不 聽 則 去.
Khổng tử
cũng cho rằng vua không làm điều nhân nghĩa thì quan
không những có quyền, mà còn có bổn phận phải bỏ
nữa, nếu không thì mang tiếng là làm quan vì bổng lộc
; nhưng ông không nghĩ tới việc truất vua, hoặc
nghĩ tới mà không tiện nói thẳng ra. Tinh thần tôn
quân của ông còn mạnh, nhiều lần ông đã từ
chức một cách khéo léo để giữ thể diện
cho vua, như khi ông thấy Lỗ hầu say mê gái dẹp,
ca nhạc mà bỏ bê việc nước, ông muốn bỏ
đi, nhưng đợi lúc vua làm lễ tế giao không
chia thịt cho các quan, ông mới xin từ chức; như vậy
người ta không trách vua vì ham thanh sắc mà bị ông bỏ,
trái lại trách ông vì một việc nhỏ mọn (không
chia thịt) mà bỏ vua. Ông muôn che lỗi cho vua.
Mạnh
tử có thái độ gay gắt hơn nhiều, bảo
quan khanh không phải trong tôn thất thì phải bỏ
đi, mà quan khanh trong tôn thất thì có bổn phận phải
truất ngôi vua.
2
- Hơn nữa, một hiền thần, dù không phải
trong tôn thất, cũng có thể phóng trục một ông vua
tàn bạo, như trường hợp vua Thái Giáp với ông
Y Doãn.
Bài
31, Tận Tâm, thượng, chép : Công Tôn Sửu thưa với
Mạnh tử :
-
Ông Y Doãn (tướng quốc nhiếp chính nhà Thương
sau khi vua Thang băng), bảo : "Tôi không chịu
được hạng người không tôn thuận
nghĩa lí ". Rồi ông dời vua Thái Giáp (cháu nội vua
Thang) ra đất Đồng, mà dân chúng mừng rỡ. Vua
Thái Giáp hối hận, trở nên hiền đức, ông Y
Doãn bèn mời về triều, dân chúng cũng lại mừng
rỡ nữa. Vậy bậc hiền nhân làm bề tôi, nếu
gặp một ông vua không hiền thì có thể đuổi
vua đi hay sao ?
Mạnh
tử đáp :
-
Phải có chí tiết như ông Y Doãn mới được
đuổi vua, nếu không thì là thoán nghịch.
(Công Tôn Sửu viết: Y
Doãn viết: “Dư bất hiệp , vu bất thuận”.
Phóng Thái Giáp vu Đồng, dân đại duyệt. Thái Giáp
hiền, hựu phản chi, dân đại duyệt. Hiền
giả chi vi nhân thần dã, kì quân bất hiền, tắc cố
khả phóng dư ?
Mạnh tử viết : Hữu
Y Doãn chi chí tắc khả, vô Y Doãn chi chí, tắc thoán dã... )
公 孫 丑
曰: 伊尹曰: 予 不 狎 于 不
順.
放 太 甲 于 侗, 民 大 悅,太甲 賢,又
反 之,
民 大
悅. 賢 者 之 爲 人 臣也,其
君 不 賢,
則 固 可
放 與 ?
孟子曰: 有 伊 尹 之 志 則
可 , 無 伊 尹 之
志 則 篡 也.
Tiến
lên một bực nữa, một bậc hiền nhân có quyền
giết vua mà lên ngôi. (Đây là cách thứ ba để nhận
ngôi, hai cách kia là được nhường ngôi, và
được truyền ngôi đã trình bày ở trên).
Như vua Thang giết vua Kiệt, vua Vũ diệt vua Trụ,
hai ông ấy thay Trời trừ bạo chúa, nên được
làm thiên tử.
Cách
này hợp đạo, hợp lí nếu có đủ ba
điều kiện như sau :
a)
"Phải theo ý dân. Dân phải tỏ lòng oán chính sách tàn
ngược của bạo chúa và mong mỏi người giải
phóng; như khi vua Thang sắp thảo phạt vua Kiệt
thì nhân dân đâu đâu cũng ca thán : vua (Kiệt) không
thương chúng ta, bỏ việc ruộng nương của
chúng ta mà chính trị thì bạo ngược " (Thư - Thang thệ). Về
việc vua Vũ diệt Trụ, Thư Thái thệ cũng chép : “vua Trụ cự
tuyệt với Trời mà kết oán với dân .”
Vua
tuy thay Trời, nhưng khi đã không làm tròn nhiệm vụ,
lại tàn bạo thì không phải là vua nữa, mà là một
tội nhân, cho nên Mạnh tử nói:
"Nghe
nói giết một kẻ tên là Trụ, chứ chưa nghe
nói giết vua ."
b)
Phải theo mệnh Trời, nghĩa là phải tin rằng
việc mình làm thuận ý Trời, như khi vua Thang giết
Kiệt, có nói : "Đạo Trời giáng tai ương
cho Kiệt để tỏ rõ tội hắn (...), ta theo mệnh
Trời mà tỏ rõ uy của Trời, nên không dám tha hắn
" (Thư Thang cáo). Vũ
vương khi giết Trụ cũng nói: trời nổi giận,
sai ta xét tội của Trụ, ta phải kính sợ mệnh
lệnh và uy của Trời " (Thư Thái thệ); lại nói : tội Trụ
đã đầy, mệnh Trời là giết hắn đi,
nếu ta không thuận ý Trời thì tội cũng như hắn
" (Thư Thái thệ). Mệnh
Trời đó hiện trong ý dân và trong những tai
ương Trời giáng cho quốc gia nào có bạo quân
như núi đổ, sông lụt, sấm to, bão lớn...
c)
Phải là người có đức, được dân tín
nhiệm, như vua Thang trước khi khởi quân diệt
vua Kiệt, đã nổi danh là khoan đại, nhân
nghĩa; vua Vũ trước khi giết vua Trụ cũng
nổi tiếng là người hiền"* Hạng người
đó, Mạnh Tử gọi là “thiên lại”, người
vâng lệnh Trời mà trị an. (Công Tôn Sửu, thượng,
bài 5). “thiên lại” cao hơn “thiên dân” (dân của Trời) một
bực. Thiên dân là hạng tính trước rằng nếu
mình ra làm quan mà có thể giúp thiên hạ, thì lúc đó mới
chịu nhận trách nhiệm; nếu không thì ở ẩn
chờ thời ( Tận tâm thượng, bài 19).
Chương
Công Tôn Sửu, hạ, bài 8 dưới đây còn nói rõ rằng
“thiên lại” có quyền giết
vua, đánh một nước vô đạo, cũng như
quan sĩ sư (thượng thư bộ hình) có quyền
ra lệnh kẻ giết phạm trọng tội :
Thẩm
Đồng (một cận thần của vua Tề ) lấy
ý riêng mà hỏi Mạnh tử :
-
Nên đánh Yên không ?
Mạnh
tử đáp :
-
Nên. Vì Tử Khoái (vua Yên) không có quyền đem nước
Yên giao cho Tử Chi (tể tướng của Yên), mà Tử
Chi cũng không có điều kiện để nhận của
Tử Khoái. Tỉ như bây giờ có một viên quan yêu ông
mà không tâu với vua, tự ý đem bổng lộc, tước
vị của mình nhường cho ông; hoặc có một kẻ
sĩ không được lệnh vua phong, cứ nhận chức
quan ông cấp cho, thì như vậy có phải phép không ? Việc
Tử Khoái trao quyền cho Tử Chi có khác gì vậy ?
Sau
đó Tề đánh Yên. Có người hỏi Mạnh tử
:
-
Có phải ông xúi Tề đánh Yên không ?
Ông
đáp :
-
Tôi chưa hề xúi như vậy. Chẳng qua Thẩm
Đồng hỏi tôi : nên đánh nước Yên không ?
" Tôi đáp "Nên ". Thế là Tề đem quân
đánh Yên. Nếu ông ta hỏi thêm : "Ai có quyền
đánh nước ấy ? " thì tôi sẽ đáp chỉ
có bậc thiên lại mới có quyền ấy. Lấy ví dụ
ngày nay có kẻ giết người. Có người hỏi
tôi :
"Nên
giết kẻ ấy chăng ? " thì tất tôi sẽ
đáp: nên ".
Nếu
người đó lại hỏi : “ai có quyền giết kẻ
ấy ? ", thì tôi sẽ
đáp : chỉ quan sĩ sư mới có quyền ấy
". Ngày nay (Tề thì cũng
như Yên, đều là chư hầu, vua Tề không phải
là bậc thiên lại, mà lại đánh Yên thì ) cũng
như Yên đánh Yên, tôi lẽ nào xúi giục một việc
như vậy. (Tề nhân phạt
Yên. Hoặc vấn chi viết : “Khuyến Tề phạt
Yên, hữu chư ? Viết : “Vị dã.” Thẩm Đồng
vấn Yên khả phạt dư ? Ngô ứng chi viết khả.
Bỉ nhiên nhi phạt chi dã. Bỉ như viết : Thục
khả dĩ phạt chi ? Tắc tương ứng chi viết
: Vi thiên lại, tắc khả dĩ phạt chi.
Kim hữu sát nhân giả,
hoặc vấn chi viết : Nhân khả sát dư? Tắc
tương ứng chi viết : Khả. Bỉ như viết
: Thục khả dĩ sát chi? Tắc tương ứng chi
viết : Vi sĩ sư tác khả dĩ sát chi. Kim dĩ Yên
phạt Yên, hà vi khuyến chi tai ?)[11]
齊 人 伐
燕. 或 問
之 曰: 勸 齊 伐
燕 有 諸? 曰: 未 也.
沈 同 問 燕
可 伐 與?吾
應 之 曰 : 可. 彼
然 而 伐 之 也. 彼 如 曰: 孰
可 以 伐
之 ? 則 將 應
之 曰: 爲 天 吏 則 可
以 伐 之.
今 有
殺 人 者, 或 問 之 曰:人 可 殺
與 ? 則 將 應 之 曰: 可.
彼 如 曰: 孰 可 以 殺
之 ? 則 將 應 之 曰: 爲 土 師 則
可 以 殺 之. 今 以 燕
伐 燕 何 爲
勸 之 哉 ?
Bài
đó cho ta hiểu thêm về hạng "thiên lại"
mà cũng bổ túc bài 5, Vạn Chương, thượng
về việc nhường ngôi: không phải ông vua nào muốn
nhường ngôi cho ai cũng được, nhường
không phải phép (nghĩa là không hợp ý Trời, ý dân) thì
có tội với dân . Vua Yên chỉ vì muốn được
người ta khen là có đức như vua Nghiêu, vua Thuấn,
mà đem nước nhường cho Tử Chi, nhưng Tử
Chi không có tài, đức, cầm quyền được ba
năm thì nước Yên đại loạn, mà bị Tề
đem quân đánh, chiếm được một cách dễ
dàng. Các vua chư hầu cùng tính với nhau đem binh cứu
Yên. Tề Tuyên vương lo lắng, hỏi Mạnh tử.
Mạnh
tử khuyên :
-
Các nước trong thiên hạ vẫn đều sợ sức
mạnh của Tề ; nay đất Tề lại rộng
gấp hai (vì chiếm được Yên), nhưng không thi
hành nhân chính, nên các chư hầu mới động binh
đánh Tề. Vậy thì nhà vua nên mau mau ra lệnh phóng thích
các người già cả và các trẻ em của Yên, ngưng
lại việc dời (tức cướp) các bảo vật
của Yên, mà bàn tính với dân Yên đặt lên một vị
vua rồi rút quân về, như vậy thì còn kịp tránh việc
binh đao với các nước khác. (Lương Huệ
vương, hạ - bài II).
Trước
đời Xuân Thu từ lâu, dân tộc Trung Hoa, cũng
như mọi dân tộc trong nền văn minh nông nghiệp,
đã có quan niệm hết thịnh thì tới suy, hết
suy tới thịnh. Vì thịnh suy hữu thời là một
hiện tượng thiên nhiên, dân tộc làm ruộng, trồng
trọt nào cũng để ý tới rất sớm :
trăng khuyết rồi tròn, nước ròng rồi lớn,
hết ngày tới đêm, bốn mùa qua lại, cây cỏ
tươi tốt về xuân hạ rồi tàn tạ về
thu đông, còn con người trẻ rồi già, hết đời
cha tới đời con...
Nhưng
áp dụng luật đó vào chính trị, ôn lại quá khứ
mà định cho mỗi thời một khoảng là bao nhiêu
năm thì là sáng kiến của Mạnh tử, sau này
được nhiều người tin, chẳng hạn
Tư Mã Thiên, đầu đời Hán.
Thuyết
“nhất trị nhất loạn” được Mạnh tử
trình bày cặn kẽ trong bài 9, Đằng Văn công, hạ.
ông bảo một môn đệ là Công Đô tử :
Từ khi Trời sinh ra loài người
đến nay đã lâu rồi, cứ một đời trị
lại một đời loạn. (Thiên hạ chi sinh cửu hĩ, nhất trị nhất
loạn ). 天下 之 生 久 矣
, 一 治 一 亂.
"Đương
thời vua Nghiêu, các dòng nước bị ngăn chảy
nên chảy nghịch, nước ngập tràn cõi Trung Quốc.
Các giống rắn rồng ở lẫn lộn với
người trên mặt đất, dân không có nơi để
ở yên. Kẻ ở dưới thấp phải làm chòi mà
ở, kẻ ở trên cao phải đào hang mà trú ngụ.
Kinh Thư chép: nước tràn, ta nên phòng bị. Nước
tràn bờ là nạn lụt (hồng thủy) đấy".
Đó
là một thời loạn.
“Vua
Thuấn sai ông Vũ trị thủy. Ông Vũ đào vét những
chỗ bế tắc để cho nước sông chảy
ra biển. Ông đuổi rắn rồng ra nơi đồng
xa cỏ rậm. Các dòng nước mới theo chiều
đất mà chảy, đó là mấy sông Giang, Hoài, Hà, Hán.
Những cái ngăn trở sông rạch đã dẹp xong,
loài chim loài thú hại người đều bị tiêu diệt,
từ đó nhân dân mới được đất bằng
mà ở”. Đó là một thời trị.
"Vua
Nghiêu, vua Thuấn đã mất, đạo trị quốc
của hai bậc thánh đó mỗi ngày một suy. Những
ông vua bạo ngược nối nhau mà ngất ngưởng
trên ngai ; họ phá cung tường, nhà cửa của bách
tính để đào ao xây hồ, dân chúng chẳng có chỗ
an nghỉ. Họ lấy ruộng đất của bánh tính
làm vườn bách thảo, bách thú, khiến dân thiếu
ăn thiếu mặc. Lại thêm những tà thuyết, bạo
hạnh nổi lên. Vườn bách thảo, bách thú, ao, hồ,
bái (hồ trồng hoa), đầm càng nhiều thì các giống
chim và thú qui tụ càng đông. Tới đời vua Trụ,
loạn đến cực điểm". Đó lại là
một thời loạn nữa.
“Bấy
giờ ông Chu Công giúp ông Võ Vương, giết vua Trụ,
phạt nước Yên, ba năm mới giết được
vua nước Yên, đuổi Phi Liêm (kẻ sủng ái của
vua Trụ) ra tận góc biển mà giết. Năm chục
vua chư hầu (theo nhà Thương, tức theo vua Trụ
) bị Võ Vương tiêu diệt hết. Những đoàn
thú như cọp, beo, tê, voi (vua Trụ nuôi), ông thả ra và
đuổi đi xa. Thiên hạ rất mừng rỡ”.
Đó là một thời trị nữa.
“Rồi
đời càng suy, gạo càng kém, những tà thuyết, bạo
hạnh lại nổi lên, có kẻ bề tôi giết vua, có
kẻ làm con giết cha”. Đó lại là một thời loạn
nữa. Khổng tử sợ, mới soạn bộ Xuân
Thu, chép hành vi các vua để răn đời (...).
“Ngày
nay bậc thánh vương không ra đời, các vua chư hầu
thì luông tuồng, mà hạng xử sĩ thì bàn ngang luận
càn, học thuyết của Dương Chu và Mặc Địch
lan tràn thiên hạ, khi bàn bạc người nào không theo
Dương thì theo Mặc. Dương chỉ biết có mình,
như vậy là không có vua. Mặc thương tất cả
mọi người như nhau, như vậy là không có cha. “Không
vua, không cha, tức là cầm thú ”.
Loạn cực rồi.
Thuyết
nhất trị nhất loạn đó đúng. Nhưng Mạnh
tử còn bảo thêm rằng cứ 500 năm lại trở
lại một thời trị, rồi lấy sử ra
để chứng thực (coi lại chương IV). Và
ông tính từ Thành Thang đến ông, được non
1.500 năm, nên hi vọng đã đến thời thịnh.
Hồi
ông mới tới nước Tề, thấy Tề Tuyên
vương thành thực, có thiện chí, có chút lòng trắc ẩn
đối với loài vật nên tin rằng nếu thuyết
phục được Tuyên vương theo ông thì Tề có
thể thống nhất Trung Quốc, chấm dứt một
thời loạn đã kéo dài mấy trăm năm.
Có
lần ông bảo Tuyên vương không phải là người
"bất trí " nghĩa là cũng sáng suốt đấy,
nhưng ông chỉ yết kiến, khuyên bảo nhà vua trong
những buổi họp triều, rồi khi ông thoái triều
thì những kẻ tiểu nhân xen vào, làm nguội lạnh
chí khí của vua đi, nên Tuyên vương chưa làm
được gì cả (Cáo tử, thượng - bài 9).
Nếu
Tuyên vương theo ông thì lập nên vương nghiệp dễ
như lật bàn tay :
“Người
nước Tề có câu: "Làm việc gì tuy cần có trí
tuệ mà không bằng thừa được cái thế,
tuy cần có tư cơ (tài liệu, nền tảng để
làm việc), nhưng không bằng chờ được cái
thời". Theo như thời bây giờ thì dễ làm lắm.
(Là vì) Đời nhà Hạ, nhà Ân, nhà Chu vào lúc
đương thịnh, chưa có đất rộng
hơn ngàn dặm, mà Tề bây giờ có đất rộng
hơn ngàn dặm rồi. Tiếng gà gáy, chó sủa liên tiếp
nhau suốt đến bốn bề trong cõi, thế thì Tề
lại có dân đông nữa rồi. Đất chẳng cần
mở mang thêm nữa vì đã rộng rồi, dân cũng chẳng
cần phải gia tăng nữa vì đã đủ rồi.
Sẵn có thế lực như thế, nếu thi hành nhân
chính thì dựng nên nghiệp vương (gồm thâu thiên hạ),
chẳng ai ngăn cản nổi.
Vả
lại đời vương giả (nghĩa là bậc vua
thi hành nhân chính) mà không dấy lên, chưa bao giờ lâu
hơn lúc này; nhân dân đói khổ điêu đứng vì
ngược chính, chưa bao giờ tệ hơn lúc này. Lẽ
thường, kẻ đói quá thì dễ dãi đối với
thức ăn, kẻ khát quá thì dễ dãi đối với
thức uống; Khổng tử bảo: “ân đức
lưu hành trong dân gian mau hơn mạng lệnh do trạm
truyền đi”. Đương lúc này, một nước
có vạn cỗ chiến xa (nước rất lớn
như Tề) mà thi hành nhân chính thì dân vui mừng như bị
treo ngược mà được mở dây trói vậy. Cho
nên việc làm chỉ bằng nửa đời xưa mà
thành công gấp hai người thời xưa, chỉ lúc
này mới làm được như thế ". (Thả vương giả chi bất
tác, vị hữu sơ ư thử thời giả dã, dân
chi tiều tụy ư ngược chính, vị hữu thậm
ư thử thời giả dã. Cơ giả dị vi thực,
khát giả dị vi ẩm. Khổng tử viết: “đức
chi lưu hành tốc ư trí bưu nhi truyền mệnh”.
Đương kim chi thời,
vạn thặng chi quốc hành nhân chính, dân chi duyệt chi,
do giải đảo huyền dã. Cố sự bán cổ chi
nhân, công tất bội chi. Duy thử thời vi nhiên.-
Công tôn Sửu, thượng - bài I).
且 王 者 之 不 作 未 有
疏 於 此 時 者
也 ; 民 之 憔 悴 於 虐 政, 未
有 甚 於 此 時
者 也○饑 者 易
爲 食, 渴 者 易 爲 飲.
孔 子 曰︰德 之 流 行 速 於 置 郵 而 傅 命.
當 今 之 時,
萬 乘 之 國 行 仁 政, 民 之 悅
之,
猶 解 倒 懸
也. 故 事
半 古 之 人, 功 必 倍
之,
惟 此 時 爲
然.
Rốt
cuộc, đạo ông chẳng thực hiện được
chút gì, ông hoàn toàn thất vọng, rồi bỏ Tề, rầu
rĩ tới nỗi một đệ tử là Sung Ngu phải
hỏi :
-
Thưa thầy, cơ hồ thầy không được
vui ? Trước kia, Ngu này thường nghe thầy dạy
: “Người quân tử không oán Trời, không trách người”.
Mạnh
tử đáp :
-
Trước kia là thời khác, nay là thời khác. Cứ năm
trăm năm có một bậc thánh vương ra đời
mà thống nhất thiên hạ; trong thời gian ấy tất
có những bậc hiền tài để danh ở đời.
Từ vua Văn, vua Võ nhà Chu tới nay, đã trên bảy
trăm năm[12]
. Tính theo kì hạn 500 năm thì đã quá số rồi. Xét
theo thời này là thời cực loạn thì có thể có một
cuộc cách mạng để thiên hạ được
bình to rồi.
Nhưng
Trời chưa muốn cho thiên hạ bình trị.
Nếu
muốn thì hiện nay, không dùng thầy thì dùng ai ? Được
vậy thì lẽ nào chẳng vui ? ".
Mạnh tử khứ Tề.
Sung Ngu lộ vấn viết :
Phu tử nhược hữu
bất dự sắc nhiên. Tiền nhật, Ngu văn
chư phu tử viết : Quân tử bất oán thiên, bất
vưu nhân.
Viết :
- Bỉ nhất thời,
thử nhất thời dã. Ngũ bách niên tất hữu
vương giả hưng, kì gian tất hữu danh thế
giả. Do Chu nhi lai, thất bách hữu dư tuế hĩ,
dĩ kì số tắc quá hĩ, dĩ kì thời khảo
chi, tắc khả hĩ.
Phù thiên vị dục bình
trị thiên hạ dã. Như dục bình trị thiên hạ,
đương kim chi thể, xá ngã, kì thùy dã ? Ngô hà vi bất
dự tai?
Công tôn Sửu, hạ - bài 13).
Bài 38, Tận Tâm hạ, ở cuối
bộ, ông cũng than thở loạn đã lâu quá cái hạn
500 năm rồi mà sao chưa thấy có mòi trị. (Coi
chương IV ở trên).
Ông
thật là người ưu thời mẫn thế. Không rõ
về già ông có nhận thấy cái luật 500 năm đó của
ông sai không ? Ông mất (-289) rồi, Trung-quốc còn loạn
thêm 68 năm nữa, đến khi Tần Thủy Hoàng diệt
được Tề mà thống nhất toàn cõi (-221).
Nhưng thực ra, suốt triều Tần, Trung Hoa không thể
gọi là trị được, phải đợi đến
năm -206 . Hán Cao tổ lên ngôi, mới bắt đầu một
thời bình trị, mà về tài đức Cao tổ khó làm
cho một người như Mạnh tử phục
được. Vậy là từ khi Võ vương mất,
phải đợi 909 năm mới có một thời trị,
chứ không phải 500 năm (-1115 –206).
Chương 6
TƯ
TƯỞNG KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
Mạnh tử là người
đầu tiên dùng chữ nhân chính " 仁
政 "
và hai phần ba hay ba phần tư bộ Mạnh Tử nói
về nhân chính. Ông lại cho nghĩa "義 " luôn luôn đi kèm
với "仁" nhân, và
tuyệt nhiên không nói tới lợi, dù là lợi cho
nước, vì muốn mưu lợi cho nước mình thì
phải cướp của nước người,
loạn do đó mà phát. Mở đầu bộ Mạnh Tử, ông bảo
Lương Huệ vương :
-
Vua cần gì phải nói tới lợi ? Chỉ nên nói tới
nhân nghĩa mà thôi. Nếu bậc quốc vương bảo
: Có cách gì để làm lợi cho nước ta? Thì quan
Đại phu cũng sẽ bảo: Có cách gì làm lợi cho
nhà ta? và kẻ sĩ và hạng bình dân cũng sẽ bảo:
Có cách gì làm lợi cho thân ta ? Thế là trên dưới đều
tranh nhau vì lợi mà nước sẽ nguy.
Nguy
ở chỗ kẻ dưới sẽ vì lợi mà giết
bề trên. Chủ một đại tộc có ngàn cỗ xe
(nước chư hầu) sẽ giết vua một nước
có vạn cỗ xe (thiên tử), chủ một gia tộc có
trăm cỗ xe (đại phu) lại giết vua một
nước có ngàn cỗ xe. Như bề trên có một vạn
mà mình được một ngàn, có một ngàn mà mình
được một trăm, không phải là không nhiều
rồi. Cho nên, nói đến lợi trước, đến
nghĩa sau thì không đoạt hết của kẻ kia, mình
không vừa lòng.
Trái
lại, chưa có người nào trọng điều
nghĩa mà lại bỏ bê cha mẹ, chưa có người
nào trọng điều nghĩa mà lại nghĩ tới
mình trước rồi mới nghĩ tới vua. Vậy
thì vua nên nói về nhân nghĩa mà thôi.
Cần
gì phải nói tới lợi ?
Vương hà tất viết
lợi ? diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hĩ.
Vương viết: Hà dĩ lợi ngô quốc ? Đại
phu viết : Hà dĩ lợi ngô gia? Sĩ, thứ nhân viết
: Hà dĩ lợi ngô thân ? Thượng hạ giao chính lợi,
nhi quốc nguy hĩ.
Vạn thặng chi quốc,
thí kì quân giả tất thiên thặng chi gia. Thiên thặng
chi quốc, thí kì quân giả tất bách thặng chi gia. Vạn
thủ thiên yên, thiên thủ bách yên, bất vi bất đa
hĩ. Cẩu vi hậu nghĩa nhi tiện lợi, bất
đoạt bất yếm.
Vị hữu nhân nhi di kì
thân giả dã, vị hữu nghĩa nhi hậu kì quân giả
dã. Vương diệc viết nhân nghĩa thi dĩ hĩ,
hà tất viết lợi ? - Vương Huệ
vương, thượng - bài I).
王 何 必 曰
利 ? 亦 有 仁 義 而 己 矣.
王 曰: 何 以 利 吾
國?
大夫 曰: 何 以 利
吾 家?士, 庶 人曰: 何 以 利 吾 身?
上下 交 征 利,而 國 危 矣.
萬 乘 之 國, 弒其 君 者
必千乘 之家.
千 乘 之 國, 弒其 君 者
必百乘 之家.
萬 取 千 焉, 千取 百 焉,不爲不
多矣.
苟 爲 後 義 而 先 利,不
奪不 饜.
未 有 仁 而 遺 其 親 者
也,未 有 義 而 後 其 君 者也.
王 亦 曰 仁 義 而 已 矣,
何 必曰 利 ?
Trong
toàn bộ có trên hai chục bài đề cao nhân nghĩa mà
đả đảo lợi. Tôi chỉ xin dẫn một
bài nữa, bài 4, Cáo tứ, hạ.
Tống
Khanh (có sách chép là Tống Kiên, hoặc Tổng Vinh), một
người theo phái Mặc tử, (lớn hơn Mạnh tử
độ mười tuổi) sắp đi qua nước
Sở. Mạnh tử gặp ở Thạch-khâu, hỏi :
-
Tiên sinh đi đâu đó ?
Tống
Khanh đáp :
-
Tôi nghe nói Tần và Sở sắp tấn công nhau.Tôi định
yết kiến vua Sở, khuyên nên bãi binh đi. Nếu vua Sở
không bằng lòng thì tôi sẽ yết kiến vua Tần,
khuyên bãi binh. Trong hai vua ấy, tất có một ông nghe lời
tôi.
Mạnh
tử bảo :
Kha
tôi xin dược hỏi rõ một điều, lí lẽ
chính ông sẽ đưa ra như thế nào ? Ông sẽ thuyết
phục hai vua đó ra sao ?
-
Tôi sẽ vạch rõ chiến tranh bất lợi cho hai nước
ra sao.
-
Ý chí của ông rất lớn, nhưng lí lẽ ông đưa
ra thì không tốt. Ông đem cái lợi mà nói với vua Tần,
vua Sở, mà họ vui về điều lợi, bãi binh, thì
binh lính sẽ vui vẻ nghỉ ngơi mà thích cái lợi; kẻ
làm bề tôi sẽ chỉ vì ham lợi mới thờ vua, kẻ
làm con sẽ chỉ vì ham lợi mới thờ cha, kẻ
làm em sẽ chỉ vì ham lợi mới thờ anh. Vậy
là vua tôi, cha con, anh em rốt cuộc bỏ hết điều
nhân, điều nghĩa, chỉ nghĩ đến lợi
trong sự giao thiệp với nhau. Như thế mà nước
chẳng diệt vong thì là điều chưa từng có.
Còn
như ông đem nhân nghĩa mà nói với vua Tần, vua Sở,
họ vui về điều nhân điều nghĩa mà bãi
binh thì binh lính sẽ vui vẻ nghỉ ngơi mà thích nhân
nghĩa ; kẻ bề tôi sẽ vì nhân nghĩa mà thờ
vua, kẻ làm con sẽ vì nhân nghĩa mà thờ cha, kẻ
làm em sẽ vì nhân nghĩa mà thờ anh. Vậy là vua tôi, cha
con, anh em sẽ bỏ cái lợi đi, nghĩ đến
nhân nghĩa mà giao thiệp với nhau. Như thế mà
nước chẳng hưng vượng, là điều
chưa từng có. Cần chi phải nói tới lợi ?
"
Tôi
chưa từng thấy triết gia vào thâm oán chữ lợi
như Mạnh tử; cứ nghe ai nói đến lợi là
ông đả đảo : "Hà tất viết lợi?"
Trái
lại, ông rất trọng nhân, nghĩa :
-
Có nhân thì được vinh dự, bất nhân thì chịu
nhục nhã. (Công Tôn Sửu, thượng - bài 4).
-
Đức nhân là chỗ ở yên ổn của người
đời; đức nghĩa là con đường chính
đại của người đời (Nhân, nhân chi an trạch dã; nghĩa, nhân chi chính lộ
dã - Li Lâu, thượng - bài 10).
仁, 人 之 安 宅 也,
義, 人 之 正 路 也
Con
người chỉ khác cầm thú vì biết nhân nghĩa mà
thôi. Li Lâu, hạ - bài 19).
Sống
thì ta vẫn muốn, làm việc nghĩa thì ta cũng ham. Nếu
chẳng được hai cái đó một lượt thì
ta đành bỏ mạng sống mà giữ lấy tiết
nghĩa. (Sinh diệc ngã sở
dục dã, nghĩa diệc ngã sở dục dã. Nhị giả
bất khả đắc kiêm, xả sinh nhi thủ nghĩa
giả dã - Cáo tử, thượng - bài 10).
生 亦 我 所 欲 也.
二 不 可 得 兼, 舍 生 而 取
義 者 也.
"Một
ông vua mà thích làm điều nhân thì không ai địch nổi"
(Tận Tâm, hạ - bài 4).
Vì
vậy yết kiến ông vua nào, ông cũng chỉ đem
đạo nhân nghĩa ra giảng, hi vọng tìm được
hoặc đào tạo dược một vị nhân quân.
Hai
nhiệm vụ quan trọng nhất của vị nhân quân
là dưỡng dân (nuôi dân) và giáo dân (dạy dân) , tức là
nhiệm vụ "phú, giáo" của Khổng tử. Mà hễ
dưỡng dân, bảo vệ dân thì không vô cớ gây chiến
tranh. Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt
xét từng điểm đó một.
*
* *
I. - Dưỡng dân và giáo dân
Thời
Xuân Thu rồi thời Chiến Quốc, trong ba bốn
trăm năm chiến tranh liên tiếp, dân chúng Trung Hoa chịu
biết bao nỗi điêu đứng, lời ta oán, giọng
thổn thức chắc phải đầy trong ca dao mà sao đời
sau không lưu lại được bài nào cả, như những
bài Kích cổ, Dương chi thủy, Quân tử vu dịch...trong
kinh Thi ? Không có ai sưu tầm hay bị Tần Thủy
Hoàng đốt hết ? Mà trong số "bách gia chư tử",
cũng chẳng thấy ai cất tiếng mạt sát bọn
cầm quyền, bênh vực dân đen, ngoài Mạnh tử.
Lòng thương dân của ông thật thắm thiết,
trong mười bốn chương, gần như
chương nào cũng biểu lộ nỗi ưu ái của
ông, yết kiến vua chư hầu nào, ông cũng nhắc
họ cái bổn phận dưỡng dân. Ông là người
đầu tiên, có lẽ duy nhất nữa, vạch rõ một
chế độ kinh tế để cứu dân. Ông quả
là một bậc "đại nhân" (có đức nhân
rất lớn).
Có
nhiều bài trình bày chế độ kinh tế ấy ; ba
bài quan trọng nhất là bài 3, Lương Huệ
vương, thượng, để giảng cho
Lương Huệ vương nghe, bài 7, Lương Huệ
vương, thượng, để thuyết Tề Tuyên
vương, và bài 3, Đằng Văn công, hạ, để
trả lời Đằng Văn công.
Ba
bài ấy có những chỗ trùng nhau, nhưng tôi cũng xin
chép cả lại dưới đây ( vì theo tôi đều
là những bài rất quan trọng trong bộ Mạnh Tử, rồi sẽ
phân tích sau.
Bài
3, Lương Huệ vương, thượng.
(...)
Nếu không làm trái thời tiết của kẻ làm ruộng,
(chẳng hạn đương mùa cấy, gặt mà bắt
họ làm xâu), thì lúa thóc ăn chẳng hết.
Nếu
cấm dân bủa lưới mắt nhỏ quá trong các
bưng, hồ thì cá ăn chẳng hết.
Nếu cấm đốn cây phá rừng sái mùa thì cây
dùng chẳng hết. Lúa thóc, cá, rùa, ba ba mà dư ăn, cây mà
dư dùng thì dân nuôi được người sống,
chôn được người chết, không có gì oán hận
cả.
Khiến
cho dân nuôi được người sống, chôn
được người chết, không có gì oán hận,
thì là bắt đầu thực hiện được
vương đạo rồi.
"Nếu
mỗi người dân dược cấp cho năm mẫu
đất để ở và trồng dâu thì người
năm chục tuổi có lụa mà mặc. Nếu chẳng
làm hại sự sinh sản của gà, heo, chó thì người
bảy chục tuổi có thịt mà ăn. Nếu không chiếm
mất thì giờ cấy gặt của những gia đình
làm trăm mẫu[13]
ruộng thì những người trong gia đình ấy không
phải đói khổ. Lo việc giáo dục cẩn thận
trong các trường tường và tự [14]
, dạy cho trẻ biết hiếu, đễ thì những
người đầu bạc hoa râm khỏi phải nặng
nhọc đội, gánh ở ngoài đường.
Trong
nước mà người bảy chục tuổi có lụa
mà mặc, có thịt mà ăn, dân chúng khỏi đói, khỏi
lạnh mà không lập được nghiệp
vương, thì là diều chưa thấy" (Ngũ mẫu chi trạch,thụ
chi dĩ tang, ngũ thập giả khả dĩ ý bạch
hĩ. Kê, đồn cẩu trệ chi súc, vô thất kỳ
thời, thất thập khả dĩ thực nhục hĩ.
Bạch mẫu chi điền, vật đoạt kì thì, sổ
khẩu chi gia khả dĩ vô cơ hĩ. Cẩn tường
tự chi giáo, thân chi dĩ hiếu đễ chi nghĩa,
ban bạch giả bất phụ đái ư đạo lộ
hĩ.Thất thập giả ý bạch, thực nhục, lê
dân bất cơ, bất hàn, nhiên nhi bất vương giả,
vị chi hữu dã . Bài 7,
Lương Huệ vương, thượng.
五 畝 之 宅 樹 之 以 桑,
五 十 者 可 以 衣 帛 矣.
雞 豚 狗 彘 之 畜,無 失 其 時,七 十 者 可
以 食 肉 矣.
百 畝 之 田,勿 奪 其 時,
數 囗 之 家 可 以 無 饑 矣.
謹 庠 序 之 教,申 之 以 孝 悌 之 義,頒
者 不 負 戴 於 道 路 矣. 七
十 者 衣 帛 肉,黎 民 不 饑 不 寒,然
而 不 王 者,未 之 有 也.
"Không có hằng sản (hằng
sản là lúc nào cũng có sẵn tiền) mà có hằng tâm (hằng
tâm là lòng lúc nào cũng tốt) thì chỉ có bậc "sĩ"
(tức có đạo đức, học vấn cao) mới
được như vậy. Còn hạng thường dân hễ
không có hằng sản thì không có hằng tâm.
Không
có hằng tâm thì phóng túng, gian dối, bậy bạ, chẳng
cái gì là chẳng làm, đến khi họ phạm pháp thì
người cầm quyền vin vào đó mà chém giết họ,
không khác gì đặt lưới mà bẫy họ. Bậc
nhân đức ngồi ở trên trị dân mà lại đặt
lưới bẫy dân sao?
(Vô hằng sản nhi hữu
hằng tâm giả, duy sĩ vi năng Nhược dân tắc
vô hằng sán, nhân vô hằng tâm. Cẩu vô hằng tâm, phóng tịch
tà, xỉ, vô bất vi dĩ. Cập hãm ư tội, nhiên hậu
tòng nhi hình chi, thị võng dân dã. Yên hữu nhân nhân tại vị,
võng dân nhi khả vi dã ? ).
無 恆
產 而 有 恆 心 者,惟 士 爲
能,
若 民
刖 無 恆 產 因 無 恆 心,
放 僻
邪 侈,無 不 爲 以.及 陷 於
罪 然 後 從 而 刑 之,
是 罔
民 也.焉 有 仁 人 在 位,罔
民 而 可 爲 也?
Vì vậy mà bậc minh quân phải
điều chế điền sản cho dân để trên
thì đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới
thì đủ sức nuôi vợ con, năm được
mùa thì mãi mãi no đủ, năm mất mùa thì cũng khỏi
chết đói.
Như
vậy rồi đưa họ vào con đường thiện,
họ mới dễ theo.
"Ngày
nay, điều chế điền sản cho dân, trên họ
không đủ sức phụng dưỡng cha mẹ,
dưới không đủ sức nuôi vợ con, năm
được mùa thì vẫn khổ hoài, năm mất mùa
thì không khỏi chết đói. Như vậy dân chỉ lo
khỏi chết mà còn sợ không được thay, đâu
có rảnh mà làm việc lễ, nghĩa ? Vua muốn thi hành
nhân chính thì sao bằng trở về phép căn bản".
(Tiếp
theo là một đoạn y hệt đoạn tôi đã phiên
âm và chép chữ Hán ở cuối bài 3, Lương Huệ
vương, thượng, đầu trang 110 chỉ khác có
vài chữ).
Bài
3, Đằng Văn công, thượng. Bài này dài hơn cả
Đằng Văn công hỏi về cách trị nước.
Mạnh tử đáp :
-
Nhà cầm quyền không thể bỏ lỡ việc sinh
nhai của dân (...) Thường tình của dân là có hằng
sản thì mới có hằng tâm, không có hằng sản thì
không có hằng tâm. Không có hằng tâm thì phóng túng, gian dối,
bậy bạ, chẳng cái gì là chẳng làm, đến khi
phạm pháp thì người cầm quyền vin vào đó mà
chém giết họ, như vậy không khác gì đặt
lưới mà bẫy họ. Bậc nhân đức ngồi
ở trên mà trị dân mà lại đặt lưới bẫy
dân sao? [15] Vì
vậy cho nên bậc hiền quân phải khiêm cung, tiết
kiệm, lễ độ với người dưới,
lấy thuế của dân có chừng mực.
Dương
Hổ nói: "Làm giàu thì bất nhân, làm điều nhân thì
không giàu".
Đời
nhà Hạ, mỗi người chủ gia đình được
phát cho năm chục mẫu ruộng, mỗi mùa phải
đóng thuế cống bằng
huê lợi của năm mẫu. Đời Ân, mỗi
người chủ gia đình được phát cho bảy
chục mẫu mà được hưởng trọn huê lợi
nhưng tám gia đình phải chung sức làm một khoảng
ruộng công ở giữa, phép đó gọi là trợ .
Đời Chu, mỗi chủ gia đình được phát
cho trăm mẫu, được hưởng trọn huê lợi,
nhưng tám gia đình phải chung
sức làm một khoảng ruộng công ở giữa, phép
đó gọi là triệt. Ba
cách đó tuy có khác nhưng đều là lấy một phần
mười huê lợi của dân.
"Triệt
có nghĩa là thông dụng mà trợ có nghĩa là giúp". [16]
(Theo
một số học giả Trung-Hoa gần đây thì phép trợ
và triệt là chế độ cộng sản nguyên thủy
còn sót lại của Trung-Hoa. Mỗi miếng đất
vuông vức 630 mẫu (phép trợ) hoặc 900 mẫu (phép
triệt) chia làm chín phần bằng nhau , mỗi phần 70
hoặc 100 mẫu. Tám phần chung quanh chia cho tám gia
đình; phần ở giữa để lại một ít
làm chỗ ở cho tám gia đình còn lại bao nhiêu thì tám nhà
cầy cấy chung nộp lúa cho nhà vua. Hình miếng đất
khi chia như vậy, giống chia tỉnh, nên gọi là phép
tỉnh điền (ông Long
Tử - một người hiền thời xưa - nói :
"Về
việc chia đất và thu thuế, phép trợ dễ chịu hơn hết, tệ nhất
là phép cống. Vì theo phép cống,
người ta lấy số trung bình thu hoạch được
trong nhiều năm mà định số thuế phải nộp
mỗi năm, như vậy năm được mùa, lúa
thóc dư dật, dù chính phủ có thu nhiều cũng không
phải là bạo ngược, thế mà chính phủ lại
thu ít. Tới năm mất mùa, huê lợi chỉ đủ
trả tiền bón phân mà chính phủ vẫn bắt phải
nộp đủ số (Độc hại như vậy).
Làm cha mẹ dân mà để cho dân lấm lét ngó mình, để
cho họ cực nhọc suốt năm mà không đủ
nuôi cha mẹ, rồi phải đi vay nợ để
đóng đủ số thuế, khiến người già
và trẻ con chết ở đường mương, rãnh
nước, thì làm cha mẹ dân ở chỗ nào ? ( . . . )
Ngoài ra, chính quyền phải lập những trường tường, tự, học, hiệu,
để dạy dân. Tường
là trường dạy dân biết phụng sự người
già cả ; hiệu là trường
dạy dân về văn hóa, đạo đức ; tự là trường dạy
bắn cung. Đời Hạ gọi là hiệu, đời
Ân gọi là tự, đời Chu gọi là tường. Còn
học là trường Quốc
học ở kinh đô, cả ba đời Hạ, Ân, Chu
đều dùng tên ấy. Các trường ấy đều
dạy cho dân rõ nhân luân (đạo luân thường).
Bề
trên mà hiểu rõ và giữ luân thường thì kẻ dưới
thân mến, hòa mục với nhau. Sau này có bậc
vương giả ra đời tất lại dùng phép ấy,
mà vua Đằng (tuy chẳng làm chủ thiên hạ,
cũng) sẽ là bậc thầy làm khuôn mẫu cho các bậc
vương giả ấy" (...).
Sau
đó, Đằng Văn công lại sai một viên quan tên là
Tất Chiến tới hỏi về phép tỉnh điền.
Mạnh tử đáp:
(...)
"Muốn làm nhân chính thì trước hết phải vạch
ranh giới ruộng đất. Nếu ranh giới không
minh thì mỗi khu trong tỉnh địa (đất chia
theo phép tỉnh điền) không đều nhau, thuế
không đều nhau mà số lúa phát cho quan không được
công bình. Vì vậy bọn vua tàn bạo và quan tham nhũng
lơ là về việc vạch ranh giới (để ép dân
đóng góp cho nhiều ). Vạch ranh giới cho phân minh thì sự
chia ruộng cho dân và phát bổng lộc cho quan sẽ
được ổn định một cách dễ dàng
".
Và
đây là đề nghị của Mạnh tử để
áp dụng cho nước Đằng :
"Xin
vua đối với người làm ruộng ở thôn quê
thì dùng phép trợ, thâu một phần chín huê lợi; đối
với người kinh thành thì để họ tự nộp
một phần mười huê lợi [17].
Các quan khanh trở xuống đều được cấp
khuê điền " (ruộng để lấy huê lợi
mà cúng tổ tiên) là năm chục mẫu mỗi người
[18]
.
Đối
với những người trai chưa thành gia thất thì
phát cho mỗi người hai mươi lăm mẫu.
Người
chết thì chôn ở làng, người sống không
được bỏ làng mà đi nơi khác. Những
người trong một làng và cùng chung một "tỉnh
địa" , sáng cùng ra ruộng, chiều cùng về nhà,
thân cận với nhau, tương trợ mà giữ gìn làng
xóm, đau ốm thì nâng đỡ nhau, như vậy
trăm họ sẽ thân ái, hòa mục với nhau.
"Đất
vuông vức một dặm là một tỉnh, mỗi tỉnh
có chín trăm mẫu [19].
Khu ở giữa là công điền. Tám nhà đều
được cấp mỗi nhà 100 mẫu làm tư điền,
và đều chung sức để làm khu công điền.
Việc công làm xong rồi mới dám làm việc tư (...)
Đại khái như vậy, còn muốn thi hành cho rộng
rãi, hoàn toàn hơn thì tùy nhà vua và ông ".
Phân
tích ba bài trích dẫn ở trên, chúng ta thấy :
1
- Mạnh tử đặc biệt chú trọng đến
vấn đề kinh tế : không thể bỏ lơ công
việc sinh nhai của dân được, vì đó là vấn
đề căn bản cho sự sống còn của dân, là
điều kiện cốt yếu cho tinh thần đạo
đức của dân. Nếu dân đói rét, lo cứu sống
không xong thì còn nghĩ gì đến liêm sỉ, lễ
nghĩa nữa. Vậy phải làm sao cho dân có hằng sản
rồi mới mong họ có hằng tâm được.
Dưỡng dân và giáo dân là hai việc liên quan mật thiết
với nhau; cho nên cả trong ba bài, hễ nói tới dưỡng
dân, ông luôn luôn kèm thêm giáo dân vì ông nghĩ rằng ăn no mặc
ấm, ở không mà không được dạy dỗ thì
không khác gì cầm thú (Đằng Văn công, thượng -
bài 4), và chính trị tốt không bằng giáo dục tốt.(Tận
tâm, thượng - bài 14).
Nhưng
ông cho dưỡng dân là việc cần nhất.
2
- Muốn dưỡng dân thì phải cho dân đủ đất
làm ruộng, phải "chế sản" cho công bình. Ông
theo chính sách tỉnh điền của đời Chu. Theo
Maspéro trong cuốn La Chine antique
(PUF - 1965), thì Tấn là nước đầu tiên bỏ
chính sách tỉnh điền từ đời Xuân Thu (trang
267). Và theo Từ Hải thì Tần Hiếu công năm
-350 bắt đầu bỏ
chính sách tỉnh điền.
Tấn
là đất cũ, Tần là đất mới. Vậy ta
có thể đoán rằng thời Chiến Quốc, khi Mạnh
tử đi thuyết các vua Lương, Tề, Đằng,
đa số các nước đã bỏ chính sách tỉnh
điền rồi, nước nào còn giữ thì cũng
không được đúng nguyên tắc buổi đầu
nữa. Người ta cho dân tự do khai thác thêm những
đất mới để thu thuế được nhiều,
mà nuôi binh lính. Vậy việc ông đề nghị với
vua Đằng Văn công là một cuộc chia đất lại
cho công bình, khỏi có người giàu quá người nghèo
quá.
Không
rõ vua Đằng có theo lời ông không, nhưng chúng ta có thể
nghĩ rằng Mạnh tử đã ảnh hưởng đến
hậu thế vì việc chia ruộng lại đó, các vua
Trung Quốc, sau này cứ lâu lâu đem ra áp dụng lại.
Như
đời Hán, Võ Đế và Vương Mãng đều muốn
lấy đất của địa chủ lớn chia cho
dân nghèo theo phép tỉnh điền; đời Lục Triều,
nhà Tấn hạn chế số ruộng của hạng
vương tôn và phát cho dân nghèo mỗi chủ gia đình bảy
chục mẫu; đời Ngụy, mỗi chủ gia
đình được cấp bốn chục mẫu, khi chết
phải trả lại triều đình, thêm hai chục mẫu
nữa cho đứt để truyền tử lưu tôn; đời
Tống, Vương An Thạch cũng chủ trương
nhiều cải cách xã hội để cho Linh trạng "bất
quân" bớt được phần nào. Chẳng riêng ở
Trung Hoa, khắp thế giới, sự tập trung tài sản
là một điều tự nhiên, không sao tránh được
: những người tài giỏi, khôn lanh, siêng năng bao
giờ cũng mỗi ngày một giàu thêm, và cái hố phân
cách người nghèo và người giàu càng tăng, tới
một lúc nào đó, sự "bất quân bất công " có
thể gây nội loạn và nhà cầm quyền phải phân
chia lại tài sản hoặc bằng cách bạo động,
hoặc bằng cách ôn hòa. Như Will Durant đã nói trong
chương VIII cuốn Bài học
của lịch sử, lịch sử kinh tế không khác
gì trái tim của xã hội, nó đập chậm chậm:
trong thời gian trái tim phồng ra, của cải dược
một thiểu số tập trung lại, để rồi
tới thời gian trái tim bóp lại thì nhất định
sẽ phải phân phát ra để lưu thông . Mạnh tử
hiểu luật đó và ông đề nghị với các vua
chư hầu một cải cách ôn hòa.
3
- Ông không phải chỉ là một triết gia, mà còn là một
chính trị gia, kinh tế gia nữa, nghĩ cả tới
những tiểu tiết như : phải đạc điền
lại mà vạch ranh giới ruộng đất cho phân
minh, công bình, chia cho mỗi gia đình bao nhiêu mẫu ruộng
và một số đất vườn để nhà nào
cũng có thể trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa mặc,
nuôi heo, gà lấy thịt ăn. Chế độ lí tưởng
đó, không thời nào nhân loại thực hiện
được và ngày nay càng khó thực hiện hơn nữa
vì nạn kĩ nghệ hóa, nạn chiến tranh, nhất là
nạn nhân mãn. Chúng ta có vô số tiện nghi mà ông cha chúng ta
không có, nhưng đời sống của chúng ta ở
đô thị không sung sướng bằng đời các cụ
thời xưa có một khu vườn chung quanh nhà trồng
giàn bàu, luống cải, nuôi mấy con gà, con vịt.
-
Cấm dân dùng những lưới nhặt quá để bắt
cá, bắt rùa, cấm đốn rừng không hợp thời,
để cho những nguồn lợi đó khỏi bị
tiêu diệt ; về điểm đó, bài học của ông
ngày nay vẫn còn đáng cho chúng ta nhớ: nhiều nhà chuyên
môn về hải học, ngư nghiệp đã lo rằng
chẳng bao lâu nữa vài loại cá biển như cá voi sẽ
mất giống.
-
Bổn phận nhà cầm quyền là không được
làm trái thời cấy gặt của dân (nghĩa là đừng
bắt họ làm xâu khi họ mắc công việc đồng
áng) ; phải tiết kiệm, đừng xa xỉ mà bắt
dân phải nai lưng ra đóng thuế. Có hai đoạn
ông mạt sát bọn cầm quyền sống xa xỉ trên
xương máu của dân. Một đoạn trong bài 4,
Lương Huệ vương, thượng, ông mang Lương
Huệ vương, mà tôi đã dẫn trong chương
đầu; một đoạn nữa trong bài 4, Lương
Huệ vương, hạ, ông mang hết cả các vua
chư hầu đương thời :
"(Ngày
nay...) vua chư hầu khi xuất du thì dắt theo một
đoàn hộ vệ rất đông , bắt dân chúng cung cấp
lương thực, khiến cho dân đã đói lại phải
nhịn ăn, đã làm cực nhọc lại phải hầu
hạ nữa, không được nghỉ, họ liếc
nhau mà cùng nhau trách vua. Vì vậy dân sinh oán vua. Vua đã trái lệnh
thiên tử lại ngược đãi dân, đoàn tùy tùng
ăn uống phung phí như nước đổ, mắc
những tật lưu, liên,
hoang, vong, đó là điều vua chư hầu đáng
lo.
Lưu
là thả trôi theo dòng mà quên về; liên là ngược dòng
nước mà quên về; hoang là ham săn bắn mà không
chán; vong là mê rượu trà mà không chán. (Sư hành nhi lương thực. Cơ giả phất
thực, lao giả phất tức, quyến quyến tư
sàm. Dân nãi tác thắc. Phương mệnh, ngược dân,
ẩm thực nhược lưu; lưu, liên, hoang, vong, vi
chư hầu ưu. Tòng lưu hạ nhi vong phản, vị
chi lưu; tòng lưu thướng nhi vong phản, vị chi
liên; tòng thú vô yếm vị chi hoang, lạc tửu vô yếm,
vị chi vong ).
-
Về thuế ruộng, ông dung hòa phép trợ và phép cống
tùy nơi (thôn quê hay thành thị), nhưng qui tắc là phải
đánh thuế sao cho dân đủ sức nộp.
Bài
27, Tận tâm, hạ, ông bảo : "Có thứ thuế nộp
bằng vải hoặc sợi tơ (nhà trồng dâu và bông
vải nộp trong mùa hạ); có thứ thuế nộp bằng
lúa thóc (mùa thu); có thứ thuế nữa là sưu dịch
(trong mùa đông, khi công việc đồng áng dã xong). Nhà cầm
quyền chỉ nên thâu một thứ mà hoãn lại hai thứ
kia, nếu thâu cả hai một lúc thì dân sẽ có kẻ chết
đói, nếu thâu cả ba thứ một lúc thì dân sẽ
cùng quẫn, cha con phải lìa nhau ".
-
Ông mạt sát chế độ quan thuế, bảo : ngày
xưa, đặt ra cửa quan để phòng ngừa trộm
cướp, ngày nay đặt ra cửa quan cốt để
làm trộm cướp. (Cổ
chi vi quan dã, tương dĩ ngự bạo ; kim chi vi quan
dã, tương dĩ vi bạo - Tận tâm, hạ - bài
8).
古 之 爲 關 也, 將
以 禦 暴; 今 之 爲 關 也, 將
以 爲 暴.
Là
vì xưa đặt ra chỗ tuần phòng ở cửa ải,
cửa sông, cửa bể để ngừa trộm cướp,
ngày nay chỉ để thu thuế cho nhiều, khác gì
cướp của dân.
Chính
sách xã hội của ông là đặc biệt cưu mang bốn
hạng người quan, quả, độc, cô . Ông bảo
Tề Tuyên vương : "già mà góa vợ gọi là quan,
già mà góa chồng gọi là quả, già mà không có con gọi là
độc, trẻ mà mồ côi cha gọi là cô. Đó là bốn
hạng cùng khổ nhất trong thiên hạ, không biết nhờ
cậy vào ai. Vua Văn vương bắt đầu trị
nước, thi nhân, lưu tâm tới bốn hạng người
ấy trước nhất " (Lão
nhi vô thê viết quan, lão nhi vô phu viết quả, lão nhi vô tử
viết độc, ấu nhi vô phụ viết cô. Thử tứ
giả, thiên hạ chi cùng dân nhi vô cáo giả. Văn
vương phát chính thi nhân tất tiên tư tứ giả -
Lương Huệ vương, hạ - bài 5).
老 而 無 妻
曰 鰥, 老 而 無 夫
曰 寡, 老 而 無 子 曰 獨,
幼 而 無 父 曰 孤.
此 四 者 天 下 之 窮 民 而 無 告 者.
文 王 發 政
施 仁 必 先 斯
四 者.
Người
già mà không quan, quả hay độc, thì cũng được
ông rất ưu ái, lo cho chu đáo : trong ba bài dẫn ở
đầu chương này, có hai bài ông nhắc tới họ,
mong cho họ được mặc áo lụa, ăn thịt
và khỏi phải đội, gánh nặng ở ngoài
đường.
Chương
trình kinh tế và xã hội của ông thật đầy
đủ, công bằng, nhân từ, ngày nay chúng ta còn xa mới
đạt được lí tưởng của ông: những
người già trong xã hội chúng ta, nhất là ở
phương Tây thật cô độc, bị xã hội sa thải,
con cháu bỏ bê, sống trong các dưỡng lão viện mà
chờ chết. Tình cảnh họ thê thảm tới nỗi
nữ văn hào Mĩ Pearl Buch đã phải mạt sát
văn minh Âu, Mĩ đối với người già thật
bất nhân, nên noi gương thời cổ của Trung-Hoa
mà cải tạo lại xã hội.
*
* *
Không
vô cớ gây chiến.
Chiến
Quốc sách, bài Tề V.l, có một đoạn tả
được một phần nhỏ cái họa của chiến
tranh:
"Chiến
tranh là tàn mạt: nghe tin có chiến tranh, kẻ sĩ thì gom
của riêng mà cấp cho binh đội; người ở
chợ thì gom lương thực mà cấp cho lính cảm tử
; quan trên ra lệnh chặt đòn ngang của xe để
làm củi, giết bò (cày) để đãi lính, như vậy
là đưa binh đội đến chỗ suy nhược.
Người thường thì cầu khấn, vua chúa thì tế
lễ các tử sĩ, từ kinh đô tới các huyện
nha đều đặt bàn thờ cúng vái, ấp nào có chợ
thì cũng ngưng mọi hoạt động mà phục vụ
nhà vua, như vậy là làm cho nước hóa rỗng không.
Hôm trước hết chiến tranh thì hôm sau lo chôn người,
giúp đỡ kẻ bị thương; dù có công thắng
trận, nhưng hao tổn về quân phí, nhân dân bi thảm
khóc lóc, cũng đau lòng cho vua. Nhà nào có người chết
thì khuynh gia, bại sản vì việc ma chay; nhà nào có người
bị thương thì dốc hết tiền lo việc thuốc
thang; nhà nào không có người chết hoặc bị
thương thì bày tiệc mừng, rượu chè chơi bời,
phí tổn cũng không kém những nhà kia. Phí tổn vào chiến
tranh, mười năm thu lúa cũng chưa đủ bù.
Quân đội mà chiến đấu xong thì mâu và kích gãy,
vòng và dây cung đứt, nỏ hao tổn, xe hư hỏng,
ngựa mệt mỏi, tên mất đi già nửa, áo giáp
cùng binh khí triều đình phát ra, kẻ sĩ và đại
phu giấu đi một phần, sĩ tốt lấy trộm
một phần[20]
, dù thu thuế ruộng mười năm cũng chưa
đủ bù vào ( .)
Đánh
thành là việc tốn kém, quần áo dân chúng rách hết,
đem binh xa và chiến xa để phá thành, người
dân ở nhà thì phải cùng nhau làm việc, trốn dưới
hang, hầm, tiền của dùng hết, chiến sĩ khốn
khổ vì công việc xây đắp, tướng thì không lúc
nào bỏ áo giáp, một vài tháng mà hạ được
thành đã là mau rồi. Người trên mệt mỏi,
không còn lo việc giáo hóa dân được nữa, dân chúng
thì vì chiến tranh mà bỏ cả việc làm ăn; cho nên
ít khi hạ được ba thành mà thắng được
địch ".
Hạ
được ba thành mà chưa thắng được
địch thì sức mình đã suy nhiều, khó mà chiến
thắng được nữa ; phải lo rút quân về,
vì vậy chiến tranh thời đó ít khi kéo dài tới một
năm, thường chỉ năm ba tháng, không như chiến
tranh ngày nay kéo dài cả mấy chục năm.
Tai
hại như vậy cho nên trừ bọn pháp gia và bọn
biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghi là hiếu
chiến (Vệ Ưởng bảo: Nước sở
dĩ được trọng, vua sở dĩ được
tôn là nhờ sức mạnh), còn Khổng, Lão, Mặc đều
ghét chiến tranh.
Lão
tử chủ trương "bất tranh", mà phải
tự hạ mình (khiêm hạ), phải nhường nhịn:
"Nước lớn cũng như dòng nước dưới
thấp, là chỗ thiên hạ dồn về. Cho nên nước
lớn mà hạ mình trước nước nhỏ thì tất
được nước nhỏ thần phục, nước
nhỏ mà hạ mình trước nước lớn thì tất
được nước lớn che chở".
Như
vậy chiến tranh không thể xảy ra được nữa.
Mặc
tử viết cả một chương "Phi công "
để mạt sát chiến tranh, bảo đánh nước
người là việc đại bất nghĩa, vì giết
hằng ngàn hằng vạn người, đáng bị hằng
ngàn hằng vạn tử tội, mà lại khen, ghi công trận
để lại đời sau thì quả là ngu muội. Có
lần ông đi từ nước Tề, luôn mười
ngày mười đêm đến kinh đô nước Sở
để can vua Sở đừng đánh Tống.
Không
những vậy, ông còn hô hào các vua chư hầu tới cứu
một nước nhỏ, sửa sang thành quách, cung cấp
vải thóc, khi nước nhỏ bị nước lớn
đánh.
Mạnh
tử cũng như Khổng tử cho võ bị là không cần
thiết, nhưng thời của ông loạn hơn thời
Khổng tử nhiều (có những trận hằng sáu vạn,
tám vạn người) nên ông còn oán chiến tranh hơn.
Trong
bài 6, Lương Huệ vương, thượng, ông bảo:
"Hiện
nay trong thiên hạ chẳng có vị chăn dân nào mà chẳng
ham giết người; nếu có một vị nào chẳng
ham giết người thì mọi người trong thiên hạ
sẽ quay đầu, ngoảnh cổ ngóng vị ấy, và
vị ấy sẽ thống nhất thiên hạ."
Tiến
lên một bực nữa, ông còn kết tội hạng bề
tôi không hướng dẫn vua chúa bằng nhân nghĩa, chỉ
lo luyện tập binh mã để thắng nước
khác, cho họ không phải là lương thần mà là kẻ
thù của dân (dân tặc), không phải là giúp vua, mà là giúp kẻ
tàn bạo như Kiệt (Cáo tử, hạ - bài 19).
Nhất
là đoạn dưới đây thì khảo cổ kim,
chưa có lời kết tội nào mạnh mẽ hơn :
"Vua
không làm nhân chính mà theo làm giàu cho vua, Khổng tử đã cho
là bậy, huống chi lại vì vua mà gây chiến. Đánh
nhau để tranh đất, giết người đầy
đồng; đánh nhau để tranh thành, giết người
đầy thành, như thế gọi là cho đất
ăn thịt người, đem xử tử còn chưa hết
tội. Cho nên kẻ thiện chiến chịu tội nặng
nhất, kẻ liên hiệp chư hầu để đánh
nhau chịu tội nhẹ hơn, kẻ bắt dân đi mở
rừng rậm để làm ruộng đất cho vua, chịu
tội nhẹ hơn nữa." (Quân tử bất hành nhân chính nhi phú chi, giai khí ư
Khổng tử giả dã, huống ư vị chi cường
chiến. Tranh địa dĩ chiến, sát nhân doanh dã, tranh
thành dĩ chiến, sát nhân doanh thành, thử sở vị suất
thổ địa khi thực nhân nhục, tội bất
dung ư tử . Cố thiện chiến giả phục
thượng hình, liên chư hầu giả thứ chi, tịch
thảo lai, nhiệm thổ địa giả thứ chi
- Li Lâu, thượng - bài 14).
君 子 不 行 仁 政
而 富 之, 皆 棄 於 孔 者 也,
況 於 爲 之 强 戰.爭
地 以 戰,殺 人
盈 野, 爭 城 似 戰,
殺 人 盈 城,此 所
謂 率 土 地 而
食 人 肉, 罪 不 容 於 死.
故 善 戰 者 服 上
刑, 連 請 侯 者 次 之 ,
辟 草 萊 任 土 地
者 次 之.
Vì
vậy, khi vua Lỗ sai Thận tử đem quân đánh Tề,
ông khuyên Thận tử : chẳng giáo hóa dân mà dùng họ
để đánh giặc, như thế gọi là hại
dân. Đời vua Nghiêu vua Thuấn, những kẻ hại
dân chẳng được dung tha. Dù chỉ đánh một
trận mà thắng Tề, lấy được đất
Nam Dương, ông cũng không nên đánh (...) Người
có đức nhân dù lấy đất đai của người
này cấp cho người khác cũng không nỡ làm, huống
chi lại giết người để lấy đất
sao ? (Cáo tử, hạ - bài 8).
Ông
ghét chiến tranh xâm lăng, mà ngay cả trường hợp
tự vệ, chống kẻ xâm lăng, cũng là điều
bất đắc dĩ; một vị nhân quân không vui lòng
khi bắt dân phải chết cho đất dai, đất đai
đâu quí bằng nhân mạng. Đúng với qui tắc "dân
vi quí, xã tắc thứ chi" của ông.
Một
môn đệ, Vạn Chương, hỏi ông :
-
Tống là một nước nhỏ, vua nước ấy
muốn thi hành nhân chính, Tề và Sở (là những nước
lớn) thấy vậy ghét, muốn đem quân đánh, vậy
phải làm sao ?
Ông
kể những truyện vua Thành Thang, Võ vương thời
xưa thi hành nhân chính mà được khắp thiên hạ
qui phục, hoan nghênh, rồi bảo :
-
Thày chỉ sợ vua Tống không chịu thi hành nhân chính của
các vị vua đó thôi, nếu chịu thì dân trong bốn biển
sẽ ngửng đầu trông lên, mong được nhà
vua cai trị thiên hạ, dù cho Tề và Sở lớn thì
cũng chẳng đáng sợ.
Trường
hợp nước Đằng còn nguy hơn Tống, vì
Đằng rất nhỏ, mà Tề ở sát một bên,
lăm le muốn chiếm. Trong chương II, tôi đã chép
lại truyện Đằng Văn công thấy Tề
đã chiếm đất Tiết, hỏi ông nên đối
phó ra sao, ông cũng lại khuyên nữa : nhà vua cứ cố
gắng làm điều thiện đi, như vậy đủ
rồi ".
Lời
đó không đủ làm cho Đằng Văn công vững bụng,
công lại hỏi nữa, ông bảo chỉ còn có hai cách:
-
Một là cùng với dân liều chết mà giữ thành, hai
là bỏ ngôi vua mà đi sống ở nơi khác, như vua
Thái vương thời trước : xưa Thái
vương ở đất Mân, bị rợ Địch
xâm chiếm, đem da thú dâng nó, nó không tha, đem châu ngọc
dâng nó, nó cũng không tha, mới hội họp các bô lão mà bảo:
rợ Địch muốn chiếm đất đai của
ta. Tôi nghe nói người quân tử không lấy vật dùng
để nuôi người mà hại người. Các ông lo
gì không có vua. Tôi đi đây ". Rồi ông bỏ đất
Mân, vượt núi Lương-sơn, lập ấp ở
chân núi Kì-sơn.
Người
nước Mân nói : ông ấy là người nhân, không nên bỏ
ông ấy, và người ta theo ông đông như đi chợ.
Đó là một cách, còn một cách nữa là cố giữ lấy
đất, giữ không được thì chết. Xin nhà
vua lựa lấy một trong hai cách ấy. (Lương Huệ
vương, hạ - bài 15).
Vậy
thì có vẻ như Mạnh tử cho chống xâm lăng là
việc chính đáng, nhưng vua không quí bằng đất
đai, đất đai lại không quí bằng dân. Khi không
chống cự nổi quân địch thì vua có thể dứt
dân đi tới một miền khác mà sống, rồi cứ
thi hành nhân chính, một ngày kia, không phải mình thì con cháu
mình sẽ thu phục được nhân tâm bốn bể
mà thống nhất được Trung Quốc, dựng
được nghiệp vương.
Một
trường hợp nữa là chiến tranh giải phóng một
dân tộc bị cái họa bạo chúa, tức trường
hợp Tề muốn đánh Yên mà tôi đã kể trong
chương IV.
Trường
hợp này cũng bất đắc dĩ. Và phải là bậc
"thiên lại " (bậc thế thiên hành đạo) mới
có đủ tư cách để trừ một ông vua vô
đạo, như vua Thang đánh Cát Bá. Cát Bá được
vua Thang giúp cho đồ cúng mà cũng không tế lễ quỉ
thần, còn xúi dân cướp bóc dân của ông. ông đánh
mười một trận đều thắng. Đánh ở
phương Đông thì rợ phương Tây oán, đánh
phương Nam thì rợ phương Bắc oán: "Tại
sao không giải thoát cho nước tôi trước ? "
Dân mọi nơi ngóng ông như đại hạn trông
mưa. Ông đánh nước nào thì dẹp vua nước
đó và vỗ về dân, cho nên dân rất vui vẻ (Đằng
Văn công, hạ - bài 5).
Mặc
tử chủ trương hơi khác. Một lần,
Dương Văn quân nước Lỗ sắp đánh
nước Trịnh, ông đến can, Dương Văn
quân bảo :
-
Ta đánh nước Trịnh là thuận chí Trời. Nước
Trịnh ba đời giết cha, Trời đã làm tội,
khiến cho ba năm không được yên ổn, ta phải
giúp vào sự làm tội của Trời.
Mặc
tử vặn lại :
-
Ba năm không được yên ổn thế là Trời
đã làm tội đủ rồi. Nay lại đem quân
đánh họ, bảo rằng "thuận với chí Trời",
có khác gì có một đứa con làm bậy, cha nó đã
đánh nó, rồi cha nhà láng giềng lại vác gậy
đánh thêm và nói: ta đánh nó là thuận với chí cha nó
", như thế chẳng trái lẽ ư ? (Thiên Lỗ vấn).
Vậy Mặc tử có vẻ cho rằng thời ông, không
có ông vua nào đủ đức hạnh để vấn
tội những ông vua tàn bạo khác không ai đủ tư
cách làm "thiên lại" mà thế thiên hành đạo. Có
thể ông nhận việc diệt bạo quân là đáng,
nhưng ông không khuyến khích hành động ấy, sợ
có kẻ vin vào lời ông mà làm càn.
Ông
giữ đúng chủ trương "phi công" của
ông.
*
* *
Lạc ưu dĩ thiên hạ.
Dân
đủ ăn đủ mặc, được giáo hóa, kẻ
khốn cùng có nơi nương tựa rồi, lại
được sống yên ổn khỏi phải hi sinh cho
những kẻ hiếu chiến, thì dân sẽ vui ; và lúc
đó nhà cầm quyền có thể vui chơi với dân mà
dân không oán :
"Vua
mở cuộc chơi nhạc ở đây, bách tính nghe tiếng
chuông tiếng trống, tiếng sáo tiếng tiêu của nhà
vua, mà lộ vẻ vui mừng, bảo nhau: "Vua ta chắc
mạnh khỏe nên mới chơi nhạc được
".
"Vua
mở cuộc săn bắn ở đây, bách tính nghe tiếng
xe tiếng ngựa, thấy cờ xí đẹp đẽ,
mà lộ vẻ vui mừng, bảo nhau: vua ta chắc mạnh
khỏe nên mới đi săn như vậy được
". Có do lẽ gì khác đâu, chỉ do vua cùng vui với
dân vậy ".
(Kim vương cổ nhạc
ư thử, bách tính văn vương chung cổ chi thanh,
quản thược chi âm, cử hân hân nhiên hữu hỉ sắc,
nhi tương cáo viết : "Ngô vương thứ
cơ vô tật bệnh dư ? Hà dĩ năng cổ nhạc
dã ? .
Kim vương điền
liệp ư thử, bách tính văn vương xa mã chi âm,
kiến vũ mao chi mĩ, cử hân hân nhiên hữu hỉ sắc,
nhi tương cáo viết : "Ngô vương thứ
cơ vô tật bệnh dư ? Hà dĩ năng điền
tiệp dã? Thử vô tha : dữ dân đồng lạc dã.-
Lương Huệ vương, hạ - bài I).
今王鼓樂於此,百姓聞王鍾鼓之聲,管籥之音,舉欣欣然有嘉色,而相告曰:吾王庶幾無疾病與?何以能鼓樂也.
今王田臘於此,百姓聞王車之音,見羽旄之美,舉欣欣然有嘉色,而相告曰:吾王庶幾無疾病與?何以能田臘也?此無他:與民同樂也.
Hơn
nữa, dân sẽ vui vẻ góp sức cất đài, đào
hồ cho vua hưởng, như trường hợp vua
Văn vương cất Linh đài, đào Linh chiểu, dân
tự nguyện tới giúp công. Vua bảo họ đừng
làm gấp mà họ cũng tận lực làm, chỉ trong mấy
ngày là xong, chẳng khác chi con cái phụng sự cha mẹ vậy.
Từ đài, nhìn ra vườn thấy hươu nai nằm
trên bãi cỏ, nhìn xuống hồ Linh chiểu thấy cá lội
thung thăng, vua Văn vương rất vui, vì cùng vui với
dân. (Lương Huệ vương, thượng - bài 2).
Như
vậy thì tốn kém bao nhiêu, dân cũng không cho là xa xỉ;
trái lại nếu để dân khổ mà vua vui riêng một
mình thì dù chỉ tốn kém ít, dân cũng oán ghét.
Bài
2, Lương Huệ vương, hạ, chép :
Tề
Tuyên vương hỏi :
-
vườn hoa của vua Văn vương thời xưa
vuông vức bảy chục dặm, phải vậy không ?
Mạnh
tử đáp :
-
Truyện có chép vậy.
-
Như vậy có lớn quá không ?
-
Thế mà dân còn cho là nhỏ đấy.
Còn
vườn của quả nhân chỉ rộng có bốn chục
dặm mà dân cho là lớn, tại sao ?
-
Vườn vua Văn vương vuông bảy chục dặm
nhưng người cắt cỏ, kiếm củi vào
được, kẻ bắt trĩ bắt thỏ vào
được. Dân được chơi trong vườn
của vua, nên dân cho là nhỏ, cũng là phải chứ ? Hồi
tôi mới tới biên giới nước Tề, hỏi những
điều đại cấm trong nước rồi mới
dám vào. Tôi nghe nói ở ngoài kinh đô có vườn vuông bốn
chục dặm, mà kẻ nào vào đó giết hươu nai
thì bị trị tội như giết người, như
vậy vuông bốn chục dặm, có khác gì cái hầm để
bẫy dân không ? Dân cho là rộng cũng là phải chứ ?
"
(Văn vương chi hựu
phương thất thập lí, sô nghiêu giả vãng yên,
trĩ thỏ giả vãng yên. Dữ dân đồng chi, dân
dĩ vi tiêu, bất diệc nghi hồ ?
Thần thủy chí ư cảnh,
vấn quốc chi đại cấm nhiên hậu cảm nhập.
Thần văn giao quan chi nội hữu hậu
phương tứ thập lí, sát kì mi lộc giả như
sát nhân chi tội, tắc thị phương tứ thập
lí vi tịnh ư quốc trung, dân dĩ vi đại, bất
diệc nghi hồ ? ).
文 王 之 囿 方 七
十 里, 芻 蕘 者 住 焉, 雉 兔
者 住 焉.
與 民 同 之, 民 以
爲 小, 不 亦 宜 乎?
臣 始 至 於 境, 問
國 之 大 禁, 然
後 敢 入.
臣 聞 郊 關 之 內 有 囿 方 四 十
里,
殺 其 麋 鹿 者 如 殺 人 之 罪,則
是 方 四 十里 爲
阱 於 國 中,民 以
爲 大,不 亦 宜
乎?
Nếu
vua vui thú một mình, sống xa hoa để dân chết đói
thì tức là giết dân, như trong đoạn "bếp
vua có thịt béo, tàu vua có ngựa mập" tôi đã dẫn
ở chương 1 (Lương Huệ vương, thượng
- bài 4).
Tóm
lại, nếu "bậc ở trên cùng vui cái vui của
dân, thì dân cũng vui cái vui của mình ; cùng buồn nỗi
buồn của dân thì dân cũng buồn nỗi buồn của
mình. Chung vui với thiên hạ (bách tính), chia buồn với
thiên hạ, mà không dựng được nghiệp
vương, thì việc ấy chưa hề thấy ".
(Lạc
dân chi lạc giả, dân diệc lạc kì lạc; ưu dân
chi ưu giả, dân diệc ưu kì ưu. Lạc dĩ thiên
hạ, ưu dĩ thiên hạ, nhiên nhi bất vương
giả, vị chi hữu dã- Lương Huệ
vương, hạ - bài 4.)
樂 民 之 樂, 民 亦
樂 其 樂, 憂 民 之 憂 者, 民
亦 憂 其 憂.
樂 以 天 下, 憂 以
天 下, 然 而 不 王 者, 未 之
有 也.
Chương 7
TÍNH THIỆN
Hiện
nay chúng ta vẫn chưa biết có cái gì gọi là bản
tính con người không. Nếu có thì người ta chỉ
có thể nói rằng nó "không phải là thiên thần,
cũng không phải là cầm thú". Ý niệm "bản
tính" mơ hồ quá, cho nên chúng ta phân biệt ra bản
năng và tính tình.
Bản
năng (instinct) là những xu hướng tự nhiên ai
cũng có từ khi mới sinh. Ví dụ bản năng sinh tồn
(instinct de conservation) mà ta có chung với loài vật; nhờ bản
năng đó sinh vật tự bảo vệ tính mạng và
duy trì nòi giống: đói thì kiếm ăn, khát thì đòi uống,
và tới khi bộ phận sinh dục đã phát triển
đầy đủ thì tự nhiên thấy cái nhu cầu phối
hợp với một vật khác giống (sexe) để
truyền chủng.
Như
một triết gia Trung hoa nói, bản năng là một cái
gì "tiên nghiệm" [21].
Có
học giả như Will Durant (Bài học của lịch sử
chương IV) cho rằng con người có sáu bản
năng tích cực và sáu bản năng tiêu cực (chẳng
hạn tích cực là hoạt động, tiêu cực là ngủ,
nghỉ ngơi; tích cực là
chiến đấu, tiêu cực là chạy trốn ; tích cực
là thủ đắc, tiêu cực là nhịn...) ; tích cực
và tiêu cực đều có tác dụng duy trì cá nhân gia
đình, tập thể hoặc chủng loại (như hoạt
động là làm việc để mưu sinh, mà nghỉ
ngơi, ngủ là để lấy lại sức hầu
duy trì cơ thể, sức hoạt động của
mình...). Hầu hết mọi người đều có
đủ hai nhóm bản năng tích cực và tiêu cực ấy
để tránh né hoặc thích ứng (tùy theo tính khí hoặc
hoàn cảnh) với những thách đố quan trọng hoặc
những cơ hội thuận tiện của đời sống.
Mỗi bản năng gây một số thói quen và kéo theo một
số tình cảm.
Tất
cả những cái đó tạo nên tính tình mỗi người
tùy theo di truyền giáo dục, hoàn cảnh, cho nên bảo
tính tình là có tính cách "thực nghiệm".
Có
học giả, như tâm lí gia Heymans (1858- 1930) không nói tới
bản năng mà nói tới khả năng, và phân biệt :
khả năng cảm xúc (émotivité) khả năng hoạt
động (activité) và khả năng phản ứng
(retentissement) gồm hai hạng trực phản ứng và
gián phản ứng [22].
Những khả năng đó kết hợp với nhau
thành tám hạng tính tình (caractère hay tempérament) :
-
Vô khí lực (không có khả năng cảm xúc và khả năng
hoạt động, mà trực phản ứng) như vua
Louis XV của Pháp.
-
Lãnh đạm (không có khả năng cảm xúc và khả
năng hoạt động, mà gián phản ứng) như
vua Louis XVI của Pháp.
-
Đa huyết, thực tế (không có khả năng cảm
xúc, có khả năng hoạt động, mà trực phản
ứng) như Bacon, Voltaire.
-
Bình thản (không có khả năng cảm xúc, có khả
năng hoạt động, mà gián phản ứng) như
Kant, Renan.
-
Tinh thần mẫn tiệp (có khả năng cảm xúc,
không có khả năng hoạt động, mà trực phản
ứng) như Byron, Verlaine.
- Đa cảm (có khả năng cảm
xúc, không có khả năng hoạt động, mà gián phản
ứng) như Amiel, Jean Jacques Rousseau.
-
Nóng nảy (có cả hai khả năng cảm xúc và hoạt
động, mà trực phản ứng) như Danton, Balzac,
Gambetta.
-
Đam mê (có cả hai khả năng cảm xúc và hoạt
động, mà gián phản ứng) như Napoléon, Racine.
Chúng
ta nên nhớ rằng những chữ không và có trong bảng
liệt kê đó chỉ có nghĩa là có ít và có nhiều, chứ
không ai hoàn toàn vô cảm xúc, hoặc hoàn toàn không hoạt
động. Vả lại sự chia loại như vậy
chỉ là đại khái, có người vừa ở trong hạng
này như đam mê vừa ở trong hạng khác như đa
huyết, thực tế... Vì tính tình con người nhiều
khi mâu thuẫn lắm : đam mê trong việc này (trong việc
viết văn chẳng hạn) mà thực tế trong việc
khác (như việc hiếu danh, hiếu lợi).
Điều
quan trọng nhất ta nên nhận định là bản
năng không có tốt có xấu (hoặc có thể nói rằng
bản năng nào cũng tốt hết vì đều giúp
chúng ta duy trì bản thân, nòi giống) ; còn tính tình thì có xấu,
có tốt, mà xấu tốt do sự nhận định
theo thói quen của xã hội ; và có khi xấu trong hoàn cảnh
này mà tốt trong hoàn cảnh khác : như vua Louis XVI là một
ông vua nhu nhược, không biết trị nước,
nhưng có thể là người chồng, người cha tốt
; Byron, Verlaine không "đứng đắn", phóng túng,
không phải là người chồng người cha tốt,
nhưng đều là những thi sĩ đại tài. Ý niệm
thiện ác, xấu tốt của chúng ta do xã hội tạo
nên và có tính cách rất tương đối. Chúng ta cần
biết qua như vậy rồi mới xét được
những cuộc tranh luận về "tính" ở thời
Mạnh tử.
Hai
chương trên là những tư tưởng chính trị,
xã hội của Mạnh tử, tuy tiến bộ hơn thời
Khổng tử nhiều, nhưng ông chỉ có công phát huy
thêm; từ đây trở đi mới là phần độc
đáo, uyên nguyên ông cống hiến cho triết học Trung
Hoa: phần tâm học, trong đó ông là người đầu
tiên đem những vấn đề tính, tâm, khí ra xét, mở
đường cho những triết gia mười ba,
mười bốn thế kỉ sau cho đến hết
đời Tống.
Chúng
ta hãy xét trước hết thuyết "tính thiện"
của ông.
Trước
ông, chỉ có Khổng tử là ngẫu nhiên nói tới tính.
Đầu chương Dương Hóa (bộ Luận Ngữ), Khổng tử
bảo : "Tính tương cận
dã, tập tương viễn dã" . Ba chữ "tính tương cận"
thật quá vắn tắt , ai muốn hiểu sao cũng
được, và chúng tôi đoán rằng ông chưa đặt
ra vấn đề tính thiện hay tính ác, chỉ muốn
nói con người sinh ra không khác nhau bao nhiêu, nhưng
cũng có khác, có hạng dễ hóa thiện, có hạng dễ
hóa ác, rồi do sự giáo dục, tập tành, thói quen mà sau
mới khác nhau xa.
Mặc
tử, khi thấy tơ nhuộm, than: Nhuộm xanh thì hóa
xanh, nhuộm vàng thì hóa vàng, cái chất vào lụa mà thay
đổi thì màu lụa cũng thay đổi (...), cho nên sự
tiêm nhiễm không thể không thận trọng. Ông không nói
đến tính, chỉ xét hậu quả của sự tiêm
nhiễm, nhưng hình như cho rằng tính vốn không thiện,
không ác có thể hóa thiện mà cũng có thể hóa ác.
Tới
thời Mạnh tử vấn đề mới được
nêu lên rõ ràng và gây nhiều cuộc tranh luận.
Chương
Cáo tử, thượng, bài 6, Công Đô tử thưa với
thầy là Mạnh tử :
-
Có người như Cáo tử bảo : "Tính không phải
thiện mà cũng không bất thiện", lại có
người bảo :
-
"Tính có thể làm thành thiện, có thể làm thành bất
thiện" cho nên vua Văn, vua Võ (minh quân) dấy lên thì
dân ưa điều thiện, đến khi vua U, vua Lệ
(hôn quân) dấy lên thì dân ưa làm điều bạo ngược".
Lại có một hạng khác nói rằng có "tính thiện,
có tính bất thiện" cho nên ông Nghiêu (đại hiền)
làm vua, mà em là Tượng lại đại ác [23].
Đoạn
đó cho ta biết ngoài thuyết tính thiện của Mạnh
tử ra , thời đó có thêm ba thuyết nữa, ấy là
chưa kể thuyết "tính siêu thiện, ác" của
Trang tử và thuyết "Tính ác" của Tuân tử, xuất
hiện sau khi Mạnh tử mất độ vài chục
năm.
Chúng
ta có thể sắp sáu thuyết đó như sau :
1
- Tính không thiện không ác của Cáo tử.
2.
-Tính siêu thiện ác của Trang tử.
Hai
thuyết này hiểu tính là cái bản "thiên tiên nghiệm",
tức như chúng ta gọi là bản năng.
3.
-Tính vừa thiện vừa ác (không biết của ai).
4.
- Tính có thiện, có ác (không biết của ai), hai thuyết
này cho tính là "tính thực nghiệm", tức như
ngày nay chúng ta gọi là tính tình.
5.
- Tính thiện của Mạnh Tử.
6.
- Tính ác của Tuân Tử.
Hai thuyết này chỉ lấy một
phần của "tính thực nghiệm" (phần thiện
hay phần ác) như vậy là cực đoan.
Vì
các triết gia thời đó chỉ dùng mỗi một chữ
tính để trỏ những ý niệm khác nhau như vậy,
nên khi tranh luận, không ai thuyết phục được
ai, và ai khéo nói, khéo bác thì có vẻ như thắng. Tuân tử
sinh sau Mạnh tử khoảng bốn chục năm nên Mạnh
tử không biết thuyết tính ác; nhưng Trang tử chỉ
kém Mạnh tử khoảng mười tuổi, mà thầy
trò Mạnh tử không nhắc tới thuyết tính "siêu
thiện ác" thì cũng hơi lạ: Trang tử ẩn dật,
ít môn sinh, đương thờí ít ai biết chăng ? Còn
hai thuyết 3, và 4, Mạnh tử không đả đảo
có lẽ vì thấy không cần: những người chủ
trương hai thuyết ấy hoặc không có ưu thế,
hoặc không ham tranh luận ? Rốt cuộc chỉ còn cuộc
tranh luận giữa Cáo tử và ông.
Theo
Vũ Đồng (sách đã dẫn) thì Cáo tử sinh vào khoảng
- 425 và mất vào khoảng - 339, vậy có thể lớn
hơn Mạnh tử tới bốn chục tuổi.
Chương Công Tôn Sửu, thượng - bài 2, Công tôn Sửu
hỏi Mạnh tử chỗ "bất động
tâm" của Cáo tử với của Mạnh tử khác
nhau ra sao. Như vậy thì Cáo tử là một triết gia
có đạo đức và danh tiếng đương thời.
Bốn
bài đầu chương Cáo Tử, thượng, chép những
lời Mạnh tử bác thuyết về "tính" của
Cáo tử.
Bài
1, Cáo tử bảo tính người như cây kỉ cây liễu,
mà điều nghĩa như cái bát cái thìa. Lấy tính
người làm việc nhân việc nghĩa cũng như
dùng cây kỉ, cây liễu làm cái bát, cái thìa. Mạnh tử
đáp nếu vậy thì phải chặt đẽo người
ta rồi mới làm được việc nghĩa cũng
như phải đẽo cây kỉ cây liễu để
thành cái bát cái thìa ư ? Lời bác bẻ của Mạnh tử
không nhằm: ông phải nói chặn đẽo cái tính của
người, chứ sao lại bảo chặt đẽo
con người ? Chúng ta nên nhớ Cáo tử cho tính là bản
năng. Bản năng không thiện, không ác, nhờ giáo dục,
tập quán mới hóa thiện; việc giáo dục đó có
thể so sánh với đẽo cây kỉ cây liễu
được Cáo tử có lí.
Bài
2, Cáo tử bảo tính người ta như dòng nước,
khơi cho nó qua phương đông thì nó chảy qua
phương đông, khơi cho nó chảy qua phương
tây thì nó chảy qua phương tây ; tính người không
phân biệt được thiện với bất thiện,
cũng như tính nước không phân biệt đông với
tây. Trình bày một thuyết mà dùng cách so sánh, ví von thì chẳng
đi tới đâu cả, mà dễ bị hớ lắm.
Cáo tử đã hớ. Mạnh tử bẻ : Nước
không phân biệt đông tây thật, nhưng không phân biệt
cao thấp ư ? Tính con người vốn thiện
cũng như tính của nước là chảy xuống chỗ
thấp.
Có
lẽ lần đó Cáo tử bí, nên bài 3, đổi ý, bảo
"sinh chi vị tính". Bốn
chữ này rất tối nghĩa, Chu Hi chú thích chữ "sinh"
là những tri giác, vận động của con người.
Phải Chu Hi muốn nói "sinh"
là cuộc sống không ? Có người lại hiểu khác
: cái gì trời sinh ra thì gọi là tính. Không rõ Mạnh tử
hiểu cách nào mà bẻ : "Nếu vậy thì hễ vật
gì trắng đều gọi là trắng phải không ?"
Cáo tử đáp : Phải.
Mạnh
tử bủa lưới, hỏi thêm: Vậy thì màu trắng
của chiếc lông trắng cũng giống màu trắng của
tuyết, màu trắng của tuyết cũng giống màu trắng
của bạch ngọc ư ?" Cáo tử lại đáp:
Phải.
Và
Mạnh tử đập: Vậy thì tính của con chó giống
tính của con bò, tính của con bò giống tính của
người ư ?".
Mạnh
tử đập bậy. Cáo tử cho tính là bản
năng, thì quả thực loài chó, loài bò và loài người
đều giống nhau ở bản năng sinh tồn. Cáo
tử có lí.
Bài
4, Cáo tử lại bảo : "Tự, sắc, tính dã"
: ai cũng thích ăn ngon, thích sắc đẹp. Nếu chỉ
nói vậy thì Mạnh tử khó mà đả được,
nhưng lại nói thêm đức nhân là do nơi mình (nội
dã), điều nghĩa là do nơi người (ngoại
dã), nên lại bị Mạnh tử đả, và Mạnh Tử
có lí : nhân với nghĩa đều do trong lòng mình ra cả,
có khác chăng, chỉ khác ở một chút này: nhân hoàn toàn
là tình cảm, nghĩa có một chút lí trí trong đó ; và nếu
quả vậy thì Cáo Tử không phải là hoàn toàn vô lí.
Tôi
tóm tắt lại bốn bài như trên để tỏ rằng
cuộc tranh luận của hai nhà đó chỉ là một "đàm
đạo giữa người điếc"; cùng dùng một
danh từ "tính" mà mỗi
người hiểu một khác thì chẳng đi tới
đâu. Bốn bài ấy đọc thấy vui vui chứ thực
ra không bổ ích gì cả.
Điều
bổ ích là Mạnh tử định nghĩa "tính" ra sao rồi đưa
ra những áp dụng nào vào giáo dục.
Trước
hết chúng tôi lưu ý độc giả về điểm
này.
Bài
38, Tận tâm, thượng, Mạnh tử dùng chữ tính với
nghĩa cái gì của Trời sinh ra. Ông bảo : "Hình sắc, thiên tính dã".
Thân thể, dung mạo, nét mặt của ta là do Trời
sinh (thiên tính). Nghĩa chữ tính ở đó khác hẳn
nghĩa chữ tính trong tính thiện, ở đây chúng tôi
không xét tới, mà chỉ xét thuyết "tính thiện".
Bài
19, Li Lâu, hạ, Mạnh tử bảo : "Loài người
khác cầm thú chỉ có mảy may thôi. Cái mảy may đó,
bọn bình dân bỏ đi mà người quân tử (tức
có đạo đức) thì biết bảo tồn". (Nhân chi sở dĩ dị ư cầm
thú giả, cơ hi. Thứ dân khử chi, quân tử tồn
chi). Cái mảy may đó là nhân, nghĩa.
Bài
14, Cáo tử, thượng, ông lại viết: "Trong thân
thể người ta, có phần cao quí, có phần đê tiện,
có phần to tát, có phần nhỏ nhen. Đừng lấy
cái nhỏ làm hại cái lớn, lấy cái đê tiện làm
hại cái cao quí (...). Kẻ nào chỉ lo việc ăn uống
thì sẽ bị người ta khinh bỉ vì lo nuôi cái phần
nhỏ nhen mà làm mất cái phần to tát (tức tâm chí)". (Thể hữu quí tiện, hữu
tiểu đại. Vô dĩ tiểu hại đại, vô
dĩ tiểu hại quí. Dưỡng kì tiểu giả vi
tiểu nhân, dưỡng kì đại giả vi đại
nhân... ẩm thực chi nhân tắc nhân tiện chi hĩ, vị
kì dưỡng tiểu dĩ thất đại dã ).
體 有 賣 賤, 冇 小
大, 無 以 小 害 大,
無 以 賤 害 貴, 養
其 小 者 爲 小
人,
養 其 大 者 爲 大
人...飲 食 之 人 則 人 賤 之
矣,
爲 其 養 小,以 失
大 也.
Hai
bài đó không đùng chữ "ác", nhưng xét ý
nghĩa thì ta thấy ông cho rằng trong con người có một
phần thiện, chỉ con người mới có, và một
phần ác (nghĩa là xấu) mà người và cầm thú
đều có chung. Tuy nhiên ông chỉ gọi cái phần thiện,
phần cao quí đó là tính của con người, còn phần
ác, phần đê tiện thì ông cho là thú tính. Đó là điềm
ông khác Cáo tử và các nhà chủ trương tính vừa thiện
vừa ác, hoặc tính có thiện có ác.
Một
lẽ nữa: hễ đồng loại với nhau thì có
những điểm giống nhau ; mà mình đồng loại
với thánh nhân, thì cái tính của mình phải là cái tính của
thánh nhân, nghĩa là chỉ cái phần thiện trong bản
tính loài người mới đáng gọi là nhân tính (Cáo tử,
thượng - bài 7).
Để
cho ta thấy ai cũng có mầm thiện ở trong lòng, có
khả năng thành thánh nhân như Nghiêu, Thuấn được,
ông đưa ra bằng chứng cụ thể này mà học
giả Trưng Hoa gọi là "tứ
đoan thuyết" (thuyết bốn mối) :
"Ai
cũng có lòng thương người (...). Sở dĩ tôi
bảo vậy là vì có chứng cứ. Nếu thình lình thấy
một đứa nhỏ sắp ngã xuống giếng thì ai
cũng có lòng bồn chồn, thương xót. Bồn chồn
thương xót không phải là vì muốn cầu thân với
cha mẹ đứa nhỏ, không phải là mong tiếng
khen của hàng xóm, bạn bè, cũng không phải là sợ
người ta chê cười".
Do
đó mà xét, không có lòng trắc ẩn (thương xót) thì
không phải là người, không có lòng tu, ố (thẹn,
ghét) thì không phải là người, không có lòng từ , nhượng
thì không phải là người, không có lòng biết phải
biết trái, thì không phải là người. Lòng trắc ẩn
là đầu mối của nhân, lòng tu, ố là đầu
mối của nghĩa, lòng từ, nhượng là đầu
mối của lễ, lòng biết phải biết trái là đầu
mối của trí. Người ta có bốn mối đó
như là có tứ chi. Có bốn mối ấy mà bảo là
không sửa mình được, là tự mình hại mình
(...) Có bốn mối ấy mà biết khuếch sung ra thì
như lửa bắt đầu cháy, như suối bắt
đầu chảy, mỗi ngày một lớn ra, mạnh
lên ; không biết khuếch sung ra thì dầu việc thường
như thờ cha mẹ cũng không được".
(Sở dĩ nhân giai hữu
bất nhẫn nhân chi tâm giả : kim nhân sạ kiến nhụ
tử tương nhập ư tỉnh, giai hữu truật
dịch trắc ẩn chi tâm. Phi sở dĩ nạp giao
ư nhụ tử chi phụ mẫu dã ; phi sở dĩ yêu
dự ư hương đảng bằng hữu dã, phi ố
kì thanh nhi nhiên dã.
Do thị quan chi, vô trắc
ẩn chi tâm, phi nhân dã ; vô tu ố chi tâm, phi nhân dã ; vô từ
nhượng chi tâm, phi nhân dã ; vô thị phi chi tâm, phi nhân dã;
trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã, tu ố chi tâm,
nghĩa chi đoan dã ; từ nhượng chi tâm, lễ chi
đoan dã, thị phi chi tâm, trí chi đoan dã. Nhân chi hữu
thị tứ đoan dã, do kì hữu tứ thể dã. hữu
thị tứ đoan nhi tự vị bất năng giả,
tự tặc giả dã (...) Phàm hữu tứ đoan ư
ngã giả, tri giai khuếch nhi sung chi hĩ, nhược hỏa
chi thủy nhiên tuyền chi thủy đạt. Cẩu
năng sung chi, túc dĩ bảo tứ hải ; cẩu bất
sung chi, bất túc dĩ sự phụ mẫu.)
Công Tôn Sửu, thượng,
bài 6
所
以 人皆 有 不 忽 人 之 心
者,
今
人 乍見 孺 子 將 入 於 井,
皆
有 怵惕 側 隱 之
心. 非 所 以 內 交
於 孺 子 之 父 母 也;
非
所 以 要譽 於 鄉 黨 朋 友 也;玤 惡 聲
而 然 也.
由 是 觀 之,無側
隱 之 心, 非 人 也;無 羞 惡
之 心,
非 人 也,無 辭 讓之 心,非 人
也, 無是 非 之 心,
非 人 也.側 隱 之心,仁
之 端 也; 羞惡
之 心, 義 之 端 也;
辭 讓 之 心,禮 之端
也; 是 非 之 心,智 之 端 也.
人 之 有 是 四 端
也,猶 其 有 四 體 也.
有 是 四 端 而 自
爲 不 能 者, 自 賊 者 也....
凡 有 四 端 於 我
者,知 皆 擴 而
充 之 矣.
若 火 之 始 燃,泉
之 始 達. 苟 能 充 之, 足 以
保 四 海;
苟 不 能 充 之,不
足 似 事 父 母.
Đoạn đó rất quan trọng.
Thuyết "tứ đoan" ấy chính là cơ sở
tâm học của Mạnh tử. Ông thí dụ một đứa
bé sắp té xuống giếng thì bất kì ai trông thấy
cũng kinh sợ thương xót mà muốn cứu, để
chứng minh ai cũng có "đầu mối" của
đức nhân (tức lòng thương người) ; rồi
ông mở rộng thêm, bảo ai cũng có đầu mối
của nghĩa, của lễ, của trí. Ông không đưa
chứng cứ cho ba đức sau này, có lẽ vì ông thấy
không cần. Chúng ta nên để ý lòng thương xót khi thấy
đứa nhỏ sắp té xuống giếng, ông cho nó là bản
tính của con người, trời sinh ra đã có, nhưng
ngày nay chúng ta có thể tin nó chỉ là kết quả của
giáo dục, của tập quán, nói như Tuân tử, chỉ
là "nhân vi", là ngụy[24]
cho nên người ta bảo "tính", trong thuyết của
Mạnh Tử là "tính thực nghiệm".
Tuy
ghi cả bốn đức : nhân,
nghĩa, lễ, trí (sau này, Nho gia đời Hán thêm đức
tín nữa, là năm, gọi
là ngũ thường)
nhưng Mạnh tử rất ít nhấc đến trí và lễ
mà Khổng xử xưa rất coi trọng ; ông chuyên đề
cao nhân và nghĩa, nhất là đức nhân, cần thiết
cho người cầm quyền còn hơn cho người
thường nữa.
Cũng
trong bài trên, ngay đoạn đầu, ông bảo : Các vua
đời trước - trỏ Nghiêu, Thuấn, Văn
vương, Võ vương - có lòng nhân (bất nhẫn nhân
chi tâm) đem ra ứng dụng mà thành nhân chính (bất nhẫn
nhân chi chính). Đem lòng nhân mà thi hành nhân chính thì dễ
như trở bàn tay. Chỗ khác ông nói ông vua có lòng nhân thì
trong thiên hạ không ai địch nổi, Nhân thắng bất
nhân như nước thắng lửa. Và nói tới nhân thì
luôn luôn ông kèm theo nghĩa, cho nhân là chỗ ở rộng rãi
của con người (thiên hạ
chi quảng cư), nghĩa là con đường lớn
của con người (thiên hạ
chi đại đạo) - Đằng Văn công, hạ,
bài 2.
Còn
lễ, ông cho là chỗ đứng chính đáng hơn hết
trong thiên hạ (thiên hạ chi
chính vị). Giữ được ba đức đó
thì thành đại nhân.
Chương 8
TỒN TÂM DƯỠNG TÍNH LUYỆN
KHÍ
Bốn
đầu mối của "tính thiện" là "trắc
ẩn chi tâm", "u ố chi tâm", "từ nhượng
chi tâm", "thị phi chi tâm". Vậy bốn đức
nhân, nghĩa, lễ, trí đều thuộc về tâm ; có bốn
đức ấy là có "lương tâm" - hiểu theo
nghĩa gốc là cái lòng thiện.
Tâm
là cơ quan để suy nghĩ (tâm
chi quan, tắc tư.心 之 官 則 思 ) hễ suy
nghĩ thì biết được thị phi, không suy
nghĩ thì không biết được. Cáo tử, thượng
- bài 15.
Không học mà làm được ,
thuộc về lương
năng; không suy nghĩ mà biết được, thuộc
về lương tri.
Còn
bồng trên tay, mà không đứa bé nào không biết yêu cha mẹ,
đến khi lớn lên, không đứa nào không biết
kính anh. Yêu cha mẹ là sự phát hiện đầu tiên của
lòng nhân, kính trọng người lớn là sự phát hiện
đầu tiên của lòng nghĩa. Không có gì lạ, hai mối
tình đó, trong thiên hạ không ai không có.
Nhân chi sở bất học
nhi lăng giả, kì lương năng dã ; sở bất lự
nhi tri giả, kì lương tri dã. Hài đề chi đồng,
vô bất tri ái kì thán dã, cập kì trưởng dã, vô bất
tri kính kì huynh dã. Thân thân, nhân dã ; kính trưởng, nghĩa
dã. Vô tha, đạt chi thiên hạ dã.-
Tận tâm, thượng - bài 15).
人 之 所 不 學 而
能 者,其 良 知
也:
所 不 慮 而 知 者,其
良
知 也.
孩 提 之 童,無 不
知 愛 其 親 也, 及 其 長 也,
無 不 知 敬 其 兄
也.親 親,仁 也; 敬 長,
義 也. 無他,達 之
天 下 也.
Những
danh từ lương tâm, lương năng, lương
tri đều do Mạnh tử tạo ra, trước ông,
không ai có ý niệm ấy. Lương tâm với tính thiện
là một:[25] "Phát
triển hết cái tâm của mình, tức biết cái bản
tính của mình; biết được bản tính của
mình thì biết được Trời", tức biết
được cái thiên lí.
(Tận kì tâm giả, tri kì
tính dã ; tri kì tính tắc tri Thiên hĩ
- Tận tâm, thượng - bài I). Thiên lí hay đạo lí
đều ở trong tâm, tâm là một thì đạo cũng
là một . (Phù đạo, nhất
nhi dĩ hĩ.)
Vì
vậy việc quan trọng nhất là "dưỡng
tâm" (nuôi cái tâm), dưỡng tâm tức thị là dưỡng
tính ; mà bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí đều
phát triển. Tuy nhiên, theo Mạnh tử nhân và lễ liên
quan tới tâm hơn hai đức kia. Ông nói : Người quân
tử sở dĩ khác người thường là biết
giữ lòng mình. Quân tử dùng nhân để giữ lòng, dùng
lễ để giữ lòng (quân
tử sở dĩ dị ư nhân giả, dĩ kì tồn
tâm dã. Quân tử dĩ nhân tồn tâm, dĩ lễ tồn
tâm - Li Lâu, hạ - bài 28).
君 子 所 以 異 於
人 者,以 其 存 心 也.
君 子 以 仁 存 心,以
禮 存 心 .
Còn
muốn phát triển cái "nghĩa" thì phải nuôi cái
khí, trí ông ít bàn tới. Đoạn dưới đây tôi xét
về phép dưỡng tâm của ông, đoạn sau sẽ
nói đến thuyết dưỡng khí.
*
* *
Muốn
dưỡng tâm thì trước hết phải "tồn
tâm" đã, đừng để nó thất lạc.
Để nó thất lạc mà không biết tìm nó thì thật
đáng thương hại. Con gà, con chó mà chạy lạc
thì ai cũng biết đi kiếm, vậy mà có kẻ để
lương tâm thất lạc, và không biết cách tìm nó. Cái
phép học (đạo lí) không có gì khác : "tìm lại cái
tâm thất lạc của mình thôi".
(Phóng kì tâm nhi bất tri cầu,
ai tai! Nhân hữu kê, khuyển phóng, tắc tri cầu chi ; hữu
phóng tâm nhi bất tri cầu ! Học vấn chi đạo
vô tha : cầu kì phóng tâm nhi dĩ hĩ.-
Cáo tử, thượng - bài II).
放 其 心 而 不 知
求,哀 哉! 人 有 雞 犬 放, 則
知 求 之,
有 放 心 而 不 知
求! 學 問 之 道 無 他: 求 其
放 心 而 已矣.
Như
vậy là coi cái lương tâm của mình không bằng con
gà, con chó. Tiếp theo, Mạnh tử còn cho những người
không biết thẹn vì cái tâm của mình không bằng của
người, là hạng ngu xuẩn, không biết vật nào
đáng quí, vật nào đáng khinh; vì chính hạng ấy nếu
có ngón tay áp út chỉ duỗi ra không được thôi, chứ
không đau đớn, không thiệt hại gì cho công việc,
mà cũng vội vàng đi tìm thầy chạy chữa
như vậy chỉ để khỏi thẹn rằng
ngón tay của mình không được bình thường
như ngón tay của người khác. (Bài 12).
Ông
tin rằng bất kì vật gì hễ khéo bồi dưỡng
thì cũng nảy nở thêm. Không biết bồi dưỡng
thì vật nào cũng phải tiêu ma. (Cẩu đắc kì dưỡng, vô vật bất
trưởng , cẩu thất kì dưỡng, vô vật bất
tiêu).
苟
得 其 養, 無 物 不 長, 苟 失
其 養 無 物 不
梢
.
Cái
tâm cũng vậy : (Giữ thì còn, bỏ thì mất" (Lời
của Khổng tử: Thao tắc tồn, xả tắc
vong ). 撡
則 存,舍 則
亡.
"Phép
dưỡng tâm, không gì băng bớt lần những
điều ham muốn đi (quả dục). Bớt ham muốn
thì cũng có khi chưa giữ được cái tâm (hay
thiên lí), nhưng trường hợp đó hiếm ; còn hạng
người tham dục nhiều mà giữ được
cái tâm cũng hiếm" (Dưỡng
tâm mạc thiện ư quả dục. Kỳ vi nhân dã quả
dục, tuy hữu bất tồn yên giả, quả hĩ.
Kỳ vi nhân dã đa dục, tuy hữu tồn yên giả,
quả hĩ - Tận Tâm, hạ - bài 35).
得 心
莫 善 於 寡 欲. 其 爲 人 也
寡 欲.
雖 有 不 存 焉 者,
寡 矣. 其 爲 人 也 多 欲,
雖 有 存 焉 者, 寡
矣.
不
失 其 赤 子 之 心 (- Li Lâu,
hạ - bài 12). Hạ bài.
Trái
lại, có những cái dục cao thượng thì rất nên
bồi dưỡng:
Sống
thì ta vẫn muốn sống, nhưng có những sở dục
khác còn quan trọng hơn sự sống, nên ta chẳng thèm
làm những việc cẩu thả để bảo toàn mạng
sống. Chết thì ta vẫn ghét chết, nhưng có những
cái ta còn ghét hơn sự chết nữa, cho nên ta chẳng
tìm cách để tránh hoạn nạn. (Sinh diệc ngã sở dục ; sở dục hữu
thậm ư sinh giả, cố bất vi cẩu đắc
dã. Tử diệc ngã sở ố ; sở ố hữu thậm
ư tử giả, cố hoạn hữu sở bất tị
dã.)
生 亦
我 所 欲, 所 欲 有 甚 者 生者,故
不 爲
苟 得
也.
死 亦 我 所 惡, 所 惡 有
甚 於 死 者, 故 崽 有 所 不
辟 也 .
Những
cái sở dục quan trọng hơn cả sự sống
đó là lễ, nghĩa; những cái đáng ghét hơn cả
sự chết đó là điều bất lễ, bất
nghĩa. Như đói gần chết, có người cho một
giỏ cơm, một tô canh nhưng lớn tiếng kêu, thí
cho một cách vô lễ, hoặc chà đạp dưới
chân rồi mới cho, thì thà chết đói chứ chẳng
chịu nhận. Lại như có ai cho mười ngàn chung
thóc mà không hợp nghĩa thì cũng chẳng chịu nhận.
Nếu nhận mà không hợp lễ, hợp nghĩa thì là bỏ
mất cái tâm vốn thiện của mình : thất kì bổn tâm. (Cáo tử, thượng - bài
l0).
Bỏ
bớt những thị dục phàm tục đi, nuôi những
thị dục cao thượng, đó là điều thứ
nhất để dưỡng tâm. Điều thứ nhì là
phải chuyên cần. Nếu luyện một ngày mà bỏ
vài ngày, ở gần người thiện một lát mà ở
gần kẻ ác cả mấy ngày thì lòng lương thiện
tất phải tiêu ma. Mạnh tử lấy thí dụ núi
Ngưu Sơn :
Cây
cối trên núi Ngưu Sơn trước kia tươi tốt.
Nhưng núi ở chỗ giáp mối với một nước
lớn, nên thường bị búa rìu của tiều phu tới
đốn, như vậy làm sao còn tươi tốt
được ? Nhờ có nhựa lưu thông ngày đêm, lại
có mưa, sương thấm nhuần, nên còn đâm chồi
nẩy mộng. Nhưng bò và cừu kéo nhau tới ăn,
phá, cho nên núi trơ trọi tới nỗi đó . (Ngưu-sơn chi mộc thường
mĩ hĩ. Dĩ kì giao ư đại quốc dã, phủ
cân phạt chi, khả dĩ vi mĩ hồ Thị kì nhật dạ chi sở
tức, vũ lộ chi sở nhuận, phi vô manh nghiệt
chi sinh yên. Ngưu dương hựu tòng nhi mục chi, thị
dĩ nhược bỉ trạc trạc dã. - Cáo tử,
thượng - bài 8).
牛 山 之 木 嘗 美 矣. 以 其 郊 於 大 國
也, 斧 斤 伐 之,
可 以 爲 美 乎
? 是 其 日 夜 之 所 息 ,雨
露 之 所 潤,
玤 無 萌 蘖 之生
焉. 牛半又 從 而 牧 之,足以
若 彼 濯 濯也.
Như
tôi đã nói, có lần ông phàn nàn rằng Tề Tuyên
vương lâu lâu mới gặp ông một lần, mà khi ông
ra về thì vô số kẻ tiểu nhân bao vây, dụ dỗ
nhà vua, nên nhà vua không thực hành được đạo
của ông. Vậy một ông vua muốn làm nhân chính thì
điều cần nhất là dùng toàn những người
hiền ở chung quanh. Để chứng minh, ông
đưa thêm một thí dụ nữa về cách học ngoại
ngữ. Trung Hoa thời đó đã khá rộng, mỗi miền
có một thổ ngữ. Như người nước Yên,
nước Tề khó mà hiểu ngôn ngữ người
nước Tần, nước Sở được. Nếu
một đại phu nước Sở muốn cho con học
tiếng nước Tề thì dĩ nhiên nên tìm cho nó một
ông giáo người nước Tề, hơn là một ông
giáo người nước Sở. Nhưng dù được
ông giáo người nước Tề dạy, đứa trẻ
cũng khó học được tiếng nước Tề
vì chỉ khi học, nó mới nói tiếng Tề với thầy,
ngoài ra, tiếp xúc với mọi người khác chung quanh,
nó vẫn nói tiếng Sở. Muốn cho mau biết thì không
gì bằng cho nó ở tại kinh đô nước Tề
trong mấy năm, không tiếp xúc với một người
nước Sở nào, suốt ngày chỉ nói tiếng nước
Tề. (Đằng Văn công, hạ - bài 6).
Việc
học đạo cũng vậy. Một lần Mạnh tử
mắng một môn đệ là Cao tử bỏ bê việc
dưỡng tính, để cho tư dục làm bế tắc
cả tâm : "Trong núi nếu người ta vạch một
lối đi, mà thường dùng lối đó thì nó thành một
con lộ. Nhưng trong một thời gian không dùng nó thì nó bị
cỏ lau bít hết. Nay cái tâm của anh đã bị cỏ
lau bế tắc rồi đấy". (Sơn tính chi khê gian, giới thiên dụng chi nhi thành
lộ ; vi gian bất dụng, tắc mao tắc chi hĩ.
Kim mao tắc tử chi tâm hĩ. - Tận tâm, hạ - bài
21).
山 徑 之 蹊 間, 介
然 用 之 而 成 路;
爲 間 不 用 則 茅 塞 之 矣.今 茅
塞 子 之 心 矣.
Trò
được thầy chỉ dẫn cho, cũng như có
người vạch cho lối đi ở trong rừng núi,
nếu mỗi ngày mỗi tập thì sẽ đạt đạo,
như lối đi đó thành đường lộ; bỏ
tập một thời gian thì cái tâm bị che lấp,
như đường đi bị cỏ lấp.
Một
điều nữa nên ghi là Mạnh tử nhận rằng
hoàn cảnh ảnh hưởng rất lớn tới sự
tu dưỡng của con người. Ông bảo :
Những
nằm được mùa, phong túc, hạng con em nhờ
được no đủ mà nhiều người trở
nên tử tế ; trái lại những năm đói kém, con
em nhiều đứa sinh ra hung bạo. Chẳng phải tại
Trời phó cho họ tư chất khác nhau đâu, chỉ vì
hoàn cảnh xấu đã nhận chìm lương tâm họ
đấy thôi (...) cùng một giống lúa, đem gieo một
lượt với nhau, mà tới mùa gặt thì chỗ
được nhiều lúa, chỗ ít, chính là do những
nguyên nhân ở ngoài ; đất chỗ này tốt, đất
chỗ kia xấu, mưa và sương chỗ này đủ,
chỗ kia không đủ, công săn sóc không đồng
đều. (Phú tuế tử
đệ đa lại, hung tuế tử đệ đa
bạo. Phi thiên chi giáng tài nhĩ thù dã, kì sở dĩ hãm, nịch
kì tâm giả, nhiên dã..- Cáo tử, thượng - bài 7).
富 歲 子 弟 多 賴,
凶 歲 子 弟 多 暴.
非 天 之 降 才 爾 殊 也,
其 所 以 陷 溺 其
心 者 然 也...
Người
thường, có hằng sản rồi mới có hằng tâm,
cũng là do lẽ đó. Cho nên Mạnh tử rất chú trọng
đến kinh tế, để tạo những hoàn cảnh
tốt cho sự giáo dục của dân.
*
* *
Quan
niệm về "khí" xuất hiện ở Trung-Hoa vào
thế kỉ thứ IV trước Tây lịch (thời Chiến
Quốc) và ba triết gia đầu tiên nói tới khí là Cáo
tử, Mạnh tử và Trang tử, nhưng quan niệm của
hai nhà trên hơi khác với quan niệm của nhà dưới.
Ngoại
thiên, sách Trang Tử nói :
"Người
ta sinh ra là do khí tụ. Khí tụ thì sống, khí tán thì chết.
Cho nên nói rằng khắp cả gầm trời chỉ là
khí mà thôi".
Cũng sách đó, thiên Chí Lạc
nói : " Lẫn lộn trong
khoảng lù mù, biến hóa mà có khí, khí biến hóa mà có
hình".
Vậy,
hình như Trang tử cho khí là một vật tự hư
không mà sinh ra, trong cái khoảng hỗn mang mù mịt. Khí vốn
không có hình, biến hóa mà thành hình. Nó tụ lại làm thành trời,
đất và người. Ý niệm đó không khác ý niệm
ngày nay là bao : khí là chất hơi, mà chất hơi do nguyên
tử hoặc điện tử cực kì bé nhỏ cấu
thành. Bị dồn ép, chất hơi thành chất lỏng,
hoặc chất đặc, tức thành hình [26]. Trang tử
đứng về phương diện "căn bản
vũ trụ", còn Cáo tử và Mạnh tử đứng
về phương diện tâm lí, tuy vẫn cho khí là cái phần
"sung túc lưu thông trong cơ thể con người"
[27]
, nhưng chú trọng vào chí
khí, vào sự luyện chính khí, tức như ngày nay ta nói luyện
nghị lực, khí lực tinh thần, cái dũng của
tinh thần.
Chương
Công Tôn Sửu, thượng - bài 2, Mạnh tử nói :
"Cáo tử thường bảo cái gì mình không thể nói
rõ ràng thì đừng tìm ở lòng mình; cái gì không nhận thấy
trong lòng mình thì đừng cầu ở khí lực mình .
Nhưng thầy (Mạnh tử tự xưng với môn
đệ là Công tôn Sửu) nghĩ rằng bảo cái gì
không nhận thấy trong lòng mình thì đừng cầu ở
khí lực mình, nói vậy là đúng; còn bảo cái gì không thể
nói rõ ràng được thì đừng tìm ở lòng mình, nói
vậy là sai".
Nghĩa
là Mạnh tử không tách trí và khí ra khỏi cái tâm : người
ta diễn ý được rõ ràng là do tâm sáng suốt, có khí
lực cũng là do cái tâm dũng cảm; ngược lại
tâm không sáng suốt, dũng cảm thì nói không được
minh bạch mà khí lực tất kém.
Ông
nói tiếp :
"Chí là nguyên soái điều khiển
cái khí, khí là phần sung mãn lưu thông trong thân thể. Cao nhất
là cái chí, rồi tới cái khí. Cho nên thầy nói rằng: Giữ
cho bền cái chí, đừng làm hư hoại cái khí." (Phù chí, khí chí suy dã ; khí thể chi
sung dã. Phù chí, chí yên, khí thứ yên. Cô viết : Trì kì chí, vô bạo
kì khí.).
夫 志 ,氣 之 帥 也;
氣 體 之 充 也,
夫 志 ,至 焉,氣 次 焉.故 曰:持 其 志, 無 暴 其 氣.
Nghĩa
là phải có chí lớn, có cái tâm muốn đạt
được đức lớn thì mới có khí lực
sung mãn. Hễ giữ được chí lớn thì giữ
được khí lực. Ngày nay chúng ta thường nói
: có chí khí, có lẽ là do đoạn
trên của Mạnh tử chăng ?
Mạnh
tử giảng thêm : "Khi cái chí chuyên nhất về một
điều nào thì nó làm động tới cái khí, mà khi cái
khí chuyên nhất về một điều nào thì nó làm động
tới cái chí. Như một người vấp hoặc chạy
mau, đó là động tới khí lực, mà làm động
ngược tới tâm"
(Chí nhất tắc động
khí, khí nhất tắc động chí dã. Kim phù quệ giả,
xu giả, thị khí dã, nhi phản động kì tâm.)
志 一 則 動 氣, 氣
一 則 動 志 也. 今 夫 蹶 者,
趨 者,是 氣 也 ,而
反 動 其 心.
Đoạn
đó cho ta thấy rõ Mạnh tử cho tâm với chí là một
mà tâm chí với khí lực liên quan mật thiết nhau, cái
sau tùy thuộc
cái trước, nhưng cũng ảnh
hưởng ngược lại tới cái trước.[28]
Tóm lại, dưỡng được
cái tâm, tức là phát huy được cái tính thiện và luyện
được cái chí khí.
*
* *
Cái
khí cao đẹp nhất là khí "hạo nhiên" và Mạnh
tử nói với Công tôn Sửu rằng ông khéo nuôi cái khí
đó của ông. "Hạo nhiên" có nghĩa là mênh mông, như
nước tràn bờ. Ông giải nghĩa cái khí hạo
nhiên như sau :
"Cái
khí ấy rộng lớn mênh mông, rất cứng cỏi. Nếu
mình dùng sự cương trực mà bồi dưỡng nó
mà đừng thì nó lan ra khắp khoảng trời đất.
Cái khí ấy phải phối hợp với nghĩa và đạo
; nếu không nó sẽ suy kiệt đi". Kì vi khí dã, chí đại chí
cương : dĩ trực dưỡng nhi vô hại, tắc
tắc hồ thiên địa chi gian. Kì vi khí dã, phối
nghĩa dữ đạo : vô thị, nỗi dã - Công Tôn
Sửu, thượng - bài 2).
其 爲
氣 也, 至 大 至 剛, 以 直 養
而 無 害,
則 塞
乎 天 地 之 間. 其 爲 氣 也,
配 義 與 道; 無 是, 餒也.
Muốn
luyện cái khí đó phải làm nhiều việc nghĩa,
chứ không phải lâu lâu một việc mà được.
Mà
không được làm gì trái với lương tâm, nếu
không nó sẽ suy kiệt đi ( cũng trong bài dẫn trên
).
Đừng
làm việc không nên làm, đừng muốn việc không nên
muốn, như thế là đủ."(Vô vi kì sở bất vi, vô dục kì sở bất dục,
như thử nhi dĩ hĩ. - Tận tâm, thượng
-bài 17).
無
爲 其 所 不 爲, 無 欲 其 所
不 欲, 如 此 而 已 矣.
Lại
phải biết hổ thẹn :
"Làm người không thể
không biết hổ thẹn. Việc đáng hổ thẹn
mà không hổ thẹn, thì là con người vô sỉ."
(Tận tâm, thượng - bài 6).
"Vì
lòng hổ thẹn rất quan trọng đối với
con người. Kẻ nào làm những việc xảo trá quỉ
quyệt, là mất lòng hổ thẹn rồi. Không thẹn
rằng mình không bằng người thì làm sao có những
đức khác bằng người được. (Sỉ chi ư nhân, đại
hĩ. Vi cơ biến chi xảo giả, vô sở dụng
sỉ yên. Bất sỉ bất nhược nhân, hà nhược
nhân hữu. -Tận tâm,thượng - bài 7).
恥
之 於 人 大 矣.
爲 機 變 之 巧 者, 無 所 用
恥 焉.
不 恥
不 若 人, 何 若 人 有?
Có
lòng hổ thẹn thì không chịu nhục. (Bị ai làm nhục
một chút thì thấy như bị căng nọc đánh ở
giữa chợ hoặc trước triều đình. Dù bị
một người thường dân mặc áo rộng bằng
lông hay một ông vua có vạn cỗ chiến xa làm nhục
thì cũng không chịu nổi ( mà phải giết họ ).
Giết một ông vua có vạn cỗ chiến xa thì cũng
như giết kẻ người thường dân vậy
thôi.
Không
hề sợ các vua chư hầu. Ai nói điều bậy
thì phản đối lại liền. (Tư dĩ nhất hào tỏa ư nhân nhược
thát chi ư thị, triều. Bất thụ ư hạt
khoan bác, diệc bất thụ ư vạn thặng chi
quân. Thị thích vạn thặng chi quân nhược thích hạt
phu. Vô nghiêm chư hầu. Ác thính chi, tất phản chi.
- Công Tôn Sửu, thượng - bài 2).
思 以 一 毫 挫 於
人, 若 撻 之 於 巿 朝.
不 受 於 褐 寬 博,
亦 不 受 於 萬 乘 之 君,
視 剌 萬 乘 之 君 若 剌 褐 夫.
無 嚴 諸 侯. 惡 聲
至 必 及 之.
Tuy
nhiên, nếu tự xét mình, thấy có điều không ngay thẳng
thì đối với kẻ thường dân, mình cũng sợ
sệt. Còn nếu tự xét mình thấy có điều ngay
thẳng thì dù có hằng ngàn, hằng vạn người,
mình cũng thản nhiên đi qua. (Tự phán nhi bất súc,
tuy hạt khoan bác, ngô bất chúy yên ? Tự phán nhi súc, tuy
thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ. - bài dẫn trên).
白 反 而 不 縮, 雖 褐 寬 博,
吾 不 惴 焉?
白 反 而 縮, 雖 千 萬 人 吾 往 矣
.
Còn
một cách nữa nuôi dưỡng khí là "xem thăng bại
như nhau. Lượng sức địch rồi mới tấn
công, tính cho mình thắng rồi mới sáp chiến, như vậy
là nhút nhát. Đâu mình có chắc mình rằng mình tất thắng
? Cứ không sợ là được rồi"(bài dẫn
trên).
Cái
dũng đó là của một tướng quân.
Sau cùng Mạnh tử thấy rằng
thể chất ảnh hưởng tới tinh thần, muốn
cho khỏi sợ, có thể tập cho " da thịt chẳng
rung động, mắt không chớp nháy (bất phu nạo, bất mục đào. - bài dẫn
trên).
Theo
những cách trên mà tập thì tâm sẽ không còn dao động
nữa (bất động tâm), trừ điều nghĩa
ra, cái gì ở đời cũng có thể coi thường
hết. Và Mạnh tử bảo ông hồi bốn chục
tuổi, không còn động tâm nữa (...) Mà việc đó
không phải khó, vì Cáo tử còn bất động tâm
trước ông nữa kia. (Ngã
tứ thập bất động tâm (...) Thị bất
nan, Cáo tử tiên ngã bất động tâm) bài dẫn
trên.
我 四 十 不 動 心...是
不 難. 告 子 先 我 不 動 心.
Không
khó, miễn là kiên nhẫn tập thường, không được
nóng nảy cầu cho mau thành, như người nông dân
nước Tống trong ngụ ngôn. " Anh ta lo lắng vì
đám mạ của mình không lên cao được bao nhiêu,
bèn nhớm nó lên, rồi uể oải ra về, nói với
người nhà : hôm nay ta làm việc mệt quá, đã giúp
cho mạ mau lớn .Người con chạy ra đồng
coi thì bao nhiêu mạ đã héo hết rồi".
Người
có chí khí không những coi thường hoạn nạn, không
để cho nó làm dao động cái tâm của mình, mà
đôi khi còn mừng rằng nó là một dịp cho mình luyện
thêm chí khí nữa.
"Người có đức sáng
suốt, có thuật khéo léo, thường được
nung đúc trong cảnh đau đớn, hoạn nạn. Hạng
quan chức cô lập (không có phe đảng, bị đày ở
nơi xa xôi), và con cái của các vợ thứ, nàng hầu
phải giữ gìn tâm ý trong cảnh nguy, lo lắng đề
phòng hoạn nạn, nên dễ hiểu dược sự lí".
(Tận tâm, thượng - bài 18).
Bồi
dưỡng được cái tính thiện, bảo tồn
được cái lương tâm, luyện được
cái "hạo nhiên chi khí"
thì thành bậc đại trượng phu :
"Ở cái chỗ rộng rãi
trong thiên hạ (tức đức nhân vì đức đó
dung nạp được mọi người), đứng
ở chỗ chính đáng trong thiên hạ (tức đức
lễ), noi theo con đường lớn trong thiên hạ (tức
đức nghĩa) ; hễ đắc chí thì cùng với dân
mà hành đạo, bất đắc chí thì riêng mình hành đạo;
cảnh phú quí chẳng làm cho mình phóng túng, bậy bạ; cảnh
bần tiện chẳng làm cho mình đổi tiết tháo;
uy quyền, võ lực không khuất phục được
mình, như vậy là bậc đại trượng phu, có
thể trông lên chẳng hổ với Trời, cúi xuống
chẳng thẹn với người" (ngưỡng bất quí ư thiên, phủ bất tạc
ư nhân).
(Cư thiên hạ chi quảng
cư, lập thiên hạ chi chính vị, hành thiên hạ chi
đại đạo; đắc chí, dữ dân do chi, bất
đắc chí, độc hành kì đạo; phú quí bất
năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất
năng khuất, thử chi vị đại trượng
phu.-
Đằng Vằn công, hạ - bài 2).
居 天 下 之 廣 居,
立 天 下 之 正 位, 行 天 下
之 大 道;
得 志 與 民 由 之 不 得 志,獨 行
其 道,
富 貴 不 能 溼, 貧
賤 不 能 移, 威 武不 能 屈,
此 之 謂 大 丈 夫.
Đoạn
trên là một đoạn bất hủ, lời đanh thép
cô đọng mà hùng, không đạt được cái
"hạo nhiên chi khí" thì không viết được.
Nhà Nho của ta ai cũng thuộc lòng nó và nó đã đào tạo
nên tâm hồn của nhiều nhà cách mạng thời Pháp thuộc.
Và mỗi khi đọc lại đoạn ấy, tôi lại
nhớ bài Chính khí ca của
Văn Thiên Tường đời Tống: cái chính khí trong
bài ấy là cái hạo nhiên chi khí của Mạnh tử. Nhiều
người chê đạo Khổng, Mạnh hủ lậu,
cố chấp làm cho Trung Hoa và chúng ta mất nước. Tội
đó phải qui cho các Nho gia đời sau, khi đạo
Khổng ngạnh kết rồi, chứ đạo Khổng
nguyên thủy có công bồi dưỡng tâm hồn và chí khí
con người hơn hết thảy đạo nào khác ở
phương Đông.
Để
kết thúc chương này, tôi xin trích thêm bài 21, Tận tâm,
hạ, mà tôi cho là có thể tóm tắt được mục
đích mà Mạnh tử nhắm trong việc đào tạo
người quân tử :
"Đất
rộng, dân đông, người quân tử muốn được
vậy, nhưng chưa cho vậy làm vui. Khiến cho nước
thành trung tâm trong thiên hạ, yên định được
dân chúng bốn biển người quân tử cho vậy làm
vui, nhưng chưa cho vậy là hợp với bản tính của
mình.
Cái
bản tính của người quân tử, dù đắc chí,
làm được việc lớn thì cũng chẳng gia
tăng, dù bất đắc chí mà phải cùng khốn, thì
cũng không suy giảm (. ) Cái bản tính ấy gồm những
đức nhân, nghĩa, lễ, trí mà nguồn gốc ở
tâm. Khi nó phát ra thì nó hiện rõ ràng ở nét mặt, chiếu
ra ở lưng, phô bày ở tay chân. Tay chân không đợi
ta nói ra, mà cử động đều hợp,,.
(Quảng thổ, chúng dân,
quân tử dục chi, sở lạc bất tồn yên. Trung
thiên hạ nhi lập, định tứ hải chi dân, quân
tử lạc chi, sở tính bất tồn yên. Quân tử sở
tính, tuy đại hành bất gia yên tuy cùng cư bất tổn
yên (...) Quân tử sở tính, nhân nghĩa, lễ, trí, căn
ư tâm. Kì sinh sắc dã, túy nhiên hiện ư diện, áng
ư bối, thi ư tứ thể. Tứ thể, bất
ngôn nhi dụ ).
Tóm
lại là hạng quân tử phải giúp nước, yên bình
thiên hạ, nhưng điều quan trọng nhất là trong
hoàn cảnh nào cũng phải giữ cái tính thiện, bồi
dưỡng nó sao cho nhất cử nhất động của
ta luôn luôn hợp với bốn đức nhân, nghĩa, lễ,
trí một cách hồn nhiên mà ta không tự biết. Nội mấy
hàng đó đủ cho chúng ta sắp ông vào hàng triết gia
kiêm chính trị gia lớn của nhân loại rồi.
Chương 9
TƯ CÁCH VÀ TÀI NĂNG MẠNH
TỬ
Tính
tình và tư cách
Nhiệt
tâm cứu đời của Khổng tử và Mạnh tử
ngang nhau: cả hai đều dắt một đám môn sinh,
bôn ba nhiều nước chư hầu mấy chục
năm tìm một ông vua chịu thi hành đạo của
mình; nhưng Khổng tử ngoài năm chục tuổi còn
được làm đại tư khấu bốn năm rồi
nhiếp tướng sự (gần như tướng quốc)
nước Lỗ, còn Mạnh tử trước sau chỉ
lãnh chức khách khanh, như cố vấn, không được
cầm quyền một lần nào cả. Nguyên do tại thời
Mạnh tử đã loạn hơn thời Không tử,
nhưng cũng tại tính tình nghiêm khắc, có thể nói là
cố chấp của Mạnh tử nữa.
Khổng
tử tính tình khoan hòa, chịu chiều đời một
chút, như lần ông vào chào nàng Nam tử, vợ vua Linh công
nước Vệ, có tiếng là dâm đãng, vì theo tục lệ
Vệ, ai muốn làm quan cũng phải ra mắt vợ
vua. Môn sinh của ông là Tử Lộ, cương trực mà
nóng nảy, tỏ vẻ bất bình, khiến ông phải thề
; "Nếu ta có làm điều gì không phải thì trời
hại ta ! trời hại ta !" (Luận ngữ - Ung dã -
bài 26).
Nhà
cầm quyền nào muốn vời ông giúp sức thì chẳng
cần biết người đó có đức hay không, ông
cũng sẵn sàng tới, như lần ông định đến
với Phất Nhiễu, một người gia thần phản
lại chủ, ở nước Lỗ. Tử Lộ
cũng lại bất bình nữa, xẵng giọng, bảo
: "Chẳng cần đi đâu nữa !" Ông đáp :
Người ta vời mình, tất có cớ chính đáng. Nếu
người ta muốn dùng thầy thì thầy chẳng làm
cho đời Đông-chu hưng vượng ngay ở
nước Lỗ này ư ?" Nhưng rồi ông cũng
nghe lời của Tử Lộ mà không đi. (Luận Ngữ
- Dương Hóa - bài 5).
Lần
khác, ở nước Tống, ông cũng muốn lại
giúp Phật Bật vì được y vời. Tử Lộ
cũng lại can, vì Phật Bật là một phản thần.
Ông đáp : " Vật gì thật cứng thì mài mấy nó
cũng chẳng mòn; vật gì thật trắng thì nhuộm
cách mấy nó cũng chẳng đen. Thầy há như trái bầu
chỉ để treo mà ngắm chứ chẳng ăn sao?".
Nói vậy nhưng rồi ông cũng không đi. (Luận ngữ
- Dương Hóa - bài 7).
Mạnh
tử trái lại là một người giữ đúng qui tắc,
không chịu thỏa hiệp, khiến cho một môn sinh là
Công tôn Sửu trách nhẹ ông :
"
- Đạo của thầy thật cao, thật đẹp,
nhưng ai theo đạo của thầy thì tựa như
lên trời, đi mãi chẳng tới. Sao thầy chẳng
làm cho đạo vừa sức người, để giúp
thiên hạ có thể chăm chỉ học tập hằng
ngày được ?"
Ông
đáp :
"
- Người thợ khéo không vì người thợ vụng
mà bỏ lằn dây lằn mực được. Tay thiện
xạ không vì kẻ bắn dở mà thay đổi cách
giương cung. Người quân tử (. .) giữ trung
đạo, ai có sức thì theo". (Quân tử trung đạo nhi lập, năng giả
tòng chi - Tận tâm, thượng - bài 41 ) .
君 子...中 道
而 立 ,能 者 從 之
Nghĩa
là ông cứ theo đúng nguyên tắc, không vì người
đời mà hạ thấp đạo của ông xuống.
Ông không vì lẽ cứu đời mà uổng "xích nhi trực
tầm", đi yết kiến các vua chư hầu, khi họ
không vời ông, nên một môn đề là Trần Đại
có lần thưa với ông :
"
Mình không tự ý đến yết kiến các vua chư hầu,
như vậy cơ hồ như thầy câu chấp tiểu
tiết. Nếu thầy chịu đi thăm họ, gặp
người có chí lớn, thầy có thể giúp họ làm
nên nghiệp vương, gặp người có chí nhỏ,
thì có thể giúp họ nên nghiệp bá. Sách Chí đời xưa có câu : "Uổng xích nhi trực tầm", con nghĩ
rằng thầy có thể theo lời đó được".
Thời
đó bọn biện sĩ như Tô Tần, Trương
Nghi, Phạm Tuy, tới kinh đô các nước, chầu chực,
đút lót để được vào yết kiến các
vua chúa mà trình bày mưu mô của mình, và được trọng
dụng, người nào cũng làm tướng quốc,
riêng Tô Tần được làm "tung trưởng",
điều khiển liên minh hợp tung của sáu nước
để chống lại Tần. Mạnh tử trái lại,
giữ vững tư cách, có vua nào vời thì mới tới,
cho nên Trần Đại mới dẫn lời cổ nhân
để ông xét lại thái độ của mình. "Uổng xích nhi trực tầm"
nghĩa đen là "chịu cong một thước mà
ngay thẳng được một tầm - tức mười
thước", nghĩa bóng là chịu khuất thân tạm
thời để phát triển được sự nghiệp.
Mạnh
tử đáp :
"
- Câu "uổng xích nhi trực
tầm" là nói về lợi. Nếu (không xét về
đạo) chỉ nghĩ tới lợi thôi thì "uổng tầm nhi trực
xích" cũng làm hay sao ?".
Rồi
ông kể chuyện Vương Lương, một người
đánh xe giỏi của nước Tống không chịu
đánh xe hầu một sủng thần là Bế Hề
đi săn vì Bế Hề không biết bắn, mà đáp
vua Tống :
"Kinh
Thi chép rằng : "Kẻ đánh xe thì cầm cương
cho đúng phép, người bắn cung hễ buông tên là trúng
đích". Tôi không quen đánh xe hầu kẻ tiểu nhân
bất tài. Tôi xin từ." Và Mạnh tử kết:
"Kẻ
đánh xe mà còn biết hổ thẹn, không chịu bỏ
phép cầm cương để chiều ý người đi
săn (...) huống hồ người quân tử lại chịu
làm cong cái đạo của mình để theo vua chư hầu
hay sao ? Anh lầm rồi, thầy chưa thấy ai khuất
thân khom lưng mà sửa ngay cho người khác được
bao giờ". (Ngự giả
thả tu dữ xạ giả tỉ... như uổng đạo
nhi tòng bỉ, hà dã ? Thả tử quá hĩ : uổng kỉ
giả vị hữu năng trực nhân giả dã -
Đằng Văn công, hạ - bài l).
御 者 且 羞 與
射 者 比...如 枉 道 而 從 彼.
何 也?
且 子
過 矣,枉 己 者 未 有 能 直
人者 也?
Đến
môn sinh còn không hiểu ông thì người ngoài làm sao không
trách ông.
Bài
17, Li Lâu, thượng, chép : Thuần Vu Khôn, một nhà biện
thuyết nổi danh nước Tề, hỏi ông :
-
Theo lễ thì trai gái không được truyền tay mà trao
đồ cho nhau, phải không ?
Ông
đáp :
-
Như vậy là lễ đấy.
-
Ví dụ một người chị dâu sắp chết
đuối, mình có nên đưa tay ra vớt không ?
-
Chị dâu sắp chết đuối mà mình không đưa
tay ra cứu vớt thì quả là loài sài lang rồi. Trai gái
không truyền tay nhau mà trao đồ, đó là lễ thường.
Chị dâu sắp chết đuối, đưa tay ra cứu
vớt là phép quyền biến". .
Mạnh
tử trả lời như vậy đúng lắm, nhưng
không ngờ bị mắc bẫy. Thuần Vu Khôn hỏi :
"-
Hiện nay thiên hạ đương chìm đắm, sao ông
không đưa tay ra cứu vớt ?".
Mạnh
tử bối rối nhưng nhanh trí, trả lời gượng
được bằng câu này : "thiên hạ chìm đắm,
phải cứu vớt bằng đạo, chị dâu sắp
chết đuối thì cứu vớt bằng tay. Ông muốn
tôi cứu vớt thiên hạ bằng tay sao ?
Một
lần khác, Thuần Vu Khôn chê thẳng Mạnh tử là bất
tài vì chẳng giúp gì được cho thiên hạ :
"Khôn
này chưa từng thấy người tài đức mà chẳng
nên sự nghiệp bao giờ. Cho nên hiện nay trong thiên hạ
không có bậc hiền giả, nếu có thì Khôn này đã biết".
Mạnh
tử không trả lời thẳng chỉ dẫn truyện
Khổng tử bỏ nước Lỗ vì không được
vua Lỗ theo lời, rồi kết luận : "kẻ thường
nhân chẳng biết được việc làm của
người quân tủ". (Cáo tử, hạ - bài 6). Ông mắng
Thuần Vu Khôn là tiểu nhân, không thèm giảng giải cho
nghe nữa. Thuần Vu Khôn chắc cũng ngượng.
Có
thái độ cương quyết giữ nguyên tác, không chịu
thỏa hiệp như vậy nên Mạnh tử chỉ
được các vua chúa kính trọng thôi chứ không thực
tâm dùng.
Ông
chua xót trách Tề Tuyên vương :
"Có
người hồi nhỏ học đạo (trị quốc)
của thánh hiền, lớn lên mong muốn thi hành sở học
của mình.
Nhưng
nhà vua lại bảo : "Khoan, hãy để qua một bên
sở học của ngươi mà làm theo ý ta đã".
Như vậy mới làm sao ?".
"Nay
nhà vua có một hạt ngọc chưa mài, dù đáng một
vạn dạt, thì cũng giao cho thợ ngọc giũa mài.
Đến việc trị quốc thì nhà vua lại bảo
: "Khoan, hãy để qua một bên sở học của
ngươi mà làm theo ý ta đã". Sao hành động lại
khác khi giao ngọc cho thợ giũa mài ?".
(Phù nhân ấu nhi học
chi, tráng nhi dục hành chi. Vương viết : Cô, xả
như sở học nhi tòng ngã" , tắc như hà ? Kim hữu
phác ngọc ư thử tuy vạn giật, tất sử
ngọc nhân điêu trác chi. Chí ư trị quốc gia tắc
viết : Cô xả như sở học nhi tòng ngã. Tắc hà
dĩ dị ư giáo ngọc nhân điêu trác ngọc tai
?" . - vương Huệ vương, hạ
- bài 9).
夫 人 幼 而 學 之,
壯 而 欲 行 之.
王 曰:姑,舍 女 於 學 而 從 我,則 何
如?
今 有 璞 玉 於 此,
雖 萬 鎰, 必 使 玉人 雕 涿
之.
至 於 治 國 家 則
曰: 姑,舍 女 於 學 而 從 我.
則 何 以 異 於 教
玉 人 雕 涿 玉
哉?
Nét
nổi bật thứ nhì của Mạnh tử là thái độ
hiên ngang. Ông dã khéo luyện cái "khí hạo nhiên" của
ông, bảo thà chết đói chứ không chịu nhận
món ăn phi lễ (Cáo tử, thượng - bài 10). Ông coi bọn
vận động sái đạo để ra làm quan là
đê tiện cũng như con trai con gái dùi lỗ để
nhìn nhau, vượt tường để theo nhau. (Đằng
Văn công, hạ - bài 3).
Trong
chương V, tôi đã nói ông cho rằng các vua chúa có bổn
phận phải nuôi ông và cả bọn tùy tùng có tới vài
trăm người của ông chỉ vì lẽ ông là một
người giữ đạo nhân, nghĩa của thánh hiền
mà làm gương cho người trong nước ! Có việc
cần tiền, nhà vua tặng ông thì ông nhận; nếu
không có việc gì cả thì dù là một trăm dạt vàng
ông cũng từ chối vì như vậy là người ta
muốn mua chuộc chứ không phải giúp đỡ ông.
Hơn nữa, ông muốn nhà vua phải trọng ông như
bậc thầy (Vạn Chương, hạ - bài 7).
Ông
nhắc cái gương vua Nghiêu đãi ông Thuấn :
"Xưa
kia, vua Nghiêu đãi ông Thuấn, sai chín người con trai
theo phụng sự ông Thuấn, và hai người con gái nâng
khăn sửa túi ông Thuấn. Khi ông Thuấn còn cày cấy
giữa đồng, vua Nghiêu cho bách quan ra hầu hạ,
cung cấp đủ mọi vật : bò, cừu, lúa thóc
trong kho lẫm. Sau đó, cử ông Thuấn lên chức vị
cao nhất. Cho nên có người bảo đó là cách các vua
chúa tôn trọng người hiền".
Ông
không những không sợ hạng "đại nhân", tức
như ngày nay ta gọi là hạng "cụ lớn", mà
còn khinh họ nữa :
"Khi
mình giảng giải với hạng đại nhân thì mình
đừng nghĩ tới địa vị của họ,
đừng nhìn cái cảnh cao sang vòi vọi của họ.
Nếu ta đắc chí (được ở địa vi
cao thì ta chẳng xây cất cung đường cao đến
mấy nhẫn (mỗi nhẫn là tám thước), dựng
những đòn tay đầu rộng đến mấy
thước ; nếu ta đắc chí thì chẳng bày bàn
ăn vuông vức một trượng, chẳng dùng mấy
trăm mĩ thiếp hầu hạ ; nếu ta đắc
chí thì chẳng miệt mài xong tiệc rượu, chẳng
phóng ngựa săn thú bắn chim, có cả ngàn cỗ xe theo
hầu đằng sau. Những cái họ làm, ta sẽ không
làm. Những cái ta làm thì nhất thiết đều theo chế
độ tốt đẹp thời xưa. Như vậy
thì ta sợ gì bọn đại nhân ?" (Tận tâm, hạ
- bài 34).
Có
lần vua Tề vời ông vào triều, ông thấy nhà vua có
vẻ không thành thực với mình, ông không thèm vào mà lại
đi thăm một người bạn là Cảnh Sửu.
Cảnh Sửu trách ông là bất kính đối với vua,
ông đáp: khắp nước Tề, ngoài tôi ra, không ai
đem đạo lí vua Nghiêu, vua Thuấn mà tâu bày với nhà
vua, như vậy thì không ai kính vua bằng tôi đấy chứ.
Cảnh Sửu lại bảo ông đáng trách ở chỗ
vua vời mà không tới. Ông đáp : "ngày xưa ông Y Doãn
là bề tôi mà vua Thành Thang chẳng dám đòi, ông Quản Trọng
là một viên quan mà vua Tề Hoàn công chẳng dám triệu. Ông
Quản Trọng mà vua chẳng dám triệu, huống hồ
một người (như ông) chẳng thèm làm như Quản
Trọng ư ?" (Công Tôn Sửu, hạ - bài 2).
Nghĩa
là ông bảo chính vua Tề mới bất kính đối với
ông. Ông coi vua chúa không ra gì cả vì vua chỉ có tước
vị, mả ông thì có đạo đức, tức cái mà
thiên hạ tôn trọng hơn hết, có ích cho đời nhất.
Suốt
lịch sử Trung Hoa, Mạnh tử là người áo vải
đầu tiên và có lẽ duy nhất dám mạt sát tất cả
các vua chúa đương thời, lại mắng thẳng
vào mặt hai ba ông vua, mà họ chỉ xấu hổ chứ
chẳng dám đáp lại, chứ đừng nói là trừng
trị.
Ông
mắng chung các vua chư hầu là hiếu chiến, "cho
đất đai ăn thịt dân, tội đáng chết".
(Li Lâu, thượng - bài 14); là "lưu, liên, hoang, vong",
ham tiệc tùng, săn bắn làm cho dân phải nhịn
ăn, phải hầu hạ vua quan, không được nghỉ
ngơi. (Lương Huệ vương), hạ - bài 4).
Lương
Huệ vương bị ông vạch tội là giết dân rồi
đổ lỗi cho sự mất mùa :
"Vua
để cho loài chó, heo ăn hết đồ ăn của
dân mà chẳng biết ngăn cấm; trên đường
đầy những kẻ chết đói mà không xuất lúa
phát chẩn cho dân. Dân chết, vua nói rằng : Chẳng phải
tại ta, tại mất mùa đấy. Như vậy có
khác nào đâm người cho tới chết rồi bảo
: Chẳng phải tại ta, tại mũi dao đấy
!" (Lương huệ vương, thượng - bài 3).
Bài
kế đó, Mạnh tử còn nặng lời hơn nữa,
bảo Vương Huệ vương đã khiến cho
loài thú ăn thịt dân vì trong bếp nhà vua có thịt, béo,
trong tàu có ngựa mập mà dân không có gì ăn, trong đồng
la liệt kẻ chết đói.
Tề
Tuyên vương, ngay buổi đầu, đã bị ông
trách là bẫy dân vì vườn của nhà vua rộng bốn
chục dặm, hễ người dân nào giết một
con hươu trong vườn thì bị xử như phạm
tội giết người (Lương Huệ
vương, hạ bài 2).
Lần
khác, ông làm cho Tề Tuyên vương mắc cỡ.
Ông
đưa ra hai thí dụ : một người đi xa, giao
vợ con cho bạn thân săn sóc, mà bạn để cho vợ
con mình đói lạnh, một ông quan coi hình pháp không làm tròn
nhiệm vụ, hỏi nhà vua nên xử trí ra sao, nhà vua
đáp nên tuyệt giao với người bạn, và cách chức
viên quan. Rồi ông hỏi tiếp : "Thế, một ông
vua để cho trong nước loạn thì nên xử trí
cách nào ?" Tề Tuyên vương ngó qua bên phải bên trái
rồi nói lảng sang truyện khác.
Cũng
vua Tề đó phải kinh sợ, biến sắc khi ông bảo
rằng các quan khanh trong tôn thất có bổn phận họp
triều đình và tôn tộc để truất một ông
vua phạm tội lớn, và tôn một người khác trong
họ lên thay.
Khắp
thế giới, trừ Diogène, không có một triết gia nào
tư cách hiên ngang như vậy, thực là một bậc
đại trượng phu "phú
quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy
vũ bất năng khuất". Tôi không hiểu từ
đời Hán Vũ đế, Nho giáo được độc
tôn, các ông vua đọc những đoạn đó trong Mạnh
Tử có thất sắc không, còn các ông lớn khi vinh thân phì
gia rồi, có bao giờ nhớ những bài họ học
thuộc lòng ấy khi còn là một thư sinh không?
Tài
năng
Trong
bộ Nho Giáo, quyển
thượng, Trần Trọng Kim bảo : "cái học của
ông (Mạnh tử) đã rộng, cái văn của ông lại
có cái anh khí làm cho lời văn rất mạnh".
Nửa
trên câu ấy chưa chắc đã đúng : bộ Mạnh Tử dẫn nhiều
truyện trong kinh Thư và nhiều câu trong kinh Thi, cơ hồ
ông chỉ chuyên về hai kinh đó để thành một
chính trị gia xuất sắc. Nhưng nửa dưới
của câu thì rất đúng: Mạnh tử quả là một
nhà hùng biện có tài thuyết phục, lôi cuốn người
đối thoại. Sở dĩ ông hùng biện vì như
chính ông đã nói : ông không thích tranh luận, bất đắc
dĩ mà phải tranh luận. Ông có một mục đích, một
lí tưởng để bênh vực, ông lại có nhiều
nhiệt tâm cho nên lời nói của ông luôn luôn phát ra tự
đáy lòng, linh động, rất nhiều sinh khí. Ông không
phải là hạng biện sĩ như Tô Tần,
Trương Nghi, chỉ bẻm mép, nay chủ trương
thế này, mai đã chủ trương ngược lại,
cốt sao được bọn vua chúa tin dùng mà giao cho những
quyền cao, chức trọng, nghênh ngang võng lọng ngựa
xe.
Đây,
ta nghe Mạnh tử nói với Tống Câu Tiễn :
-
Ông thích đi du thuyết phải không ? Tôi sẽ nói với
ông về phép du thuyết. Người ta biết mình, hiểu
mình thì mình vui vẻ, mà người ta không biết mình, không
hiểu mình, thì mình cũng cứ vui vẻ.
Tống
Câu Tiễn hỏi :
-
Phải làm sao cho có thể vui vẻ mãi được ?
-
Phải tôn trọng đức hạnh, ưa thích điều
nghĩa thì sẽ được vui vẻ mãi. Cho nên lúc khốn
cùng chẳng làm mất cái nghĩa mà khi thành đạt thì
chẳng rời cái đạo. Lúc khốn cùng không mất
cái nghĩa, cho nên kẻ sĩ giữ được tiết
tháo của mình, lúc thành đạt chẳng rời cái đạo
cho nên dân chúng không thất vọng vì mình. Người
xưa khi đắc chí (ra làm quan) thì ban ân huệ cho dân, khi
bất đắc chí ( ở ẩn) thì tu thân để rạng
danh ở đời. Khi nghèo khổ, ở ẩn thì một
mình mình giữ đạo khi hiển đạt thì giúp cho
thiên hạ đều theo đạo.
(Mạnh tử vị Tống
Câu Tiễn viết : Tử hiểu du hồ? Ngô ngữ tử
du. Nhân tri chi, diệc hiêu hiêu; nhân bất tri chi, diệc hiêu
hiêu.
Viết : Hà như tư khả
dĩ hiêu hiêu hĩ ?
Viết : Tôn đức, lạc
nghĩa, tức khả dĩ hiêu hiêu hĩ. Cố sĩ
cùng bất thất nghĩa, đạt bất li đạo.
Cùng bất thất nghĩa, cố sĩ đắc kỉ
yên; đạt bất li đạo, cố dân bất thất
vọng yên. Cổ chi nhân đắc chí, trạch gia ư
dân ; bất đắc chí tu thân hiện ư thể. Cùng tắcđộc
thiện kì thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ -
Tận tâm, thượng - bài 9).
孟 子 謂 宋 句 踐
曰: 子 好 游 乎? 吾 語
子 游.
人 知 之,亦 囂 囂,
人 不 知 之, 亦
囂 囂.
曰: 何 如 斯 可以 囂 囂 矣?
曰: 尊 德,樂 義 則
可 以 囂 囂 矣. 故 士 窮 不
失 義,
達 不
離 道.不 失 義 窮,故 士 得 己 焉; 達不 離 道,
故 民
不 失 望 焉.古 之 人 得 志, 澤 加 於 民,
不 得
志 修 身 見 於 世.窮 刖 獨 善 其 身 達 則 蒹
善 天下
So
sánh với phép du thuyết của bọn biện sĩ ta
thấy khác một trời một vực. Bài Thuế nan của Hàn Phi (đời
Tần Thủy Hoàng) có thể tóm tắt được hết
thuật của phái đó, tức thuật dò xét ý nghĩ,
tâm lí của đối phương để lấy lòng họ,
chiều thị hiếu của họ, bất chấp
đạo đức, nhân nghĩa :
"Du
thuyết khó, nhưng không khó ở chỗ tri thức của
ta đủ thuyết phục được vua chúa hay
không, cũng không khó ở chỗ khẩu tài của ta phát
biểu được rõ ý của ta hay không (...) mà khó ở
chỗ hiểu được tâm lí đối
phương để lời của ta hợp với tình
ý của họ. Như đối phương nghĩ tới
danh dự thanh cao mà ta đem tài lợi ra thuyết thì tất
họ cho ta là bỉ lậu tư cách đê hèn, mà không dùng
ta, xa lánh ta.
Nếu
đối phương nghĩ tới tài lợi mà ta
đem danh dự thanh cao ra thuyết thì họ cho ta là không
biết mưu tính, không sát sự tình, tất không thu dụng
ta (...) bậc quí nhân có điều lầm lỗi mà kẻ
du thuyết đem lễ nghĩa ra bàn để chê cái ác của
họ, như vậy thân sẽ nguy (...) ép buộc họ
làm cái việc mà họ không làm được, ngăn cản
không cho họ làm cái việc mà họ không thể không làm,
như vậy, thân sẽ nguy (...) "Điều cốt yếu
của phép du thuyết, là tô điểm cái mà đối
phương khoe khoang tự phụ và che giấu cái mà đối
phương lấy làm hổ thẹn (...).
Nhu
có kẻ nào cung dơ dáy như họ thì nên tô điểm
cho là kẻ đó không có gì thương phong bại tục;
nếu có kẻ nào cũng thất bại như họ thì
nên biểu minh rằng kẻ đó không hề lầm lẫn
(...) Khi họ giận dữ thì đừng trái ý họ, khi
biện luận thì tránh sự xung đột (...).
Rồng
là một con vật thuần, có thể lớn lần mà cưỡi,
nhưng dưới họng nó có những vẩy ngược
dài cả thước, ai mà đụng tới thì nó sẽ
giết. Bậc vua chúa cũng có những vẩy ngược,
kẻ du thuyết mà biết đừng động tới
những vẩy ngược của họ thì là tạm
được rồi".
Một
đằng thì thanh tao, hiên ngang chỉ giữ đạo
lí, vua chúa dùng mình hay không, không cần, họ tàn bạo thì cứ
mắng vào mặt họ mà không sợ chết; một đằng
thì đê tiện, nịnh bợ chỉ mong lấy lòng vua
chúa để họ dùng mình, họ dơ dáy thì tô điểm
cho dẹp, kị nhất là làm cho họ giận.
Trong
bộ Cổ văn Trung Quốc
(Tao Đàn - 1965) tôi đã viết : "Mạnh tử
hăng hái, sôi nổi, cảm tình nồng nhiệt, khí thế
hùng dũng".
Văn
của ông bao giờ cũng rõ ràng, mạch lạc, rất
dễ hiểu, đọc không chán vì có nhiều vẻ:
thường hùng hồn như những bài ông thuyết phục
Lương Huệ vương, Tề Tuyên vương ở
hai chương đầu ; có lúc phóng thích cay độc
như đoạn ông tả Lương Tương
vương khi ông mới yết kiến ra (bài 6 -
vương Huệ vương, thượng), có lúc phẫn
uất, mạt sát tất cả bọn cầm quyền
đương thời (bài 14 - Li Lâu, thượng); có lúc
nghiêm trang, hùng kính, (bài 2 - Đằng Văn công, hạ) ; có
lúc buồn thấm thía như khi ông than rằng các vua chúa muốn
ông bỏ cái sở học của ông hồi trẻ (tức
đạo lí) để giúp họ thì làm sao ông theo
được. Khi biện luận, "ông vừa dùng tâm
lí, tình cảm, vừa dùng phương pháp lí luận, hoặc
đi thẳng ngay vào vấn đề như bài thuyết
Lương Huệ vương về nhân nghĩa, ở
đầu bộ ; hoặc vén lần lần để ta
thấy cảnh ở xa, như bài thuyết Tề Tuyên
vương về vương đạo (bài 7 -
Lương Huệ vương, thượng) ; có lúc từ
chỗ hư mà dựng lên cái thực, có lúc từ cái thực
mà dẫn ra thành hư ; có khi lại dùng lối tỉ dụ
và ngụ ngôn để gây một ấn tượng mạnh
trong óc ta, bắt ta phải suy nghĩ mà nhận lời của
ông là đúng, như trong những đoạn ông kể chuyện
người nước Tống nhớm mạ lên cho mau lớn,
và chuyện người nước Tề có hai vợ (bài
33 - Li Lâu, hạ).
Bản
dịch bộ Mạnh Tử
lúc này chắc còn dễ kiếm, mà trong bộ Cổ văn Trung Quốc tôi
đã trích dịch bốn bài để giới thiệu ít
đặc điểm của văn Mạnh tử , nên ở
đây tôi không dẫn thêm nữa, chỉ xin thưa rằng
hầu hết các văn sĩ từ thời Đường
trở đi, như Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Tam Tô (ba cha
con Tô Tuân)... đều coi ông là bực thầy, và mỗi
khi nhà nào chủ trương "phục cổ" để
chống lại phong khí ủy mị, duy mĩ trên văn
đàn, thì luôn luôn lấy văn ông làm mẫu mực.
Tuy
nhiên, bảo văn Mạnh Tử
vô cùng hay hơn văn Luận
Ngữ, thì chỉ là ý kiến riêng của Lâm Ngữ
Đường (trong cuốn La
sagesse de Confucius - Victor Attinger 1949). Lâm chủ trương
văn xuôi phải tự nhiên, có góc có cạnh như lời
đàm đạo giữa những nhà trí thức thì mới
là hay cho nên không ưa lối văn ôn nhuận, cô đọng
mà hàm súc trong Luận Ngữ. Sự thực, không thể so
sánh được: người nào hồi trẻ cũng
thích văn Mạnh Tử, vui, dễ đọc, lôi cuốn;
nhưng về già thì lại thích văn Luận Ngữ, thâm
thúy hơn, ý vị hơn : những bài kể tình thầy
trò Khổng tử khi gặp cơn nguy cấp, hoặc khi
ngồi nhàn, tỏ chí hướng của nhau, kể tâm sự
với nhau, như những bài tôi đã giới thiệu
trong cuốn Nhà giáo họ Khổng
(Cảo thơm - 1973), nhất là bài 25, chương Tiên tiến thì thú vô cùng, có cái
thi vị mà Mạnh Tử tuyệt nhiên thiếu.
Khổng
tử là một đại triết gia, một triết
nhân, kiêm một nghệ sĩ đa cảm và nhiều khi dí
dỏm, có thể là bạn thân của Lão tử nếu sống
cùng thời ; còn Mạnh tử là một triết gia, một
chính trị gia, nhất là một chiến sĩ, không thể
ngồi chung với Trang tử.
Mà
chính Mạnh tử cũng vô cùng ngưỡng mộ Khổng
tử, luôn luôn lấy Khổng tử làm tiêu chuẩn, bảo
Khổng tử là "thánh chi
thời giả dã", là "tập
đại thành" nghĩa là có đủ những
đức của các bậc thánh khác mà xử sự luôn
luôn hợp thời. (Vạn Chương, hạ - bài l,
"từ khi có nhân loại tới nay, chưa ai bằng
Không tử".
Tư
cách, tài năng của Mạnh tử không bằng Khổng
Tử, cho nên giá trị bộ Mạnh
Tử không bằng giá trị bộ Luận Ngữ. Tuy nhiên, Mạnh tử cũng xứng
với danh hiệu á thánh mà đời sau tặng ông.
BẢN
DỊCH
...(Tề
Tuyên Vương) hỏi :
-
Đức hạnh như thế nào thì ta có thể dựng
được nghiệp vương [1]?
(Mạnh
tử) đáp :
-
Biết "bảo hộ" [2]
dân chúng mà dựng nên nghiệp vương thì không sức
nào cản nổi.
Hỏi :
-
Như quả nhân đây có thể bảo hộ dân chúng
được chăng?
Đáp
:
-
Được.
-
Do đâu mà biết rằng được ?
-
Thẩn nghe Hồ Hột [3]
nói : "Nhà vua ngồi ở trên đền, có người
dắt con bò đi qua trước đền. Nhà vua thấy,
hỏi : dắt bò đi đâu? Đáp : "Đem tô chuông"
[4].
Nhà vua bảo : "Thả nó đi. Ta không nỡ thấy vẻ
sợ sệt của nó như vô tội mà đến chỗ
chết".
Người
kia hỏi : "Nếu vậy thì bỏ lệ tô chuông sao
?" Đáp : "Sao lại bỏ? Đem dê thay vào. Thần
không rõ chuyện đó có thực không.
-
Có thực đấy.
-
Tấm lòng đó đủ để dựng nghiệp
vương rồi. Bách tính đều bảo rằng nhà
vua tiếc con bò. Còn thần, thần vốn biết rằng
vì nhà vua không nỡ thấy nó sợ sệt mà thả nó.
-
Đúng vậy. Đem dê mà đổi bò, tựa như là hà
tiện, quả có như lời bách tính chê quả nhân.
Nhưng Tề tuy là một nước nhỏ, ta tiếc
gì một con bò. Chỉ là không nỡ thấy nó sợ sệt
như vô tội mà đến chỗ chết, cho nên đem
dê mà thay đấy thôi [5].
-
Nhà vua chẳng nên lấy làm lạ rằng bách tính cho nhà vua
là tiếc bò, đem con vật nhỏ đổi con vật
lớn. Vì họ làm sao biết được nỗi lòng
nhà vua. Vả lại nếu thương xót loài vật vô tội
mà phải đến chỗ chết thì sao lại phân biệt
bò với dê ?
Cười
đáp :
-
Thế thì thực ra lòng ta lúc đó ra sao ? Nếu ta không phải
là tiếc của thì sao lại đem dê đổi bò. Bách
tính bảo ta là tiếc bò cũng phải.
-
Bách tính nghĩ vậy cũng không hại : Đem dê đổi
bò, đó là thuật làm nhân, vì nhà vua mới thấy bò sợ
sệt chứ chưa thấy dê sợ sệt [6].
Người quân tử đối với cầm thú, thấy
nó sống mà không nỡ thấy nó chết ; nghe nó kêu la thì
không nỡ ăn thịt nó, cho nên người quân tử xa
lánh nhà bếp.
Vua
vui vẻ bảo :
-
Kinh Thi nói rằng: người khác có gì trong lòng, ta đoán
được cả. Lời đó khen hạng người
như phu tử vậy. Việc đó chính ta làm, mà khi tự
xét để tìm lý do thì chẳng phân tích được lòng
mình ; tới khi phu tử giảng cho, lòng ta mới bùi ngùi .
Nhưng tấm lòng đó hợp với việc dựng
nghiệp vương là tại sao ?
-
Có người tâu với nhà vua rằng : sức tôi mạnh
đủ để nâng nổi ba ngàn cân mà không đủ
để nhắc một sợi lông chim, mắt tôi sáng
đủ để thấy cặn kẽ cái đầu sợi
lông về mùa thu [7],
nhà không thấy nổi củi chất trên một chiếc
xe, thì nhà vua có tin không ?
-
Không.
-
Nay ân huệ nhà vua đủ để ban tới loài cầm
thú mà công đức nhà vua lại không đến được
bách tính, sao lại có sự lạ như vậy ? Vậy
thì không nhắc nổi một sợi lông là vì không chịu
dụng sức ; không trông thấy củi trên xe là vì không chịu
nhìn ; bách tính không được bảo hộ là vì nhà vua
không chịu thi ân mà thôi. Nhà vua không dựng được
nghiệp vương là không chịu làm chứ không phải
là không đủ sức làm.
-
Không chịu làm với không đủ sức làm, sự thể
khác nhau ra sao?
-
Như việc kẹp núi Thái Sơn [8]
mà nhảy qua biển Bắc, và bảo người ta rằng
: "Tôi không làm nổi" thì quả thực là không làm nổi.
Còn như việc bẻ một cành cây cho bực truởng thượng,
và bảo người ta rằng : "tôi không làm nổi",
thì chỉ là không chịu làm chứ không phải là không làm nổi.
Cho nên nhà vua mà không dựng được nghiệp
vương thì không phải là trường hợp kẹp
núi Thái Sơn mà nhảy qua biển Bắc, nhà vua không dựng
nên nghiệp vương là trường hợp bẻ cành
cây vậy.
"Kính
trọng bậc cha anh mình rồi kính trọng tới bực
cha anh của người ; thương yêu con em mình rồi
thương yêu tới con em của người, thì trị
thiên hạ dễ như lật bàn tay. Kinh Thi nói: làm gương mẫu cho vợ, rồi
tới anh em, do đó mà trị được nhà và nước"
[9].
Lời đó có nghĩa là cho tấm lòng nhân đức của
mình lan ra từ gần đến xa mà thôi. Cho nên chịu
thi ân thì đủ để bảo hộ bốn bể,
không chịu thi ân thì không bảo hộ được vợ
con. Các vị vua thời xưa sở dĩ hơn xa người
thường, có do cái gì khác đâu : chỉ khéo phát triển
hành vi của mình từ gần tới xa mà thôi... Nay ân huệ
của nhà vua đủ để ban tới loài cẩm thú
mà công đức nhà vua lại không đến được
bách tính, sao lại có sự lạ như vậy ?
"Phải
cân rồi mới biết nặng nhẹ, phải đo rồi
mới biết ngắn dài ; đối nới mọi vật
đều vậy ; đối với lòng mình lại càng
đúng hơn nữa ; xin nhà vua xét cho. [10]
"Hay
là nhà vua muốn gây việc chiến tranh, làm hại mạng
tướng sĩ, kết oán với Chư hầu rồi
sau mới hả dạ chăng.
-
Không, ta đâu có thích điều đó, chỉ muốn
đạt dục vọng lớn của ta thôi.
-
Dục vọng lớn của nhà vua ra sao, thần có thể
nghe được chăng?
Vua
cười mà không đáp.
Mạnh
Tử nói :
-
Có phải vì thịt béo, đồ ngon không đủ thích
khẩu nhà nua chăng ? Vì y phục mỏng mát, dày ấm
không đủ sướng thân nhà vua chăng ? Hay là hình sắc
không đủ cho nhà vua nhìn ? Thanh âm không đủ cho nhà vua
nghe ? Kẻ sủng ái không đủ đề hầu hạ
ở trước mặt? Các quan chức đủ để
cung cấp những thứ đó cho nhà vua, dục vọng
của nhà vua đâu phải là muốn đạt những
thứ đó.
-
Không. Không phải vì những thứ đó.
-
Vậy thì cái dục vọng lớn của nhà vua, thần
có thể biết được rồi. Nhà vua muốn mở
rộng đất đai, muốn Tẩn, Sở [11]
triều cống mình, muốn chiếm trọn Trung Quốc,
bắt các rợ bốn phương [12]
quy phục mình ; dùng hành vi như kia để đạt dục
vọng này thì cũng như leo cây tìm cá vậy.
-
Khó như vậy lận ?
-
Còn nguy hơn nhiều nữa chứ. Leo cây tìm cá, tuy không
được cá cũng không có hậu họa. Dùng hành vi
như kia để đạt dục vọng của nhà
vua, dù tận lực để làm cũng tất có hậu
họa.(có người dịch là : sẽ hao phí tâm lực một
cách vô ích).
-
Phu tử giảng cho ta nghe được không ?
-
Nếu nước Trâu với Sở đánh nhau thì nhà vua
cho rằng bên nào thắng ?
-
Sở thắng.
-
Phải, vì nước nhỏ không thể địch nổi
nước lớn, dân ít không thể địch nổi dân
nhiều, yếu không thể địch nổi mạnh.
Hiện
nay trong hải nội có chín châu, mỗi châu rộng ngàn dặm,
mà Tề tập hợp đất đai lại thì
được một ngàn dặm; đem một nước
một ngàn dặm để chinh phục tám ngàn dặm, thì
có khác gì nước Trâu mà địch với nước Sở
không ? Vậy cứ trở về cái gốc là hơn cả
.[13]
Nay
nhà vua thi hành nhân chính, khiến cho các quan chức trong thiên hạ
đều muốn đứng ở triều đình nhà
vua, kẻ cày ruộng đều muốn cày ở ruộng
nhà vua ; kẻ buôn bán đều muốn chứa hàng hóa ở
chợ búa nhà vua ; kẻ lữ hành đều muốn
đi trên đường sá nhà vua ; trong thiên hạ những
kẻ ghét vua nước mình đều muốn lại tố
cáo với nhà vua ; được như vậy thì ai
ngăn cản nổi nhà vua ?
-
Ta tối tăm, tự mình không tiến tới bực
đó được. Xin phu tử giúp chí hướng ta,
đem lẽ sáng suốt mà giảng giải cho ta ; ta tuy không
tài giỏi, cũng xin thường thử xem.
-
Không có hằng sản mà có hằng tâm [14]
thì chỉ có kẻ sĩ là có thể được. Còn là dân hễ
không có hằng sản thì không có hằng tâm , mà không có hằng
tâm thì luông tuồng, quàng xiên, gian dối, bậy bạ, cái
gì cũng làm. Đến khi dân phạm tội rồi, vin
vào đó mà chém giết họ thì là lừa dân. Đời
thuở nào có bực nhân đức ở ngôi trên mà lại
lừa dân như vậy.
"Cho
nên bực minh quân điều hoà tài sản của dân, cho
dân ngẩng lên thể đủ thờ cha mẹ, cúi xuống
thì đủ nuôi vợ con, năm được mùa thì
được no đủ, năm mất mùa thì không đến
nỗi chết đói. Được vậy rồi mới
bắt dân làm điều thiện thì họ rất dễ
theo điều thiện.
Ngày
nay người ta điều hoà tài sản của dân, mà dân
ngẩng lên không đủ thờ cha mẹ, cúi xuống
không đủ nuôi vợ con, năm được mùa thì
cũng vẫn khổ, gặp năm mất mùa thì đến
nỗi chết đói ; như thế thì dân lo cứu khỏi
cái chết còn không xong, còn thì giờ đâu để làm việc
lễ nghĩa nữa ! Nhà vua như muốn thi hành nhân chính
thì sao không trở về với gốc ?
"Nhà
có năm mẫu mà trồng dâu thì người năm chục
tuổi có lụa mà mặc ; nuôi gà, heo, chó, giống đực
và giống cái, đừng làm mất thời sinh sản của
nó thì người bảy chục tuổi có thịt để
ăn. Khu ruộng trăm mẫu, không đoạt mất
thời giờ cày cấy thì nhà tám miệng ăn không đến
nỗi chết đói. Chăm lo việc giáo dục trong các
nhà tường nhà tự [15],
giảng cho nết hiếu và đễ thì những người
đầu bạc hoa râm không phải đội gánh trên
đường. Người già có lụa để mặc,
có thịt để ăn, dân đen không đói không rét,
như vậy mà không dựng được nghiệp
vương thì là điều chưa có vậy.
Chúng
tôi đã trích dịch một trong những đoạn dài nhất
của bộ Mạnh Tử vì hai lẽ :
Nó
rất quan trọng về phương diện tư tưởng
vì vạch được rõ chính sách trị dân của Mạnh
tử, nói chung là của Nho giáo: chính sách nhân trị (trị
bằng đức nhân), chú trọng vào hai việc dưỡng
dân và giáo dân, chính sách đó cũng gọi là vương
đạo, trái với chính sách bá đạo của các vua
chư hầu thời đó.
Nó
cũng rất quan trọng về phương diện
văn nghệ vì gom được gần đủ những
đặc sắc trong văn của Mạnh tử.
Đại
ý trong đoạn gồm trong ba chữ "phản kỳ
bản" : trở về cái gốc. Tức là lo việc
dưỡng dân và giáo dân. Nhưng Tề Tuyên Vương
không đủ tư cách để hiểu ngay quy tắc căn
bản đó, nên ông phải dắt dẫn lần lần.
Ông
rất sành tâm lý , tuy đoán được ý của Tề
Tuyên Vương là muốn dùng võ lực thôn tính các nước
khác mà mới đầu cũng vẫn khen Tề Tuyên
Vương là có lòng nhân , ông lại hiểu nguyện vọng
của dân, tính tình chung của thường dân là có đủ
ăn đủ mặc rồi mới lo trau giồi lễ
nghĩa .
Ông
ứng đối rất mẫn tiệp, biện thuyết
thao thao, dùng những thí dụ tài tình, đập mạnh
vào óc người nghe, như : khi ông giảng thế nào là "bất
năng", thế nào là "bất vi" mà đem việc
"kẹp núi Thái Sơn nhảy qua biển Bắc", và
việc bẻ cành cây ra so sánh với nhau ; hoặc như
khi ông dùng bốn chữ "leo cây tìm cá" để cho
vua Tề thấy công việc của mình sẽ không có kết
quả.
Một
lần nữa ông lại dùng cái thuật hỏi dồn một
hơi bốn năm câu để buộc Tề Tuyên
Vương phải thú nhận dự định đó ;
cho vua Tề thấy rằng dùng võ lực để thôn
tính chư hầu thì tất sẽ đại bại,
cũng như nước Trâu mà chống với nước
Sở thôi.
Sau
cùng lời ông có chỗ rất mạnh mẽ như khi ông
trách một số nhà cầm quyền là "lừa
dân". Khi đã phẫn uất thì vua chúa ông cũng không
kiêng : thực là có cái "hạo nhiên chi khí".
HẾT
Chú
thích:
[1]
Trong chương Li Lâu hạ - bài 22, Mạnh tử chỉ
nói : “Ta chưa được là môn đồ của Khổng
tử, ta học riêng ở những người truyền
đạo của Ngài”. Vậy rõ ràng ông không phải là học
trò của Tử tư. Tử tư chắc chết trước
khi ông sinh, mà ông có thể cách Khổng tử bốn năm
thế hệ, nhưng các học giả từ xưa vẫn
cho Mạnh tử thuộc vào môn phái Tử Tư, có lẽ
vì ông thường dẫn lời Tử Tư, rất trọng
Tử tư. Tính tình cũng hiên ngang như như Tử
Tư, và phần tâm học của ông cơ hồ có chịu
ảnh hưởng Tử Tư ít nhiều (coi các
chương VII, VIII ở sau).
[2] Liu Wu trích dẫn
trong la Philosophie de Confucius pagot, 1993.
[3]
Các
sách Cổ như Chiến quốc sách, Sử kí đều
chép là cửu hợp chư hầu (chín lần họp
chư hầu). Nhưng theo chú thích của Chu Tử, thì Tề
Hoàn Công họp chư hầu 11 lần. Chữ cửu (chín)
đó phải đọc là củ: củ hợp có nghĩa
là kết hợp. Henri Maspéro trong cuốn La Chine antique (PUF.1965) trang 249 cũng bảo là
11 lần và nếu kể thêm một lần năm 652 sau
khi Hoàn Công mất thì là 12.
[4]
Mỗi
dặm thời đó khoảng 600 mét. 15 dặm khoảng 9
cây số: mỗi chiều 9 cây số tức là khoảng 80
cây số vuông. con số này có phần đáng tin hơn con số
của Liu Wu Chi.
[5] Hai người kia cũng
được ông mến, nhưng vì cùng với ông viết
chung bộ Mạnh Tử nên không tiện ghi lại những
lời thày khen chăng?
[6]
Coi
cuốn nhà giáo họ Khổng của Nguyễn Hiến Lê -
Cảo Thơm.
[7]
Trong
cuốn Mạnh Tử sự thực lục,do La Căn Trạch
trích dẫn trong Chư Tử khảo sách – chúng tôi chưa
tra được ở bài nào, chương nào trong Mạnh
Tử.
[8]
Nguyên
văn là “lực bất thiệm dã". Có sách giải nghĩa
rằng “tại người ta không đủ sức đương
cự với mình nên phải miễn cưỡng theo mình”
[9] Tức
như ngày nay một bộ trưởng (quan khanh) lãnh
lương bằng 4 x 2 x 2 x 2
= 32 lần một thư kí (hạ sĩ ). Ví dụ một
thư kí lãnh lương 10.000 $ thì một bộ trưởng
lãnh 320.000$. "Cây quạt lương bổng” (éventail des
salaires) thời đó mở rộng hơn thời nay.
[10] Nên
so sánh chính sách trọng hiền đó với chủ
trương của bọn bần sĩ thời biện
sĩ thời Chiến quốc trong bài Trọng kẻ hiền
thì nguy cho nước - (Chiến Quốc sách - Trung-sơn
sách: bài 7).
Một
biện sĩ, Lí Tì, khuyên Triệu đánh Trung-sơn (vì vua
Trung-sơn trọng hiền
sĩ ) bảo Vũ Linh vương : “Đề cử hiền
sĩ thì dân vụ danh mà bỏ cái gốc, vời kẻ hiền
về triều thì kẻ cày ruộng làm biếng mà chiến
sĩ hóa yếu hèn. Như vậy mà không mất nước,
là việc chưa từng thấy”
[11]
Truyện
này chép lại trong Chiến quốc sách - (Yêu sách -9),
nhưng lại bảo Mạnh tử khuyên Tề Tuyên
vương : “Lúc này mà đánh
Yên là dùng thời cơ của vua Văn vua Võ: không nên bỏ
lỡ (Chiến quốc sách
không đáng tin).
[12] Võ vương mất -
1115 ; mà lúc này Mạnh tử khoảng sáu chục tuổi, tức
vào khoảng năm -310 . Vậy có thể tính là non 800
năm.
[13]
Mỗi mẫu theo Wieger bằng 600 mét vuông; nhưng theo tôi,
con số đó chỉ là phỏng chừng, còn tùy thời,
tùy miền nữa.
[14]
Tường và Tự đều là trường
để dạy dân chúng, coi bài 3 Đằng Văn công ,
thượng ở sau.
[15]
Đoạn
này y hệt bài 7. Lương Huệ vương thượng.
[16]
Theo Phan Bội Châu trong Khổng
học đăng II, trang 479 thì phép triệt tựa như
phép quân điền ngày nay.Vì vậy phép trợ và triệt
cũng lấy vào khoảng 1 phần 10 hoa lợi của
dân
[17]
Theo chú thích của Chu tử
thì đây là phép công. Vậy ta phải hiểu huê lợi
đây là huê lợi trung bình do chính quyền định, chứ
không phải huê lợi thực sự sau mỗi mùa.
[18]
Vậy là chưa kể bổng
lộc vì dân thường được chia mỗi gia
đình 100 mẫu?
[19] Dặm (lí) có sách nói là khoảng
500 mét. có sách bảo là 360 bước. nếu mỗi bước
trung bình là 0.7 mét thì một lí bằng khoảng 250 mét ; nếu
là 250 mét thì mỗi dặm vuông là 62.500 mét vuông. Và mỗi mẫu
bằng khoảng 600 mét vuông, hợp với con số của
Wieger trong cuốn Caractère chinois, 7è édition - Taiwan 1963.
[20]
thời
xưa cũng như thời nay ư?
[21]
Đó
là ý kiến của đa số. Có học giả lại
cho rằng "bản năng là một trạng thái kết
tinh của trí khôn", kết tinh bằng thói quen và
được di truyền lại, như vậy không còn
là "tiên nghiệm" nữa.
[22]
Có
tác giả bảo là khả năng thích ứng gồm hai hạng
: dễ thích ứng và khó thích ứng;; đại khái
cũng vậy ; dễ thích ứng tức là trực phản
ứng, khó thích ứng tức là gián phản ứng
[23]
Coi
đại cương triết học Trung-quốc, quyền
hạ, chương IV, của Giản Chi và Nguyễn Hiến
Lê – Cảo thơm – 1966.
[24] Trong chương IV cuốn
đầu bộ Lịch sử văn minh. Will Durant viết:"
Qui ước là những cách cư xử nào đó mà một
dân tộc cho là tốt; tục lệ là những qui ước
được nhiều thế hệ liên tiếp chấp
nhận sau khi dùng thử rồi đào thải một số
thấy là sai lầm ; luân lí là những tục lệ mà cả
tập thể cho là cốt yếu cho hạnh phúc và sự
phát triển của ập thể. Trong các xã hội sơ
khai chưa có luật pháp thành văn thì tục lệ và luân
lí qui định tất cả
hoạt động của con người, làm cho trật tự
xã hội được vững vàng và tiếp tục, không
gián đoạn. Do phép màu của thời gian lần lần
những tục lệ ấy thấm nhuần cá nhân mà thành
một bản tính thứ hai; hễ vi phạm tục lệ
thì thấy sợ sệt, khó chịu, xấu hổ nữa
; đó là nguồn gốc của lương tâm, của các
ý thức đạo đức mà Darwin cho là điểm dị
biệt căn bản giữa loài người và loài vật.
Khi nó phát triển đầy đủ rồi thì ý thức
đạo đức ấy thành lương tâm xã hội :
cá nhân cảm thấy mình thuộc vào một tập thể,
mình phải tôn trọng và trung thành với tập thể ấy.
Đạo đức là sự hợp tác của phần tử
với toàn thể và sự hợp tác của mỗi nhám nhỏ
với toàn thể lớn hơn.
[25]
Coi chú thích ở cuối chương trước.
[26]
Coi
Đại cương triết học Trung Quốc – quyển
thượng, chương IV Cảo thơm - 1965.
[27]
Chữ
"khí" trong Đông y
như "khí hư",
"khí huyết" cũng trỏ cái đó chăng?
[28] Mạnh
tử còn dùng chữ "khí" theo một nghĩa nơi
khác. Khi từ ấp Phạm đi vào kinh đô Tề. Ở
xa thấy con trai vua Tề, ông ngậm ngùi than:
"Địa vị thay đổi
khí tượng người ta, cách sống thay đổi
thể chất người ta, ảnh hưởng của
địa vị quan trọng thật ! " (Cư di khí,
dưỡng di thể, đại tai cư hồ Tận tâm thượng - bài 36).
居 移 氣 , 養
移 體 , 大 哉 居 乎.
Được ở một
địa vị cao quí có uy quyền, có kẻ sai bảo,
cho nên khí tượng của con vua thường nghiêm trang,
hiên ngang, khác khí tượng con thường dân ; mà
được sống trong cửa cao nhà rộng, ăn
ngon mặc đẹp không thiếu thứ gì, thì thể chất
của hạng quyền quí cũng thường mạnh
hơn, đẹp hơn thể chất bọn nghèo hèn.
Không những vậy, ngôn
ngữ giọng nói của giai cấp cầm quyền
cũng có cái gì giống nhau, cho nên "vua nước Lỗ
khi đến kinh đô nước Tống, vô lớn tiếng
trước cửa Địệt Trạch, thì viên giữ
cửa thành nhận thấy giọng vua Lỗ sao mà rất
giống giọng vua Tống quá" (Tận tâm. thượng
- bài 36)
[1]
Định
nghiệp vương nghĩa là dùng nhân nghĩa mà cai trị
dân (như đời tam vương : Hạ Vũ, Thương
Thang, Chu Văn Vương và Võ Vương) rồi tất
cả các chư hầu sẽ quy phục mình. Định
nghiệp bá là dùng thuật làm do dân giàu nước mạnh
như đời Ngũ Bá thời Xuân Thu.
[2]
Chữ
"bảo dân" trong Nho giáo có nghĩa là nuôi dân và bảo
vệ cho dân.
[3]
Tên
một vị quan nước Tề.
[4]
Chuông
mới đúc xong, người xưa lấy máu loài vật
tô lên.
[5]
Tề
Tuyên Vương hà tiện mà không biết mình hà tiện.
[6]
Ý
Mạnh tử muốn nói : vua Tề không muốn thấy
con bò sợ sệt đi tới chỗ chết, là có đầu
mối của lòng nhân rồi. Đem dê đổi bò là thi hành
lòng nhân rồi. Mà sở dĩ đem đổi bò, là vì mới
thấy sự sợ sệt của con bò chứ chưa thấy
sự sợ sệt của con dê.
[7]
Theo
bộ "Mạnh Tử" do Chu Hy chú thích thì tới mùa
thu, đầu lông chim hóa nhỏ, nhọn hơn nên khó thấy.
[8]
Tên
một núi ở tỉnh Sơn Đông.
[9] Câu
này ở trong thiên Tư tề, phần Đại Nhã trong
Kinh thi.
Nguyên
văn "quả phụ" nghĩa là "người vợ
ít đức". lời nói nhũn. Chữ "quả"
đó cũng như chữ "quả" trong "quả
nhân" lời vua tự xưng.
[10]
Ý
muốn nói rằng : vật có cái nặng cái nhẹ, cái dài
cái ngắn; phải cân phải đo mới biết dược
; lòng người ta đối với vật cũng có thứ
tự khinh trọng khác nhau. Nhà vua thử xét xem nên yêu dân
chúng trước và nhiều hơn hay nên yêu con bò con dê
trước và nhiều hơn.
[11]
Tần
và Sở là hai nước chư hầu hùng cường thời
đó.
[12]
Ở
phía đông là rợ Di. Ở phía đây là rợ Nhung, ở
phía nam là rợ Man, ở phía bắc là rợ Địch.
[13]
Gốc
đây là nuôi dân và dạy dân (coi đoạn dưới).
[14] Hằng
tâm là lòng thiện thường có, chứ không phải lâu
lâu mới có.
[15]
Kinh
Lễ. Thiên học ký chép: "Giáo giục ngày xưa. Ở
nhà thì có "thục", ở chỗ "đảng"
thì có "tường", ở chỗ "thuật",
thì có "tự", ở nước thì có "học"
; Trịnh Huyền chú thích rằng năm trăm nhà là một
"đảng" , mười hai ngàn rưỡi nhà là một
"thuật". Lâm Ngữ Đường chú thích khác : mỗi
xóm hai mươi lăm nhà thì có một "thục",
năm trăm nhà thì có một "tường", hai ngàn
rưỡi nhà thì có một "tự", và tại kinh đô
mỗi nước có một "học"
0 comments
Post a Comment