Trích từ sách Lecomte Du Nouy & Học Thuyết Viễn Đích (1968)
Nguyễn Văn Thọ
Pierre André Léon Lecomte du Nouy sinh ngày 20.12.1883 tại Paris. Cha là một kiến trúc sư lỗi lạc, mẹ là một nữ văn sĩ. Năm 27 tuổi ông đậu tiến sĩ luật. Về tín ngưỡng ,Ong không tin có phép lạ , nhưng ông rất ngưỡng mộ Chúa Jésus và coi Ngài như một bậc chí nhân, đại nhân, đã lướt thắng được mọi yếu đuối nhân loại. Năm 37 tuổi ông nộp luận án tiến sĩ khoa học tại đại học Sorbonne. Năm 40 tuổi ông sang Mỹ làm việc trong viện nghiên cứu Rokfeller ở New York. Trong suốt 7 năm ở đây , Lecomte du Nouy công bố được tất cả 57 công trình khảo cứu khoa học. Năm 1936 ông thôi làm việc ở Viện Pasteur Paris, bắt đầu chuyen sang suy tư triết học và tín ngưỡng. Ông nhận thấy rằng nhiều nhà khoa học và chính trị quá vội vàng kết luận là không có Thượng Đế. Và ông sợ hãi khi nhận thấy rằng vì chối bỏ đạo giáo , con người trở nên hư hỏng và mất hết những nguồn vui thiêng liêng thanh khiết… Thế là từ năm 1938 trở đi cho đến khi mất năm 1947, ông đã để hết tâm trí thực hiện một công trình vĩ đại, đó là học thuyết viễn đích, một học thuyết nói lên niềm tin vào Thượng Đế, vào sự tiến hóa, vào các giá trị tâmthần và siêu nhiên, cũng như vào định mệnh sang cả của con người trong tương lai.Thuyết viễn đích của ông nêu lên hấp lực tiến hóa (TH) như một lực định hướng, như trọng lực hay từ lực đối với vạn vật. Vạn vật giống như nước chảy từ ngọn núi xuống thung lũng, có phần rải rác vướng lại dọc đường, phần khác tuôn về tận đáy. Đó là cách ông bày tỏ tác lực điều hướng của cuộc TH mà mục tiêu sâu xa là đạt đến tinh thần, đến tâm linh (conscience, esprit, âme humaine). Luật tự nhiên đã tác động vạn vật từ khởi thủy, nhưng chính những cố gắng tự thân sẽ điều chỉnh hướng tiến. Có vô vàn thử thách, chỉ những chủ thể nào đạt được một tiến bộ thực sự mới tồn tại và tiếp tục tiến hóa.Thuyết viễn đích chủ trương cuộc tiến hóa quần sinh có một mục phiêu thâm viễn là thực hiện một giống người siêu đẳng, thần nhân. Thuyết viễn đích, như vậy, ngược lại với các thuyết Lamarck, Darwin, Weismann vì những học thuyết này đi tìm lý do của cuộc tiến hóa, còn thuyết viễn đích lại đi tìm cùng đích của cuộc tiến hóa. Thuyết viễn đích đặt ra một cùng đích xa xăm nhưng rõ rệt, cho nên nó cũng khác với các thuyết cùng đích gần gũi, của Cuvier, Lamarck, [2] hay cùng đích mơ hồ đại khái của C. Von Nageli, và Kolliker. Vì nó chủ trương con người còn tiến hóa hàng trăm ngàn năm, hàng tỉ năm nữa, cho nên nó cũng khác với sự tin tưởng của giáo dân là ngày tận thế chẳng còn xa. Vì thuyết viễn đích tôn trọng sự cố gắng cá nhân và chủ trương Thượng Đế hướng dẫn công cuộc tiến hóa một cách vi diệu, nên nó cũng khác với các thuyết định mệnh, số mệnh (Déterminisme, fatalisme). Thuyết viễn đích chủ trương tiến hóa nhưng chấp nhận sự hướng dẫn của Thượng Đế, nên khác hẳn thuyết tiến hóa duy vật, vô thần.
Xét về phương diện lập luận và cấu tạo, Lecomte du Noüy đã xây dựng Thuyết viễn đích dựa trên:
1) – thuyết tiến hóa, một học thuyết khoa học đang được thịnh hành khắp năm châu.
2) – tin tưởng Thượng Đế hướng dẫn quần sinh và nhân loại đến một định mạng sang cả, đến một giống người siêu đẳng trong tương lai.
Trong chương kết tác phẩm «Tương lai tinh thần», ông có trích dẫn một câu của Jules Lachelier đầy ý nghĩa, và cũng là phản ảnh tâm tư ông: «Về phương diện khảo cứu, tôi là những người không muốn bỏ Darwin và chẳng muốn bỏ Moise.»
Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ sinh ngày 15 tháng 12 năm 1921 tại Chi Long, Hà Nam, Bắc Việt. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà nội năm 1952. Kể từ năm 1956 Bác sĩ Thọ đă nghiên cứu về Triết học Đông phương, bắt đầu từ Khổng Giáo trong suốt 9 năm liền, sau đó là Lão Giáo, rồi đến Bà La Môn, Phật Giáo và tiếp theo là Thiên Chúa Giáo và các đạo giáo ở Âu Châu. Năm 1960 tác giả được trao giải thưởng văn chương Tinh Việt Văn Đoàn qua tác phẩm Trung Dung Tân Khảo.Những cường điểm của học thuyết tiến hóa
Từ năm 1967 cho đến 1975, Bác sĩ là Giáo sư Đại Học Văn Khoa và Minh Đức, Sài Gòn khoa Triết Học Đông Phương.
Năm 1982 Bác sĩ cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ và lấy bằng Bác Sĩ Y Khoa tương đương tại Hoa Kỳ vào năm 1983. Tác giả tiếp tục các công trình Văn Hoá, và diễn giảng về Kinh Dịch và Văn Hóa Á Châu.
Các sách đã xuất bản tại Việt Nam:
- Khảo Luận & Phê Bình Học Thuyết Khổng Tử (1960)
- Lecomte Du Nouy & Học Thuyết Viễn Đích (1968)
- Khổng Học Tinh Hoa (1970)
- Những Tương Đồng Giữa Phật Giáo, Khổng Giáo, Thiên Chúa Giáo (1970)
- Chân Dung Khổng Tử (1973)
Nếu chúng ta chỉ nhìn phiến diện, thì ta thấy thuyết tiến hóa ngày nay như là một nhà cách mạng đã thành công rực rỡ.
Nó đã trở thành một đại học thuyết của thời đại mới và đã đánh dấu một kỷ nguyên mới cho nhân loại.
Thuyết tiến hóa ngày nay đã chính thức được giảng dạy trong các trường học.
Và tuy thỉnh thoảng, ở một vài nơi vẫn có những «vụ án con khỉ» xảy ra, như:
Vụ án John Thomas Scopes ở tiểu bang Tennessee năm 1925. [1]
Vụ án Susan Epperson tại tiểu bang Arkansas năm 1966. [2]
Nhưng rốt cuộc thuyết tiến hóa vẫn được phát triển, truyền bá.
Các
tôn giáo, sau khi đã mạ lỵ phỉ báng (hào hứng nhất là cuộc đấu lý, đấu
khẩu giữa Giám mục Wilberforce và Huxley tại Oxford năm 1860), [3] cấm đoán [4] thuyết tiến hóa, dần dà cũng phải thay đổi thái độ, để đi đến chỗ dung hòa nhượng bộ.
Trong
một thông điệp tháng 8 năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố giáo
dân được học thuyết tiến hóa, miễn là thuyết này chỉ tìm căn nguyên thể
xác con người trong một sinh cơ tiền tại. [5]
Và
từ đầu thế kỷ XX thay vì dùng Thánh Kinh để phi bác thuyết tiến hóa,
các nhà biện giải Thánh Kinh, ngược lại, đã cố sức giải thích Thánh Kinh
cho phù hợp với các khám phá khoa học. [6]
Ví dụ:
Có
nhiều nhà biện giải Thánh Kinh giải thích rằng sáu ngày trong Thánh
Kinh phải hiểu là sáu thời kỳ, vì chữ Yôm vừa có nghĩa là «ngày» vừa có
nghĩa là “thời kỳ”. Và nhiều người tán thưởng lối giải thích đó.
Nhưng
những người thành khẩn hơn cho rằng giải thích như vậy là vô lý, vì
«Yôm» chẳng bao giờ có nghĩa là «thời kỳ địa chất». Và câu «vậy có buổi
chiều và buổi mai» không bao giờ có nghĩa là «hai ba tỉ năm đã qua»… [7]
Hơn
thế nữa các vị Thủ lãnh Giáo Hội dần dà cũng công nhận rằng những
chuyện về khai thiên lập địa, tạo dựng quần sinh viết trong Sáng thế ký
không phải là những chân lý khoa học lịch sử, mà chỉ là những câu chuyện
bóng bẩy, [8] phản
ảnh những kiến thức của quần chúng, theo những điều tai nghe mắt thấy
thông thường và được diễn tả bằng một lối văn thông dụng. [9]
Thật
là một sự chuyển biến về tư tưởng hết sức lớn lao, nếu ta nhận định
rằng trong vòng bao nhiêu thế kỷ, các dân tộc Châu Âu và khu vực Địa
Trung Hải đã tin rằng các lời tường thuật của Thánh Kinh về sự tạo dựng
vũ trụ quần sinh, và về Hồng Thủy, là lịch sử hết sức chính xác về vũ
trụ.
Ngày
nay, phần đông những người sùng thượng Thánh kinh như Thiên Chúa giáo,
Do Thái giáo, Hồi Giáo, chỉ còn coi những truyện kể trong Sáng thế ký
như những huyền thoại thần kỳ. [10]
Cách
nay vài thế kỷ, bất kỳ một học giả nào muốn bảo toàn danh dự hoặc muốn
có chút tiếng tăm, thời phải lo sao cho những điều mình quan sát khảo
nghiệm phù hợp với Thánh Kinh [11] hoặc với quan niệm truyền thống của giáo quyền, nếu không sẽ bị tai hoạ. [12]
Năm
1744, trong quyển lịch sử vạn vật Buffon chủ trương trái đất đã có
khoảng 70.000 năm, thế mà đã bị coi là một sự xúc phạm lớn lao, và tác
phẩm bị cấm đoán. [13]
Khi
Darwin chết, người ta vẫn con dạy rằng vũ trụ được tạo dựng năm 4963
năm trước công nguyên, và cuốn Tự Điển Larousse xuất bản năm 1882 ghi
rằng: «Đó là niên kỷ duy nhất được chấp nhận trong các trường.» [14]
Đến ngày nay, thì ta có thể chắc chắn không còn ai dại dột mà có những chủ trương như vậy nữa.
Trước
kia không ai dám bàn cãi đến vấn đề Adam thủy tổ con người, sống trong
vườn địa đàng giữa những con sông Pishôn (?), Gihôn (?), Tigre và
Euphrate. [15]
Ngày nay các nhà bác học lại còn muốn đi tìm tiên tổ của Adam [16] và nơi thực sự đã phát tích khởi nguyên ra con người. [17]
Nhờ
có những tư tưởng, những giả thuyết táo bạo như thế, nên con người đã
làm phục sinh được cả một dĩ vãng tiền sử bao la với những người tiền
sử, như:
Nam Hầu (Australopithèques) cách nay chừng 700.0000 đến 500.000 năm.
Hầu nhân (Pithécanthrope) cách nay chừng 500.000 đến 150.000 năm. [18]
Người Néanderthal cách đây chừng 100.000 năm.
Người Cromagnon Linh nhân (Homo-Sapiens) cách đây chừng 30.000 năm. [19]
Hơn
nữa, người ta còn tìm ra được một kho tàng nghệ thuật tiền sử vô cùng
quý báu, đó là những «bích hoạ» trong nhiều hang động Âu châu như:
Động Altamira (Tây Ban Nha). [20]
Động Eysies (gần Périgueux, Pháp [21] có di tích người Cromagnons).
Động Pech Merle (Quận Lot, Pháp). [22]
Động Lascaux (Dordogne, Pháp).
Người ta đã tìm ra được 112 động có bích hoạ nguyên ở Âu châu mà phần đông là ở Tây Nam nước Pháp và Tây Ban Nha. [23]
Dù
muốn dù không, chúng ta cũng phải công nhận rằng thuyết tiến hóa đã có
nhiều công lao với khoa học và lịch sử tư tưởng nhân loại.
Nó
đã cố thâu thập và tìm tòi những chứng cứ để bắt buộc mọi người chấp
nhận sự biến thiên biến dịch của vũ trụ quần sinh, nhờ vậy mà sự hiểu
biết của chúng ta về thiên văn, địa lý quần sinh ngày một thêm phong
phú, chính xác.
Học
thuyết tiến hóa không phải công lao của một vài người, mà đã có hàng
trăm, hàng ngàn nhà bác học, các danh nhân trên thế giới góp phần xây
dựng.
Nó
đã bắt buộc nhân loại phải bỏ những nhãn quan chật hẹp về không gian
cũng như về thời gian, đem lẽ biến dịch lồng vào cuộc đời, khuyến cáo
mọi người không còn được ù lì bất động mà phải vùng lên tự tạo lấy tương
lai cho mình và cho nhân loại.
Nó đem lại cho con người một niền tin mới mẻ vào những sức mạnh tiềm ẩn trong con người.
Và thay vì sống lo âu hồi hộp chờ đợi vào một ngày tận thế sắp tới, [24] con người ngày nay nhận thức ra rằng mình hãy còn ở vào lúc bình minh của cõi đời.
Nó
cũng đã vạch rõ cho mọi người thấy một cách khoa học rằng cho đến bây
giờ những ý niệm về con người cũng như về vũ trụ hãy còn rất nhiều thiếu
sót, vậy chớ có nên độc đoán, cố chấp, một chiều. [25]
Học
thuyết tiến hóa đã thúc nay và đã thực hiện được những tiến bộ lớn lao
về mọi ngành khoa học, nhất là các khoa vạn vật, thiên nhiên, cổ nhân,
cổ vật, cổ sự, nó đã tăng trưởng tầm kích con người trăm nghìn lần hơn,
cả về dĩ vãng lẫn tương lai.
Nó
đã vạch cho thấy các đạo giáo lớn không phải một chốc mà thành, nhưng
cũng đã có những bước đi chập chững, cũng đã phải vay mượn nhờ cậy vào
những trào lưu tư tưởng, những đạo giáo đã có từ trước. [26]
Học thuyết tiến hóa cũng ảnh hưởng đến chính trị không ít.
Ảnh
hưởng của hoàn cảnh đến sinh linh, ảnh hưởng của xã hội đến con người,
cái chủ trương ấy của Lamarck, đã được các đảng xã hội, cũng như các
đảng viên Mác xít lấy làm nền tảng cho học thuyết của mình. [27]
Ngược
lại, chủ trương của Darwin, «mạnh được yếu thua, khôn sống bống chết»
đã được các nước thực dân lấy làm phương châm để bào chữa cho những hành
vi dã man đàn áp của mình. [28]
Nó
đã làm nảy sinh ra một nền luân lý vị kỷ, vụ lợi, và có lẽ cũng là một
trong những nguyên nhân gây ra trận đại chiến 1914, theo W. Dampier. [29]
Hơn nữa thuyết tiến hóa ngày nay đã được đa số các nhà bác học công nhận. [30]
Tóm
lại thuyết tiến hóa đã gây một cơn bão tố lớn lao trong lịch sử tư
tưởng và đã sinh nhiều chuyển hướng quan trọng trong tâm thần nhân
loại, [31] chẳng kém gì học thuyết Karl Marx. [32]
Những nhược điểm của thuyết tiến hóa
Những nhược điểm của thuyết tiến hóa
Tuy nhiên thuyết tiến hóa rất nhiều nhược điểm và có thể nói được có rất nhiều «tử huyệt».
1) Nhược điểm của chủ trương loài nọ biến sang loài kia.
Trước
hết thuyết tiến hóa chủ trương sinh linh đã biến hóa từ loài nọ qua
loài kia, từ côn trùng đến con người, và đưa ra bằng chứng là theo những
khám phá cổ sinh vật học và địa chất học thì các loài đã xuất hiện một
cách lớp lang, thứ tự, loài hạ đẳng thô sơ có trước, loài thượng đẳng
phức tạp sinh sau.
Nhưng
chính các nhà cổ sinh vật học lại thú nhận rằng các loài, các giống y
như là đột hiện, đột khởi, khó mà minh chứng được loài nào đã sinh ra
loài nào. [33] Nếu vậy thì chứng cứ đưa ra là một hư chứng.
Nếu
giả thuyết tiến hóa mà đúng, nghĩa là theo thời gian, loài này phải
biến ra loài kia, thì sau một tỉ năm tiến hóa, đào thải, các loài thô
sơ, nhỏ thó, các loài hạ đẳng vì xuất sinh ra trước chắc chắn đã mai một
hết rồi, sân khấu đời đã được nhường cho những loài thượng đẳng. Nhưng
thực tế thì ngược lại; hiện nay ước lượng có tới bốn triệu giống sinh
linh; người ta mới biết được chừng một triệu giống, mỗi năm biết thêm
được chừng hai mươi ngàn giống. [34]
Trong một triệu giống còn lại đó: sâu bọ đã chiếm mất 600.000 giống, mà các động vật có vú chỉ có 15.000 giống. [35]
Tại
sao mặc dầu những vật thượng đẳng chuyên môn hà hiếp, tiêu diệt các
loài vật hạ đẳng, mà các loài này cũng không chịu chết, chịu biến?
Rắc
rối hơn nữa, những tổ tiên của chúng ta vẫn còn sống sờ sờ; suốt ngày
chuyên lo báo hại chúng ta. Đó là những siêu trùng, những vi trùng.
Chẳng biết siêu trùng hay vi trùng là tổ tiên chúng ta, nhưng chắc rằng
giữa đôi bên, ta và chúng, chẳng có một chút gì là thương xót, kính nể
lẫn nhau: tổ tiên, thì lo hại con cháu; con cháu thì chế độc dược để
tiêu diệt tổ tiên. Thật là vô cùng hỗn loạn. Mỗi ngày, người ta lại còn
tìm ra thêm nhiều loại siêu trùng, siêu siêu trùng mới, thành thử công
cuộc của nhân loại hiện nay đi tìm tổ tiên lại càng thêm khó khăn vất
vả!
Người ta đã vô tình hay hữu ý trà trộn hay sự kiện hoàn toàn khác nhau:
1) Các loài xuất hiện kế tiếp nhau và một ngày một tiến hóa hơn, hoàn bị hơn.
2) Và các loài đã biến hóa sinh xuất ra nhau.
Áp dụng lý luận ấy vào cuộc đời ta mới thấy rõ ngụy biện.
Ví
dụ: người Chàm đã xuất hiện trước người Việt ở miền Trung; các người da
đỏ Sioux, Iroruois, Cherokees đã xuất hiện trước các người Anglo-Saxons
ở Hoa Kỳ. Nếu vậy thì người Chàm đã biến hóa thành người Việt; người
Sioux, Iroquois, Cherokees đã biến hóa thành người Mỹ hiện nay chẳng
sai, bởi vì chúng ta có những hài cốt, những di tích lịch sử chứng
minh!…
Hoặc
là ra đường chúng ta thấy có đủ loại xe, có bánh như nhau và cũng di
chuyển được như nhau; có cái nhỏ, có cái to, có cái giản dị, có cái phức
tạp. Nào xe đạp, nào Honda, Suzuki, Vespa, Lambretta, Cyclo đạp, Cyclo
máy, ôtô, GMC v.v…Áp dụng định luật tiến hóa, ta kết luận: nhất định xe
đạp đã sinh ra xe gắn máy, xe gắn máy đã sinh ra ôtô, ôtô sinh ra GMC vì
hình thù tất cả đều tương tự như nhau, như vậy chắc chắn là phải xuất
sinh cùng một thủy tổ là cái xe đạp!
André Lamouche trong quyển «Định mệnh con người» cũng đã nhận thấy cái ngụy biện ấy. [36]
Từ
sự kiện đã quan sát được là sinh linh, đã liên tiếp xuất hiện, tuần tự
tiến hóa nghĩa là có loài này hơn loài kia, loài sau thường hoàn hảo hơn
loài trước mà kết luận được loài nhỏ đã sinh ra loài to, loài hạ đẳng
sinh ra loài thượng đẳng, thì thật là một ngụy biện siêu phàm, đáng kể
là sản phẩm của Gorgias, nhà ngụy biện trứ danh Hi Lạp; của Huệ Tử [37] hay của Công Tôn Long! [38]
2) Nhược điểm, của chủ trương vạn vật xuất sinh từ một tế bào nguyên thủy.
Chẳng
những thế, học thuyết tiến hóa còn chủ trương: vạn vật đã phát sinh từ
một gốc, không phải là từ một con trùng, một tế bào không mà thôi, mà
còn từ nguyên tử đầu tiên của vật chất, theo thuyết máy móc.[39]
Giả
thuyết này trên phương diện thực nghiệm đã vấp phải trở ngại là không
tìm ra được những sinh vật trung gian, và những sự biến hóa nghiệm thấy
thường rất hữu hạn. [40]
Về
vấn đề lý, nếu chấp nhận một «mầm mống duy nhất» thì phải chấp nhận
rằng trong tế bào nguyên thủy đã tiềm ẩn tất cả sinh vật, tất cả các
hình trạng sinh linh – Weismann cho rằng cứ lý phải vậy; Lecomte du Noüy
cho rằng chẳng phải vậy; Darwin, Lamarck cho rằng tất cả biến hóa là do
cố gắng cá nhân, là do hoàn cảnh xui khiến; mỗi người một phách, nội bộ
chia rẽ như thập nhị sứ quân. [41]
3) Nhược điểm của thuyết di truyền tập tính.
Các
ông tổ của thuyết tiến hóa như Lamarck, Darwin, Herbert, Spencer chủ
trương rằng sở dĩ có tiến hóa chính là nhờ ở sự di truyền tập tính.
Herbert Spencer chủ trương phải có di truyền tập tính, nếu không thuyết tiến hóa sẽ sụp đổ. [42]
Lecomte
du Noüy cũng tin có di truyền tập tính. Ông nại ra các thí nghiệm của
Kellog và Bell về các loại sâu róm, của Arnold Pictet và Fischer trên
các loại bướm, và kết luận tập tính có thể di truyền. [43]
Tưởng
nên ghi nhận rằng Mitchourine (1855-1935) và Lyssenko cũng chủ trương
di truyền tập tính. Hai nhà bác học Nga này cho rằng các phần tử nhỏ của
thân thể, kể cả chất dịch, đều có thể mang tính di truyền, chứ không
phải cứ nhiễm thể mới mang được tính di truyền. [44]
Nhưng
đa số các nhà di truyền học trong đó có Weismann chủ trương ngược lại
rằng tập tính không thể di truyền được, vì các tập tính chỉ có tác dụng
đến hình hài, chứ không có tác dụng đến di tử, chủng tử. Nhưng chỉ khi
nào di tử, chủng tử biến thiên, hoán cải, thì mới có những sự thay đổi
thực sự về hình hài và mới có sự truyền tử lưu tôn. [45]
Jean Rostand một nhà sinh lý học lỗi lạc viết như sau:
«Tai
hại thay cho học thuyết Lamarck, là những sự biến cải trên bình diện
hình hài do ảnh hưởng của hoàn cảnh hay do hoạt động không bao giờ
truyền lại được cho con cháu. Những biến cải ấy hoàn toàn là sở hữu cá
nhân, vì chẳng có một cái gì có thể nhập vào gia tài di truyền được; như
vậy, nó không có giá trị gì về phương diện tiến hóa. [46]
Không những Wallace và Weismann, [47] mà ngay cả phái chủ trương thuyết sậu biến của De Vries cũng không chấp nhận thuyết di truyền tập tính. [48]
Ta
cũng nên biết vụ ngụy tạo chứng cứ của P. Kammerer về di truyền tập
tính đã bị G.K. Noble phanh phui năm 1926, và Paul Kammerer xấu hổ, đã
tự sát. [49]
Tạp chí Life xuất bản ngày 17-3-1947 cho rằng các nhà di truyền học hiện tại ít ai tin thuyết di truyền tập tính. [50]
Vậy
nếu trở ngược lại lập luận của Herbert Spencer nói trên, ta sẽ phải đi
đến kết luận: vì chưa chứng minh được rằng tập tính di truyền, nên chưa
thể kết luận vật này đã biến thành vật nọ…
Thuyết di truyền tập tính còn chứa ẩn nhiều ngụy biện ghê gớm:
Theo thuyết này, thì chẳng có gì là thiên bẩm, thiên phú. Mọi sự đều là thủ đắc, tập thành.
Tai
mắt, chân tay, cổ cánh đã sinh ra hoàn toàn là đấu tranh sinh tồn, ảnh
hưởng ngoại cảnh, nói cách khác, «nhu cầu hoạt động sinh ra cơ quan». [51]
Thú
thực, dẫu chúng ta quí trọng các nhà bác học mấy mặc lòng, nhưng mà
chúng ta cũng không thể nào chấp nhận những giả thuyết thần kỳ đó được.
Từ
một sự kiện mọi người đều công nhận là ngoại cảnh, thủy thổ có thể ảnh
hưởng, có thể biến cải sinh vật, mà mập mờ đi đến kết luận rằng mọi sự
đều do ngoại cảnh sinh và không có gì là bẩm sinh, thiên phú, thực là
một nguy biện ngoại hạng!
4) Nhược điểm của thuyết đấu tranh sinh tồn, tuyển lựa tự nhiên.
Darwin có ý niệm về «đấu tranh sinh tồn», sau khi đọc sách của Malthus, [52] và về tuyển lựa tự nhiên, sau khi quan sát những cách thức lựa giống, lai giống của các nhà chăn nuôi súc vật. [53]
Cho
nên, ông nghĩ rằng đấu tranh để sống sót là một cuộc đấu chí tử giữa
sinh linh, do đó chỉ những vật thật mạnh, thật giỏi mới sống sót.
Đó là cách tuyển lựa tự nhiên của trời đất.
Sự đấu tranh và tuyển lựa ấy bắt buộc mọi loài phải biến cải, tiến hóa, để có thể kháng cự thù địch một cách hữu hiệu hơn.
Các sự biến cải ấy sẽ được truyền tử lưu tôn, và dần dà sinh ra các nòi giống mới. [54]
Đã đành, sống trên đời bất kỳ loài nào cũng phải cố gắng, có vậy mới có miếng nuôi thân, có thể tiến tới.
Nhưng
từ đó đi đến kết luận mọi loài sinh ra là cốt để xâu xé lẫn nhau, tranh
cướp nhau miếng ăn, giành giật nhau đất sống thì kể cũng quá khích.
Theo
chủ trương mạnh được yếu thua, khôn sống bống chết này, thì lẽ ra trên
đất những sâu bọ, ruồi muỗi phải chết hết, còn những khủng long, độc xà
phải được phát triển; dưới nước, những tôm tép, mòi lẹp phải chết hết,
chỉ những kình nghê mới sống sót. Nhưng trái lại, trên thực tế, các loài
vật nhỏ vẫn đầy dẫy nhan nhản…
Nếu
sau ngót một tỷ năm tiến hóa, mà những sinh vật li ti hạ đẳng, thô sơ
yếu đuối như nay vẫn còn sống sót, thì cứ như thuyết Darwin, chúng phải
là những con vật mạnh mẽ, lanh lợi, sung sướng nhất, thích ứng nhất với
hoàn cảnh rồi, mà đã thích ứng quá mức như vậy, thì làm gì có tiến hóa
nữa ! [55]
Ngoài
ra, đào thải, tuyển lựa là chọn tốt, bỏ xấu, chứ không phải sinh ra
những đặc tính mới. Như vậy, thì tại sao loài này có thể khác loài kia
được ?
Giáo
sư Culter đại học Chicago cho rằng: nhược điểm của thuyết đào thải
tuyển lựa tự nhiên là nó không sinh ra được đặc tính mới. [56]
Đã
đành trong quần sinh có những loài mạnh ăn thịt loài yếu, nhưng những
loài yếu lại sinh sôi nảy nở rất nhiều để bù đắp lại: một con cá có thể
đẻ hàng triệu trứng, các loài côn trùng thường cũng sinh sôi nảy nở rất
nhiều, rất nhanh. [57] Lại
nữa, ta thấy trong loài vật nhỏ, nhiều con có phép ẩn thân (mimétisme),
lẩn trong cây cỏ, hòa mình vào với lá, cành khéo đến nỗi nhiều khi
không nhận được chúng. Như vậy, y như là tạo vậy cũng cố sức bảo tồn các
loài đã có, không muốn chúng bị tiêu diệt đi.
Hơn
nữa định luật đấu tranh sinh tồn cũng không hoàn toàn đúng; vì chúng ta
thấy loài vật tuy dữ nhưng thường không ăn thịt hay làm hại lẫn nhau:
«Ong kia đâu có đốt nhau,
Hổ kia đâu có xé xâu đồng loài.» [58]
Xét
về loài người, thì ta chỉ thấy những kẻ lưu manh hạ cấp mới lo hãm hại
người, còn những chính nhân quân tử mọi nơi mọi đời đều hi sinh vì
người, tán trợ phụ bật người, lấy câu «thành nhân chi mỹ, bất thành nhân
chi ác» [59] làm
phương châm. Khắp thế giới, hiện nay, có nhiều cơ quan cứu trợ, và các
nước đàn anh bất kỳ là trong màn sắt, hay ngoài màn sắt cũng lo giúp đỡ
những nước hậu tiến. Tất cả các chủ nghĩa, các chính thể bất kỳ xanh,
đỏ, trắng, vàng, đều muốn loại trừ mọi sự bất công, bóc lột, muốn cho
mọi người được no ấm, có những điều kiện tiến bộ đồng đều, thế có phải
là phản lại Darwin hay không ?
Học
thuyết Darwin cho rằng sự tuyển lựa đào thải cốt là thải loại những đặc
điểm vô ích. Nếu vậy thì đến con người đáng lý phải có cách chư chim,
có móng vuốt như hổ, có da thịt như voi, biết bơi, biết lội như cá, biết
leo trèo như khỉ vượn, bởi vì tiên tổ từ loài sâu bọ sấp lên, thường
con nào cũng có sở trường: biết bay, biết lội, biết trèo, mà những tài
ngoại đó chẳng cần tập cũng biết, hơn nữa rất cần cho cuộc sinh nhai.
Thế
mà, đến con cháu, xa xăm là loài người, thì mất cánh, mất lông, mất
vuốt; da thịt lại mềm mại xinh xắn; quên bay, quên lội, dốt chạy, dốt
trèo; nhưng lại đốc giống ra thông minh, linh lợi, biết nói, biết hát,
biết đùa, biết giỡn, đóng tuồng, diễn kịch, cầu khẩn van vái thần minh,
thì kể cũng lạ thật.
5) Nhược điểm của thuyết sậu biến (mutationnisme)
De Vries chủ trương vạn vật tiến hóa là nhờ sậu biến, ngẫu biến.
Nhưng
thuyết sậu biến không cắt nghĩa được tại sao cuộc tiến hóa lại có chiều
hướng, một ngày lại một thêm hoàn hảo hơn, tinh vi hơn.
Vả
lại các nhà khoa học nhận thấy rằng phần nhiều các sự biến hóa hoặc tự
nhiên hoặc nhân tạo thường là những quái thai và thường tảo vong, yểu
tử. [60]
6) Thuyết tiến hóa có nhiều tranh chấp nội bộ.
Như
ta đã nói trên thuyết tiến hóa đã do nhiều người đóng góp xây dựng,
nhưng thực ra mỗi người đưa ra một ý kiến và chẳng ai chịu ai.
Phái Lamarck thì phi bác Darwin, phái Darwin thì phủ nhận học thuyết Lamarck. [61]
Weismann và De Vries không chấp nhận thuyết di truyền tập tính v.v…
Lamarck
chủ trương: ngoại cảnh và lề lối sinh hoạt gây nên các biến hóa nơi
quần sinh, không có gì đã được tiền định từ trong trứng. Darwin cho rằng
sự biến hóa là kết quả của sự đấu tranh sinh tồn đào thải tự nhiên, và
loài nào có nhiều khả năng hơn sẽ sống sót. Weismann chủ trương ngược
lại rằng biến hóa là một hiện tượng nội tạo ẩn áo, chỉ lệ thuộc vào sự
cấu tạo thiên tiên của trứng. Hoàn cảnh bên ngoài có thể hỗ trợ, hoặc
làm trở ngại chứ không có thể hướng dẫn được công cuộc đó. Sự diễn biến
của các giai đoạn phát triển chỉ tùy thuộc vào cơ cấu đầu tiên của trứng
sinh vật. [62]
Vì chưa có thuyết nào hoàn hảo để giải thích được sự biến hóa, nên đầu thế kỷ XX, ta lại thấy vô số lý thuyết mới ra đời như:
- Thuyết tổng hợp của J. Huxley, Dobzhansky và Simpson. [63]
- Thuyết của Mitchourine và Lyssenko. [64]
Và một số lý thuyết khác, nhưng cũng không giải thích thêm được gì. [65]
7) Các nhà bác học đôi khi cũng đã mắc phải những lầm lẫn lớn lao và đôi khi cũng có gian ý, ngụy tạo chứng cứ.
Những vụ điển hình nhất là:
Huxley
tưởng mình đã tìm ra được sinh chất ở đáy biển. Ông gọi chất đó là
Bathybius Hœckele. Hœckel cũng tưởng thật, đã từ chất đó, mô tả suy diễn
ra cả cuộc tiến hóa quần sinh mãi sau Huxley mới thú nhận mình đã lầm
và cái chất có danh từ Bathybius mỹ mạo ấy chỉ là chất Sulfat vôi. [66]
b) Vụ ngụy tạo đồ bản của Hœckel. [67]
c)
Vụ Dawson ngụy tạo xương người tiền sử Piltdown bằng cách dũa xương
đười ươi rồi cắm vào hàm một sọ người tiền sử. Teilhard de Chardin,
Keith Woodward và nhiều bác học khác đều mắc lừa. Mãi đến ngày
22-11-1953, giáo sư Oakley mới khám phá ra được vụ ngụy tạo ấy. [68]
d) Vụ man trá của bác sĩ Dubois đã từ chiếc sọ đười ươi dựng nên câu chuyện «hầu nhân xứ Java».[69]
e) Vụ ngụy tạo chứng cứ của Paul Kammerrer [70] v.v…
Tuy
nhiên muốn cho công bằng ta cũng phải nhận rằng những vụ ngụy tạo này
là thế gian thường tình, vì ngay đạo giáo cũng đã thường phạm những lỗi
lầm này, như lịch sử đã chứng minh.
8)
Các biện chứng nêu ra trong các sách giáo khoa được trình bày một cách
rất khéo léo, bằng cách trưng ra một vài bằng chứng, còn bao nhiêu khó
khăn đều được đậy điệm bỏ qua đi hết.
Thường các sách giáo khoa minh chứng thuyết tiến hóa như sau:
Các sinh vật có cùng một thủy tổ và loài hạ đẳng dần dà đã biến thành loài thượng đẳng.
Ta có thể chứng minh bằng:
- Khoa cổ sinh vật học (paléonlogie)
- Khoa cơ thể học đối chiếu (Anatomie comparée)
- Khoa phôi học (embryologie)
a/
Khoa cổ sinh vật học cho thấy sự xuất sinh tuần tự của các loài sinh
vật. Sự khảo sát địa khai, đã cho biết rằng qua các thời kỳ địa chất các
loài vật đã xuất sinh theo một thứ tự nhất định: nhưng loài hạ đẳng,
đơn sơ bao giờ cũng xuất hiện trước những loài cao đẳng phức tạp hơn…
b/
Cơ thể học đối chiếu cho thấy «những vật thuộc cùng một nhóm» được kiến
tạo theo một hoành đồ chung (nguyên tắc hoành đồ nhất trí của Geoffroy
St. Hilaire).
c/ Khoa phôi học cho thấy các bào thai động vật mới đầu giống nhau, sau dần mới khác.
Nhưng sự xuất sinh theo một thứ tự nhất định của các loài vật không có nghĩa là loài nọ biến hóa ra loài kia.
Nguyên
tắc «hoành đồ nhất trí» của Geoffroy Saint Hilaire chỉ đúng một phần
nào nơi động vật có xương sống, nhưng không thể áp dụng cho toàn thể
sinh linh.
Ví
dụ, nếu tất cả đều có một tổ chức, một cốt cách tương tự nhau, thì sao
côn trùng lại không có xương cốt, các loài cua ốc, sò hến xương cốt lại y
như hiện ra bên ngoài, các loài động vật có xương sống, thì xương cốt
lại lặn vào bên trong?
Đó
chính là điểm đã gây thảm bại cho Geoffroy Saint Hilaire, con người đã
sáng tạo ra học thuyết, trong cuộc tranh luận với Cuvier về thuyết hoành
đồ nhất trí của ông, trước Hàn lâm viện Pháp năm 1830. [71]
Nguyên
tắc «Hoành đồ nhất trí» của Geoffroy Saint Hilaire cũng không giải
thích được tại sao nơi sinh vật thượng đẳng thì hình hài phức tạp trong
một cơ thể có nhiều cơ quan.
Còn
nơi sinh vật hạ đẳng tối sơ thì hình hài cơ thể giản dị hết sức đến mức
độ chỉ gồm có một tế bào; thế nhưng về phương diện sinh lý thì đôi đàng
đều làm được những công việc chính yếu như nhau. [72]
Khoa phôi thai học chỉ đề cập đến điểm tương đồng giữa các bào thai động vật nhưng đã bỏ qua những điểm tương dị ghê tởm:
Ví dụ:
1/ Sự sinh sản bằng cách phân thân của các loại vi trùng. [73]
2/ Sự sinh sản bằng âm dương hợp chủng của các sinh vật. [74]
3/
Sự sinh sản bằng trứng, bằng cách ấp ủ bên ngoài nơi rắn rết, cá mú,
chim chóc. Ngược lại nơi các động vật có vú thì lại đổi thành sự thai
nghén bên trong.
Ấy
chưa kể đến những nghi vấn lớn lao là làm sao những con trùng không
tim, không óc, không phổi, không mũi, không tai, không mắt lại biến
thành được những động vật, những con người có tay chân mặt mũi tim óc
hẳn hoi với 14 tỉ não bào, và những dây thần kinh như mắc cửi khắp thân
hình. Cái đó thì các sách giáo khoa không đề cập tới.
Tổng luận về thuyết tiến hóa.
Trên đây chúng ta đã cố tìm cho ra những cái hay cái dở của thuyết tiến hóa.
Chúng
ta khen, khi đặt mình vào hàng ghế những khán giả dễ dãi chỉ nhìn xem
những thành quả phiến diện, nhất thời của học thuyết, rồi vỗ tay phụ hoạ
theo.
Chúng
ta thấy có nhiều điểm đáng phê bình, nếu chúng ta chịu đi sâu vào hậu
trường của học thuyết, cân nhắc lại từng lời lẽ, lý luận, chứng cứ, và
nếu chúng ta dám bạo dạn nói lên những cảm nghĩ riêng tư, bất chấp mọi
dư luận đang thịnh hành.
Để
kết luận, chúng ta phải bái phục công trình tìm tòi của các nhà khoa
học, cũng như phương pháp, lề lối làm việc và những sáng kiến tân kỳ.
Chúng ta cũng không phủ nhận ảnh hưởng mãnh liệt và sâu rộng của thuyết tiến hóa khắp năm châu.
Nhưng từ những sự kiện dĩ nhiên mọi người đều công nhận như:
- Có sự biến dịch trong vũ trụ và trong vạn vật quần sinh.
- Vũ trụ vạn vật có lớp lang, thứ tự, hệ thống.
- Các sinh vật xuất sinh tuần tự.
- Ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống sinh vật,
- Muốn tiến tới cần phải cố gắng liên tục v.v…
Đi
đến kết luận là loài nọ đã biến thành loài kia, vi trùng đã biến dần
thành quần sinh, thành nhân loại, và những sự biến hóa ấy đã được xui
khiến bởi ảnh hưởng ngoại cảnh và sự đấu tranh sinh tồn, thì kể là một
kết luận vội vàng, không chính xác; mà đã không chính xác thì biện luận
mấy cũng không che giấu nổi nhược điểm.
Tuy nhiên nó đã đặt lại cả một vấn đề siêu hình qua các bằng chứng khoa học.
Nó đã thẳng thắn đặt lại mấy quan niệm:
Nhất thể vạn thù của các nhà huyền học Á Đông, [75] và Âu Phi thời cổ, cũng như quan niệm biến dịch, biến thiên mà Phục Hi, Văn Vương cũng như Héraclite đã chủ trương từ ngàn xưa.
Cái
nhược điểm trọng yếu của thuyết tiến hóa chính là không qui định được
«nguyên sinh», «nguyên thể» là gì, mà cho rằng hoặc là nguyên tử vật
chất nhỏ nhoi, hoặc tế bào, hoặc là vi trùng vi thảo, mà quên mất phần
thần khí, quên mất đại khối vũ trụ.
Cứ
theo lý luận trên, thì tiến hóa không phải là sự phát huy những tiềm
năng tiềm lực sẵn có, mà là biến hình, biến dạng tùy thế của vi thảo, vi
trùng.
Vũ trụ không phải là những biến hóa lớp lang thứ tự của một đại thể mà là sự hợp tan vô định, vô tình của những vi thể vi trần. [76]
Học
thuyết biến hóa hiện nay có thể nói được là đối đỉnh của học thuyết
biến hóa của các nhà huyền học đông tây từ trước đến nay.
Thuyết này chủ trương:
Nhất thể biến vạn thù,
Vạn thù qui nhất thể.
Tức
là cả vũ trụ sinh linh đều là phân thể một đại thể. Đại thể ấy có nhiều
danh hiệu tùy nơi tùy thời: hoặc là Thái Cực, là đạo, là Logos, là chân
tâm. Đại thể ấy sinh ra mọi sự, mọi loài. Mọi loài vì là phân thể của
một đại thể, [77] nên
dĩ nhiên có một mối giây thân ái, liên laic, hết sức chặt chẽ với nhau.
Mọi sự vì vậy có những điểm tương đồng, tương dị. Căn nguyên thì tương
đồng, nhưng phân nhiệm thì tương dị v.v…
Ta
lật ngược học thuyết trên thì sẽ ra thuyết tiến hóa hiện nay, nhưng vì
thuyết tiến hóa khởi sự từ tiểu ly, tiểu tiết, nên khi muốn tái tạo lại
vũ trụ, quần sinh đã gặp rất nhiều khó khăn trở ngại.
Thuyết tiến hóa, vì quên mất đại thể, quên mất thần khí nên quên lãng cả ảnh hưởng tâm thần, cho rằng mọi sự đều vô tình, vô ý.
Nhưng các nhà khoa học chân chính cho rằng chối bỏ tâm thần, tình ý là phản lại thực tại.
Cuénot
đã phải nhận rằng trong quần sinh có sự hô ứng tương liên, tương hợp lạ
lùng: đố nào, ngàm ấy; rau nào sâu ấy; ong giúp hoa, hoa giúp ong. [78] Ông
thú nhận rằng có nhiều sự thích ứng không thể nào giải thích bằng ngẫu
nhiên được, mà phải tin vào một huyền lực siêu nhiên biến hóa, tiềm ẩn
ngay nơi sinh vật. Huyền lực ấy tác động trên vật chất y như một ý niệm
của nghệ sĩ tác dụng nguyên liệu được dùng.[79]
Charles Richet đã dám chứng minh rằng trong khoa sinh lý học, cái gì cũng có mục đích, ý tứ. [80]
L. Cuénot cũng tuyên bố: vây sinh ra để bơi, cách để bay, mắt để nhìn. [81]
Và nếu trong những tiểu tiết ta thấy có ý, có tình, thì vũ trụ cũng phải có ý tứ, cùng đích. [82]
Các
nhà khoa học chủ trương thuyết tiến hóa còn có một nhược điểm khác là
thường chỉ chú trọng đến ảnh hưởng của ngoại cảnh hay của di tử, chủng
tử [83] mà sao nhãng hẳn những ảnh hưởng ý chí tâm tình.
Tuy nhiên, Larmarck và nhiều triết gia lại đặt ảnh hưởng ấy lên hàng đầu. [84]
Thế
là các lý thuyết gia về thuyết tiến hóa hãy còn đứng ngoài lâu đài,
chưa vào được phía «bên trong», theo từ ngữ Schopenhaur. [85]
Nói tóm lại, muốn đi tìm nguồn gốc phát sinh tiến hóa, phải đi sâu vào căn cơ vũ trụ. [86]
Các nhà huyền học cổ kim đều đã chủ trương như vậy. Thánh Paulo cũng đã nói: vô hình sinh hữu tướng. [87]
Teilhard de Chardin cũng chủ trương Tạo hóa vẫn còn hoạt động trong lòng sâu vũ trụ và vạn vật. [88]
Teilhard de Chardin (1881-1955)
Các nhà truyền học Á Đông cũng đã đi sâu vào Thái Cực, vào vô tướng để tìm ra duyên do tiến hóa nơi vạn hữu. [89]
Nhiều
nhà bác học hiện nay đã công nhận rằng cái «thực tại khoa học» chỉ là
một lớp màng vỏ mong manh bao phủ ngoài thực tại chân thực, như những
làn sóng nhấp nhô trên mặt trùng dương. [90]
Thực
thể vô tận ấy nay mang thêm nhiều danh hiệu mới mẻ như là «Trùng dương»
của Dirac, «Tiềm giới» của Louis de Broglie, Bohn và Vigier, «Cảnh giới
đặc thù» của Wheeler v.v… [91] Thế là Đông Tây gặp gỡ, kim cổ giao duyên…
André
Lamouche cho rằng người ta đã lẫn lộn hai chữ Tiến hóa, và biến hóa. Sự
tiến hóa nghĩa là trong vũ trụ, quần sinh có nhiều trình độ, tinh thô,
cao thấp khác nhau sự tiến hóa ai cũng phải nhận, vì nó là một sự kiện.
Còn sự biến hóa ngĩa là loài này biến ra loài khác là một giả thuyết rất
mơ hồ, huyền hoặc chưa có thể chứng minh được. [92]
Vả
lại, người ta chấp nhận thuyết tiến hóa có khi cũng vì những lý do tình
cảm và chính trị. Giáo sư Watson, đại học đường Luân Đôn thuyên bố như
sau:
Thuyết
tiến hóa đã được các nhà động vật học chấp nhận, không phải vì đã thực
sự quan sát thấy vậy hay vì đã có thể chứng minh, hoặc kiểm chân được
bằng những lý luận mạch lạc xác đáng, nhưng chính là vì thuyết đối lập,
«sự tạo dựng trực tiếp», cũng không thế nào tưởng tượng được. [93]
Theo
bác sĩ Calman thuộc Anh quốc Bảo tàng viện, thì các nhà khoa học đã
chấp nhận học thuyết này «như là một lợi khí để có thể giao tranh với
các giáo hữu bảo thủ». [94]
Đó
cũng là ý kiến của Pierre Rousseau trong quyển lịch sử khoa học. Theo
Pierre Rousseau, thì thuyết tiến hóa chính là một thứ khí giới chiến
tranh đã được đưa vào trận địa để phản kích lại thông điệp Syllabus của
Đức Giáo Hoàng Pio IX lưu hành năm 1864, và cộng đồng Vaticano I năm
1870. [95]
Thuyết tiến hóa còn được sùng thượng, một phần cũng vì phong vị vật chất vô thần của nó.
Nhưng, những lý do tình cảm, chính trị, đấu tranh ấy không làm tăng được giá trị nội tại của thuyết tiến hóa.
Vì
vậy, nhưng nhà học giả thành khẩn hoặc là phủ nhận thuyết tiến hóa vì
thấy chưa đủ lý cứ, hoặc là chấp nhận với sự dè dặt sau khi đã thay đổi
nội dung và thêm thắt vào nhiều quan điểm mới mẻ.
Năm
1929, Louis Vialleton đã không ngần ngại viết rằng thuyết tiến hóa là
một «huyễn tượng» vì chủ trương toàn là trực hệ, mà lúc trình bày đồ án
biến hóa thì chỉ thấy bàng hệ. [96]
Jean
Serviers cho rằng: Thuyết tiến hóa là một tín điều, một triết lý của
người da trắng cốt để lấp liếm những sự xâm lăng, đàn áp, và những tội
ác của họ. Thuyết tiến hóa tuy đã trở thành tín điều, nhưng chưa dựa
trên những chứng cứ chắc chắn. Chúng ta đang sống giữa một sự trá ngụy
khoa học vĩ đại. [97]
Trong
bộ Bách khoa tự điển Pháp xuất bản năm 1938, Paul Lemoine, một nhà địa
chất học danh tiếng và là Viện trưởng viện cổ sinh vật Pháp đã viết như
sau: «Thuyết tiến hóa sắp đến ngày bị bác bỏ» và ông không ngần ngại
viết thêm:
«Thuyết tiến hóa là một thứ tín điều mà hàng giáo phẩm không còn tin nữa, nhưng vẫn giữ cho quần chúng.» [98]
Trong quyển «Nhân loại từ đâu tới», thuộc bộ Bách khoa Planète, N. Albessard viết:
«Người
ta thường chấp nhận rằng tiến hóa là một sự tiệm thăng tiệm tiến đến
một tâm thần biết suy tư, mà Teilhard de Chardin đã đề cập tới. Quan
niệm này làm cho con người trở thành những Hi mã lạp sơn chứa chất một
sự nhẫn nại vô biên của vạn vật. [99]
«Trong
ta, tính lại có 30 triệu thế kỷ bì bõm dưới đáy biển; cố gắng phi
thường để lướt thắng hoàn cảnh; khám phá thần tốc, hoặc bò man vất vả,
điên cuồng nhưng rồi vẫn có thể trở lại khôn ngoan. Trong vòng ba tỉ
năm, sự sống đã lần mò để thực hiện ra ta ngày nay. Cái lối nhìn đời ấy,
tuy rất xứng tâm, xứng ý con người, nhưng khốn nỗi lại chỉ là một giả
thuyết không hơn không kém.» [100]
Bertrand
Russell lại bi quan hơn, ông nói: «Tôi nghĩ rằng vũ trụ toàn thành bởi
những mảnh miếng, những nhảy cẫng nhát gừng, và chẳng làm gì có hệ thống
duy nhất, liên tục, thứ tự, mạch lạc.» [101]
James
Jeans chủ trương phải đem thần linh về lại với vũ trụ và cho rằng thần
linh là căn cốt vũ trụ. Thần linh không còn phải là như một người xa lạ
trong giang sơn vật chất nữa. [102]
Thế là chủ trương «thần khí điều động vật chất» của Virgile lại được sống lại. [103] Gần đây Julian Huxley và Teilhard de Chardin cũng chủ trương «Thiên tâm», Thiên tính là bản thể của vũ trụ. [104]
Đó chính là chủ trương của Dịch Kinh: bản thể của vũ trụ là Thái Cực.
Lecomte
du Noüy sữa chữa thuyết tiến hóa bằng sự chấp nhận có Thượng Đế tạo
dựng sinh vật, hướng dẫn quần sinh đến một mục phiêu siêu việt là thần
nhân…
Về thuyết tiến hóa, Lecomte du Noüy cũng nhận định một cách chân thành như sau:
«Nếu
ta lưu tâm đến sự dốt nát của chúng ta, nếu ta đo lường cân nhắc sự dốt
nát ấy một cách thành khẩn, ta sẽ đi đến một kết luận kỳ dị này là niềm
tin của ta về sự tiến hóa, cho đến bay giờ còn thuộc về trực giác siêu
hình chứ chưa phải khoa học…» [105]
Để
tổng kết lại, ta thấy rằng muốn có cái nhìn toàn bích phải đi từ nhất
đến vạn, rồi lại đi từ vạn quay trở về nhất, nói cách khác, đi từ Thái
Cực, hay Đạo ra quần sinh vạn hữu, rồi lại đi từ quần sinh vạn hữu trở
về Thái Cực, và Đạo, thế tức là đi từ vô tướng ra vạn tượng, rồi lại từ
vạn tượng quay trở về vô tướng; từ gốc lên ngọn rồi lại từ ngọn trở về
gốc. [106]
Các
nhà khoa học đi có một chiều từ ngọn trở về gốc. Công cuộc đó thực là
khó khăn, vì ta không biết hết chi diệp, cốt cán. Nhưng nó hợp với
nguyện ước của mọi người, cho nên ai cũng công nhận. [107]Nhưng
chối bỏ nguồn gốc, chối bỏ ý tứ mục đích và cho rằng muôn loài ngẫu
nhiên sinh xuất ra nhau, từ vi trùng, vi thảo cho đến con người, thì
cũng y như chủ trương rằng cây không cần có gốc; ngọn, búp có thể sinh
ra cành lá và thân cây. Đó là một lập luận cưỡng lý cần phải soát xét và
đảo chuyển lại.
Tuy
nhiên, dẫu học thuyết tiến hóa, hiện nay còn khuyết điểm mấy chăng nữa,
nó cũng đã thành công rực rỡ, khi đặt lại những vấn đề then chốt như:
1/ Sự sống chỉ có một, mặc dầu khoác thiên hình vạn trạng. [108]
2/ Vạn vật có liên lạc mật thiết với nhau, tuy xa cách nhau bằng không gian, thời gian, bằng trạng thái và trình độ tâm tư. [109]
3/ Phải tìm cho ra thực thể duy nhất sinh xuất vạn vật quần sinh. [110]
4/ Phải tìm cho ra những mối manh, mạch lạc, cơ cấu của sự biến thiên tiến hóa trong vũ trụ và quần sinh.
5/ Phải tìm căn nguyên sinh xuất quần sinh, cũng như mạch lạc vũ trụ, ngay trong lòng quần sinh và vũ trụ. [111]
Dẫu
thuyết tiến hóa chưa giải được những vấn đề này, nhưng đặt ra thành vấn
đề để cho mọi người suy tư, tìm hiểu cũng đã là một bước tiến vĩ đại.
Nó đánh dấu một kỷ nguyên mới vì đã đem sự biến thiên chuyển dịch vào
sân khấu đời.
Nó
cũng đã thực hiện được một công trình vĩ đại vì đã cho con người một
cái nhìn phổ quát tổng hợp, coi vạn vật chỉ là những hình thái biến
thiên của một thục thể duy nhất, mặc dầu nó đã sai lầm khi nhận định
thực thể duy nhất ấy là gì. [112]
CHÚ THÍCH
[1] …
Procès de John Thomas Scopes, ce jeune professeur de biologie d’une
école secondaire de Dayton condamné en 1925 à 100 dollars d’amende pour
avoir violé le «anti-evolution bill» la loi anti-évolutionniste votée la
même année par le gouvernement de l’État de Tennessee. Ce procès fut
provoqué par un ami de Scopes, Georges Rappeleyea, qui entendait ainsi
faire éclater l’absurdité de la loi interdisant «d’enseigner toute
théorie niant la création de l’homme par Dieu telle qu’elle est exposée
dans la Bible et de professer que l’homme descend d’une espèce
inférieure.» (Science et Vie, Nov. 1966 – page 147)
[2] La
querelle a rebondi récemment quand Mrs Susan Epperson elle aussi
professeur dans une école de Moticello (Arkansas) fut traduite à son
tour devant les juges pour avoir exposé à ses élèves la théorie de
l’évolution des espèces…
Pour incroyable que cela puisse paraître, l’affaire s’est passée au début de 1966.
Procès
aussi futile que pittoresque, où il s’agissait moins d’éclaircir un
problème que de défendre les idées simplistes et routinières, où des
hommes qui ne s’étaient jamais posé la question de l’origine de la vie,
ni celle de l’histoire de l’homme, entendaient soutenir l’interprétation
littérale, naïve de la création du monde telle que l’exprime la Bible.
(Science et Vie, Novembre – page 247.)
[3] Le
fameux conflit entre l’évêque Wilberforce et Huxley à la réunion de
l’Association britannique en 1860 à Oxford a souvent été décrit.
L’évêque, sans comprendre au fond le problème, essaya de tuer par le
ridicule la notion d’évolution par des arguments efficaces, Huxley lui
reprocha sévèrement son ignorance…
(W.Dampier – Histoire de la Science – page 341)
L’évêque
Wilberforce: «- Si vous êtes convaincu que vous descendez du singe,
cher monsieur, je vous saurai gré de me dire si le singe est entré dans
votre famille du côté du Monsieur votre grand-père ou de celui de Madame
votre grande mère.»
A
quoi Huxley très calmement acait répondu: «Il est de ma conviction que
l’homme ne doit pas avoir honte d’un aïeul singe. En ce qui me concerne,
Monseigneur, il ne pourrait y avoir qu’un seul aïeul dont je devrais
avoir honte, un homme qui se fût mêlé de questions scientifiques
auxquelles il n’entendait rien. (Encyclopédie Planète – D’où vient
l’Humanité, page 150.244)
[4] …
Au siècle suivant (19è siècle), ce même livre de la Genèse devait
encore vouer Darwin à l’exécration des bien pensants de toute
dénomination. (Georges Gusdorf. De l’Histoire des Sciences à l’histoire
de la pensée – page 271)
[5] Dans
une encyclique du mois d’Août 1950 le Pape déclara qu’il était permis
d’étudier «la doctrine de l’évolution dans la mesure où elle recherche
l’origine du corps humain dans une matière vivante existant avant lui.»
(Cf. Que Dieu soit reconnu pour vrai – page 95)
[6] Mais
avec les progrès des sciences dans le domaine de ce qu’on vait
jusqu’alors tenu comme enseignement de la Bible dont l’inspiration
devait garantir la vérité, surgirent des hypothèses qui ne cadraient
plus avec cet enseignement, d’où pour les uns condamnation de la
science, et pour les autres condamnation de la Bible. Cependant les
résultats acquis des sciences, astronomie, géologie, paléontologie,
amenèrent les apologétistes chrétiens à tenter une conciliation entre la
science et la Bible, par l’interprétation de celle-ci d’après
conclusions ou même simples hypothèses des savants. C’est l’origine du
concordisme qui sous la forme du périodisme a eu de nombreux partisans
et a joui d’une très grande vogue… (Louis Pirot, La Sainte Bible –
Genèse, page 127)
[7] «Yôm»
en Hébreu n’a jamais signifié: période géologique et «il y eut un soir,
il y eut un matin» n’a jamais voulu dire: il s’écoula deux ou trois
milliards d’années. (Georges Crespy, De la Science à la théologie, page
17)
…
On a justement fait remarquer que le mot «Yôm» «jour» eût-il par
ailleurs dans la Bible, le sens d’une longue période de temps, ce qui
n’est pas le cas, ne saurait l’avoir dans le récit de la création
puisque chacun des six jours est formé d’un soir et d’un matin, et que
le soleil préside au jour, et la lune à la nuit…
Cf. La Sainte Bible texte latin… avec un commentaire exégétique et théologique. – (Louis Pirot et Albert Clamer), page 127.
[8] Ainsi
que l’affirmait déjà Léon XIII dans son encyclique Providentissimus
Deus: «Les écrivains sacrés n’ont pas voulu renseigner les homes sur les
choses qui ne sont d’aucune utilité pour le salut; voilà pourquoi,
plutôt que de poursuivre une recherche scientifique, ils décrivent les
choses avec des métaphores ou parlent selon le langage commun usité de
leur temps. (Louis Pirot, La Sainte Bible, Tome 1, Genèse, p.127)
[9] La
Commission biblique dans sa décision de 30 Juin 1909 sur le caractère
historique des trois premiers chapitres de la Genèse affirme que
«l’intention de l’auteur sacré n’est pas d’enseigner d’une manière
scientifique la constitution intime des choses et l’ordre de la
création, mais il parle selon la connaissance populaire d’après les
données des sens et dans le langage du temps. (Ib. page 127)
[10] Pendant
des siècles, les peuples de l’Europe et du basin de la Méditerrannée
out vu dans les récits bibliques de la création et du Déluge la très
exacte histoire de l’Univers. Aujourd’hui, la plupart de ceux qui
vénèrent l’Ancien Testament, chrétiens, juifs ou musulmans, ne voient
plus dans la Genèse que de divines allégories.
(Pour connaître la nature (Larousse) page 10)
…
A partir du XVIIIè siècle, et de plus en plus, les nouvelles évidences
font craquer le cadre traditionnel; la science géologique proprement
dite se prépare au début du XIXè siècle, avec des hommes comme Werner et
Cuvier, elle s’impose avec Lyell a partir de 1830. Le schéma biblique
est dès lors périmé sans retour… (Georges Gusdorf, De l’histoire des
sciences à l’histoire de la pensée, page 272)
[11] Jusqu’au
siècle dernier, la préoccupation essentielle de la science était
d’expliquer ses découvertes par les textes de la Genèse. (Encyclopédie
Planète. – D’où vient l’hummanité. – figure I, page 2.)
[12] Bref
à l’époque de la science naissante, tout érudit qui tenait à conserver
son honneur et même à acquérir un peu de popularité, n’avait qu’à
chercher dans ses observations sur la nature tout élément capable de
prouver non seulement l’exactitude de l’Écriture Sainte, mais aussi les
opinions généralement admises par les autorités ecclésiastiques.
(Guy Dingemans, Formation et Transformation des Continents, p. 26)
[13] En
1744 dans le premier volume de son Histoire naturelle, Buffon attribute
à la Terre plus de 70.000 ans au lieu des 5 ou 6.000 ans de la
trandition biblique.
Le scandale fut énorme, et le livre condammé par les théologiens de la Sorbonne.
(Pour connaître la Nature, Larousse, page 164)
[14] Pourtant
à la mort de Darwin, on enseignait encore que la création du monde
remontait à 4963 avant J.C «seule date admise aujourd’hui dans les
écoles», dit le dictionnaire de P.Larousse. (20è édition 1882). (Pour
connaître la nature, Larousse, p. 160)
…
Une étude de la Genèse montrait que Dieu créa l’homme et la femme le 29
Octorbre de l’an 4004 avant J.C. (D’où vient l’humanité – page 381.)
[15] Genèse I 18-14.
[16] Et
puis vers 30.000, parut le premier nous-même, homo sapiens. Mais cet
home sage était-il bien Adam ? Où l’humanité avait-elle commencé avant
lui, avec des être plus élémentaires ? Et si oui à partir de quel moment
? (L’Encyclopédie Planète. D’où vient l’Humanité, page 19.)
[17] Le
berceau de l’humanité est l’un des grands problèmes qui préoccupent les
paléontologues, «un faux problème» dissent certains d’entre eux qui
pensent qu’il y a eu non pas un, mais plusieurs premiers hommes. L’abbé
Breuil, auquel on posait les questions répondit plaisamment: «Le berceau
de l’humanité ? Ce fut un berceau à roulettes». (Ib. page 37)
… Teilhard de Chardin: C’est au cœur de l’Afrique que l’homme a dû émerger pour la première fois. (Ib. page 36)
…
Có người cho rằng con người đã phát tích ở Arménie, có người cho là ở
Me1sopotamie, người ở Tibet, người ở Java v.v… (Cf. D’où vient
l’humanité – page 95)
[18] Cf. D’où vient l’Humanité – page 31.
[19] L’Avenir de l’Esprit, pages 184-185.
… Có tác giả cho rằng:
- Người tiền sử Phi châu có từ khoảng 1.750.000 năm đến 4.000.000 năm.
-
Các nhà khoa học Nga cho rằng: người đầu tiên có thể có từ 1.000.000
đến 50.000.000 năm. (D’où vient l’Humanité, pages 9 et 10).
[20] Cf. D’où vient l’Humanité, page 140.
[21] Cf. De l’Agnosticisme à la foi, page 128.
[22] Cf. D’où vient l’Humanité, page 142.
[23] Rien
qu’en Europe, on compte 112 grottes ou abris ornés de peintures, de
gravures, ou de sculptures. La plupart sont situées dans le Sud-Ouest de
la France et en Espagne. (Ib. 116)
[24] Diverses
traditions s’accordent à situer celle-ci (la fin des temps) vers la fin
du deuxième millénaire de l’ère chrétienne. Cela paraît bien rapproché.
It est vrai que plusieurs passages des Ecritures confirment le
caractère soudain et inattendu dans l’ensemble des derniers évènements …
(La Vocation de l’Occident – page 216)
La terre et partant l’humanité ne son présentement qu’à l’aube de l’existence.
R.P. Teilhard de Chardin.
D’où vient l’Humanité (couverture)
… Xin đọc thêm W. Dampier – Histoire de la Science. Chương VIII, tiết L’Évolution et la Religion từ trang 367 trở đi.
[25] «Je
vois passer l’humanité moderne avec une idée de lui-même et du monde
qui n’est plus une idée déterminée, écrit Paul Valéry. Il lui est devenu
impossible d’être l’homme d’un seul point de vue, d’appartenir
réellement à une seule langue, à une seule conception, à une seule
physique …» (D’où vient l’Humanité – page 214)
Xin
đọc thêm bài của Georges Crespy: l’évolution et ses problèmes trong
quyển De la Science à la théologie, và Essai sur Teillhard de Chardin từ
trang 7 trở đi.
[26] L’idée
que certaines croyances et pratiques orthodoxes de nos jours avaient
évolué à partir de cultes primitifs avait été émise par des penseurs
isolés entre autres par Hume et Herder. Mais cette idée ne donne
vraiment naissance à l’étude comparée des religions que sous l’aiguillon
de l’œuvre darwinienne. (W. Dampier – l’Histoire de la Science p. 377)
[27] Mais
le déterminisme du milieu, lui, allait trouver une seconde jeunesse
avec les marxistes qui le reprirent aux socialistes français et en
firent l’un des fondements de leur philosophie. (D’ou vient l’Humenité,
page 43, note 1)
…
Les marxistes ont tendance à être lamarckien parce qu’ils accordent une
importance décisive au rapport entre l’homme et le milieu… (Georges
Crespy, De la Science à la théologie, page 9)
[28] Combien se sont figurés, en effet, que la sélection naturelle était un agent du progrès.
Combien
ont été, en se guidant sur cette idée, jusqu’à faire l’apologie non
seulement de la lutte pour la vie entre les individus, mais encore de la
concurrence et de la guerre entre les peuples. C’est là commettre un
contre-sens douloureux. Il tient à la confusion qu’on établit entre deux
notions pourtant bien distinctes, celle du progès, au sens absolu du
mot, et celle de l’adaptation au milieu, ou progrès relatif. Si l’on se
place au point de vue absolu, le progrès est un avancement dans le sens
de l’idéal. (André Cresson, Darwin, (UPF) pages 61-62)
…Les
théoriciens du monde «libre» sont généralement darwinistes parce qu’ils
fondaient leur exploration du réel et leur connaissance du monde sur
l’idée vague de la concurrence existentielle et la victoire des forts.
(Georges Crespy, De la Science à la théologie, page 9)
[29] Si
la philosophie évolutionniste doit être acceptée sans réserve, les
qualités qui favorisent la survivance du plus apte ne sont-elles pas les
vraies qualités morales…
Prôné
par les politiciens et les militarists, cet enseignement fit beaucoup,
avec le succès des guerres de 1866 et 1870 pour former la mentalité de
l’Empire Germanique et pour déchaîner le cataclysme de 1914. En France
l’influence fut plus individuelle que politique; mais la «lutte pour la
vie» devint un slogan chez les gens de tout âge qui cherchaient
uneexcuse de bon aloi à leur ignorance de la morale conventionnelle. (W.
Dampier, page 380)
(..Xem thêm tiết l’évolution et la philosophie trang 381 trong sách này)
[30] Cet
éventail de preuves – (paléontologie, embryologie, anatomie comparée,
paléoneurologie, biochimie etc) – établit le fait de l’évolution qui
seul fournit une compréhension de monde organique. Aussi les négateurs
de l’évolution, qu’ils la rejettent brutalement ou qu’ils acceptant une
évolution partielle, ont été et sont de plus en plus rares (L.
Viallecton, P. Lemoine, L. Bounoure). Aucune observation, aucune
expérience, ne s’oppose au principe évolutionniste. (La Science
contemporaine. Le XXè siècle, p.712)
[31] …
Sauf dans les cercles obscurantistes, la pensée chrétienne accepta la
théorie de l’évolution et en vient lentement de nos jours à en admettre
en général les conceptions modernes. L’obligation de reprendre en
considération ses prémisses, créa un esprit nouveau d’enquête
respectueux et de liberté de pensée. Au lieu d’un corps de doctrine
complet et rigide, révélé une fois pour toutes aux Saints, théorie
constamment sujette à se disloquer, sous le heurt des découvertes
historiques, les hommes religieux eurent la vision d’une évolution des
idées religieuses, d’une évélation continue marquée à certains moments
par des effusions suprêmes mais ne cessant jamais d’interpréter la
volonté de Dieu à l’humanité. (W. Dampier, Histoire de la Science, page
378-379)
[32] Lamarck…
le créateur du transformisme dont les théories 150 ans plus tard
diviseraient le monde aussi efficacement que le «mur de Berlin».
(Planète. – D’où vient l’Humanité, page 245)
[33] Le
majeure partie des types fondamentaux du règne animal se présentent à
nous sans aucun lien au point de vue paléontologique (Depéret).
(L’Avenir de l’Esprit, page 117)
…
«Dans les divers cas qui viennent d’être passés en revue – et on peut
généraliser cette remarque à tous les autres – Chaque groupe, ordre ou
famille apparaît subitement sans que nous trouvions presque jamais les
formes qui relient à la souche. Chacun se montre immédiatement, tout
différencié. Il faut convenir que non seulement on ne trouve guère de
formes de transition, mais qu’en général on ne peut pas relier un groupe
nouveau authentiquement à un groupe ancient. – (Caullery) (L’Avenir de
l’Esprit, page 131.)
[34] Il
y a actuellement sur terre quatre millions d’espèces, nous en
connaissons à peine un million. Il s’en découvre chaque année 10.000
nouvelles. (D’où vient l’Humanité, page 223)
[35] Xem hình 52 trong quyển Morgan, Kinships of animals and man, trang 69.
[36] Or
en confond à tort évolutionnisme et transformisme. L’évolution est un
fait. Le transformisme est une hypothèse. L’évolution…est la constation
du fait que dans le passage graduel de la nébuleuse à l’homme, on peut
classer les diverses structures types du monde sensible suivant une
échelle de complexité structurale régulièrement croisante… Finalement,
cette complexification structurale accompagnée périodiquement de
simplifications fonctionnelles normalisées, s’est échelonnée dans le
temps suivant un plan général très apparent, qui impose à tout
observateur de bonne foi la croyance au fait de l’Evolution. (André
Lamouche, La Destinée Humaine, page 162)
[37] Huệ tử, nhà ngụy biện Trung Hoa (thế kỷ thứ 4 trước kỷ nguyên).
Cf. Wieger, Histoire des Croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine, p.214.
[38] Công Tôn Long cũng là một nhà Ngụy Biện Trung Hoa khoảng cuối thế kỷ thứ tư đầu thế kỷ thứ ba trước kỷ nguyên. Ib.214.
[39] D’après
la thèse mécaniciste, ce n’est pas seulement dans la première cellule
vivante qu’aurait dû se trouver condensée, en puissance, toute
l’évolution du monde jusqu’à son état actuel de complexité ordonnée.
C’est dans le premier atome de matière, dans le premier corpuscule
individualise, dans la première onde isolée du rythme primordial. (André
Lamouche, La Destinée Humaine, page 163.)
[40] Parmis
les objections qui ont pu être faites au postulat transformiste de la
monogénèse, les unes sont d’ordre expérimental (absence de formes de
transition, possibilités très limitées des mutations ete…) (André
Lamouche, La Destinée Humaine, page 163)
[41] Il
faudrait admettre que le germe unique dont seraient issues en vertu de
lois purement mécaniques, ces nombreuses espèces, eût contenu en
puissance les différentes formes et les différentes fonctions qui
caractérisent ces espèces. (André Lamouche, La Destinée Humaine, page
163)
…
Si l’on réfléchit un peu sérieusement, on constate que pour expliquer
qu’il y ait eu évolution, on ne peut faire que deux hypothèses
raisonnables:
1/ Préformation absolue et complète dans l’être originel. Tout le futur inscrit dans le premier œuf. (Weismann)
2/
Adaptation progressive aux conditions variables du milieu Hérédité des
caractères acquis et finalité téléologique. (L’Avenir de l’Esprit, page
168)
[42] Pour
Spencer, l’hérédité des caractères acquis, était une nécessité logique…
«Ou bien, écrit-il, il y a eu transmission des caractères acquis, ou
bien il n’y a pas d’évolution du tout». Cf. Lecomte du Noüy, L’Avenir de
l’Esprit, page 63.
(Herbert
Spencer – Principles of Biology (contemporary Review Février, Mars, Mai
1893) A rejoinder to Prof. Weimann (Id. Decembre 1893 – Herbert
Spencer, Inadequacy of natural selection).
[43] Seules
des expériences de Kellog et Bell sur des chenilles; d’Arnold Pictet
sur des papillons (influence de la nourriture et de l’humidité) et de
Fisher sur des papillons également donnèrent des résultats positifs des
caractères acquis. (Cf. Lecomte du Noüy, L’Avenir de l’Esprit, page 165)
… Xin đọc thí nghiệm Pictet trong Les Nouvelles énigmes de l’Univers trang 254.
Và các thí nghiệm của Mac Bride và Miss Sladden trên con Carausius, của Dürkhen v.v… cũng trong sách hay này trang 254 và 255.
[44] Cf. Nguyễn Văn Đỉnh, Vạn Vật Học đệ nhất, trang 479.
[45] L’impossiblé
de l’hérédité des caratères acquis – base de l’hypothèse Weismannienne –
résulte nécessairement de ce qu’on ne voit pas comment une modification
acquise localement par le soma peut être transmise et incorporée au
germen. (Lecomte du Noüy, L’Avenir de l’Esprit, page 163)
[46] Malheureusement
pour la thèse lamarkienne, les modifications produites par le milieu et
par l’activité ne sont jamais transmise à la descendance, elles
demeurent strictement individuelles, puisque rien ne s’inscrit dans le
patrimoine héréditaire et par suite elles sont dénuées de toute valeur
évolutive. (Jean Rostand)
Introduction à l’étude de la biologie humaine.
D’où vient l’Humanité, page 91.
[47] Vers
la fin du XIXè siècle, le darwinisme orthodoxe avait été modifié par
les ultra-darwinistes (Wallace et Weismann) qui acceptaient les
explications de Darwins sauf l’hérédité des caractères acquis, la
sélection étant le seul facteur efficient.
La Science moderne – Le XXe siècle, page 713)
[48] Cette
découverte (la découverte de la plante ornementale l’oenothère et ses
diverses variétés) battai en brèche la conception darwinniste; elle
donnait à penser que les espèces avaient dû se former, non par un
progrès insensible, mais par mutations, dont chacune introduisait une
brisure dans la courbe de l’espèce. C’est ce qu’exprime le grand
botaniste (Hugo de Vries) en 1901-1903 dans sa théorie des mutations «Il
n’y a pas de continuité entre les espèces». Elle apparaissent par voie
de soudains changements et par échelons brusques. Une nouvelles espèce
est une apparition soudaine, elle se manifeste tout à coup, sans
préparation et sans transition. (Pierre Rousseau, Histoire de la
Science, page 729)
…
Le mutationisme … C’est une sorte de darwinisme privé de l’hérédité des
caractères acquis et de l’omnipotence de la sélection naturelle. (La
Science moderne – le XXè siècle, page 713)
[49] P.
Kammerer de Vienne prétendit avoir mis en évidence l’hérédité des
caractères acquis chez le crapaud anoure (1909)… En 1926 G.K. Noble
ayant pu examiner au microscope les prétendues callossités digitales
acquises, publia un article dénonçant la fraude. Quelques semaines plus
tard, le suicide de Kammerer était considéré comme un aveu de sa
culpabilité. (La Science contemporaine XXè siècle, page 712)
[50] «Jusqu’en
1900 beaucoup de génétistes croyaient que les caratères acquis par les
plantes et les animaux dans leur milieu ambiant étaient transmis à leur
descendance. Les génétistes modernes ont prouvé qu’il n’en était pas
ainsi. (Life du 17-3-1947)
Que Dieu soit reconnu pour vrai – page 90.
[51] «La fonction crée l’organe». Cf. André Lamouche, La Destinée Humaine – page 137.
[52] En
effet, comme l’a démontré Malthus, les être vivants sont entassés sur
un espace peu étendu, où les moyens de subsistence sont restreints. Ces
moyens de subsistance, il s’agit donc de les conquérir de haute lutte,
avec le droit de garder sa place et celui de se reproduire…
Dans
cette guerre sans merci… c’est donc l’espèce la mieux avantagée qui
gagne la bataille, qui accapare la place et la nourriture, et qui seule
survit … (Pierre Rousseau, Histoire de la Science, p. 666)
[53] Il
(Darwin) avait remarqué que les éleveurs et les agriculteurs savaient
choisir des reproducteurs, afin de développer les meilleures races de
bêtes et de graines, ce qui était une sélection artificielle. (Pierre
Rousseau, Histoire de la Science, page 666)
[54] Ainsi
avait-il (Darwin) pensé, la lutte pour la vie est une bataille à mort
entre les individus, bataille dont, seuls, les plus forts, les plus
aptes, survivent. Ne s’agit-il pas la d’une véritable sélection opérée
pas la nature. Et cette sélection, cette lutte n’exigent-elles pas que
les espèces s’adaptent, se transforment, pour offrir à l’adversaire la
résistance optimum ? Ces transformations doivent ensuite se transmettre
de père en fils et il doit en résulter des espèces nouvelles. (Pierre
Rousseau, Histoire de la Science, page 664.)
[55] Comme
Lord Balfour l’a fait voit, dans la philosophie entièrement
sélectiviste, la seule preuve d’adaptation est la survivance, celui qui
est apte survit, et celui qui survit est apte. (W. Dampier, Histoire de
la Science, page 186.)
[56] C’est
ce que délare le professeur Culter de l’université de Chicago: «La plus
importante des objections que l’on puisse faire à la théorie de la
sélection naturelle c’est qu’elle est incapable de donner naissance à de
nouveaux caractères; elle ne fait qu’une sélection parmi des caractères
existants … (Dieu doit reconnu pour vrai, page 90.)
[57] La
drosophile… se reproduit au bout de dix jours et en l’espace de quatre
ans, elle donne autant de générations que l’humanité en a connu depuis
le pléistocène… (D’où vient l’Humanité, page 158.)
[58] Phong tuy độc, bất thích đồng quần,
Hổ tuy bạo, bất thực đồng khí.
蜂 雖 毒 不 刺 同 群, 虎 雖 暴 不 食 同 氣.
[59] Luận Ngữ Nhan Uyên đệ thập nhị: câu 15:
Tử viết: Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị.
子 曰: 君 子 成 人 之 美, 不 成 人 之 惡. 小 人 反 是.
[60] La
grande majorité des mutations, spontanées ou provoquées sont
tératologiques ou léthales (mortelles). (André Lamouche, La Destinée
Humaine, p.161.)
Hooton:
«Je suis effrayé de constater que de nombreux anthropologues (dont
moi-même) ont péché contre la science de la génétique et s’appuie sur un
roseau brisé lorsqu’ils se réfèrent aux mutations. Les données des
expériences les plus récentes faites dans le domaine de la génétique
semblent indiquer que la plupart des mutations sont nuisibles, beacoup
même fatales, et qu’elles sont dues en général au dépérissement.» (Que
Dieu soit reconnu pour vrai, pages 91-92)
[61] Les
Darwiniens ont tort quand ils rejettent la totalité du Lamarckisme. Les
Lamarckiens ont tort quand ils repoussent la totalité du darwinisme.
(André Cresson, Darwin, page 55)
[62] De
même que le transformisme de Lamarck peut se résumer en quelques mots:
C’est l’influence du milieu et du mode d’existence qui determine les
tranformations des être vivants, il n’y a aucune prédétermination dans
l’œuf; de même que la théorie de Darwin se ramène à la sélection
naturelle par survivance du plus apte; de même, la théorie de Weismann
s’éloignant des précédentes peut s’exprimer schématiquement de la façon
suivante: le développement des être vivants est essentiellement un
phénomène intrinsèque ne dépendant que de la structure prédéterminée de
l’œuf. Le milieu extérieur permet, favorise ou entrave le fonctionnement
de ce mécanisme mais il ne le dirige pas. La succession des phases du
développement découle simplement de la constitution initiale de l’œuf.
(L’Avenir de l’Esprit, pages 161-162)
[63] Cf. La Science moderne Le XX è siècle, page 715.
[64] Cf. Nguyễn Văn Đỉnh, Vạn vật học – Lớp Đệ Nhất, trang 479.
[65] Au
cours des trente premières années du XXè est apparu une floraison de
théories tentant d’expliquer l’évolution, au succès plus ou moins
éphémère et dont il ne subsiste pas grandchose: le psycho-lamarckisme de
Pauly (1905). L’entéléchie de Driesch, la conception organismique de
Von Bertalanfly (1928), l’holisme de Smuts (1916), la nomogénèse de L.
S. Berg (1922), l’ologénèse de D. Rosa (1909), l’aristogénèse d’Osborn,
l’apogénèse de H. Przibram (1920) l’allélogénèse de A. Labbé (1924) etc…
La Science moderne – Le XXè siècle page, 741.
[66] Cf. Henri Rousseau, Histoire de la Science, page 678-679.
[67] Un
jour, un docteur, du nom de Brass, fournit à Hœckel des diagrammes
authentiques, mais Hœckel les falsifia avant de les publier. Il devait
faire par suite la confession suivante: «Je commence par confesser
humblement qu’un certain nombre de mes diagrammes sont de véritables
contrefaçons aux yeux du Dr. Brass. Des centaines de meilleurs
zoologistes se sont rendus coupables du même délit (Allgemeine Zeitung
de Munich Janvier 1909)
Que Dieu soit reconnu pour vrai, page 84.
[68] D’où vient l’Humanité, page 43.
[69] Un
ouvrage récent (Encyclopédie des Farces, Attrapes et Mystifications, p.
303) met la théorie de l’évolutionisme à sa vraie place en signalant au
passage quelques faux célèbres depuis la mâchoire de Moulin Quignon
jusqu’à l’homme de Piltdown en passant par le Pithécanthrope de Java.
«Avant sa mort, le Dr. Dubois reconnut qu’il ne s’agissait que d’un crâne de gibbon et qu’il avait menti.
En
attendant, de 1895 à 1930, le monde savant avait pris le Pithécanthrope
au sérieux: pouvait-on se douter que c’était le savant docteur Dubois
qui mentait?» (Planète No. 18 page 10)
[70] Xem chú thích 1 trang 5 ở trên.
[71] Cf. Pierre Rousseau, Histoire de la Science, page 512-513.
[72] La
complication anatomique des animaux supérieurs, qui frappe
naturellement advantage, n’est pas plus étonnante que la complication
physiologique des êtres monocellulaires microscopiques. Les ciliés, par
exemple, (Le Diplodinium en particulier) possèdent un système digestif
rudimentaire avec oesophage et rectum tubulaire; un système nerveux
caractérisé par plusieurs particularités observées chez les métazoaires,
telles qu’un cerveau et un anneau circumoesophagique, et enfin un
système excrétoire… très complexe. Tout ceci dans une cellule unique.
(L’Avenir de l’Esprit, page 115)
[73] Reproduction asexuée par division binaire ou scissiparité.
[74] Reproduction asexuée avec réduction chromosomique.
[75] Nhất bản nhi vạn thù, vạn thù nhi nhất bản. 一 本 而 萬 殊 , 萬 殊 而 一 本 (大 洞 真 經)
Đại đỗng chân kinh, quyển thượng, trang 5.
[76] Réduite à elle-même l’Évolution serait l’acte sans puissance, ce qui est inconcevable. Ce serait le tout sorti du Rien.
«Si
la création s’était vraiment faite comme le prétendent Darwin et
surtout Hœckel, dit Keyserling, elle représenterait un miracle bien plus
grand que celui du mythe biblique de la création. (André Lamouche, la
Destinée Humaine, p.207)
[77] Ce
qu’aperçoivent le stoïcisme – que citait Saint Paul aux philosophes
d’Athènes: In ipso vivimus, et movemur et sumus – (en lui nous vivons,
et nous nous mouvons et nous somme) Plotin, Spinoza, aussi bien d’autre
part Hegel, c’est que pour Dieu la matière n’a pas d’existence
indépendante, car l’esprit absolu se reconnaît soi-même en tout.
(Science et matérialisme, page 30)
[78] «Coaction des fleurs et des insects»…
«Si
les insects floricoles disparaissaient du globe, il y aurait
disparition des espèces à entomophilie obligatoire, soit d’une centaine
de mille espèces. (André Lamouche, La Destinée Humaine, page 136)
[79] Il
(Cuénot) avoue qu’en face de certaines adaptations, l’hypothèse du
hasard est absurde et qu’il faut croire à un «pouvoir spirituel
d’invention, immanent au vivant, qui agit sur la matière comme l’idée de
l’artisan sur les matériaux qu’il utilise.» (Les Nouvelles Énigmes de
l’Univers, page 234)
[80] Dans
un Institute qui s’est proposé de fonder la biologie sur la
physico-chimie, le grand physiologiste, Charles Richet osa démontrer un
jour que la finalité est le propre de la biologie. (Les Nouvelles
Énigmes de l’Univers, page 260.)
[81] Pareillement,
L. Cuénot déclare contrairement à l’avis du Rabaud pour qui tout est
«quelconque», la nageoire est faite pour nager, l’aile pour voler, l’œil
pour voir.
(André Lamouche, La Destinée Humaine, p. 137.)
[82] Pour
Dognon comme pour L. Cuénot, l’esprit une fois pris dans l’engrenage
finaliste à partir de la finalité du monde vivant, est obligé, de proche
en proche, d’admettre la finalization du cosmos dans son ensemble.
(André Lamouche, La Destinée Humaine, p.149.)
[83] Un
chromosome de cellule humaine, 100.000 gènes. Chacun de ces gènes est
une molécule géante d’ADN (acide désoxyribonucléique) laquelle est
constituée de 10.000 barreaux différents. Ces molécules sont le magasin
de stockage des informations génétiques. (D’où vient l’Humanité, page
223.)
…
Il s’avéra que les mutations n’étaient en principe rien d’autre que des
bonds analogues aux quanta. On commenca à comparer la processus se
déroulant à l’intérieur d’un chromosome avec ceux qui se produisent à
l’intérieur d’un atome. Et lorsque les physiciens atomiques essayèrent
de faire dévier les électrons pour changer la nature des atomes, les
généticiens essayèrent de faire dévier les gènes des chromosomes pour
changer la masse héréditaire … L’homme n’a pas seulement réussi la
fission de l’atome, il sait aussi, à l’aide de rayons hertziens, et de
poisons chimiques influencer le germen de ses cobayes et créer des
individus inconnus jusque là. (D’où vient l’Humanité, page 159.)
[84] Le
facteur psychique de Larmarck: … «Lorsque la volonté détermine un
animal à une action quelconque, les organes qui doivent exécuter cette
action y sont aussitôt provoqués par l’affluence des fluides subtils (le
fluide nerveux)… Il en résulte que des répétitions multipliées de ces
actes d’organisation fortifient, étendent, développent et même créent
les organes qui y sont nécessaires. Ailleurs, il parle des «efforts du
sentiment intérieur» … (Lamarck) (Les Nouvelles Énigmes de l’Univers,
page 237.)
…
Cette conception implique l’existence, dans toute l’échelle de la
nature, d’un principe psychique qui n’est ni l’ancienne force vitale,
intermédiaire entre les forces brutes et l’intelligence ni, la
providence divine, mais bien plutôt une force créatrice et
organisatrice, indifférente au sort des individus et à leurs lois
morales. Deux grandes philosophies étrangères à toute idée thélologique
ont reconnu cette force sous des noms différents: le Vouloir vivre ou
Volonté de Schopenhauer, et l’Elan vital de Bergson… (Ib. 274.)
[85] Il
(Schopenhauer) l’aurait ajouté à la liste de ceux qui «n’ayant pu
trouver l’entrée d’un château, se contentent d’en dessiner la façade».
En
rentrant en soi-même, ou découvre immédiatement cette force familière
qui anime tous les être vivants et qui les affecte sous les noms de
plaisirs, et de douleurs: C’est l’intérieur du château. La façade, ce
sont les aspects de l’univers que nous découvrent les sens, nous ne
percevons alors que les choses qui remuent et qui changent, sans
comprendre le resort caché qui les fait remuer et changer. A ce principe
nous devons l’existence, nous n’en sommes que les «objectivations»
c’est-à-dire les manifestations visibles et tangibles. (Les Nouvelles
Énigmes de l’Univers, page 275.)
[86] Le
secret de la similitude, de la continuité et de la progressivité du
monde vivant, dans sa diversité stratifiée est plus profondément enfoui
dans l’infrastructure du Cosmos.
(André Lamouche, La Destinée Humaine, page 16.)
[87] Par
la foi, nous comprenons que les mondes ont été formés par une parole de
Dieu, de sorte que ce que l’on voit provient de ce qui n’est pas
apparent. (Hébreux 11; 2)
[88] L’action
divine est actuellement présente de l’atome à l’étoile, du minéral à
l’humain et partout, analogiquement, elle favorise l’union… (Jean
Onimus, Pierre Teilhard de Chardin (Plon), page 108.)
…
Le Père Teilhard a vu l’autre face de l’Etoffe cosmique, la face
«intérieure» où règnent les forces de synthèse qui sont les forces
spirituelles, les forces créatrices… (Ib. page 90.)
[89] Chí
đạo trùng huyền; hạo hạo, đãng đãng, lý vô đẳng luân, tàng chi tắc vi
nguyên tinh, dụng chi tắc vi vạn linh; xá chi tắc vi Thái nhất, phóng
chi tắc vi Thái thanh.
(Thái thượng xích văn đỗng cổ kinh chú, trang 1)
至 道 重 玄; 浩 浩, 蕩 蕩, 理 無 等 倫, 藏 之 則 為 元 精, 用 之 則 為 萬 靈; 舍 之 則 為 太 一, 放 之 則 為 太清. (太 上 赤 文 洞 古 經 註 )
… Minh vô tướng ư hữu hình chi hậu…
明 無 相 於 有 形 之 後
Đỗng huyền linh bảo định quan kinh chú, trang 3.
[90] La
science la plus sérieuse, la physique, arrive à la conclusion que le
réel du savant n’est qu’une mince pellicule qui recouvre la vraie
réalité. Les vagues ne sont pas l’océan, mais l’océan existe. Le
professeur Wheeler, dans son ouvrage Topics of modern physics, montre
que le véritable océan, la réalité essentielle, est composé de
tourbillons extrêmement petits et de dimensions différentes. Ces
tourbillons sont tous plus petits qu’une longueur d’onde fondamentale:
L = 1, 6.10 -33 cm.
Planète No 19 page 48
[91] Ce
monde des tourbillons qui constitue le véritable réel porte des noms
divers suivant les savants qui l’ont étudié. On peut l’appeler à volonté
«océan de Dirac», «milieu subquantique» de Louis de Broglie, Bohn et
Vigier, «espace topologique spécial» de Wheeler… (Ib. page 48)
[92] La
conclusion qui se dégage de cet analyse est la suivante: l’évolution
est un fait, le transformisme est une hypothèse des plus douteuses
qu’aucune donnée expérimentale ne prouve et que beaucoup contredisent.
(André Lamouche, La Destinée Humaine, page 167)
…
L’évolution au sens strict est la constatation du fait que, dans le
passage graduel de la nébuleuse à l’homme, on peut classer les diverses
structures – types du monde sensible suivant une échelle de complexité
structurale croissante. (Ib. page 162)
… L’idée d’evolution… est d’abord celle de la parenté universelle des êtres vivants.
L’évolution est d’abord une transformation des espèces, un transformisme»…
Mais
pour les successeurs de Buffon, à commencer per Lamarck, elle est
quelque chose de plus, à savoir, un progrès. (Les Nouvelles Énigmes de
l’Univers, page 215)
[93] Le
professeur Watson, de l’université de Londres déclara pour sa part:
«L’évolution elle-même est acceptée par les zoologistes, non pas
tellement pour avoir été effectivement observée ou (parce qu’elle) peut
être prouvée et reconnue pour vraie grâce à un raisonnement logique et
cohérent, mais parce que la seule alternative, c’est-à-dire la création
directe est évidemment inimaginable. (Que Dieu soit reconnu pour vrai,
page 94)
[94] Selon
le Dr. Calman du British Museum, les hommes de science déclarent
l’accepter «comme une arme commode leur permettant de se mesurer avec
les fondamentalistes». (Que Dieu soit reconnu pour vrai, page 94)
[95] En
1864 éclata la bombe du Syllabus… Une indiscrétion le rendit public, et
il fut aussitôt regardé comme une déclaration de guerre du Pape Pie IX à
la société moderne. Alors les libéraux soulevés par les sociétés
secrètes… jetèrent feu et flamme. Un immense cri de colère monta contre
l’Eglise, et l’on amena sur le terrain la plus puissante machine de
guerre dont on pût disposer, le transformisme. (Pierre Rousseau,
Histoire de la Science, pages 672-673)
…
De cette révolution, on apprécia toute l’ampleur quand le darwinisme
eut consolidé ses positions et que le concile oecuménique de 1870 eut,
comme disait Hœckel, «lancé l’anathème à la science». Que les savants le
voulussent ou non, le transformisme… avait déjà quitté le pur domaine
de la recherche pour devenir un système de philosophie. (Ibid. page 685)
[96] A
moins qu’il n’y ait pas d’évolution du tout, trancha en 1929, Louis
Vialleton (1861-1930). En tout cas, il n’y a de formes intermédiaires:
la preuve c’est que les arbres généalogiques des espèces vivantes
présentent des rameaux parallèles que l’on ne peut que bien rarement
rattacher à un tronc commun. Le transformisme c’est une illusion.
(Pierre Rousseau, Histoire de la Science, page 739)
[97] A
vrai dire, je crois que l’évolutionnisme est un credo une philosophie
de l’homme blanc destinée à lui garder bonne conscience ses agressions,
ses oppressions, ses crimes. En fait, rien ne vient étayer l’évolution
présentée comme un dogme. Nous sommes au cœur d’un faux scientifique
géant… (Jean Scrviers, professeur d’ethnologie et de sociologie à la
Faculté de Montpellier). Planète No 18, page 10.
[98] …
L’Encyclopédie française, par la plume d’un notable géologue qui fut
directeur du Directeur du Muséum, Paul Lemoine, termine l’ouvrage de
cette belle enterprise consacré aux êtres vivants (1938) en déclarant
que la théorie de l’évolution «semble à la veille d’être abandonnée». Et
il ne craint pas d’avancer: «L’évolution est une sorte de dogme auquel
les prêtres ne croient plus mais qu’ils maintiennent pour leur peuple.
(Les Nouvelles Énigmes de l’Univers, page 220)
[99] Il
est assez souvent admis que l’évolution est une montée progressive vers
cette «conscience réflechie» dont parlait Teilhard de Chardin. Ce qui
fait apparaître l’homme comme un «Himalaya» d’infinie patience de la
nature. (D’où vient l’Humanité, pages 131-192)
[100] En
nous tiennent trente millions de siècles de barbotage au fond des
océans, d’efforts, d’efforts inouis par dominer le milieu, de
trouvailles de génie, ou de reptations laborieuses, de poussées
démentielles et de retours à la sagesse. Pendant trois milliards
d’années, la vie s’est cherchée, pour s’accomplir enfin en nous. Cette
vision des choses – très satisfaisante pour l’esprit humain – n’est
malheureusement qu’une hypothèse. Rien qu’une hypothèse. (D’où vient
l’Humanité, page 192)
[101] Faut-il
avec Bertrand Russell renoncer à chercher cette explication en
déclarant: «Je pense que l’Univers est fait de lambeaux et de sauts,
qu’il n’y ait ni unité, ni continuité, ni ordre, ni cohérence.» (André
Lamouche, La Destinée Humaine, p.174)
[102] Faut-il
admettre au contraire avec James Jeans, que l’univers est «de nature
spirituelle et que l’esprit n’apparaî plus comme un intrus dans le
royaume de la matière. (Ib. page 174)
[103] Mens agitate molem (L’Esprit meul la masse)
Commencement
d’un vers de Virgile (Eneide, VI, 727), placé dans une explication
panthéistique et stoïcienne du monde et significant qu’un principe
spirituel anime l’univers. (Xem Larousse, phần giấy đỏ)
…
Matière et Esprit, écrit le Père Teilhard en 1950, non point deux
choses, mais deux états, deux faces d’une même étoffe cosmique suivant
qu’on la regarde ou qu’on la prolonge dans le sens où elle se fait ou au
contraire dans le sens suivant lequel elle se défait. (Jean Onimus,
Teihard de Chardin ou La Foi au Monde, page 81)
[104] …
Voici en effet qu’avec la théorie de l’évolution, nous sommes amenés à
reconnaître selon les termes mêmes de Julian Huxley… «l’existence d’une
matière évolutive universelle contenant les potentialités de l’esprit.»
(Science et Matérialisme, page 10)
Ainsi
donc pour P. Teilhard il existe à l’origine de l’univers une seule et
même énergie première, de nature essentiellement psychique; mais cette
énergie présente un aspect ambivalent: elle se révèle à nous sous le
double aspect matériel et spiritual… (George Magloire & Hubert
Cuypers, Teilhard de Chardin, pages 13-139)
[105] Si
l’on tient compte ce notre ignorance, si on la mesure en toute
hommêteté et sans aucun parti pris, on en arrive à l’étrange conclusion
que notre croyance dans l’évolution est pour le présent d’origine
intuitive, métaphysique, pourrait-on dire, plutôt que scientifique.
(L’Avenir de l’Esprit, page 118)
[106] Les
être sont non-manifestés en leur commcement, manifestés au milieu, ô
Bhârata; non-manifestés sont-ils dans la désintéfration. (La Bhagavad
Gita interprétée par Shri Aurobindo. Chap. II, pages 28-50)
[107] Ainsi
se constituait toute une échelle de la Nature Naturante perpétuellement
en mouvement, en devenir, en puissance latente d’ascesion, où Max
Muller, et, après lui, Vivekananda, ont pu reconnaître origins de
l’Evolutionnisme. (Romain Rolland, Vie de Ramakrishna, page 76)
[108] Elle
(l’âme) s’oriente ainsi vers la perception de l’unité fondamentale de
la vie, en dépit de la multiplicité des formes… (Etudes psychologiques
de Carl G. Jung à J. Krishnamurti, page 11)
[109] L’évolution récente de la physique et de biologie nous montre à quel point tout dans l’univers est solidaire du tout.
Les
lois d’interdépendance et d’interaction nous forcent de plus en plus à
considérer les ancienmes notions d’isolement comme excessives et
arbitraries. (Ib. page 22)
[110] A
ce sujet, nous pourrions dire que le monde extérieur avec sa
multiplicité d’apparences est construit sur un monde intérieur plus
homogène. Ceci est déjà vrai en physique. L’infiniment grand repose sur
l’infiniment petit.
Les
aspects extérieurs de l’univers interviennent à titre second et dérivé
devant les aspects intérieurs d’un énergie qui forme la base unique et
l’aliment essential des chose et des êtres.
Ainsi
que l’exprime Jung, le conscient, plus extérieur, n’est qu’un rejeton
tardif de l’inconscient. (Etudes psychologiques de C. G. Jung à J.
Krishnamurti, page 65.)
[111] «L’un
sans second, l’irremplaçable trésor demeurant enfoui au cœur de toute
existence, exstant par lui-même, complet en lui-même, au delà de tout
devenir, suprêmement incréé, sans commencement ni fin.» (Védanta) (Cf.
Etudes psychologiques du C.G. Jung à J. Krishnamurti, page 78)
[112] La
théorie de l’évolution porte cette marche synthétique un pas plus loin
et découvre une unité sous-jacente dans toute la création organique. La
vie est une manifestation de ce phénomène cosmique. Depuis la simple
celle de protoplasma jusqu’à cette structure infiniment complexe,
terriblement et merveilleusement fait, que nous appelons l’homme, la vie
est enserrée de toutes parts par les liens de l’évolution. (W. Dampier,
Histoire de la Science, page 380)
0 comments
Post a Comment