V. TÂM LÝ HỌC: SỰ TIẾN HOÁ CỦA TÂM TRÍ
Hai tác phẩm về Nguyên tắc tâm lý học
(1873) là những dây nối yếu ớt nhất trong sợi dây xích của Spencer.
Trước đấy ông đã có một tác phẩm về đề tài này (1855) bênh vực với sự
hăng hái trẻ trung thuyết duy vật và thuyết tất định; nhưng về sau ông
đã duyệt lại tác phẩm ấy thành một hình thức ôn hoà hơn và đệm thêm hàng
trăm trang phân tích công phu những không rọi sáng gì thêm. Ở đây, còn
hơn ở chỗ khác, Spencer tỏ ra dồi dào về lý thuyết nhưng sút kém về
chứng cứ. Ông có một lý thuyết về nguồn gốc của thần kinh do từ màng tế
bào liên kết; một lý thuyết về căn nguyên của bản năng do sự phối hợp
những phản xạ và sự lan truyền những tính cách tập thành; một lý thuyết
về khởi thuỷ của những phạm trù tâm thức do kinh nghiệm của giống nòi;
một lý thuyết về "duy thực biến dạng" (Spencer muốn nói rằng mặc dù
những đối tượng kinh nghiệm rất có thể bị biến dạng qua tri giác, chúng
ta vẫn có một thực hữu vốn không hoàn toàn lệ thuộc vào sự tri giác (II,
494); và một trăm lý thuyết khác, tất cả đều có cái năng lực "làm thành
khó hiểu" của siêu hình học hơn là đức tính giải minh của một nền tâm
lý học thực tiễn. Trong những tác phẩm này, chúng ta giã từ Anh quốc duy
thực và đi "trở về Kant".
Điều làm ta
chú ý ngay tức khắc là, lần đầu tiên trong lịch sử tâm lý học, ở đây
chúng ta gặp một quan điểm tiến hoá nhất định, một cố gắng giải thích
căn nguyên, một nỗ lực truy tầm từ những phức tạp rối ren của tư tưởng
xuống đến vận hành đơn giản nhất của thần kinh, và cuối cùng đến những
chuyển động của vật chất . Thật ra nỗ lực này thất bại, nhưng có ai đã
từng thành công trong một nỗ lực như thế ? Spencer khởi hành với một
chương trình vĩ đại mong vén bức màn bí mật về những quá trình theo đó ý
thức đã tiến lên; song rốt cùng ông bị buộc lòng phải đặt ý thức ở khắp
nơi (Tự thuật, tr. 549), để thăng tiến nó. Ông nhấn mạnh rằng đã
có một sự tiến hoá liên tục từ tinh vân cho đến tâm thức, và cuối cùng
thú nhận rằng vật chất chỉ được biết qua tâm thức. Có lẽ những đoạn ý
nghĩa nhất trong những cuốn này là những đoạn trong đó triết học duy vật
bị bỏ rơi.
"Có thể nào
biểu hiện trong tâm thức sự dao động của một phân tử bên cạnh một cơn
kích động thần kinh và cả hai hiện tượng được xem như một hay không ?
Không một nỗ lực nào có thể giúp ta đồng hoá chúng được. Sự kiện rằng
một đơn vị cảm giác không liên can gì đến một đơn vị chuyển động, trở
thành rõ rệt hơn bao giờ hết khi chúng ta đặt hai cái kề nhau. Và bản án
ấy của ý thức có thể được biện minh bằng phân tích...; vì ta có thể
chứng minh rằng khái niệm về một phân tử dao động là do nhiều đơn vị cảm
giác tạo thành" (Có nghĩa rằng tri thức của ta về vật chất được tạo
thành do những đơn vị tâm thức - cảm giác, ký ức, tư tưởng )... "Nếu
chúng ta bị bắt buộc phải chọn lựa giữa hai trường hợp : hoặc giải thích
hiện tượng tâm lý bằng hiện tượng vật lý, hoặc giải thích hiện tượng
vật lý bằng hiện tượng tâm lý, - thì trường hợp thứ hai hình như dễ chấp
nhận hơn" (Nguyên tắc tâm lý học, NY. 1910, i, 158-9).
Dù sao, vẫn có
một sự tiến hoá của tâm thức; một sự phát triển của những cách thế phản
ứng từ đơn sơ đến kép rồi phức tạp, từ phản xạ đến hướng động rồi bản
năng, qua ký ức và tưởng tượng đến trí năng và lý trí. Đối với người đọc
trôi được suốt 1400 trang phân tích sinh lý và tâm lý này, y sẽ cảm
nghiệm một ý thức tràn trề về sự liên tục của sự sống và tâm thức; y sẽ
thấy như trên một phim ảnh quay chậm, sự thành hình của thần kinh, sự
phát triển của những phản xạ thích ứng và những bản năng, thấy sự sản
xuất ra ý thức và tư tưởng qua sự va chạm của những động lực xung đột
nhau: "Trí thông minh không có những cấp bực riêng biệt rõ ràng, nó cũng
không phải được cấu tạo bởi những khả năng thực sự độc lập, mà những
biểu hiện cao nhất của nó là những kết quả của một phức tính phát sinh
từ những yếu tố đơn giản nhất" (I, 388). Kant có khe hở giữa bản năng và
lý trí; mỗi cái là một sự thích ứng giữa những tương quan nội tại với
những tương quan ngoại giới, và dị biệt độc nhất là dị biệt về cường độ,
nghĩa là những tương quan do bản năng ứng phó thì tương đối giống nhau
và đơn giản, còn những tương quan do lý trí đương đầu thì tương đối mới
mẻ và phức tạp. Một hành động thuần lý chỉ là một ứng phó bản năng đã
sống sót trong một cuộc tranh đấu với những ứng phó bản năng khác do
hoàn cảnh thúc đẩy; "suy xét cân nhắc" chỉ là cuộc hỗn chiến tương sát
giữa những động lực đối nghịch nhau (I, 453 - 5). Tự căn để, lý trí và
bản năng, tâm thức và sự sống, chỉ là một.
Ý chí là một
từ ngữ trừu tượng chúng ta đặt cho toàn thể những động lực đang hoạt
động của ta, và một ý muốn là sự tuôn chảy tự nhiên của một ý tưởng vào
hành động. Một ý tưởng là giai đoạn đầu của một hành động bản năng, và
sự diễn đạt cảm xúc là một tiền đề hữu ích cho sự ứng phó được hoàn tất.
Sự nghiến răng trong cơn giận ám chỉ rất nhiều đến sự xé xác kẻ thù ra
từng mảnh, việc ấy thường là kết thúc tự nhiên của một khởi đầu như thế
(I, 482). "Những hình thái của tư tưởng như tri giác về không gian và
thời gian, hay những ý niệm về số lượng và nguyên nhân, mà Kant cho là
bẩm sinh, thật ra chỉ là những lối tư duy theo bản năng; và bởi vì bản
năng là thói quen do nòi giống tập thành nhưng lại bẩm sinh nơi cá thể,
nên những phạm trù này là những thói quen tinh thần đã được tập thành
dần dần qua dòng tiến hoá, và bây giờ trở thành một phần trong di sản
tri thức của chúng ta. Tất cả những bí ẩn lâu đời này của tâm lý học đều
có thể được giải thích bằng "sự thừa hưởng những biến thái không ngừng
tích tụ thêm" (I, 491). Dĩ nhiên chỉ vì một giả thuyết vơ đũa cả nắm này
mà khiến cho phần khá lớn của những pho sách công phu kia trở thành khả
nghi, và có lẽ thành vô hiệu.
VI. XÃ HỘI HỌC : TIẾN HOÁ CỦA XÃ HỘI
Với xã hội
học, bản án lại khác hẳn. Những pho sách dày cộm này, ấn loát trên hai
mươi năm, là kiệt tác của Spencer: chúng bao gồm lãnh vực ông yêu
chuộng, và cho ta thấy ông xuất sắc nhất về phép quy nạp gợi ý và về
triết lý chính trị. Từ cuốn sách đầu của ông Tĩnh học về xã hội (Social
Statics) cho đến tập cuối của bộ Nguyên lý xã hội học, qua một khoảng
thời gian dài gần nửa thế kỷ, lãnh vực chú ý của phần lớn là về những
vấn đề kinh tế và chính trị; ông bắt đầu và kết thúc, như Platon, bằng
những luận bàn về công bằng đạo đức, công bằng chính trị. Chưa có người
nào, kể cả Comte (nhà sáng lập khoa học xã hội và đặt ra tên gọi này) đã
từng làm được nhiều thành tích như thế cho xã hội học.
Trong cuốn dẫn nhập rất phổ thông, Nghiên cứu xã hội học
(1873), Spencer lý luận rất hùng hồn cho việc thừa nhận và phát triển
nền khoa học mới mẻ này. Nếu thuyết tất định là đúng trong tâm lý học,
thì phải có những quy tắc về nhân quả trong những hiện tượng xã hội, và
một học giả rốt ráo về con người và xã hội sẽ không thoả mãn với một
lịch sử chỉ thuần ghi niên đại như của Livy, cũng không thoả mãn với một
lịch sử ghi tiểu sử của Carlyle; mà sẽ tìm trong lịch sử con người
những nét đại cương của sự phát triển, những chuỗi nhân quả, những mối
tương quan rọi thêm ánh sáng, biến đổi tình trạng sơ khai hoang dã của
những sự kiện thành bản đồ của khoa học. Sinh vật học liên hệ với nhân
chủng học thế nào thì sử học cũng liên hệ đến xã hội học như thế ấy (Nghiên cứu xã hội học,
NY. 1910, tr.52). Dĩ nhiên còn có một ngàn chướng ngại vật mà công cuộc
nghiên cứu về xã hội phải vượt qua trước khi nó có thể xứng đáng tên
gọi "khoa học" (Nguyên lý đạo đức, NY, 1910, i, 464) (Nếu những
nhà phê bình Spencer đã đọc đoạn này thì họ không đến nỗi đã lên án ông
ta đánh giá quá mức xã hội học). Nền nghiên cứu mới mẻ này bị quấy rối
bởi nhiều thành kiến - thành kiến cá nhân, giáo dục, thần học, kinh tế,
chính trị, quốc gia, tôn giáo; và bởi sự "toàn trí" dễ dãi của người
thường (tự cho mình cái gì cũng biết). "Có một chuyện về một người Pháp,
sau khi ở Anh ba tuần, muốn viết một cuốn sách về Anh quốc; nhưng sau
ba tháng, y nhận thấy mình chưa sẵn sàng lắm, và ba năm sau, y kết luận
rằng y không biết tí gì về Anh quốc cả" (Nghiên cứu, tr. 9). Một
người như thế chính là kẻ sẵn sàng để bắt đầu nghiên cứu xã hội học.
Người ta chuẩn bị nghiên cứu cả đời trước khi trở thành những người có
thẩm quyền về vật lý hay hoá học, hay sinh vật học; nhưng trong lãnh vực
những sự việc xã hội và chính trị, một cậu bé chạy hiệu cho ngành bán
thực phẩm cũng là một nhà chuyên môn, biết rõ giải pháp, và đòi người ta
phải nghe mình.
Sự chuẩn bị
của Spencer trong trường hợp này, là một mẫu mực về lương tâm tri thức.
Ông mướn ba thư ký để thâu lượm dữ kiện và sắp loại chúng thành những
cột song song, ghi định chế gia đình, giáo hội, nghề nghiệp, chính trị
và kỹ nghệ của mọi dân tộc quan trọng. Ông bỏ tiền túi ra ấn hành những
tập này thành tám pho lớn, để thay đổi những học giả khác có thể kiểm
chứng hoặc thay đổi những kết luận của ông ; và vì khi ông chết việc ấn
loát cũng chưa xong, nên ông đã để lại một phần số tiền dành dụm ít oi
của ông để hoàn tất công việc đó. Sau bao năm chuẩn bị, cuốn đầu của bộ
Xã hội học ra đời năm 1876; cuốn cuối mãi đến năm 1896 mới hoàn thành.
Khi mọi thứ khác của Spencer đã trở thành một công việc cho người khảo
cổ, ba pho sách này sẽ vẫn còn đầy bổ ích cho mọi người nghiên cứu về xã
hội.
Tuy thế, quan
niệm đầu tiên diễn đạt trong tác phẩm cũng là điển hình của thói quen
Spencer ưa nhảy bổ vào những lối quy nạp. Xã hội, theo ông, là một cơ
thể, có những cơ quan dinh dưỡng, tuần hoàn, tổ chức và sinh sản rất
giống trong trường hợp cá nhân. Đành rằng trong cá nhân, ý thức được
định xứ, trong khi ở xã hội mỗi phần tử của nó vẫn giữ lại ý thức và ý
chí riêng; nhưng sự tập trung của cai trị và quyền hành làm giảm bớt tầm
khác biệt này. "Một cơ thể xã hội giống hệt một cơ thể cá nhân ở những
điểm cốt yếu này: nó tăng trưởng, và trong khi tăng trưởng nó trở thành
phức tạp hơn, những phần tử của nó có sự hỗ tương phụ thuộc càng ngày
càng tăng; đời sống của nó bao la về bề dài so với đời sống của những
đơn vị tạo thành nó ... và trong cả hai trường hợp, sự phối hợp càng
phức tạp thì dị tính càng tăng" (Tự thuật, tr.56).Như vậy sự phát
triển của khoa học đã thi hành rộng rãi công thức của tiến hoá : tầm
vóc lớn dần của đơn vị chính trị, từ gia đình đến quốc gia và liên minh;
tầm vóc lớn dần của đơn vị dân cư, từ làng mạc đến thành phố và đô thị
-chắc chắn những điều này chứng tỏ một quá trình phối hợp; trong khi sự
phân công, sự tăng bội những nghề nghiệp và tài khéo, và sự hỗ tương lệ
thuộc ngày càng tăng về phương diện kinh tế giữa đô thị và thôn quê,
giữa nước này với nước khác, đã chứng minh rõ rệt quá trình của sự kết
hợp và sự phân tán.
Cùng một
nguyên lý ấy -nguyên lý phối hợp- cũng áp dụng cho mọi lĩnh vực của hiện
tượng xã hội, từ tôn giáo, chính quyền đến khoa học và nghệ thuật. Tôn
giáo ban sơ là sự thờ phụng một số đông thần và quỷ, hao hao tương tợ
nhau ở mọi xứ, và sự phát triển của tôn giáo bắt nguồn từ ý niệm về một
vị thần trung ương và toàn quyền, hạ những vị khác xuống và tổ chức họ
thành một hệ thống thần linh giữ những vài trò đặc biệt. Những vị thần
đầu tiên có lẽ là do mộng mị và ma quỷ khởi ra (Nguyên lý xã hội học,
NY, 1910, i, 286). Danh từ "Spirit" (linh hồn) trước kia và bây giờ,
được áp dụng vừa cho quỷ vừa cho thần. Tâm thức sơ khai tin rằng trong
khi chết hay ngủ, hay hôn mê, con ma hay linh hồn rời khỏi thể xác; ngay
cả khi hắt hơi, sức mạnh của hơi thở ra có thể xua linh hồn ra khỏi
xác, cho nên một câu "Lạy mụ" -hay câu tương đương- trở thành gắn liền
với cuộc phiêu lưu nguy hiểm đó. Tiếng vang và bóng phản chiếu là những
âm thanh và hình ảnh của linh hồn người ta, hay phó bản của con người;
anh chàng Basuto không chịu đi cạnh một dòng suối, sợ một con cá sấu có
thể bắt lấy bóng mình mà ăn thịt. Khởi thuỷ, Thượng đế chỉ là "một linh
hồn sống trường cửu" (I, 296). Người ta tin rằng những người đã từng có
thế lực trong khi sống sẽ giữ nguyên thế lực trong bóng ma của họ. Nơi
những người Tannese, danh từ để chỉ thần linh có nghiã đen là một người
chết (I, 303) "Jehovah" có nghĩa là "người mạnh mẽ" "người chiến sĩ": kẻ
nào khi chết được thờ phụng như là "Thượng đế của những chủ nhân" có lẽ
khi sống đã là một vị lãnh chúa. Những linh hồn nguy hiểm như thế phải
được vỗ về an ủi: đám ma trở thành sự thờ phụng, và mọi cách thế xin ân
huệ nơi người chủ khi sống được áp dụng vào nghi lễ cầu xin và làm lắng
dịu những thần linh. Tài lợi của giáo hội là do ở tặng phẩm cho những
thần linh, cũng như lợi tức quốc gia khởi đầu là những quà tặng cho
những vị lãnh đạo. Sự vâng lời những vị vua trở thành sự quỳ lạy và cầu
nguyện nơi bàn thờ thượng đế. Sự kiện theo đó thượng đế bắt nguồn từ ông
vua đã chết, được chứng minh rõ rệt trong trường hợp những người La Mã;
những người cai trị của họ được phong thần trước khi chết. Mọi tôn giáo
dường như đều bắt nguồn từ sự thờ tổ tiên như thế. Mãnh lực của tục lệ
này có thể được chứng minh bằng câu chuyện một người tộc trưởng không
chịu rửa tội vì không thoả mãn với câu trả lời cho câu hỏi y đặt ra là: y
có sẽ gặp những tổ tiên chưa rửa tội của y ở thiên đàng không ? (I,
284, 422; Bách khoa Anh, mục "Ancestor worship") (Tin tưởng này có phần
nào giống với sự can đảm của người Nhật trong cuộc chiến tranh 1905; họ
chết dễ dàng hơn khi nghĩ rằng tổ tiên họ đang ở trên trời nhìn xuống
họ).
Tôn giáo có lẽ
là nét chủ chốt trong sinh hoạt của con người sơ khai; sự sống quá mong
manh và bé nhỏ đối với họ đến nỗi linh hồn sống bằng hy vọng đời sau
hơn là với thực tại trước mắt. Trong một mức độ nào đó, tôn giáo siêu
nhiên là một yếu tố theo liền những xã hội quân phiệt, khi chiến tranh
nhường chỗ cho kỹ nghệ, tư tưởng xoay chiều từ sự chết đến sự sống, và
cuộc sống thoát khỏi những hủ tục thờ phụng thần quyền để bước vào con
đường khoáng đạt của sáng kiến và tự do. Quả vậy sự biến đổi có ảnh
hưởng sâu xa nhất đã xảy ra trong khắp lịch sử của xã hội tây phương là
sự thay thế từ từ chế độ quân sự bằng chế độ kỹ nghệ. Những nhà nghiên
cứu về quốc gia thường xếp hạng siêu hình tuỳ theo chính thể là quân
chủ, quý tộc hay dân chủ; nhưng sau đây là những phân biệt nông cạn, con
đường phân chia lớn nhất là con đường từ tách rời những xã hội quân
phiệt khỏi những xã hội kỹ nghệ, tách rời những quốc gia sống bằng chiến
tranh khỏi những quốc gia sống bằng công việc.
Quốc gia quân
phiệt luôn luôn tập trung vào chính quyền và gần như luôn luôn theo kiểu
quân chủ; sự hợp tác ở đây có tính cách tập đoàn và cưỡng bách; nó
khuyến khích nền tôn giáo thần quyền, thờ phụng một thượng đế hiếu
chiến; nó phát triển sự phân biệt giai cấp và luật lệ của giai cấp; nó
đề cao sự chuyên chế của giống đực trong thiên nhiên và trong nhà. Bởi
vì tỉ số tử vong trong những xã hội chiến tranh lên rất cao nên những xã
hội này thiên về chế độ đa thê và quy chế thấp kém cho phụ nữ. Phần lớn
các quốc gia đã trở thành hiếu chiến vì chiến tranh tăng cường quyền
hành trung ương và đưa đến sự lệ thuộc mọi quyền lợi quốc gia. Do đó,
"lịch sử không hơn gì cuốn lịch Newgate của các quốc gia" [1],
một sổ ghi những chuyện giết người cướp của, phản bội và sự tự sát của
các quốc gia. Việc ăn thịt người là điều đáng hổ thẹn nơi những xã hội
sơ khai; nhưng nhiều xã hội tân tiến lại ăn thịt xã hội, làm nô lệ và
thôn tính trọn ổ những dân tộc. Khi chiến tranh chưa bị loại ra khỏi
vòng pháp luật, chưa được chế phục, thì văn minh chỉ là một giai đoạn xã
hội mong manh giữa những cuộc đại hoạn; "một quốc gia muốn có trình độ
xã hội cao thì cốt yếu là phải chấm dứt chiến tranh" (II, 663).
Mối hy vọng về
một sự kiện toàn như thế không phải nằm ở sự cải hoá trái tim con người
(bởi vì con người là những gì do hoàn cảnh tạo nên) mà trong việc phát
triển những xã hội kỹ nghệ. Kỹ nghệ chuẩn bị chiến tranh thống trị, thì
một ngàn trung tâm phát triển kinh tế sẽ mọc lên và quyền lực được ban
bố khắp cho một số lớn những phần tử trong đoàn thể. Vì sự sản xuất chỉ
thịnh vượng ở nơi nào được tự do sáng tạo, nên một xã hội kỹ nghệ đập
tan những truyền thống của thần quyền, giai tầng, đẳng cấp những thứ
phát triển rất mạnh trong những quốc gia quân phiệt; những thứ nhờ đó
quốc gia quân phiệt phát triển. Nghề làm quân nhân không còn được xem
trọng; và lòng ái quốc trở thành lòng yêu xứ sở mình hơn là sự thù ghét
mọi quốc gia khác (II, 634-5). Sự thanh bình nội bộ trở thành nhu yếu
đầu tiên của sự phồn thịnh, và vì tư bản trở thành quốc tế, và một ngàn
vụ đầu tư vượt khỏi mọi biên giới, nên sự hoà bình quốc tế cũng trở
thành một nhu yếu nữa. Khi chiến tranh bên ngoài giảm xuống, sự tàn bạo
trong nhà cũng giảm; chế độ độc thê thay thế cho chế độ đa thê vì tuổi
thọ của đàn ông gần bằng của đàn bà; quy chế cho đàn bà được nâng cao,
"sự giải phóng phụ nữ" trở thành điều tất nhiên (I, 681). Những tôn giáo
mê tín nhường chỗ cho những đức tin phóng khoáng tập trung nỗ lực vào
việc cải thiện và thăng hoa sự sống cùng nhân cách con người trên mặt
đất. Cơ cấu của vũ trụ, và ý niệm về chuỗi liên tục bất biến về nhân
quả; sự truy tầm chính xác những nguyên nhân thiên nhiên thay thế cho
việc viện dẫn lối giải thích siêu nhiên (II, 599). Lịch sử bắt đầu
nghiên cứu những con người đang làm việc hơn là những ông vua đang đánh
giặc; nó không còn là một sổ ghi chép những nhân vật mà trở thành lịch
sử của những phát minh vĩ đại, những tư tưởng tân kỳ. Uy lực của chính
quyền giảm xuống, có một sự chuyển hướng "từ quy chế đến khế ước", từ
bình đẳng trong lệ thuộc đến tự do trong sáng kiến, từ sự hợp tác cưỡng
bách đến hợp tác tự do. Sự tương phản giữa những mẫu xã hội chiến tranh
và xã hội kỹ nghệ được biểu thị bằng "sự đảo ngược từ niềm tin cá nhân
sống cho quốc gia trở thành niềm tin quốc gia tồn tại vì lợi ích cá
nhân" (I, 575).
Trong khi vẫn
cực lực phản đối việc bành trướng của chế độ quân phiệt đế quốc ở Anh,
Spencer đã chọn xứ sở mình làm mẫu mực để nghiên cứu xã hội kỹ nghệ, và
chỉ mặt điểm danh nước Pháp và Đức làm những ví dụ cho quốc gia chiến
tranh.
"Thỉnh thoảng
báo chí nhắc ta nhớ sự cạnh tranh giữa Đức và Pháp trong những phát
triển quân sự của họ. Quốc gia mỗi bên phần lớn sử dụng nghị lực mình
vào việc phát triển nanh vuốt -mỗi sự tăng cường bên phe này xúi giục
một sự tăng cường của bên kia-.. Mới đây bộ trưởng ngoại giao Pháp, khi
nói đến Tunisie, Việt nam, Congo, Madagasca, đã bàn chi tiết về sự cần
thiết trong cuộc cạnh tranh trộm cướp chính trị với các quốc gia khác;
và cho rằng, với sự chiếm đoạt bằng vũ lực những lãnh thổ của các dân
tộc yếu kém, "nước Pháp đã lấy lại được phần nào cái vinh quang như
nhiều công trình cao cả trong những thế kỷ trước đây đã đem lại...". Do
đó ta thấy tại sao ở Pháp cũng như ở Đức một kế hoạch tái tổ chức xã hội
- theo đó mỗi công dân, trong khi được đoàn thể giữ gìn, có bổn phận
phải làm việc cho đoàn thể - đã được đông đảo người theo đến độ đã tạo
nên một khối chính trị, tại sao trong những người Pháp, St Simon,
Fourier, Proudhon, Cabet, Louis Blanc, Pierre Leroux, khi thì bằng lời
nói, khi thì bằng hành động, đã cố tạo ra một hình thái hoạt động tập
đoàn và sống tập đoàn ... Kiểm chứng bằng sự tương phản cũng đúng khi ta
thấy ở Anh trong tình cảm và tư tưởng, ít có sự tiến đến thể thức tịch
biên quyền sở hữu, một thể thức bao hàm trong xã hội chủ nghĩa; và không
đâu tình trạng bị tịch biên quyền sử hữu xảy ra nhiều như ở Pháp và
Đức, hai nước giống với Anh quốc về hình thức quân sự và dân sự" (III,
596 -9).
Như đoạn văn
trên chỉ rõ, Spencer tin rằng chủ nghĩa xã hội là một xuất phát từ mẫu
quốc gia chiến tranh và phong kiến, không có dây liên hệ tự nhiên nào
với kỹ nghệ. Cũng như chế độ quân phiệt, chế độ xã hội bao hàm sự phát
triển sự tập trung và bành trướng thế lực của chính quyền, sự tàn tạ của
sáng kiến phát minh, và sự phục tùng cá nhân. "Bismarck rất có thể tỏ
bày sự ngả về chủ nghĩa quốc gia xã hội" (Social statics, tr. 329).
"Định luật của mọi tổ chức là khi nó trở thành hoàn bị, nó cũng trở
thành cứng rắn" (Xã hội học, 571). Chủ nghĩa xã hội trong kỹ nghệ gần
giống như hệ thống bản năng chặt chẽ trong thú vật; nó sẽ sản xuất một
đoàn thể kiến và ong dưới hình thù người; và sẽ kết quả trong một tình
trạng nô lệ còn chán chường vô vọng hơn sự thể hiện tại rất xa.
"Dưới sự trọng
tài mà chủ nghĩa xã hội bắt buộc phải cần đến ... những người điều
hành, theo đuổi quyền lợi riêng tư của họ,... sẽ không bị những người
làm việc hợp lực để phản kháng; và vì không bị hạn chế bởi những cuộc
đình công trừ phi với những điều kiện đã ấn định, quyền lực của họ sẽ
bành trướng, mọc thêm chi nhánh và củng cố cho đến khi nó trở thành
không cách nào chống lại... Khi từ sự cai quản công nhân bằng chế độ thư
lại, chúng ta quay sang chính nền thư lại ấy để đặt câu hỏi: nó phải
được điều hành cách nào, thì ta không có giải đáp thoả mãn... Dưới những
điều kiện như thế, tất phải mọc lên một nền quý tộc mới mà quần chúng
sẽ nỗ lực ủng hộ và khi nó được củng cố, sẽ tạo thành một thứ quyền hành
vượt xa hẳn quyền hành của bất cứ nền quý tộc nào trong quá khứ (III,
588, ở Nga Xô hiện đang có nguy cơ này ).
Những liên lạc
kinh tế rất khác biệt với những liên lạc chính trị, và phức tạp hơn
nhiều, đến nỗi không chính thể nào điều hành được mà không cần đến một
nền thư lại nô-lệ-hoá như thế. Sự can thiệp của nhà nước luôn luôn bỏ
quên một yếu tố nào đó của hoàn cảnh kỹ nghệ phức tạp và sự can thiệp ấy
mỗi lần cố thực hiện thử là một lần thất bại. Hãy để ý luật ấn định
lương hướng của Anh quốc thời trung cổ, và luật ấn định giá cả của nước
Pháp thời cách mạng. Những liên hệ kinh tế phải để mặc cho sự
tự-thích-nghi một cách máy móc (mặc dù điều này có thể không hoàn mỹ)
của cung và cầu. Những gì xã hội cần thiết sẽ phải trả giá chúng nặng
nhất; và nếu những người nào, hay những chức vụ nào thu được những phần
lợi lớn lao ấy là bởi những người, chức vụ vấy đã chịu làm hoặc dễ gặp
những sự hiểm nguy hoặc khổ nhọc phi thường. Con người như được cấu tạo
ngày nay, sẽ không chịu đựng được một tình trạng bình đẳng cưỡng bách.
Khi chưa có một hoàn cảnh để cải tạo cá tính con người, thì nền luật
pháp làm ra những cải đổi giả tạo cũng vô hiệu như thuật chiêm tinh (Xem
cá nhân với nhà nước !).
Spencer hầu
như nôn mửa khi nghĩ đến một thế giới được thống trị bởi giai cấp làm
thuê. Ông không mê gì những nhà cầm đầu những nghiệp đoàn công nhân theo
chỗ ông biết họ qua trung gian phản động của tờ Luân đôn thời báo (III,
589) ông nêu rõ rằng những cuộc đình công đều vô ích nếu không muốn nói
là phần lớn đều thất bại; vì nếu tất cả những công nhân, vào những thời
gian khác nhau, cứ đình công và thắng thế, thì vật giá có thể tăng lên
cùng nhịp với lương tăng, và tình trạng sẽ giống hệt như cũ (III, 545).
Chúng ta rồi sẽ thấy những bất công do giai cấp chủ nhân gieo rắc đi
song song với những bất công do giới làm công gieo rắc" (Tự thuật,
tr.423).
Tuy nhiên kết
luận của ông không phải là bảo thủ một cách mù quáng. Ông công nhận sự
hỗn độn và tàn bạo của chế độ và xã hội chung quanh ông, và ông háo hức
tìm quanh để kiếm một giải pháp thay thế. Cuối cùng ông bày tỏ hảo cảm
đối với phong trào hợp tác; ông thấy trong đó tột điểm của quá trình từ
quy chế đến khế ước, trong đó Sir Henry Maine đã tìm thấy cốt yếu của
lịch sử kinh tế. "Sự điều hành công nhân trở thành ít cưỡng bức khi xã
hội mang một hình thức cao hơn. Ở đây ta đạt đến một hình thức trong đó
sự cưỡng bách đã giảm đến độ nhỏ nhất phù hợp với hoạt động phối hợp.
Mỗi phần tử là chủ nhân của chính y trong công việc của y làm; và chỉ
phải lệ thuộc những quy luật, -do đại đa số phần tử lập ra- cần thiết
cho sự duy trì trật tự. Thế là việc chuyển từ hợp tác cưỡng bách của chế
độ quân phiệt đến hợp tác tự ý của chế độ kỹ nghệ đã được hoàn tất
(III, 572). Spencer hoài nghi không biết con người có đủ lương thiện và
khả năng để làm cho một chế độ kỹ nghệ dân chủ như vậy trở thành hữu
hiệu hay không; nhưng ông hoàn toàn sẵn sàng để thí nghiệm. Ông thấy
trước một thời đại mà kỹ nghệ sẽ không còn bị điều khiển bởi những ông
chủ chuyên chế, mà người ta sẽ không còn hy sinh mạng sống để sản xuất
những đồ vô giá trị. "Cũng như sự tương phản giữa mẫu xã hội quân phiệt
và kỹ nghệ được nêu ra trong sự đảo nghịch niềm tin, theo đó cá nhân tồn
tại vì lợi ích của quốc gia, thành ra niềm tin rằng quốc gia tồn tại vì
lợi ích của cá nhân; sự tương phản giữa mẫu mực kỹ nghệ và mẫu mực có
thể tiến hoá từ đấy mà ra, -cũng được nêu rõ bằng sự đảo ngược niềm tin
"sống để làm việc" thành ra niềm tin "làm việc để sống" (I, 575).
VII. ĐẠO ĐỨC HỌC: TIẾN HOÁ CỦA ĐẠO ĐỨC
Đối với Spencer, vấn đề xây dựng lại nền kỹ nghệ dường như rất quan trọng đến nỗi ông dành cho nó phần lớn nhất trong tác phẩm Nguyên tắc đạo đức
(1893). "Đối với phần cuối cùng này của công trình của tôi... thì tất
cả những phần trước chỉ là phụ thuộc" (Đạo đức, vol.i, tr.xiii). Là một
người có tất cả sự nghiêm khắc về đạo đức của khoảng giữa thời đại
Victoria, Spencer đặc biệt lưu tâm đến vấn đề tìm một nền đạo đức mới mẻ
và tự nhiên để thay thế quy điều đạo đức đã gắn liền với tín ngưỡng cổ
truyền. "Sự khuyến khích hành thiện mà người ta cho là do một năng lực
siêu nhiên nếu bị bác bỏ vẫn không gây một khoảng trống nào. Có những
luật thưởng phạt của thiên nhiên không kém ưu thế , và lại bao gồm một
phạm vi rộng lớn hơn nhiều" (I,7).
Nền đạo đức
mới phải được xây dựng trên nền tảng sinh vật học. "Sự chấp nhận lý
thuyết về tiến hoá hữu cơ định đoạt một vài quan niệm đạo đức" (I,25).
Huxley, trong những bài diễn văn đọc ở Oxford năm 1893, cãi rằng sinh
vật học không thể được xem như hướng đạo cho đạo đức học; rằng "thiên
nhiên với nanh vuốt đỏ rực" (như Tennyson viết) tán dương sự tàn bạo xảo
quyệt hơn là công bằng và tình yêu; nhưng Spencer cho rằng một nền quy
luật đạo đức mà không thể đương đầu với những trắc nghiệm của luật đào
thải tự nhiên và cạnh tranh sinh tồn thì nền đạo đức ấy ngay từ đầu đã
bị sa vào sự ba hoa vô bổ. Hành vi, cũng như mọi sự khác, phải được gọi
là thiện hay ác khi nó khéo thích nghi hay vụng thích nghi, với những
cùng đích của sự sống; "hành vi cao nhất là hành vi đưa đến chiều dài
nhất, rộng nhất, và đến sự sống" (I,22,26;ii,3), hoặc nói theo công thức
của tiến hoá, một hành vi là đạo đức nếu nó làm cho cá nhân hay đoàn
thể hợp nhất hơn, chặt chẽ hơn mặc dù những cứu cánh có thể khác nhau.
Đạo đức, cũng như nghệ thuật, là sự hoàn thành nhất tính trong dị biệt;
mẫu người cao nhất là con người có thể hợp nhất nơi mình một cách hữu
hiệu viên mãn tất cả những phức tạp muôn màu của cuộc sống.
Đấy là một
định nghĩa hơi mơ hồ, mà nó phải mơ hồ; vì không gì biến thiên nhiều qua
không gian và thời gian cho bằng những nhu yếu đặc biệt của sự thích
nghi, và nội dung đặc biệt của khái niệm về điều thiện. Dĩ nhiên quả có
vài hình thái của sự cư xử đã được xem là tốt, thiện, - nói chung, là
xứng hợp với sự sống tròn đầy nhất- do bởi cái cảm thức về khoái lạc mà
theo luật đào thải tự nhiên đã gắn liền với những hành động duy trì và
khuếch trương sự sống. Sự phức tạp của đời sống tân tiến đã tăng thêm
nhiều ngoại lệ, nhưng bình thường thì khoái lạc chỉ những hoạt động hữu
ích về phương diện sinh vật học, và khổ đau chỉ những hoạt động nguy
hiểm trên phương diện sinh vật học (I, 98). Dù sao trong những giới hạn
rộng rãi của nguyên tắc này, chúng ta tìm thấy những quan niệm khác biệt
nhau nhất và có vẻ đối nghịch nhất, về điều thiện. Không có một mục nào
trong quy luật đạo đức Tây phương đã không bị xem là phi luân ở một nơi
nào đó. Không những sự đa thê mà cả sự tự sát nữa, tự giết đồng bào
mình, ngay cả giết cha mẹ mình, ở một vài dân tộc lại được nền đạo đức
của họ tán thưởng.
"Những bà vợ
của những tộc trưởng xứ Fijiurs xem mình có bổn phận thiêng liêng là
phải chịu bóp cổ khi chồng chết. Một người đàn bà được Williams cứu
thoát đã "bỏ trốn trong đêm, bơi qua sông, tự trình diện với những người
của mình và xin được hoàn tất lễ hy sinh mà trong một lúc yếu đuối nàng
đã miễn cưỡng không chịu thi hành". Wilkes kể về một người đàn bà khác
"mắng chửi thậm tệ" người cứu mình và từ đấy về sau bày tỏ một sự căm
thù chí tử đối với y" (I,469). Livingstone kể về một phụ nữ Makololo,
trên bờ sông Zambezi, rằng họ hoàn toàn kinh ngạc khi nghe ở Anh mỗi
người đàn ông chỉ có một vợ: chỉ có một vợ là không "đáng kính". Cũng
vậy, ở Phi châu Xích đạo theo lời Reade, "nếu một người đàn ông cưới vợ,
và nghĩ rằng y đủ tiền để cưới thêm một người vợ khác bà ta sẽ năn nỉ y
phải cưới thêm; và gọi y là "đồ hà tiện bủn xỉn" nếu y không chịu cưới"
(I, 327).
Những sự kiện
như thế dĩ nhiên mâu thuẫn với niềm tin rằng có ý thức đạo đức bẩm sinh,
dạy mỗi người biết đâu là chính đâu là tà. Nhưng trung bình mà nói, sự
liên kết lạc và khổ với hành vi thiện và ác chỉ cho thấy một ít chân lý;
và rất có thể rằng một vài quan niệm đạo đức do nòi giống tập thành lại
trở thành di truyền trong cá nhân (I, 471). Ở đây Spencer sử dụng công
thức ông ưa chuộng để dung hoà chủ trương trực giác và chủ trương ích
dụng, và một lần nữa trở lại với thuyết thừa hưởng những tính tình tập
thành.
Song dĩ nhiên,
ý thức đạo đức bẩm sinh, nếu có, hiện nay đang gặp khó khăn, vì chưa
bao giờ những ý niệm đạo đức lại rối ren hơn bây giờ. Điều hiển nhiên
nhất là những nguyên tắc chúng ta áp dụng trong đời sống thực thường
tương phản phần lớn với những nguyên tắc ta thuyết trong nhà thờ và
trong sách vở. Nền đạo đức mà Âu châu và Mỹ châu tuyên dương là một nền
Ki-tô giáo hoà bình; trong khi đạo đức thực thụ lại là quy luật hiếu
chiến của dân ăn cướp Teutons (Nhật nhĩ man / dân tộc Đức Germanen) mà
khắp Âu châu giai cấp thống trị đang thực hành. Tập tục đấu kiếm giữa
hai địch thủ ở nước Pháp theo Công giáo và ở Đức theo Thệ phản giáo, là
một di tích bền bỉ của quy luật nguyên thuỷ của người Teutons (I, 323).
Những nhà đạo đức học của chúng ta cứ phải biện giải cho những mâu thuẫn
này, hệt như những nhà đạo đức học của một xứ Hy lạp và Ấn độ trong
giai đoạn theo chế độ độc thê về sau phải khó nhọc giải thích hành vi
của những thần linh đã được nặn ra vào thời theo tục loạn dâm (I, 458).
Một quốc gia
phát triển dân chúng theo đường lối đạo đức Ki-tô giáo hay theo quy luật
của người Teutons tuỳ trường hợp quốc gia ấy đang quan tâm nhiều đến kỹ
nghệ hay đến chiến tranh. Một xã hội chiến tranh ca ngợi một vài đức
tính và dung túng những việc mà các dân tộc khác có thể xem là tội lỗi.
Sự xâm lược, cướp bóc, phản bội ở những dân tộc đã quen với những thói
ấy vì tình trạng chiến tranh, không nhất định phải bị lên án như ở những
dân tộc đã học được giá trị của sự lương thiện và bất bạo qua kỹ nghệ
và hoà bình. Tính quảng đại và nhân đạo phát triển mạnh hơn ở những nơi
có ít chiến tranh, và những thời kỳ thanh bình đầy năng suất khiến con
người ý thức sâu xa những lợi ích của sự tương trợ (I, 391). Người ái
quốc trong một xã hội lâm chiến sẽ xem sự can đảm và sức mạnh là những
đức tính cao nhất của một con người; xem sự tuân lệnh là đạo đức cao
nhất của một công dân; và xem sự phục tùng trong im lặng để tạo ra con
cái là đức hạnh cao nhất của người đàn bà (Xem triết lý của Nietzsche
!). Vị hoàng đế Đức quốc xem Thượng đế là lãnh tụ của quân đội Đức, và
theo sát sự tán đồng của ông đối với việc đấu kiếm bằng cách dự lễ
thiêng (I, 318). Những người mọi Bắc Mỹ "xem việc sử dụng cung tên, roi
da, chĩa ba là những công việc cao quý nhất của con người ... Họ xem
việc đồng áng và sử dụng cơ khí là những việc hèn hạ.. Chỉ gần đây -khi
an sinh quốc gia trở thành ngày càng tuỳ thuộc vào những năng lực sản
xuất, và những năng lực này lại tuỳ thuộc vào những khả năng tinh thần
cao cấp, thì những công việc khác ngoài việc nhà binh mới được nâng lên
hàng khả kính (I,423-4).
Bây giờ chiến
tranh chỉ là cảnh ăn thịt người tập thể; và không có lý do gì để không
xếp nó vào hạng hành động ăn thịt người và tố cáo thẳng mặt. "Tình cảm
và ý tưởng về công lý chỉ tăng khi sự đối nghịch xã hội giảm và những sự
hợp tác trong xã hội càng ngày càng được phát triển" (I, 277). Làm sao
có thể xúc tiến sự hoà điệu này ? Như ta đã thấy, nó sẵn sàng đến qua tự
do hơn là qua lề luật. Công thức về công lý phải là: "Mọi người được tự
do làm những gì y muốn, miễn là y không xâm phạm đến tự do tương tự nơi
bất cứ người nào khác" (II, 46). Đây là một công thức thù nghịch với
chiến tranh , vì chiến tranh tán dương uy quyền, sự lập đoàn, sự tuân
phục; nhưng là một công thức thuận tiện cho nền kỹ nghệ hoà bình, vì nó
đem lại mức tối đa của sự khuyến khích và bình đẳng tuyệt đối về cơ hội
nó có thể thích hợp với đạo đức Ki-tô giáo, vì nó xem mọi con người đều
thiêng liêng, và giải phóng người ra khỏi bạo động (I, 257), nó có sự
phê phán của vị quan toà tối hậu -luật đào thải tự nhiên - bởi vì nó mở
rộng những tài nguyên của mặt đất cho tất cả mọi người, và cho phép mỗi
cá nhân tự phát triển tuỳ theo khả năng và công việc của y.
Điều này nghe
qua có vẻ là một nguyên tắc tàn bạo, và nhiều người sẽ phản đối, đưa ra
một nguyên tắc khác xem là có thể bành trướng quốc gia, ấy là nguyên tắc
cung cấp cho mỗi người không theo khả năng và sản phẩm của y mà theo
nhu cầu của y. Nhưng một xã hội được cai trị trên những nguyên tắc như
thế không lâu sẽ bị đào thải.
"Trong giai
đoạn chưa trưởng thành, lợi tức thâu được phải tỷ lệ nghịch với những
khả năng sẵn có. Trong phạm vi tổ hợp gia đình, cần phải cung cấp nhiều
nhất cho chỗ nào ít xứng đáng nhất, nghĩa là ít giá trị nhất. Trái lại
sau khi đã đạt đến trưởng thành, lợi tức phải biến thiên trực tiếp theo
giá trị: giá trị được đo bằng sự thích nghi với những điều kiện của cuộc
sống. Kẻ kém thích nghi và kẻ khéo thích nghi sẽ được lợi nhờ sự thích
nghi của mình. Đây là hai định luật mà một nòi giống phải theo nếu muốn
tồn tại... Nếu ở trẻ con, lợi tức tỷ lệ với hiệu năng, thì nòi giống sẽ
tiêu tan lập tức; và nếu nơi người lớn, lợi tức tỷ lệ với sự vô hiệu
năng, thì trong vài thế hệ, nòi giống cũng sẽ biến mất do sự suy tàn...
Lối biện minh độc nhất cho sự so sánh giữa cha mẹ và con cái với chính
quyền và dân, là sự kém trưởng thành của dân tộc nào có lối so sánh ấy"
(II, 4, 217).
Tự do và tiến hoá tranh nhau ưu thế trong tình cảm Spencer (Eliott, H .Spencer,
tr.81), và tự do đã thắng. Ông nghĩ rằng khi chiến tranh giảm xuống, sự
kiểm soát của nhà nước đối với cá nhân phần lớn mất lý do (I, 148,420)
và trong một hoàn cảnh thái bình trường cửu, nhà nước sẽ bị rút gọn vào
trong giới hạn của Jefferson, nghĩa là chỉ hoạt động để ngăn ngừa những
vi phạm đến nền tự do mà mọi người được hưởng ngang nhau. Một nền công
lý như thế sẽ được điều hành miễn phí, để cho những kẻ làm quấy biết
rằng dù nạn nhân họ nghèo khó họ cũng không thoát khỏi hình phạt; và tất
cả những phí tổn của nhà nước phải được trả bằng cách đánh thuế trực
thâu, vì khi không thể thấy được việc mình bị đánh thuế, dân chúng sẽ
hết chú ý đến những sự quá lố của chính quyền (II, 200). Nhưng ngoài
việc duy trì công lý, bất cứ việc gì khác nhà nước làm đều vi phạm đến
công lý" (II, 222) , vì như thế tức là che chở cho những cá nhân thấp
kém khỏi chịu luật phân phối tự nhiên là phần thưởng đối với khả năng,
một định luật mà tất cả sự sống còn và cải thiện của tập đoàn đều tuỳ
thuộc vào.
Nguyên tắc của
công lý sẽ đòi hỏi sự có quyền sở hữu chung về đất đai. Trong tác phẩm
đầu của ông, Spencer đã tuyên dương sự quốc hữu hoá đất đai, để bình
đẳng hoá cơ hội về kinh tế của dân; nhưng về sau ông rút lui quan niệm
ấy (điều làm cho Henry George khinh bỉ gọi ông là "lão triết gia bị rối
trí") vì lẽ rằng đất đai chỉ được chăm bón cẩn thận bởi gia đình nào làm
sở hữu chủ nó và có thể tin chắc mình được truyền lại cho con cháu mình
những kết quả của công khó đã bỏ vào đấy. Còn về tài sản tư hữu, thì nó
xuất phát ngay từ luật lệ của công lý, vì mỗi người phải được tự do
ngang nhau trong việc giữ lại những sản phẩm mình đã tiết kiệm được. Sự
công bằng trong việc di tặng không rõ rệt lắm; nhưng "quyền di tặng bao
gồm trong quyền sở hữu, bởi vì nếu không thế thì quyền sở hữu không được
toàn vẹn" (II, 120). Việc mậu dịch cần phải được tự do giữa các quốc
gia cũng như đã các cá nhân; luật công bằng không được chỉ có tính cách
bộ lạc, mà phải là một châm ngôn bất khả xâm phạm trong giao dịch quốc
tế.
Đấy là, trong
đại cương, những "quyền thực thụ của con người" quyền được sống, được tự
do, và được theo đuổi hạnh phúc ngang hàng với tất cả mọi người. Ngoài
những thứ quyền kinh tế này, những quyền chính trị chỉ là những chuyện
hão huyền không quan trọng (II, 120). Những sự thay đổi về hình thức
chính thể không đưa đến đâu khi đời sống kinh tế không được tự do; và
một nền quân chủ có tự do mậu dịch còn tốt hơn nhiều một nền dân chủ xã
hội.
"Sự đầu phiếu
chỉ là phương cách tạo ra một dụng cụ để duy trì quyền hành, nên vấn đề
là sự phổ thông đầu phiếu có đưa đến việc tạo thành dụng cụ tốt nhất cho
việc duy trì quyền hành không ? Chúng ta đã thấy là nó không bảo đảm
mục đích ấy một cách hữu hiệu... Kinh nghiệm cho thấy rõ rệt một điều mà
đáng lẽ cũng đã khá rõ rệt không cần đến kinh nghiệm, ấy là, với một sự
phân phối khắp những lá phiếu, giai cấp lớn nhất định sẽ lợi dụng làm
hại giai cấp nhỏ... Hiển nhiên tổ chức của quốc gia thích hợp với mẫu xã
hội kinh tế trong đó sự công bằng được công nhận trọn vẹn, phải là một
quốc gia trong đó không có sự tiêu biểu những cá nhân mà là sự tiêu biểu
những quyền lợi... Có thể rằng mẫu kỹ nghệ, có lẽ do sự phát triển
những tổ chức hợp tác khiến cho trên lý thuyết đã xoá mờ phân biệt chủ
và thợ - có thể đề ra những dàn xếp xã hội trong đó những quyền lợi giai
cấp đối chọi nhau sẽ không còn, hoặc sẽ giảm thiểu đến một độ không gây
nên vấn đề rắc rối trầm trọng ... Nhưng với một nhân loại như hiện nay,
một nhân loại sẽ còn giữ nguyên trạng như thế rất lâu, thì sự nắm vững
những cái gọi là bình quyền sẽ không bảo đảm được việc duy trì những
quyền lợi bình đẳng đúng theo tên gọi (II, 192-3).
Vì quyền chính
trị chỉ là một sự lừa dối và chỉ có quyền kinh tế mới đáng kể, nên phụ
nữ thật sai lầm khi họ để quá nhiều thì giờ vào việc đòi giải phóng.
Spencer sợ rằng bản năng làm mẹ muốn giúp đỡ kẻ thế cô có thể đưa phụ nữ
đến sự ưa thích một quốc gia "xem dân như con" (II, 196-7). Về điểm này
hơi có sự lộn xộn trong tư tưởng Spencer; ông lý luận rằng quyền chính
trị là không quan trọng, rồi lại nói rằng điều rất quan trọng là phụ nữ
không nên có quyền ấy; ông tố cáo chiến tranh, rồi lại cho rằng phụ nữ
không nên bỏ phiếu vì họ không liều mạng sống của họ ở chiến trường (II,
166) - một lý luận đáng hổ thẹn cho bất cứ người đàn ông nào dùng đến,
khi họ đã được sinh ra từ sự đau khổ của một người đàn bà. Ông ngại đàn
bà vì họ có thể quá vị tha; tuy nhiên quan niệm tột đỉnh của tác phẩm
ông là kỹ nghệ và hoà bình sẽ phát triển lòng vị tha đến một độ nó sẽ
gây thế quân bình cho tính vị kỷ và như vậy sẽ xúc tiến trật tự tự nhiên
trong một hoàn cảnh vô chính phủ kiểu triết học.
Sự xung đột đã
vị kỷ và vị tha (danh từ này, và một phần nào đường hướng tư duy này,
Spencer đã vô tình rút từ Comte ) kết quả từ sự xung đột giữa cá nhân và
gia đình, tập đoàn và nòi giống. Ước chừng tính ích kỷ sẽ vẫn thắng
thế, nhưng có lẽ thế lại tốt hơn. Nếu mọi người đều nghĩ đến quyền lợi
những người khác hơn quyền lợi của chính mình, chúng ta sẽ gặp một tình
trạng hỗn loạn là cảnh tượng ai cũng cúi mình và bước lui; và có lẽ "sự
theo đuổi hạnh phúc cá nhân trong giới hạn ấn định bởi điều kiện xã hội
là điều cần thiết trước tiên để đạt đến hạnh phúc chung lớn nhất (I,
196, 190). Điều chúng ta có thể chờ đợi, tuy nhiên, là một sự nới rộng
lớn lao phạm vi của hảo cảm, một sự phát triển mạnh động cơ của tính vị
tha. Ngay cả những hy sinh do sự làm cha mẹ đòi hỏi cũng được thi hành
một cách vui vẻ; "lòng mong ước con cái của những người không con, và
việc nuôi con nuôi chứng tỏ những hoạt động vị tha rất cần thiết để đạt
đến một vài thoả mãn vị kỷ" (I, 242-3). Cường độ của lòng ái quốc là một
tỉ dụ khác về sự yêu thích say mê đối với những lợi thú lớn lao hơn là
thích những mối lo nghĩ gần. Mỗi thế hệ sinh hoạt xã hội đào sâu những
động cơ thúc đẩy sự hỗ trợ (I, 466). "Kỷ luật xã hội liên tục sẽ uốn nắn
bản tính con người để cuối cùng những khoái lạc đầy thiện cảm sự được
theo đuổi một cách tự nhiên và đến độ viên mãn nhất có lợi cho tất cả"
(I,259). Ý thức bổn phận, dư âm của hàng mấy thế hệ cưỡng bách theo lối
cư xử xã hội, lúc ấy sẽ tan biến, những hành động vị tha, vì đã trở nên
có tính cách bản năng qua sự đào thải tự nhiên để có ích lợi xã hội, -sẽ
giống như mọi vận hành theo bản năng khác, được thi hành một cách hân
hoan. Tiến hoá tự nhiên của xã hội con người dần dần mang chúng ta lại
gần một quốc gia toàn thiện.
VIII. PHÊ BÌNH
Đọc giả thông minh, qua sự phân tích này [2]
ắt đã thấy vài trục trặc trong lập luận của Spencer và chỉ cần bất quá
vài nét nhắc nhở để nhớ những khuyết điểm nằm ở chỗ nào. Sự phê bình
tiêu cực luôn luôn là điều khó chịu, nhất là đối với một công trình vĩ
đại; nhưng một phần công việc của chúng ta là xét xem thời gian đã làm
gì với nền triết học tổng hợp của Spencer.
1. Nguyên lý đầu
Trở ngại trước
tiên, dĩ nhiên là cái bất-khả-tri. Chúng ta có thể vui lòng nhận những
giới hạn khả hữu của tri thức con người; chúng ta không thể thăm dò hẳn
đại dương của sự sống mà trong đó chúng ta chỉ là một làn sóng nhỏ phù
du. Nhưng chúng ta không thể có thái độ độc đoán về vấn đề ấy, bởi vì
theo luận lý chặt chẽ thì sự xác quyết rằng một điều gì đó là
bất-khả-tri đã bao hàm một tri thức về điều ấy. Quả thế, khi Spencer
tiếp tục qua mười quyển sách của ông, ông chứng tỏ "một tri thức dồi dào
về cái bất-khả-tri" (Bowne: Kant và Spencer, tr. 253). Như Hegel
nói: đem lý luận để định giới hạn cho lý trí thì chẳng khác nào bơi mà
không vào trong nước. Và tất cả việc chẻ vụn luận lý về "tính cách không
thể quan niệm" - việc ấy đối với chúng ta bây giờ thật đã xa vời, thật
giống với những ngày ở trường trung học, những ngày mà sống chỉ có nghĩa
là tranh luận ! Và về vấn đề này, một cái máy chạy không cần điều khiển
cũng không dễ quan niệm gì hơn một "nguyên nhân đầu" nhất là nếu ta
hiểu nguyên nhân đầu ấy là toàn thể nguyên nhân và năng lực trong vũ
trụ. Spencer sống trong một thế giới máy móc đã xem cơ khí là chuyện
đương nhiên; cũng như Darwin sống trong một thời đại cạnh tranh cá nhân
tàn bạo, chỉ thấy có việc tranh đấu sống còn.
Chúng ta sẽ
nói gì về định nghĩa vĩ đại kia về tiến hoá ? Nó có giải thích cái gì
không ? "Bảo rằng ban đầu có cái đơn thuần, rồi cái phức tạp tiến hoá từ
đó v.v. , thì không phải là giải thích thiên nhiên gì cả" (Richie:
Darwin và Hegel, tr. 60). Bergson bảo Spencer chỉ chấp nối mà không giải
thích (Tiến hoá sáng tạo, tr. 64), ông đã bỏ sót, như cuối cùng ông đã
nhận thấy cái yếu tố sinh động trong thế giới. Những nhà phê bình hiển
hiên đã bực tức vì sự định nghĩa ấy; và thứ Anh ngữ bị La-tinh hoá thật
đã làm ta chú ý đặc biệt nơi một con người đã chỉ trích sự học La-tinh,
và đã định nghĩa văn hay là một lời văn chỉ cần cố gắng tối thiểu để
hiểu. Tuy nhiên ta phải nhượng bộ Spencer một phần nào; có lẽ ông cố ý
hy sinh sự rõ ràng trực tiếp cho nhu yếu tập trung trong một mệnh đề
ngắn, tất cả ngọn triều của sự sống. Nhưng thật ra ông quá yêu thích
định nghĩa của ông; ông lăn cuộn nó trên lưỡi ông như một miếng ăn ngon,
không ngừng tách ra chắp lại. Nhược điểm của định nghĩa ấy nằm trong
giả thuyết "sự bất ổn của những thể đồng tính". Một toàn khối gồm những
phần tử giống nhau là bất ổn hơn, dễ thay đổi hơn một khối gồm những
phần tử khác nhau à ? Thể dị tính, vì phức tạp hơn, chắc chắn là bất ổn
hơn thể đơn giản đồng tính. Về dân tộc học và chính trị, người ta đã xem
là việc dĩ nhiên rằng sự dị tính đưa đến sự bất ổn, và sự tan hoà những
đoàn dân di cư vào một mẫu quốc gia sẽ làm mạnh xã hội. Tarde nghĩ rằng
văn minh là kết quả một sự tăng trưởng yếu tố đồng tính trong những
phần tử của một đoàn thể qua nhiều thời đại bắt chước nhau; ở đây phong
trào tiến hoá được quan niệm như một sự tiến đến đồng thể. Kiến trúc
gô-tích chắc chắn là phức tạp hơn kiến trúc của người Hy Lạp; nhưng
không cần thiết là một giai đoạn cao hơn trong tiến hoá nghệ thuật.
Spencer đã quá vội vàng khi cho rằng cái gì sớm hơn trong thời gian thì
đơn giản hơn về cơ cấu; ông xem thường tính cách phức tạp của
nguyên-sinh-chất và khiếu thông minh của người sơ khai (xem Boas: The Mind of Primitive Man).
Cuối cùng định nghĩa về tiến hoá không nói lên được chính yếu tố mà
phần đông trí óc con người hiện nay luôn luôn liên kết với ý tưởng về
tiến hoá - ấy là luật đào thải tự nhiên. Có lẽ (mặc dù điều này cũng
thế, không hoàn hảo lắm) sự mô tả lịch sử như là một cuộc cạnh tranh
sinh tồn và sự sống còn của những gì dễ thích nghi nhất -những cơ thể
thích nghi nhất, những xã hội thích nghi nhất, những nền đạo đức học
thích nghi nhất - sẽ dễ hiểu hơn là công thức về sự rời rạc và chặt chẽ,
về sự đồng tính và dị tính, vế sự phân tán và phối hợp ?
"Tôi là một kẻ
kém cỏi trong việc quan sát nhân loại cụ thể" - Spencer nói - "bởi vì
quá bận dong ruỗi trong thế giới trừu tượng" (Tự thuật, II, 461).
Đây là sự thành thật nguy hiểm. Phương pháp của Spencer, dĩ nhiên, có
tính cách diễn dịch và tiên nghiệm quá, khác xa với lý tưởng của Bacon
hoặc phương pháp thực thụ của tư tưởng khoa học. Người thư ký của ông
nói ông "có một khả năng bất tận để khai triển những lý luận tiên nghiệm
và hậu nghiệm, quy nạp và diễn dịch để bênh vực cho bất cứ mệnh đề nào
có thể tưởng tượng" (Royce, 194) và những lý luận tiên nghiệm có lẽ đi
trước những lý luận khác. Như một nhà khoa học Spencer bắt đầu bằng sự
quan sát; như một nhà khoa học, ông lập giả thuyết sau đó; nhưng đoạn,
không giống nhà khoa học, ông không dùng đến thí nghiệm, cũng không dùng
sự quan sát vô tư, mà dùng sự tích trữ chọn lọc những chi tiết thuận
lợi. Ông không thèm chú ý gì đến "những ví dụ phủ định". Hãy so với
phương pháp của Darwin, khi gặp những sự kiện bất lợi cho lý thuyết ông,
ông liền vội ghi chép ngay, biết rằng chúng vốn được đón chào.
2. Sinh vật học và Tâm lý học
Trong một cước
chú cho tiểu luận của ông về "Tiến bộ", Spencer thật thà thú nhận rằng
những ý tưởng của ông viết về tiến hoá là căn cứ trên thuyết của Lamarck
về tính cách khả truyền của những tính tình tập thành; đây không thực
thụ là một lý thuyết báo trước Darwin, mà ý tưởng nòng cốt là thuyết đào
thải tự nhiên. Vậy thì Spencer là triết gia của học thuyết Lamarck hơn
là triết gia theo học thuyết Darwin. Ông đã xấp xỉ tứ tuần khi cuốn
Nguồn gốc giống nòi xuất hiện; vào cái tuổi ấy những phạm trù của ta
thường đã đông cứng thành bất khả di dịch.
Ngoài những
khuyết điểm nhỏ, như không dung hoà được nguyên tắc sáng sủa của ông
-theo đó sự sinh sản giảm xuống khi quá trình phát triển lên cao- với
những sự kiện như tỉ số sinh sản cao hơn ở Âu châu văn minh, so sánh với
những dân tộc man di, những khuyết điểm chính yếu trong lý thuyết sinh
vật học của ông là đã dựa vào Lamarck và không tìm được một quan niệm
động về đời sống. Khi ông thú thật rằng cuộc sống "không thể được quan
niệm trong những điều kiện lý hoá" (Sinh vật học, i, 120) thì "sự
công nhận ấy rất nguy hại cho công thức tiến hoá của ông, cho định
nghĩa ông về sự sống, và cho tính cách chặt chẽ của nền triết học tổng
hợp"(J.A. Thompson, Herbert Spencer, tr. 109). Bí mật của tâm
thức để thích ứng những liên hệ ngoại giới với liên hệ nội giới, hơn là
trong sự thích nghi gần như thụ động của cơ thể đối với hoàn cảnh. Theo
những tiền đề của Spencer thì sự thích nghi hoàn toàn sẽ là cái chết.
Những tác phẩm
về tâm lý học lập ra những công thức hơn là dạy cho ta được gì. Những
gì chúng ta đã biết thì được uốn nắn lại thành một thuật ngữ phức tạp
gần như dã man, làm tối nghĩa ở những chỗ cần minh giải. Độc giả quá mỏi
mệt với những công thức và định nghĩa và những lối rút giảm -rất đáng
vấn nạn- những sự kiện tâm lý thành ra chỉ còn là những cơ cấu thần
kinh, đến nỗi họ có thể không nhận thấy rằng nguồn gốc của tâm trí và ý
thức đã hoàn toàn không được giải thích. Đành rằng Spencer cố che đậy
khe hở to lớn này trong hệ thống tư tưởng ông bằng cách lý luận, tâm là
sự song hành chủ quan đi theo tiến trình thần kinh phát triển một cách
máy móc, bằng một cách nào đó, từ tinh vân nguyên thuỷ; nhưng vì sao lại
phải có sự song hành chủ quan ấy thêm vào cơ năng thần kinh, ông không
nói. Và điều đó dĩ nhiên chính là vấn đề của toàn thể tâm lý học.
3. Xã hội học và đạo đức
Mặc dù công
trình xã hội học vĩ đại, hết hai nghìn trang giấy viết về nó, cũng cho
thấy nhiều chỗ sơ hở dễ bị công kích. Khắp tác phẩm ta gặp cái giả
thuyết thông thường của Spencer theo đó tiến hoá và tiến bộ đồng nghĩa,
trong khi rất có thể rằng cuộc tiến hoá sẽ đem đến cho sâu bọ và vi
trùng sự thắng trận tối hậu trong cuộc chiến tranh không ngừng với
người. Không phải hoàn toàn hiển nhiên rằng tình trạng kỹ nghệ là hoà
bình hơn hay đạo đức hơn tình trạng phong kiến "hiếu chiến" đi trước nó.
Những cuộc chiến tranh tàn phá nhất của đô thị Athènes xảy ra rất lâu
sau khi những lãnh chúa phong kiến của nó đã nhượng quyền cho một giai
cấp trưởng giả phú thương; và những quốc gia Âu châu tân tiến dường như
đang đánh nhau hoàn toàn bất chấp chúng thuộc về quốc gia kỹ nghệ hay
không ? chủ nghĩa đế quốc và kỹ nghệ có thể cũng hiếu chiến không kém
những triều đại vua chúa thiếu đất. Quốc gia hiếu chiến nhất trong những
quốc gia tân tiến ngày nay là một trong hai quốc gia lãnh đạo về kỹ
nghệ trên thế giới. Hơn nữa, sự phát triển kỹ nghệ nhanh chóng của Đức
quốc dường như đã được hỗ trợ, hậu quả là bị trở ngại, bởi sự kiểm soát
của nhà nước trong vài giai đoạn, về chuyên chở và mậu dịch. Xã hội chủ
nghĩa rõ ràng là một sự phát triển không phải của chủ nghĩa quân sự mà
của chủ trương kỹ nghệ. Spencer trước tác vào một thời kỳ mà sự cô lập
tương đối của Anh quốc làm cho nước này thành chủ hoà (ở Âu châu ) và ưu
thế của nó về thương mãi và kỹ nghệ làm cho nó trở thành một xứ tin
tưởng mạnh vào tự do mậu dịch. Ông sẽ kinh ngạc nếu ông sống để thấy lý
thuyết tự do mậu dịch sẽ dễ tiêu tan ra sao cùng với ưu thế của thương
mãi và kỹ nghệ, và sự chủ hoà sẽ tiêu tan thế nào khi cuộc tấn công của
Đức và Bỉ đe doạ sự cô lập của Anh quốc. Và dĩ nhiên Spencer đã nói quá
những đức tính của chế độ kỹ nghệ; ông hầu như mù mắt trước cảnh khai
thác tàn bạo thịnh hành ở Anh quốc trước khi nhà nước can thiệp để làm
giảm bớt; tất cả những gì ông thấy được "giữa thế kỷ chúng ta, nhất là ở
Anh", chỉ là "một mức độ tự do cá nhân lớn lao trước đây chưa từng có" [3]. Thảo nào Nietzsche đã kinh tởm phản kháng kỹ nghệ, và đến lượt ông, tán tụng quá đáng đức tính của đời sống quân sự (Tri thức hân hoan, chương 40).
Phép loại suy
về cơ cầu xã hội sẽ hướng Spencer đến thuyết xã hội nhà nước nếu lý luận
của ông đã mạnh hơn cảm tính của ông : vì thuyết xã hội nhà nước biểu
thị - với một cường độ cao hơn xã hội tự do mậu dịch nhiều - sự phối hợp
thành một toàn khối những thể dị tính. Bằng tiêu chuẩn của công thức
ông, Spencer đã có thể bị bắt buộc phải hoan hô Đức quốc như là quốc gia
tiến hoá cao nhất trong những quốc gia tân tiến. Ông cố đương đầu với
điểm này bằng cách lý luận rằng sự dự tính bao gồm tự do của những phần
tử, và một tự do như thế bao hàm một mức độ cai trị tối thiểu; nhưng đây
hoàn toàn là một điểm khác hẳn điều ta đã nghe trong "sự dị tính chặt
chẽ". Trong thân thể người ta, sự phối hợp thành toàn thể và tự tiến hoá
dành hơi ít tự do cho những phần tử. Spencer trả lời rằng trong một xã
hội ý thức chỉ hiện hữu trong toàn khối. Nhưng ý thức xã hội -ý thức về
những quyền lợi và tiến trình của đoàn thể - quy về trung tâm của xã
hội, cũng như ý thức cá nhân quy về cá nhân; rất ít trong chúng ta có
chút "ý thức về quốc gia" nào. Spencer giúp chúng ta thoát khỏi một chủ
nghĩa xã hội nhà nước quân đội, nhưng trong lúc đó, ông đã phải hy sinh
tính cách chặt chẽ và luận lý của ông.
Và ông đã phải
nói quá lố kiểu cá nhân chủ nghĩa. Ta nên nhớ rằng Spencer bị tóm giữa
hai thời kỳ; rằng tư tưởng chính trị của ông đã được thành hình vào
những ngày của chủ trương tự do mậu dịch và dưới ảnh hưởng của Adam
Smith; trong khi những năm về sau, ông sống vào một thời kỳ mà Anh quốc
đang chiến đấu để sửa sai, bằng sự kiểm soát xã hội, những lạm dụng
trong chính sách kỹ nghệ của mình. Spencer không bao giờ chán lập lại
những lý luận ông chống lại sự can thiệp của nhà nước; ông phản đối nền
giáo dục do nhà nước kinh tài, hay sự bảo vệ của chính phủ cho những
công dân để chống lại tài chánh gian lận (Tự thuật, ii 5); vào
một thời kỳ ông lý luận rằng ngay cả việc quản trị chiến tranh cũng cần
phải là một việc của tư nhân chứ không phải của nhà nước (I, 236); ông
mong, như Wells nói, "nâng cao sự vô hiệu công cộng lên tư cách của một
chính sách quốc gia". Ông thân hành mang bản thảo đến nhà in, vì không
tin cậy cơ sở của chính phủ, ông không thể giao phó nó cho nhà bưu điện
(Gollier, trong Royce, tr. 221). Ông là một người theo chủ nghĩa cá nhân
mãnh liệt, bực bội yêu cầu để được yên; và mỗi đạo luật mới của luật
pháp đối với ông dường như là một xâm phạm tự do của riêng ông. Ông
không thể hiểu luận cứ của Benjamin Kidd, theo đó thì vì sự đào thải tự
nhiên vận hành càng lúc càng nhiều trên những cá nhân, nên sự áp dụng
nguyên tắc gia đình (ở đó kẻ yếu được người mạnh giúp đỡ) là cần thiết
cho sự duy trì nhất tính và sức mạnh của đoàn thể. Vì sao một quốc gia
phải che chở công dân chống lại sức mạnh vật lý phi-xã-hội-tính và lại
không chịu chống lại sức mạnh kinh tế cũng phi-xã-hội-tính là một điểm
Spencer không biết đến. Ông khinh bỉ cho là trẻ con sự so sánh chính
quyền và dân với cha mẹ và con cái; nhưng chỗ tương đồng thật sự là
tương đồng với sự giúp nhau trong tình huynh đệ. Thuyết chính trị của
ông có tính cách Darwin hơn thuyết sinh vật học của ông.
Nhưng phê bình thế đã đủ. Ta hãy trở lui về con người ông và nhìn trong viễn tượng công bình hơn, sự vĩ đại của công trình ông.
IX KẾT LUẬN
Nguyên lý đầu
đã khiến Spencer hầu như lập tức trở thành triết gia nổi tiếng nhất của
thời đại ông. Tác phẩm được phiên dịch ngay ra phần lớn những ngôn ngữ
của Âu châu; và ngay cả Nga, nơi mà nó phải đối diện và đánh bại một sự
truy tố của chính quyền. Ông được nhận là triết gia đại diện cho tinh
thần thời đại; và không những ảnh hưởng ông lan khắp tư tưởng Âu châu,
mà nó còn tác động mạnh mẽ trên phong trào tả thực trong văn chương nghệ
thuật. Năm 1869 ông kinh ngạc thấy rằng Nguyên lý đầu đã được dùng làm
sách giáo khoa ở Oxford. Còn kỳ diệu hơn, những tác phẩm ông bắt đầu đem
lại cho ông, từ 1870, lợi tức khiến ông được bảo đảm về tài chính.
Trong vài trường hợp những người hâm mộ gửi cho ông những món quà lớn,
mà ông luôn luôn gửi trả lại. Khi Nga hoàng Czar Alexandre II viếng
London và tỏ ý với Lord Derby muốn gặp những nhà thông thái đặc biệt của
Anh quốc, Derby mời Spencer, Huxley, Tyndall, v.v. Những người khác đều
đến, riêng Spencer từ chối. Ông chỉ giao dịch với một ít bạn thân.
"Không có người nào ngang với tác phẩm họ viết. Tất cả những sản phẩm
tốt đẹp nhất của hoạt động tinh thần họ đều đi vào trong tác phẩm, chúng
xuất xứ từ vô số những sản phẩm thấp kém hơn lẫn lộn với chúng trong
cuộc chuyện trò hằng ngày của họ" (Tự thuật, i, 423). Khi người ta năn
nỉ xin đến gặp ông, ông nhém hai lỗ tai lại và thản nhiên lắng nghe họ
nói chuyện.
Thật lạ lùng,
danh tiếng ông tan biến gần như cũng đột ngột như nó đã đến. Ông đã sống
dai hơn cao độ của danh tiếng mình, và vào những năm cuối đời, ông buồn
rầu khi thấy những đoạn văn dông dài của ông đã ít hiệu lực ra sao
trong việc chận đứng ngọn triều của nền lập pháp kiểu "cha mẹ". Ông đã
trở thành khó ưa đối với hầu hết mọi tầng lớp. Những nhà chuyên môn khoa
học - mà những địa hạt thuộc đặc quyền của họ ông đã xâm lấn - giả cách
khen ông để rồi quật lại, tảng lờ sự đóng góp của ông và nhấn mạnh
những lỗi lầm ông ; và giám mục của mọi đức tin hợp nhau lại để gửi ông
xuống hoả ngục đời đời kiếp kiếp. Những đảng viên Lao động đã thích sự
tố cáo chiến tranh của ông bây giờ giận dữ xa lánh ông khi ông nói lên ý
nghĩ mình về chủ nghĩa xã hội và nền chính trị công nhân tổ hợp; trong
khi những người bảo thủ đã thích quan điểm ông về chủ nghĩa xã hội thì
lại tránh ông vì chủ trương về bất-khả-tri của ông. "Tôi bảo thủ hơn bất
cứ đảng viên bảo thủ nào và tiến bộ hơn bất cứ đảng viên tiến bộ nào",
ông nói với vẻ khao khát (II, 431). Ông thành thật một cách không sửa
chữa được, và làm mếch lòng mọi nhóm với lối nói thẳng; sau khi tỏ cảm
tình với thợ thuyền là những nạn nhân của chủ, ông thêm rằng thợ thuyền
cũng sẽ thống trị như thế nếu địa vị đảo ngược; và sau khi tỏ sự lân mẫn
với phụ nữ như nạn nhân của đàn ông, ông không quên thêm rằng đàn ông
cũng là nạn nhân của đàn bà khi đàn bà có thể xoay sở được. Ông sống cô
độc khi về già.
Khi đã có
tuổi, ông trở nên nhẹ nhàng hơn trong sự chống đối, và điều độ hơn về
quan niệm. Ông vẫn thường cười nhạo về ông vua dùng để trang hoàng của
nước Anh, nhưng bây giờ ông bày tỏ ý kiến rằng thật là một việc làm
không phải khi muốn bỏ quách ông vua của dân chúng, việc ấy không khác
gì giật lấy con búp-bê của một đứa trẻ (Elliott, tr. 66). Cũng thế, về
tôn giáo ông cho là vô lý và không tốt khi quấy rầy nền tin tưởng cựu
truyền trong lúc nó dường như là một ảnh hưởng tốt lành và làm người ta
vui vẻ. Ông bắt đầu nhận ra rằng những niềm tin tôn giáo và phong trào
xã hội đều được xây trên những nhu yếu và động cơ vượt khỏi tầm công
kích của trí thức; và ông cam chịu ngồi nhìn thế giới tiếp tục lăn quay
không cần chú ý nhiều đến những pho sách nặng ông ném về phía họ. Nhìn
lại quãng sự nghiệp hăng hái của ông, ông tự cho mình điên rồ vì đã ham
tìm danh tiếng trong văn học trong khi đáng lẽ nên tìm những lạc thú
giản dị hơn của sự sống . Khi ông mất vào năm 1903, ông đã chợt nghĩ
rằng công trình của ông đã là công dã tràng (Thompson, tr. 51).
Dĩ nhiên bây
giờ chúng ta biết không phải vậy. Sự suy tàn của danh tiếng ông là một
phần của sự phản kháng của người Anh theo Hegel chống lại thực nghiệm
luận; sự phục hưng của thuyết tự do sẽ lại nâng ông lên vị trí của ông
như là triết gia Anh vĩ đại nhất của thế kỷ. Ông đem lại cho triết học
một tiếp xúc mới mẻ với sự vật, và một thuyết duy thực đã làm cho nền
triết học Đức quốc bên cạnh có vẻ yếu ớt trừu tượng. Ông tóm lược thời
đại ông như chưa ai từng tóm lược thời đại nào cả kể từ Dante; và ông
hoàn thành một cách thiện xảo sự phối trí của một lãnh vực tri thức rộng
lớn đến nỗi nhà phê bình hầu như phải hổ thẹn lặng im trước sự hoàn
thành của ông. Chúng ta bây giờ đang đứng trên những chiều cao mà những
tranh đấu và khó nhọc của ông đã đem lại : chúng ta có vẻ như ở trên ông
bởi vì ông đã đưa vai nâng chúng ta lên. Một ngày kia, khi mũi dùi của
sự chống đối ông đã bị lãng quên, chúng ta sẽ định giá ông một cách phải
chăng hơn.
Nguồn: Will Durant. 1971. Câu truyện triết học. Trí Hải và Bửu Đích dịch. Sài Gòn: Nha Tu thư và Sưu khảo, Viện Đại học Vạn Hạnh. Bản điện tử của http://vnthuquan.net.
[1] Newgate: nhà ngục xưa ỏ London, bị phá vào năm 1902)
[2]Dĩ
nhiên sự phân tích này không đầy đủ. "Vì giới hạn cuốn sách không cho
phép" (tác giả vẫn thường mỉm cười trước chiếc áo che đậy sự lười biếng
này, song ở đây phải dùng đến) bàn đến các tác phẩm Giáo dục, Tiểu luận
và nhiều phần lớn của cuốn Xã hội. Bài học về Giáo dục đã được học quá
kỹ; và chúng ta ngày nay cần ít chất điều hoà cho lời quyết đoán đã
thắng của Spencer về đòi hỏi của khoa học chống lại văn học nghệ thuật.
Về tiểu luận, đặc sắc nhất là những tiểu luận về văn pháp, về cái cười,
và về âm nhạc. Cuốn Herbert Spencer của Hugh Elliott là một thiên trình
bày tuyệt diệu.
[3]Xã hội học, iii, 697. Xem Nghiên cứu xã hội học, trang 335: "Bằng chứng là lương bổng tăng thường chỉ có hậu quả là nếp sống lố bịch hơn hoặc rượu chè quá chén hơn mà thôi"
0 comments
Post a Comment