Pages

Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Sống không phải là ký sinh trùng của thế gian, sống để mưu đồ một công cuộc hữu ích gì cho đồng bào tổ quốc. (Phan Chu Trinh )Mở mang dân trí , Chấn động dân khí.Vun trồng nhân tài. Kỳ vọng ở những người làm quan, lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ được nhiều người xem là có giá trị về phương diện cổ động nhân sĩ và giới cầm quyền có tâm huyết đem tài sức ra giúp nước.(Khi Phan Bội Châu viết tập "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" )"Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn và vô trách nhiệm."“Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc [độc lập, tự do] thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?”“… đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thứ này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.”(Fukuzawa Yukichi) .Tôi tư duy nên tôi hiện hữu; nghĩa là: Vì tôi tư duy nên tôi biết mình hiện hữu.( René Descartes) John Paul II xưng thú tội lỗi tổng quát trong 7 mục sau đây:1. Xưng thú “tội lỗi chung”.2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý”.3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”

My Blog List

Blogger templates

Socrates (Hy Lạp)

Khi bạn giận dữ, hãy ngậm chặt môi, tránh làm tăng nộ khí của bạn. Người thực sự tài giỏi, chính là người có đủ trí tuệ để giúp đỡ người khác, không để mình bị lừa dối. Socrates (Hy Lạp).

Lão Tử

Hễ còn có lòng ham muốn thì chỉ biết trước được cái hẹp hòi biểu hiện ra bên ngoài chứ không biết được cái vi diện sâu ở bên trong..Ai vâng lời liều, hứa liều, tất nhiên khó lòng đúng hẹn.

Khổng Tử

1.Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi.2.Người không có chữ tín sẽ chẳng làm nên việc gì. 3.Sự nghiệp chớ nên cầu mong không có chông gai, trắc trở vì không có chúng thì ý chí sẽ không kiên định. 4.Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi. 5.Đừng mong người khác thuận theo ý mình vì nếu được người khác thuận ý sẽ tất sinh tự kiêu..

Đức Phật

Hãy ngừng phán xét, trên nền trời xanh thẳm, chẳng có sự phân biệt Đông - Tây. Chỉ có tâm trí nhầm lẫn của của con người tạo ra sự phân biệt rồi lại tin rằng đó là thật.

Tục Ngữ

Đối với những người không biết làm chủ đầu óc thì sách liệu có mang lại lợi ích gì? Đưa sách cho họ có khác nào đưa chiếc gương cho người mù.

Monday, December 30, 2013

NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH : KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO

 LỜI MỞ ĐẦU

 
   Trong những năm trước đây, nội dung đào tạo lý luận trong các trường đại học hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa học Mac-Lênin. Hậu quả là phần lớn sinh viên thiếu sự hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người dẫn đến phát triển về nhận thức bị hạn chế. Không biết kết hợp với những tri thức của nhân loại nhằm vận dụng linh hoạt trong thực tế. Vì thế trong những năm gần đây công tác nghiên cứu và giảng dạy môn triết học đang có những sự đổi mới.

    Nho giáo là một học thuyết triết học và chính trị-xã hội lớn nhất trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại . Nho giáo đã sớm phát hiện ra vấn đề con người, đặc biệt đề cập khá sâu đến quan niệm về con người và đào tạo con người . 

   Nho giáo đã du nhập và tồn tại ở Việt Nam gần 2000 năm , đã có tác dụng to lớn đối với xã hội và con người nước ta trong lich sử, đồng thời cũng để lại những ảnh hưởng khá sâu đậm đến xã hội và con người Việt Nam hiện nay.Vì vậy Một sự khảo cứu có hệ thống về đường lối, quan điểm “Đạo Đức” trong triết học Nho Giáo có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người trong giai đoạn hiện nay. Trong bài tiểu luận này được làm 3 chương với chủ đề khái quát về Nho Giáo, sau đó đề cập đến quan điểm Đạo Đức của triết học Nho Giáo và cuối cùng là những giá trị tích cực của Nho Giáo cần được phát huy. 


KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO

I. NHO GIÁO LÀ GÌ ? 

  • Nho giáo là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán Tự từ Nho gồm từ nhân (người) đứng cận chữ Nhu (cần, đợi, chờ). Nho Giáo còn gọi là nhà nho, người đọc sách thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng để dạy bảo người đời, ăn ở cho phù hợp với luân thường đạo lý.

  • Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551-479 TCN), tên Khâu, Tự Trọng Ni người nước Lỗ, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tri thức cũng như tư tưởng trước đây thành học thuyết gọi là Nho học hay Nho giáo. 

  • Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu) hay Tứ Kinh (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử). Quan điểm của nho giáo thể hiện trong Tam Cương đó là các mối quan hệ vua-tôi, cha-con, vợ chồng và Ngũ Thường ( Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Nho giáo ảnh hưởng hầu hết các nước phong kiến phương Đông qua quá trình giao thoa và đồng hòa. 

  • Ở nước ta Nho giáo xuất hiện cùng với sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, và phát triển rất nhanh trong khoảng thời gian từ thế kỷ X-XIII. Trong thời đại ngày nay Nho giáo được chọn lọc và cần gìn giữ để phát triển những mặt tích cực của nó như coi trọng việc học, tôn sư trọng đạo, giữ gìn nét đẹp văn hóa trong lối sống gia đình...
II. SƠ LƯỢC VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO 

   Nói đến nền văn hóa truyền thống Trung Quốc không thể không nói đến một nhân vật đó là Khổng Tử. Trong thập niên 70 của thế kỷ trước, một học giả Mỹ đã xếp Khổng Tử ở ngôi vị thứ 5, chỉ sau chúa Giê-xu, Thính-ca-mâu-ni... trong số 100 nhân vật có ảnh hưởng trong lịch sử. Đối với người Trung Quốc mà nói sự ảnh hưởng của Khổng Tử có thể phải xếp thứ nhất vì mỗi con người ở đấy ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng của học thuyết Khổng Tử. 


Khổng Phụ Tử 551- 479 TCN
  •     Khổng Tử là người sáng lập ra học thuyết Nho giáo ở Trung Quốc. Hơn hai nghìn năm qua, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc không chỉ về chính trị, văn hoá...mà còn thể hiện trong hành vi và phương thức tư duy của mỗi con người Trung Quốc. Có học giả nước ngoài thậm chí coi tư tưởng Nho giáo là tư tưởng Tôn Giáo của Trung Quốc. Trong thực tế, trường phái Nho giáo chỉ là một trong rất nhiều trường phái thời cổ Trung Quốc, nó là một tư tưởng triết học chứ không phải là Tôn giáo, chẳng qua là do được coi là tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc và vì người Hoa và Hoa kiều có mặt hầu như trên toàn thế giới, có thể nói sự ảnh hưởng của tư tưởng Khổng Tử đã không còn giới hạn ở Trung Quốc và châu Á nữa.
Thời Xuân Thu từ 722 đến 481 TCN
  •     Khổng Tử sống trong thời Xuân Thu, thời kỳ này thể chế quốc gia thống nhất bị phá vỡ, sản sinh ra nhiều nước Chư hầu lớn nhỏ. Khổng Tử sinh sống trong nước Lỗ là nước có nền văn hóa tương đối phát triển lúc đó. Tại sao học thuyết của Khổng Tử lại chiếm vị thế thống trị trong thời đại phong kiến Trung Quốc ? Đây là vấn đề không dể giải thích trong một vài câu. Nói một cách đơn giản là tư tưởng đẳng cấp nghiêm ngặt và tư tưởng cải lương chính trị của ông phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, có lợi cho ổn định xã hội lúc bấy giờ và xúc tiến xã hội phát triển. Khổng Tử nhấn mạnh qui phạm và trật tự luân lý nghiêm ngặt, cho rằng nếu làm trái với cấp trên hoặc trái với Cha mẹ đều là tội nghiêm trọng. Theo lý luận này, Vương Quân phải quản lý tốt đất nước, thường dân phải trung thành với Vương quân. Mỗi người đều có nhiều thân phận, có thể là con, có thể là cha, có thể là thần tử... nhưng đều cần phải duy trì ranh giới Tông tôi nghiêm khắc. Như vậy nhà nước mới thái bình, nhân dân mới có cuộc sống yên ổn. 

  • Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu Đính và giải thích bộ Lục Kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung
  • Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "Tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm: "Nho giáo và Nho gia". Nho gia thì mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo vì ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành Giáo Chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO  

     Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là Quân Tử ( Quân = người làm vua, Quân tử = chỉ tầng lớp trên ở trong xã hội để phân biệt với kẻ "Tiểu nhân" những người thấp kém về điạ vị xã hội; "Quân tử" là những người cao thượng có phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với kẻ "Tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền ). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "Tự Đào Tạo", phải "Tu Thân". Sau khi Tu Thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "Hành Đạo" ( Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng ( hoặc như họ tự nhận mình là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm Vua cho người nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sở triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.

1.      TU THÂN : 

       Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà Nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà Nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội sẽ được an bình.

A. Tam Cương: Nói về ba mối quan hệ Quân Thần (vua tôi), Phụ Tử (cha con), Phu Phụ (chồng vợ).
·  Quân Thần ( Vua Tôi) : Trong quan hệ vua tôi. Vua thì thưởng phạt công minh, Tôi tớ phải trung thành một dạ.
·  Phụ Tử ( Cha Con )       : Cha hiền Con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuôi dạy con cái, Con phải hiếu thảo và phụng dưỡng khi cha về già.
·  Phu Phụ (Chồng vợ ) : Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ. Vợ phải chung thủy tuyệt đối với chồng . 

B. Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
·      Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
·      Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
·      Lễ    : Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
·      Trí   : Sự thông biết lý lẽ, phân biệt rõ thiện ác, đúng sai.
·      Tín   : Giữ đúng lời hứa, đáng tin cậy.

C. Tam Tòng: Tam là ba, Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, bao gồm: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
·     Tại gia tòng phụ   : tức người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải theo cha.
·     Xuất giá tòng phu : lúc lấy chồng phải theo chồng.
·     Phu tử tòng tử     : nếu chồng qua đời phải theo con .

D. Tứ Đức: bốn tính nết tốt của người phụ nữ phải có là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
·     Công : khéo léo trong công việc.
·     Dung : hòa nhã trong sắc diện.
·     Ngôn : mềm mại trong lời nói.
·     Hạnh : nhu mì trong tính nết.

Người Quân tử phải đạt được ba điều trong quá trình Tu Thân:
  • Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là "Con đường" hay "Phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (trong sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "Trung Dung". Tuy nhiên, đến Hán nho Ngũ Luân được tập trung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam Tòng.
  • Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: "Nhân - Trí - Dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba đức mà ta chưa làm được. Người Nhân không lo buồn, người Trí không nghi ngại, người Dũng không sợ hãi " (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "Dũng" bằng "Lễ, Nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí". Đến thời Hán nho thêm một đức nữa là "Tín" nên có tất cả năm đức là: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín". Năm đức này còn gọi là Ngũ Thường.
  • Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc : Ngoài các tiêu chuẩn về "Đạo" và "Đức", người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc" tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
2.  HÀNH ĐẠO 

       Sau khi Tu Thân, người quân tử phải Hành Đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ là gia đình, cho đến lớn là Trị Quốc, và đạt đến mức cuối cùng là Bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị có hai phương châm: 

  • Nhân Trị : Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” ( Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác - sách Luận ngữ). "Nhân" được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ). 


  • Chính Danh : Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng Tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ). 

     Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: "Tu Thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ".. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi. 
    Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường). 
    Những quan niệm Đạo Đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu, nhưng có nhiều phương châm xử thế, đã giúp ông sống giữa bầy lang sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng, suy đến cùng thì đạo làm người ấy bao gồm hai chữ “Nhân Nghĩa”. 
   Khổng Tử giảng chữ "Nhân" cho học trò không lúc nào giống lúc nào, nhưng xét cho kỹ, cốt tủy của chữ Nhân là lòng thương người như chính Khổng Tử nói :


  • Đối với người như đối với mình, không thi hành với người những điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa cái mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì phải làm cho người đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không làm cho người xấu đi (Sách Luận ngữ). 

Nghĩa” là lẽ phải, đường ngay, việc đúng. Mạnh Tử nói


  • “Nhân là lòng người, Nghĩa là đường đi ngay thẳng của người” “Nhân là cái nhà của người, Nghĩa là đường đi ngay thẳng của người” 

   Đến đời Hán nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa vào Ngũ Thường. “Tam Cương Ngũ Thường“ trở thành trụ cột của lễ giáo phong kiến. Sang đời Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trừu tượng hóa. Các nhà Tống nho căn cứ vào thuyết “Thiện Nhân hợp nhất” khoác cho hai chữ nhân nghĩa sắc thần siêu hình. Trời có ‘lý” người có “Tính” bẩm thụ ở trời. Đức của trời có 4 điều: “Nguyên, Hạnh, Lợi, Trinh“; Đức của người có “Nhân, Nghĩa, Lễ và Trí“. Bốn đức của người tương cảm với đức của trời. 

   Hệ thống hóa lại một cách tóm tắt hai chữ “Nhân Nghĩa” ở một số thời điểm phát triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ “Nhân Nghĩa” của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung từng thời kỳ có thêm bớt nhưng căn bản vẫn là những lễ giáo phong kiến không ngoài mục đích duy nhất là ràng buột con người vào khuôn khổ pháp lý Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong quá trình phát triển càng ngày Nó càng bị trừu tượng hóa trên quan điểm siêu hình. 

   Tuy nhiên quan điểm Đạo Đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm tích cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả, dù nguyên tắc ấy không được thực hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội

QUAN ĐIỂM “ĐẠO ĐỨC” CỦA NHO GIÁO TỪ KHỔNG TỬ ĐẾN MẠNH TỬ



I. TÓM TẮT CHUNG : 

  • Khổng Tử - Người sáng lập ra Nho giáo với quan điểm chủ yếu là dùng “Đạo Đức” cai trị hay nói khác hơn là đường lối “Đức Trị”. Tuy nhiên, phải đến Mạnh Tử đường lối "Đức Trị" mới được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối Nhân Chính (chính trị nhân nghĩa). Tìm hiểu được quá trình phát triển đó sẽ giúp chúng ta hiểu sâu thêm sức sống lâu bền của tư tưởng "Đức Trị" ở các nước Châu Á.

  • Nho học về thực chất là một học thuyết chính trị đạo đức mà biểu hiện tập trung ở đường lối "Đức Trị". Đối với các xã hội phong kiến Châu Á, đường lối "Đức Trị" luôn luôn là đường lối trị nước duy nhất trong hơn hai nghìn năm lịch sử. Một đường lối trị nước được độc tôn lâu dài. Như vậy trong lịch sử rất cần được đi sâu vào nghiên cứu. Hơn nữa, đối với các xã hội Á Đông đương đại, Nho học trong đó có tư tưởng "Đức Trị" không phải là vấn đề cổ xưa, càng không phải là vấn đề đã hoàn toàn thuộc về lịch sử. Trên thực tế sự hiện diện của Nho học với những mức độ khác nhau, vẫn luôn luôn mang tính thời sự mới mẻ. Không nghi ngờ gì nữa ý nghĩa hiện đại của nhiều yếu tố trong Nho học trong đó có tư tưởng "Đức Trị" đang ngày càng nổi lên. Một sự nghiên cứu có hệ thống về quan điểm“Đạo Đức“ hay đường lối "Đức Trị" trong triết lý Nho học lại càng cần thiết.

II. QUAN ĐIỂM VỀ “ĐỨC TRỊ” CỦA KHỔNG TỬ :
    1. Quan niệm về "Đạo Đức"- đường lối "ĐứcTrị ": Nhân, Lễ, Chính danh 

    Với Khổng Tử "Đạo Đức" là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói đến "Đạo Đức":
Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân..
  • "Đức" với Khổng Tử là lời nói đi đôi với việc làm trên cơ sở cái thiện: "Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được" Chính trên cơ sở đó, Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức Trị" - đường lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Khổng Tử quan niệm: "Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)

  • Trước sau Khổng Tử vẫn tin rằng: "Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính

  • Trong đời mình, dù là luận thuyết việc trị nước cứu đời hay dạy học, đào tạo nhiều lớp môn sinh tài đức, thì trước sau Khổng Tử đều nói nhiều đến đức nhân. Khổng Tử coi "Nhân" là Đức căn bản nhất của con người cả về xử thế lẫn Tu Thân, và bao gồm gần đủ các đức khác. Thật vậy "Nhân" vừa là Tu Thân, vừa là ái Nhân, lại vừa là xử kỷ vừa là tiếp vật. 

  • Đối với Khổng Tử, điều quan trọng nhất trong tư tưởng về "Nhân" là biểu hiện về mặt chính trị của nó. Có lẽ với Khổng Tử thái độ đối với dân là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá đức nhân của người cầm quyền: "Sai khiến dân thì phải thận trọng như trong một cuộc tế lớn, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người". Trong nước không ai oán mình, trong "Nhà" một đại phu không ai oán mình". Ông từng nói "Tài trí đủ để trị dân (có người hiểu là đủ để biết mọi lẽ) mà không biết dùng đức nhân để giữ dân, thì sẽ mất dân...". 

  • Sau "Nhân" Khổng tử quan tâm nhiều đến "Lễ", bởi “Lễ” cần thiết để duy trì trật tự xã hội, và có trật tự xã hội thì vua mới được tôn trọng, Nước mới được trị. Mặt khác, lễ có nội dung luân lý của nó, trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời với Nhân. Khổng Tử xem điều lễ là hình thức của Nhân, là chính đạo mà mọi người nên thi hành, còn nếu con người chạy theo dục vọng của mình mà trái ngược với chính đạo tức là trái ngược với điều Nhân. Vì vậy, người cầm quyền phải giữ lễ: "Vua khiến bề tôi phải giữ lễ, bề tôi thờ vua phải trung (hết lòng)". 
  • Đáng chú ý là, trong quan niệm của Khổng Tử Lễ chỉ quan trọng khi gắn bó với điều Nhân, là biểu hiện của Nhân. Nếu tách rời nhân thì Lễ chỉ là vô nghĩa. "Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì ? ". Thật vậy không có lòng Nhân thì Lễ mà làm gì ? Nhà cầm quyền không có đức nhân thì Lễ chỉ càng làm thủ cựu, càng làm nghiệt ngã và tàn khốc. 

  • Khổng Tử đề xướng "Lễ Trị" nhằm ổn định xã hội. Thực hành đúng Lễ vừa là biểu hiện của Nhân, đồng thời cũng thể hiện con người phải làm đúng bổn phẩn, thân phận của mình, tức là phải Chính danh. 
  • Trong công việc chính trị, theo Khổng Tử "Chính danh" phải đặt lên trước nhất, bởi "Nếu danh (hiệu) không chính (xác) thì lời nói không thuận lý (vì danh hiệu không hợp với thực tế), lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết đặt chân vào đâu (không biết làm thế nào cho phải).

     2. Chính sách trị dân và mẫu người cầm quyền Quân Tử 

  • Tư tưởng “Đức Trị” của Khổng tử còn thể hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng Tử quan niệm: "Không giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược" . Khổng Tử chủ trương giảm hình phạt, coi nhẹ hình phạt vì ông thật sự không bao giờ tin vào bá đạo:
  •  "Có thể (dùng sức mạnh) bắt được một vị nguyên soái, chứ chí hướng của một thường dân thì không (dùng sức mạnh mà) đoạt nổi.
  •  “Lấy sức mạnh để phục người thì người không tâm phục thật sự, bởi vì sức không chống lại được mà thôi. Lấy đức để phục người thì trong lòng người vui vẻ mà nghe theo thật sự vậy.” 

  • Khổng Tử cho việc thi ân rộng rãi cứu giúp dân chúng là sự nghiệp của thánh Vương mà Nghiêu, Thuấn chưa chắc đã làm được như vậy. “Dưỡng dân“ theo Khổng Tử trước hết phải làm cho dân no đủ, giàu có. Ông coi trọng việc dưỡng dân còn hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hoá dân nữa. Dưỡng dân còn phải biết "Sử dân dĩ thời" nghĩa là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể là vào lúc dân rảnh việc nhà nông. Như vậy "Sử dân dĩ thời" vừa thể hiện sự nhân đạo trong chính sách trị dân, vừa là bổn phận của người cầm quyền, người được tôn là cha mẹ dân. 

  • Để thực thi đường lối “Đức Trị”, đương nhiên cần phải có một mẫu người cầm quyền thích hợp. Đó là mẫu người Quân tử với những tiêu chuẩn về tài đức nhất, xứng đáng được nắm quyền trị dân. Đức của người quân tử là "Lấy Nghĩa làm gốc, theo Lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc", "Sửa mình để cho trăm họ yên trị". 

Tư cách người quân tử là :

 Lo không đạt đạo chứ không lo nghèo", 
"Hòa hợp nhưng không a dua", 
"Thư thái mà không kiêu căng".
  • Tài năng kiến thức của người quân tử "không phải như một đồ dùng", tức là phải hiểu rộng, biết nhiều làm được nhiều việc và nhất là phải có "Tài trí đủ để trị dân". Người quân tử còn phải là "Thận trọng về lời nói, mau mắn về việc làm", thờ Vua phải trung nhưng là trung một cách sáng suốt "không nên lừa gạt vua, nhưng không ngại xúc phạm vua (mà phải dám can gián)". 

  • Có thể khẳng định đường lối “Đức Trị”của Khổng Tử "lấy đạo Nhân làm gốc, lấy hiếu - đễ, Lễ - Nhạc làm cơ bản cho sự giáo hoá, lấy việc thực hiện chính sách "Thân dân" làm cơ sở; lấy tư cách phẩm chất mẫu mực của người cầm quyền làm gương để thực hiện "Đức Trị", "Lễ Trị", "Nhân Trị" nhằm tạo lập một xã hội phong kiến theo thể chế có trật tự, tôn ti.

III. MẠNH TỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI NHÂN CHÍNH :

      Thời đại của Mạnh Tử là thời đại Chiến quốc, một thời đại mà mọi tư tưởng được giải phóng mạnh mẽ, cho nên, ông phải đảm đương sứ mệnh người thừa kế, bảo vệ và phát triển tư tưởng của Khổng Tử trong thời đại mới. Có thể khẳng định với Mạnh Tử, học thuyết của Nho gia do Khổng Tử sáng lập đã được phát triển nâng lên một tầm mức mới trở thành Nho giáo Khổng Mạnh. Đó là đường lối "Nhân chính" của Mạnh Tử với những nội dung chủ yếu sẽ lần lượt được trình bày dưới đây.

Mạnh Tử
    1. Đề cao sức mạnh nhân nghĩa : 

  • Mạnh Tử cũng đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử về "Tính tương cận, tập tương viễn" và đi đến luận điểm nổi tiếng: "Nhân tính chi thiện giã" (cái bản tính của người ta khi sinh ra vốn lương thiện). Từ đó ông khẳng định sức mạnh vô địch của tính nhân nghĩa: "Đối với người nhân dẫu kẻ địch có đông cũng chẳng làm gì được mình. Này, nếu một vị Quốc quân thích làm "Nhân chính" thì trong thiên hạ chẳng ai địch nổi". Không ai địch nổi người nhân đức là ý niệm chính trị mà Mạnh Tử suốt đời tin tưởng theo đuổi. Quả thật là Mạnh Tử rất nhất quán trong quan niệm lấy nhân đức làm nguyên tắc chỉ đạo chính trị của mình. Trước sau như một, ông luôn luôn chỉ nói đến Nhân Nghĩa và chỉ đề cao Nhân Nghĩa. 
 Mạnh Tử khuyên con người ta nên sử dụng thái độ chân thành, lòng khoan dung rộng lượng để đối xử: 
  • Đối với người hiểm ác thì nên sợ mà tránh xa, đối với người hiền đức thì nên thân mà gần gũi. Người đem điều ác đến thì ta lấy điều thiện đáp lại. Người đem lừa dối đối xử thì ta lấy ngay thẳng đáp lại. Như vậy ai mà oán thù được mà chỉ có người tâm phục mà thôi."
  • Lấy oán báo oán, oán thù chập chùng, lấy đức báo oán , oán thù tiêu giải” 

 Quan điểm của ông thật rõ ràng :
  • "Người ưa điều thiện thì dư sức cai trị thiên hạ... nếu nhà cầm quyền ưa điều thiện, ắt người trong bốn biển sẽ khinh thường đường xa muôn dặm mà đến với mình, để mách bảo điều thiện với mình". 

Người Nhân là người vô địch trong thiên hạ, bởi vì "điều nhân thắng điều bất nhân, cũng như nước thắng lửa".

   2. Coi Trọng Dân 

  • Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng "Dân Tín", coi đó là điều quan trọng nhất không thể bỏ được trong phép trị nước, thì Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: "Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất lòng dân... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được thiên hạ... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng". 
  • Ông nói: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là trong nước nhân dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn là gốc nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. 
  • Từ đó Mạnh Tử chủ trương thi hành một chế độ "Báo dân" và khuyến cáo các bậc vua chúa: "Nếu người bậc trên mà vui với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu mình buồn với sự buồn của dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bậc quốc trưởng mà chia vui với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của mình cũng có bề hưng vượng đó". Với các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân muốn việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ". 

   Nếu Khổng Tử coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc, nhưng mới dừng lại ở những nguyên tắc có tính đường lối, thì Mạnh Tử quan tâm nhiều hơn đến các biện pháp kinh tế cụ thể nhằm tạo ra cho dân số một sản nghiệp no đủ.
Mạnh Tử đòi hỏi bậc minh quân phải

  • "Chế định điền sản mà chia cho dân cày cấy, cốt khiến cho họ trên đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới đủ nuôi sống vợ con, nhằm năm trúng mùa thì mãi mãi no đủ, phải năm mất mùa thì khỏi nạn chết đói", và "Thánh nhân cai trị thiên hạ, phải làm cho dân có đậu thóc nhiều như nước lửa, khi đậu thóc nhiều như nước lửa thì dân chẳng còn ai bất nghĩa nữa". 

Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng "Sử dân dĩ thời" của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề xuất một định hướng kinh tế khá hoàn chỉnh nhằm hướng đến cải thiện đời sống của dân,
  • "Nếu bậc quốc trưởng làm cho việc ruộng nương được dễ dàng (đừng bắt họ làm sâu lúc cày cấy gặt hái) và bớt thuế má cho dân, thì dân trở nên phú túc... bậc thánh nhân cai trị thiên hạ, khiến ai nấy đều có đủ ruộng và lúa, cũng như họ có đủ nước và lửa vậy. Nếu dân chúng có bề phú túc về đậu và lúa cũng như họ có đủ về nước và lửa thì họ còn ăn ở bất nhân làm chi".

   Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm có ý nghĩa đối với dân chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân theo đường lối "Nhân chính".

    3. Nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân 

  • Trong đường lối "Nhân chính" ngoài việc lấy Nhân Nghĩa làm gốc, coi "Dân là gốc”, thi hành chế độ điền địa và thuế khoá công bằng, Mạnh Tử còn chủ trương phải giảm nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử trước sau tôn sùng "Vương đạo" phản đối "Bá đạo". Mạnh Tử coi việc giảm hình phạt phải là một chính sách của "Đức Trị". Ông nói: Vua cần phải thi hành phép cai trị Nhân - Đức đối với dân: Giảm hình phạt, bớt thuế - liễm, khiến dân siêng lo việc cày sâu cuốc bẫm, làm vườn làm tược".

  • Theo Mạnh Tử cần phải nhẹ hình phạt bởi nếu "Dân khờ khạo mà phạm luật nước, đó không phải là tội của họ, mà chính là tội của nhà cầm quyền chẳng biết giữ gìn, giáo hoá họ". Có một điều nhất quán giữa Khổng - Mạnh trong chủ trương nhẹ hình phạt là cả hai ông đều xem chính hình và thưởng phạt khéo léo có thể giúp cho sự giáo hoá dân chúng. Mạnh Tử, cũng xem trọng giáo hoá như Khổng Tử, nhưng cái mới ở ông là rất quan tâm đến việc quảng bá giáo dục, thông qua việc xây dựng hệ thống trường học rộng khắp. Ông chủ trương hình thành một mạng lưới trường học đa dạng từ làng xã đến kinh đô, từ trường hương học đến trường quốc học; đó là những Trường, Tự, Học, Hiệu, để giáo hoá dân chúng. Như vậy, so với Khổng Tử chủ trương giáo hoá của Mạnh Tử có tính quảng bá và phổ cập hơn. Ngoài việc chú ý đề cao giáo dục đạo đức nhân luân như Khổng Tử, Mạnh Tử còn thấy được trách nhiệm của người trị dân là phải dạy dân cấy gặt, chăn nuôi, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất hơn.

  • Ông chỉ rõ: "Vua Thuấn đã cho ông Hậu Tắc việc dạy dân cấy gặt và gieo trồng năm giống lúa chín, nhân dân nhờ đó mà sống". Có thể thấy rõ quan điểm giáo dục và giáo hóa dân của Mạnh Tử thể hiện một bước tiến mới so với Khổng Tử trước đó và là một nội dung quan trọng hợp thành đường lối chính trị nhân nghĩa mà Mạnh Tử đã suốt đời cổ vũ.

NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC CỦA NHO GIÁO CẦN ĐƯỢC PHÁT HUY




  • Có thể nói, nhiều tư tưởng của Khổng Tử như học thuyết “Chính Danh”Ngũ Luân”, tư tưởng về giáo dục và tự giáo dục là những tư tưởng nền tảng ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần và hoạt động thực tiễn của dân tộc ta. Đặc biệt là trong giai đoạn giáo dục nước ta đang có những bước chuyển mình như hiện nay thì học thuyết về “Chính Danh” “Ngũ Luân” tư tưởng về giáo dục và tự giáo dục của Khổng Mạnh có giá trị rất lớn. 

  • Trên thực tế, chúng ta không thể phủ nhận một điều rằng, cùng với nền kinh tế thị trường, cùng với sự mai một, xuống cấp về Đạo Đức thì truyền thống tôn sư trọng đạo, lễ nghĩa thầy trò… cũng ngày càng có chiều hướng đi xuống… Chính bởi thế mà trong giáo dục rất cần thiết phải khôi phục, phải giáo dục về “Lễ”. Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên kết hợp giữa Giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật (Đức trị và Pháp trị).

  • Thực tế cho thấy, xã hội của chúng ta chưa thịnh trị, chưa thực sự bình ổn mà còn nhiều vấn nạn, cần thiết phải giáo dục Đạo Đức, cần thiết phải thức tỉnh lương tâm, thức tỉnh bản chất con người; phải sống không những có trách nhiệm với bản thân mà còn phải sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội . Như chúng ta đã nhìn thấy người Nhật đã thể hiện ra những đức tính của họ như thế nào trước cơn sóng thần và động đất vừa qua mà nền móng là ngành giáo dục . 

  • Để có được chất lượng, hiệu quả giáo dục tốt chúng ta cũng cần phải nhìn nhận lại, vận dụng hợp lý học thuyết “Chính Danh”: trường phải ra trường, lớp phải ra lớp, thầy phải ra thầy, trò phải trò; mỗi bộ phận, mỗi cá nhân phải làm tròn vai trò, bổn phận, nghĩa vụ, quyền hạn của mình… Trong giáo dục, Khổng tử rất coi trọng nguyên tắc nêu gương người thầy, điều tưởng như đơn giản nhưng lại không dễ dàng chút nào, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường như nước ta hiện nay… Điều đó đòi hỏi những người làm thầy sẽ phải tự nỗ lực, cố gắng rất nhiều để làm tròn phận sự của mình, để nêu một tấm gương tốt trong xã hội… 

  • Và một điều không kém phần quan trọng đó là chúng ta cần kế thừa, phát huy tinh thần học tập, khí tiết học tập, thái độ học tập để tự tu dưỡng, tự hoàn thiện bản thân mình (nhưng nội dung học tập thì cần phải thay đổi bởi Nho giáo chỉ chú trọng việc học chữ thánh hiền mà không học khoa học tự nhiên. Chúng ta phải học tập và tu dưỡng toàn diện). Xã hội ta hiện nay cần thiết mở rộng việc xã hội hoá giáo dục, tăng cường thực hành, áp dụng những kiến thức đã học vào trong cuộc sống để thay đổi thực tiễn, chống lối học suôn trên sách vở, tài liệu...


KẾT LUẬN

  Tóm lại, theo chúng tôi, trong quan niệm của các nhà Nho, xã hội lý tưởng phải là xã hội bảo đảm được sự kết hợp hài hòa giữa đời sống kinh tế và đời sống tinh thần, đạo đức lành mạnh. Và theo họ, sự hài hòa ấy là một trong những yếu tố cơ bản để giữ vững ổn định, trật tự của xã hội phong kiến. 

  Với chủ trương coi trọng đạo đức, coi việc hoàn thiện nhân cách đạo đức của mỗi người là điều kiện để xây dựng và hoàn thiện xã hội lý tưởng, Nho giáo đã góp phần tạo dựng cho con người lối sống có trách nhiệm với gia đình, đất nước, với cả chính mình và đặc biệt coi trọng trật tự, kỷ cương một lối sống mà "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Nho giáo đã tạo ra một cộng đồng xã hội có tôn ti trật tự, hòa mục từ trong gia đình đến Nhà nước, thiên hạ. 

  Học thuyết “Đức Trị“ chứa đựng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho giáo và ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu sâu thêm nữa và chắc chắn sẽ còn tìm được trong đó nhiều bài học bổ ích.


~*""*~ THE END ~*""*~

THÀNH NGỮ VIỆT NAM ( VỪNG A )

  1. Ác Giả Ác Báo : làm điều ác thì sẽ gặp ác
  2. Ai Ăn Mặn Nấy Khát Nước      : Ai làm ác thì sẽ chịu hậu quả
  3. Ai Giàu Ba Họ, Ai Khó Ba Đời : Giàu không nên ỷ của, nghèo không nên thối chí
  4. Ân Đền Nghĩa Trả : Đèn đáp ơn nghĩa đối với người đã giúp đỡ mình
  5. Ăn Ít No Dai          : không tham, hưởng ít không ai ganh ghét
  6. Ăn Kỹ No Lâu, Cày Sâu Lúa Tốt : Mọi việc làm kỹ lưỡng thì kết quả sẽ tốt đẹp.
  7. Ăn Lắm Hết Ngon, Nói Lắm Hết Lời Khôn: Ăn nhiều sinh chán, nói nhiều thất lời nói.
  8. Ăn Mặn Nói Ngay Hơn Ăn Chay Nói Dối  : Ăn ở hiền lành còn hơn là đi tu mà nói dối.
  9. Ăn Mày Mà Đòi Xôi Gấc : Nghèo mà đèo bồng hay đòi hỏi những cái quá đáng.
  10. Ăn Miếng Chả, Trả Miếng Bùi : đền đáp cân xứng những gì mình đã hưởng.
  11. Ăn Một Mâm Nằm Một Chiếu : gần gũi thân thiết nhau .
  12. Ăn Nên Làm Ra    : Làm ăn thịnh vượng phát đạt.
  13. Ăn Ngay Nói Thật : Thẳng thắn thật thà.
  14. Ăn Ngon Ngủ Yên : Sống yên bình , không bận tâm.
  15. Ăn Ở Hai Lòng      : Không chung thủy, thay lòng đổi dạ
  16. Ăn Ốc Nói Mò       : Nói vu vơ, gặp gì nói nấy, không căn cứ.
  17. Ăn Quen Chồn Đèn Mắc Bẩy : Quen thói gian xảo, phi pháp bị người gài bẩy bắt được.
  18. Ăn Se Sẻ, Đẻ Ông Voi : Thêu dệt câu chuyện thường đã nghe thấy.
  19. Ăn Sung Trả Ngái        : Thụ ân trả oán
  20. Ăn Trên Ngồi trước     : Có chức tước, sang trọng được vị nể .
  21. Ăn Xổi Ở Thì                : Ăn ở tạm bợ được lúc nào hay lúc ấy
  22. Ăn Xong Quẹt Mỏ : Phê bình những người chịu ơn người nhưng lại quên hay trở mặt.
  23. Áo Mặc Không Qua Khỏi Đầu : Con cái không thể cãi cha mẹ.

THÀNH NGỮ VIỆT NAM ( VỪNG B )

  1. BA CỌC MỘT ĐỒNG : Chỉ có tiền lương, không có lợi nhuận khác.
  2. BA CHÌM BẢY NỔI   : Cuộc sống khi giàu lúc nghèo thật khó đoán.
  3. BA ĐIỀU BỐN CHUYỆN   : Chuyện tào lao, không quan trọng
  4. BA ĐỒNG BẢY NỔI          : Đã đi nhiều nơi .
  5. BA XÔI NHỒI MỘT CHỖ : Gộp nhiều việc để giải quyết 1 lần, tiết kiệm thời gian.
  6. BA NHÂN BÁ BỤNG    : Mỗi người mỗi ý, mỗi sở thích, khó mà vừa lòng mọi người.
  7. BÁC CỔ THÔNG KIM  : Học hiểu hết các việc xưa và nay .
  8. BÁN CHẠY KHỎI LẠY KHÁCH HÀNG : Bán đắt hàng thì lên mặt, không cần mời mọc.
  9. BÁN TRỜI KHÔNG MỜI THIÊN LÔI : Giựt giọc, làm chuyện tày trời 1 cách trắng trợn .
  10. BÁN TRÔN NUÔI MIỆNG : Sinh sống bằng nghề mại dâm .
  11. BẢN TÍNH NAN DI    : Tính tình, bản chất khó mà sửa đổi.
  12. BẠN NỐI KHỐ            : Bạn thân thiết, gần gũi nhau .
  13. BẤT THỨC THỜI VỤ Không hiểu tình đời.
  14. BẮT CÓC BỎ DĨA      : Làm những việc biết rõ thất bại mà vẫn làm.
  15. BẢY MƯƠI CHƯA QUÈ CHỚ KHOE MÌNH LÀNHKhông nên tự hào khi đắc thế, chưa đến phút chót chưa biết được có bị rủi ro, thất bại hay không.
  16. BẢY MƯƠI HỌC BẢY MỐT : Dù tài giỏi phải biết khiêm nhường, học hỏi người hiểu biết.
  17. BẺ NẠN CHỐNG TRỜI : Dùng sức yếu mà chống lại kẻ mạnh, đương đầu với việc lớn.
  18. BỆNH NÀO THUỐC ẤY : Tùy tính người mà dùng lời lẽ để cảm hóa.
  19. BÉO CHÊ GẦY,GẦY CHÊ TANH : Khó tính hay kiếm chuyện bắt bẻ.
  20. BÈO GIẠT HOA TRÔI : Thân gái lênh đênh .
  21. BÌNH MỚI RƯỢU CŨ : Hình thức thay đổi nhưng nội dung như cũ .
  22. BÓI RA MA, QUÉT NHÀ RA RÁCThầy bói thế nào mà không vẽ chuyện cũng như nhà hễ quét là có rác.
  23. BÔI TRO TRÉT TRẤU : Làm xấu cho hư tăm tiếng .
  24. BÔN BA CHẲNG QUA THỜI VẬN Khi vận còn xấu, dù có cố gắng cũng vậy.
  25. BÓP HẦU BÓP HỌNG : Bán giá thật đắt, cho vay nặng lãi.
  26. BỤNG ĐÓI ĐẦU GỐI PHẢI BÒĐói quá dù biếng nhác cũng phải đi kiếm ăn.
  27. BỤNG LÀM DẠ CHỊU :  Đã gây ra lỗi làm thì phải gánh trách nhiệm.
  28. BUÔNG HÌNH BẮT BÓNGBỏ cái chắc có, để đi theo cái không chắc.
  29. BỤT NHÀ KHÔNG THIÊNG : Chỉ nghe theo lời người ngoài mà không nghe người nhà.

THÀNH NGỮ VIỆT NAM ( VỪNG C )

  1. CÁ BỂ CHIM NGÀN     : Của trời, của hoang ai lẹ tay thì làm chủ.
  2. CÁ CHẬU CHIM LỒNG  : Chịu cảnh tù tội, không tự do.
  3. CÁ LỚN NUỐT CÁ BÉ   : Mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ.
  4. CÁ LỤY VÌ MỒI      : Cá bị bắt vì tham mồi. Con người vì tham danh lợi, sắc dục nên rất dễ sa ngã, tù tội.
  5. CÁ NẰM TRÊN THỚT       : Đang chờ người khác quyết định số phận của mình.
  6. CÁ VÀO TAY AI NẤY BẮT : Mối lợi giữa đường ai có cơ hội thuận tiện thì giành lấy.
  7. CẢ GIẬN MẤT KHÔN : Giận quá thì mất sáng suốt.
  8. CÁCH MẶT XA LÒNG : Khi xa nhau thường quên nhau.
  9. CÁI ÁO KHÔNG LÀM THẦY TU : Không nên đánh giá con người bằng nhận xét bên ngoài.
  10. CÁI KHÓ BÓ CÁI KHÔN : Vì nghèo nên dù khôn ngoan, sáng kiến cũng không thi thố được.
  11. CÁI SẢY NẢY CÁI UNG : Việc nhỏ nhặt mà không biết dàn xếp thì dễ xảy ra tai họa lớn.
  12. CẢI ÁC TÒNG THIỆN     : Bỏ tính ác để làm điều lành.
  13. CẢI LÃO HOÀN ĐỒNG   : Đổi già thành trẻ, giúp cho sinh lực người già trẻ lại.
  14. CÀNH VÀNG LÁ NGỌC   : Con cháu nhà quyền quý cao sang.
  15. CÓ CỨNG MỚI ĐỨNG ĐẦU GIÓ : Phải tài giỏi, gan dạ mới đảm đương, gánh vác việc lớn.
  16. CÓ MẮT KHÔNG TRÒNG : Không tinh đời, không nhận ra người tài, đáng kính.
  17. CÓ TỊCH HAY NHÚC NHÍCH
  18. CÓ TIỀN MUA TIÊN CŨNG ĐƯỢC
  19. CÓ TIẾNG MÀ KHÔNG CÓ MIẾNG
  20. CÓ THỰC MỚI VỰC ĐƯỢC ĐẠO : Cái no lòng mới bênh vực được cái đạo của mình, vấn đề cơm áo là trước hết.
  21. CÓ VỎ KHÔNG CÓ RUỘT : Bên ngoài thì hào nhoáng nhưng bên trong lại không có gì cả.
  22. CỜ BẠC LÀ BÁC THẰNG BẦN : Ai cờ bạc tất phải mang nghèo.
  23. COI TRỜI BẰNG VUNG   : Tự đắc, coi mình tài giỏi hơn cả.
  24. CƠM CHẲNG LÀNH, CANH CHẲNG NGON : Cảnh nhà xào xáo, vợ chồng không hòa thuận.
  25. CƠM NO BÒ CỠI          : Có sẵn các thứ cần dùng chỉ ăn rồi đi chơi .
  26. CON HÁT MẸ KHEN HAY : Do chủ quan và thiên vị nên sự khen thưởng thường hay bị lệch lạc, không được khách quan.
  27. CON KHÔNG CHA NHƯ NHÀ KHÔNG NÓC
  28. CON SÂU LÀM RẦU NỒI CANH
  29. CÒN TIỀN CÒN DUYÊN NỢ, HẾT TIỀN HẾT NGHĨA PHU THÊ
  30. CƠN ÔNG CHƯA QUA, CƠN BÀ ĐÃ ĐẾN : Tai nạn dồn dập.
  31. CỐT NHỤC TƯƠNG TÀN : Anh em ruột thịt sát hại lẫn nhau.
  32. CÚ ĐẬU CÀNH MAI       : Xấu mà có vợ đẹp, dở mà có vợ học giỏi.
  33. CỦA THIÊN TRẢ ĐỊA      : Tiền bạc do may mắn mà có thì sẽ bị tiêu tan nhanh chóng.
  34. CỦI QUẾ GẠO CHÂU      : Sinh hoạt đắt đỏ.
  35. CỨU BỆNH NHƯ CỨU HỎA : Cứu người bệnh như chữa lửa.
  36. CHA CHUNG KHÔNG AI KHÓC : Của chung chẳng thấy ai có trách nhiệm gìn giữ.
  37. CHA MẸ SINH CON TRỜI SINH TÍNH
  38. CHÁN NHƯ CƠM NẾP NÁT : Chán lắm không còn muốn nghe, muốn thấy nữa.
  39. CHĂN ĐƠN GỐI CHIẾC     : Chưa vợ chưa chồng.
  40. CHẲNG CÀY LẤY ĐÂU CÓ THÓC : Không làm việc lấy gì có ăn.
  41. CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG : Cố vùng vẫy cách nào cũng không qua được mạng trời.
  42. CHÉN ANH CHÉN CHÚ : Chén rượu mời qua, mời lại trong tiệc rượu.
  43. CHẾT ĐUỐI VỚ PHẢI CỌC : Đang lúc nguy ngập tình cờ gặp người giúp hay gặp may mà thoát thân được.
  44. CHỈ ĐƯỜNG CHO HƯƠU CHẠY : Dạy người khôn hơn mình.
  45. CHÍN BỎ LÀM MƯỜI : Xí xóa, bỏ qua những bất bình nhỏ nhặt để được êm đẹp mọi bề.
  46. CHÓ ĂN VỤNG BỘT  : Có dáng ngơ ngác, sợ sệt do làm một việc lén lút.
  47. CHÓ CHÊ MÈO MỬA : Quá tệ không ai đoái hoài tới.
  48. CHƠI DAO CÓ NGÀY ĐỨT TAY : Liều lĩnh làm việc nguy hiểm có ngày phải bị hại.
  49. CHÙA RÁCH PHẬT VÀNG : Bề ngoài tỏ ra nghèo túng nhưng bên trong thật sự sang giàu.
  50. CHỮA ĐƯỢC BỆNH, KHÔNG CHỮA ĐƯỢC MỆNH : Bệnh thì chữa được nhưng cái chết là không chữa được.
  51. CHUỘT SA HŨ NẾP : May mắn được làm rễ nhà giàu, may mắn được làm chỗ dễ kiếm ăn.