Hoàng Phong
Ashoka ( A Dục) là hoàng đế Ấn Độ, trị vì Đế quốc Maurya từ năm 273 đến 232 trước CN. Là một trong những hoàng đế Ấn Độ kiệt xuất, vua A-dục toàn thắng trong một loạt các cuộc chinh phạt và đã cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một quân vương ủng hộ Phật giáo, ông đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni, và theo truyền thống Phật giáo, tên ông gắn liền với việc lưu truyền Phật giáo
Hoàng đế A-dục trị vì
nước Ấn vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch và cũng là một trong những
nhân vật sáng chói nhất trong lịch sử Phật giáo. Là vị hoàng đế nổi
tiếng nhất của triều đại Maurya ông đã thống nhất gần toàn thể bán lục
địa Ấn độ. Dưới triều đại của ông, văn hóa được phát triển cao độ và
cũng là lần đầu tiên trong lịch sử nước Ấn mà sử liệu thật phong phú ghi
chép bằng chữ viết còn lưu lại đến ngày nay. Nghệ thuật tiêu biểu và
đặc trưng nhất cho nền văn hóa Ấn độ nói chung cũng đã phát sinh trong
thời kỳ này.
Riêng đối với Phật
giáo, hoàng đế A-dục là một Phật tử lừng danh nhất, và ông đã quy y sau
khi chinh phạt được lãnh thổ Kalinga bằng những trận chiến thật hãi
hùng. Ông hết sức nhiệt tâm trong việc hoằng Pháp và đã truyền bá Phật
giáo ra xa hơn vùng thung lũng sông Hằng, vượt ra ngoài biên giới Ấn độ,
nhất là về hướng tây bắc tức là cả vùng cận đông, trung đông cho đến
biên giới châu Âu.
Các nguồn tư liệu
Triều đại A-dục là một
trong những triều đại hiếm hoi trong lịch sử cổ đại của Ấn độ đã lưu lại
sử liệu vừa chính xác lại vừa phong phú. Tuy thế, mãi cho đến năm 1837
các sử gia và các học giả Tây phương và cả Ấn độ mới bắt đầu biết đến
giai đoạn lịch sử này, nhờ vào vào sự tò mò của một nhân viên hành chính
thật bình dị của thành phố Calcutta là James Princep. Ông là người đầu
tiên tìm cách giải đoán những chữ ghi khắc trên hai cột trụ bằng đá, một
ở Delhi và một ở Allahabad miền bắc Ấn thuộc tiểu bang Uttar Pradesh.
Trên hai trụ đá này ông đã đọc được tên một vị vua là Devanampiya. Khi
tra cứu các sử liệu thì James Princep thấy ở Tích lan có một vị vua mang
tên là Devanampiya Tissa. Tuy nhiên James Princep vẫn còn hoang mang và
ông nghĩ rằng có thể có một sự nhầm lẫn nào đó mà ông không biết vì ông
không tin là vị vua có tên ghi khắc trên trụ đá ở miền bắc Ấn lại là
một vị vua Tích lan.
Mãi cho đến năm 1915,
một kỹ sư hầm mỏ người Anh tên là C. Beadon tìm thấy ở vùng Maski miền
nam nước Ấn một trụ đá khác có khắc chữ. Trên trụ đá này người ta đọc
được tên của một vị vua thuộc vào triều đại Maurya là Devanampiya
Piyadasi, vương hiệu là Azoka (A-dục). Kể từ đó người ta mới biết là tên
nhà vua Devanampiya ghi khắc trên các trụ đá đã được khám phá trước đây
và nhà vua mang vương hiệu A-dục chỉ là một người. Thật ra hoàng đế
A-dục có nhiều tên gọi khác nhau, trong số này tên gọi Devanampiya lại
trùng hợp với tên của một vị vua Tích lan và vì thế đã làm cho viên chức
hành chính James Princep phải hoang mang. Từ những khám phá trên đây
các sử gia dần dần khám phá ra lịch sử của một trong những triều đại xưa
nhất và sáng chói nhất của nước Ấn.
Tài liệu bằng các ngôn
ngữ Tây phương về vua A-dục thật hết sức phong phú, bài viết ngắn này
không có tham vọng tóm lược những công trình nghiên cứu của các sử gia,
các học giả và các nhà khảo cổ mà chỉ muốn nêu lên một sự kiện lịch sử,
một trường hợp điển hình về sự liên hệ giữa chính trị và Phật giáo để
suy tư và tham luận mà thôi.
Các nguồn tư liệu đáng
tin cậy nhất giúp các học giả và sử gia nghiên cứu và tìm hiểu về hoàng
đế A-dục là các văn bản ghi chép vào thời bấy giờ. Các văn bản này gồm
có hai loại : loại thứ nhất là các văn kiện chính thức của triều đình
ghi khắc trên đá và loại thứ hai là các tư liệu và các di tích văn hóa
không mang tính cách hành chính.
a) Các văn kiện ghi khắc trên đá
Các loại văn kiện ghi
khắc trên mặt đá cũng gồm có hai loại : loại thứ nhất là các chỉ dụ được
khắc một cách trịnh trọng trên các trụ đá hoặc trên các vách đá, loại
thứ hai gồm các văn bản đủ loại, ngoài các chỉ dụ vừa kể của triều
đình.
Chỉ dụ là các văn kiện
do triều đình công bố hay các bản tuyên ngôn của hoàng đế A-dục ban ra
cho toàn dân. Nội dung của các chỉ dụ rất minh bạch và thật chi tiết,
chứng tỏ hoàng đế A-dục là người rất cẩn thận, giải thích đường hướng
chính trị của mình thật cặn kẽ cho dân chúng được biết. Các chỉ dụ được
ghi khắc bằng các loại ngôn ngữ địa phương thời bấy giờ là brahmi và
karosti, kể cả tiếng Hy lạp và tiếng araméen, một loại ngôn ngữ rất xưa
thuộc các vùng Trung đông và Phi châu.
Ngoài các chỉ dụ vừa kể
còn có nhiều văn bản không mang tính cách hành chính, đó là các tư liệu
ghi chép công đức của hoàng gia và quan chức, chẳng hạn như các việc
cúng dường, các cuộc hành hương, các dịp lễ trọng đại, những cuộc gặp gỡ
và giao tiếp chính thức giữa triều đình và tăng đoàn Phật giáo…
Sắc lệnh của vua A Dục trong tiếng Hy Lạp và tiếng Aramaic ở Kandahar
b) Các nguồn tư liệu mang đặc tính văn hoá
Có rất nhiều câu chuyện
và sự tích truyền tụng trong dân gian hàm chứa tính cách đạo đức và răn
dạy gọi là avadana được ghi chép cẩn thận và còn lưu lại đến ngày nay.
Thông thường các nhân vật chính trong các câu chuyện ấy là các vị thánh
nhân, các vị đại sư gương mẫu… Tuy nhiên cũng có nhiều câu chuyện mà
nhân vật chủ động là hoàng đế A-dục, những việc làm của ông được mô tả
trong các câu chuyện mang dụng ý làm gương cho vua chúa thuộc các vương
quốc đương thời, các loại chuyện này gọi chung là asokavadana.
Các vị đại sư Trung quốc
như Pháp Hiển (đầu thế kỷ thứ V), Huyền Trang (thế kỷ thứ VII) khi sang
Ấn độ tu học cũng có kể chuyện về hoàng đế A-dục trong nhật ký của họ.
Tuy nhiên các câu chuyện do họ thuật lại cũng như những tư liệu khác về
hoàng đế A-dục được ghi chép muộn sau nhiều trăm năm, không mang nhiều
giá trị trên phương diện sử học vì hàm chứa quá nhiều sự kiện mâu thuẫn,
lý do cũng dễ hiểu vì phần lớn dựa vào truyền thuyết và không phải là
những nghiên cứu sử học.
Một số kinh luận
(Tanjur) của Phật giáo Tây tạng và các sách của sử gia Phật giáo nổi
tiếng người Tây tạng là Jetsun Taranatha (thế kỷ XVII) cũng có đề cập
đến hoàng đế A-dục. Ngoài ra văn khố của xứ Khotan cũng có lưu trữ một
số tài liệu giá trị. Tuy nhiên chính trong các pho kinh sách khổng lồ
của Phật giáo Tích lan người ta đã tìm thấy nhiều tư liệu và sử liệu
phong phú và đầy đủ chi tiết hơn hết, và điều đó cũng dễ hiểu vì hoàng
đế A-dục là người đã truyền bá Phật giáo vào phần đất này. Ngoài các tư
liệu bằng chữ viết, khoa nghiên cứu các đồng tiền cổ của đế quốc Maurya
cũng mang lại nhiều dữ kiện quý giá, vì dưới triều đại của hoàng đế
A-dục không phải chỉ có Phật giáo và văn hóa đã phát triển mạnh mà kinh
tế cũng rất phồn thịnh, và đồng tiền do đế quốc Maurya phát hành được sử
dụng rộng rãi và phổ biến khắp nơi.
Nước Ấn và đế quốc Maurya trước triều đại A-dục
Trong suốt lịch sử phát
triển của Phật giáo trên đất Ấn, lãnh thổ Ma-kiệt-đà (Magadha) đã chiếm
giữ một vị thế quan trọng. Ngay từ thời Đức Phật còn tại thế, lãnh thổ
này đã từng là một vương quốc lớn, hùng mạnh, ngày nay thuộc vào tiểu
bang Bihar, một tiểu bang rất nghèo. Thủ đô của vương quốc Ma-kiệt-đà là
thành Vương xá (Rajagriha), nhưng về sau được dời về Hoa Thị thành
(Pataliputra), tên gọi ngày nay là Patna. Công cuộc khai quật khảo cổ
vào năm 1912 tại Hoa Thị thành phát hiện nhiều di tích của một dinh thự
thật to lớn, có lẽ là hoàng cung của đế quốc Maurya.
Vương quốc Ma-kiệt-đà
được đặt dưới sự cai trị của triều đại Nan-đà (Nanda) trước khi các đạo
quân của Alexandre Đại đế của đế quốc Macédoine ngày nay là Hy lạp, tiến
chiếm các lãnh thổ Ấn độ vào những năm -327 đến -326. Có một người vô
danh nhưng nhiều « khí phách », mà nguồn gốc và xuất xứ không được lịch
sử ghi chép rõ rệt, đã đứng lên hô hào chống lại ngoại xâm, một số tư
liệu cho biết người này thuộc vào một giai cấp thấp trong xã hội, một số
khác thì lại cho là con của một hoàng thân trong dòng họ Nan-đà, về
phần các truyền thuyết Phật giáo thì cho người này là con cháu thuộc một
chi của dòng họ Thích ca (Shakya) đã rời bỏ thành Ca-tì-la-vệ
(Kapilavastu) khi thành này bị vua xứ Kiêu-tát-la (Kosala) tàn phá.
Người nhiều « khí phách » vừa kể nghĩ rằng trước nạn ngoại xâm do
Alexandre Đại đế chủ xướng thì cần phải thống nhất xứ sở, nhưng ông
không thuyết phục được hoàng triều Nan-đà nên bỏ trốn lên vùng tây bắc
nước Ấn. Nơi đây ông thành lập một đạo quân và nhờ có một chiến lược gia
nổi tiếng thời bấy giờ giúp sức, vị này sinh sống tại thủ phủ Taxila
thuộc lãnh thổ của Alexandre Đại đế, một nơi chỉ cách Islamabad thủ đô
của xứ Pakistan ngày nay vài cây số. Ông kéo quân chiếm lại nhiều vùng
của nước Ấn nhưng đã bị Alexandre Đại đế chiếm giữ và sau đó thừa thế
tiến vào vương quốc Ma-kiệt-đà lật đổ hoàng triều Nan-đà vào năm -313.
Vị anh hùng này tên là Candragupta Maurya, ông lên ngôi và sáng lập ra
triều đại Maurya.
Suốt trong 25 năm trị
vì, hoàng đế Candragupta Maurya tóm thâu gần hết vùng bắc Ấn để mở rộng
thêm bờ cõi. Về phương diện ngoại giao thì ông giao hảo với các quốc gia
thuộc Âu châu trong vùng Địa Trung Hải, nhất là ký hòa ước với vị hoàng
đế Seulokos người nối ngôi Alexandre Đại đế. Sứ thần của hoàng đế
Seleukos là Megasthenes được gởi sang Hoa Thị thành, vị này là một học
giả lại vừa là nhà văn nên nhân dịp đó đã trước tác một bộ sách tựa là
Indus, gồm bốn quyển nghiên cứu về văn hóa, lịch sử, địa lý, thực vật và
các giống động vật của Ấn độ, bộ sách này là một tư liệu quý giá góp
phần tìm hiểu về đế quốc Maurya thời bấy giờ. Hoàng đế Candragupta khi
về già và trước khi qua đời đã theo đạo Jaïn, một tín ngưỡng rất lâu đời
có trước cả Phật giáo, đạo Jaïn chủ trương khổ hạnh, bất bạo động và
tuyệt đối cấm sát sinh.
Người con của
Candragupta lên nối ngôi tên là Bindusara. Người ta tìm thấy rất ít tư
liêu nói về vị hoàng đế kế nghiệp này, chỉ biết ông là một người rất
sùng kính Ấn giáo, và về mặt cai trị thì có công dẹp được một vài cuộc
dấy loạn. Ông trị vì đế quốc Maurya được khoảng 25 năm. A-dục là con thứ
của vị hoàng đế này, vì thế trên nguyên tắc không phải là hoàng tử kế
nghiệp.
Tuổi trẻ của hoàng đế A-dục
Các trụ đá và bia đá
không thấy ghi chép gì cả về thời kỳ còn trẻ của hoàng đế A-dục, số tư
liệu hiếm hoi ngoài Phật giáo liên quan đến phả hệ của ông cũng có nhiểu
điểm thiếu chính xác và mâu thuẫn. Các học giả đều phải dựa vào các
kinh sách Phật giáo để tìm hiểu về thời kỳ còn trẻ của A-dục.
Tuổi thiếu thời của cậu
bé A-dục hình như không được hạnh phúc lắm vì bị vua cha ghét bỏ, và
theo một vài kinh sách thì lý do là vì cậu có một hình tướng xấu xí. Tuy
thế, có một nhà tu khổ hạnh tên là Ajivika đã tiên đoán và cho mẹ cậu
biết là tương lai của cậu sau này sẽ thật sáng chói. Một vài tư liệu
cũng cho biết là giáo phái khổ hạnh của nhà tu này đã tạo nhiều ảnh
hưởng đối với A-dục khi ông còn trẻ.
Theo các học giả thì
vương hiệu A-dục xuất hiện rất trễ, ít khi thấy ghi khắc trên các trụ đá
và mặt đá. Thông thường trong các chỉ dụ và văn bản người ta chỉ thấy
ghi khắc tên ông là « Devanampya », chữ này có nghĩa là « Người yêu quý
của các vị trời ». Kinh sách Phật giáo thì thường gọi tên ông là «
Dhammasoka » (Dhamma là Đạo pháp, Dhammasoka có nghĩa là A-dục của Đạo
pháp hay Người đạo hạnh A-dục), hoặc có khi ghi thẳng tên ông là
Piyadassi. Người ta có tìm thấy một vách đá có khắc một chỉ dụ không
quan trọng lắm nhưng đã ghi đầy đủ tên của ông như sau : Devanampiyasa
Pidayasino Asokaraja, và trong một chỉ dụ khác thì mang tên là Raja
magadhe có nghĩa là Vua của xứ Ma-kiệt-đà.
Có nhiều bảng ghi chép
về lý lịch và tiểu sử của hoàng đế A-dục, trong số này có một bảng khắc
đáng tin cậy hơn cả cho biết ông sinh vào năm -299 tại Hoa Thị thành, là
em khác mẹ với hoàng tử sẽ thừa kế vua cha là Susima (hay Sumana).
A-dục còn có một người em cùng mẹ, nhưng tên thì các tư liệu ghi chép
không giống nhau.
Trong lứa tuổi thanh
niên hình như A-dục có lưu ngụ một thời gian ở Taxila, nhưng không rõ lý
do vì sao ông đến đây. Có thể ông đã cầm quân đến đây để dẹp nội loạn
hay cũng có thể đã được vua cha gởi đến với tư cách là phó vương để cai
trị vùng này, dù sao thì cũng không có sử liệu nào ghi rõ. Hình như ông
cũng từng là phó vương ở Aventi, một vùng lãnh thổ phía tây của nước Ấn.
Nếu sự hiện diện của ông
tại các nơi như Taxila và Aventi không được xác nhận một cách chắc
chắn, thì trái lại tất cả các tư liệu đều có ghi chép về sự kiện ông làm
phó vương suốt mười năm tại Ujjain, một nơi thuộc vùng trung tâm nước
Ấn, ngày nay đã trở thành một trong bảy thành phố thánh địa. Ông nhậm
chức phó vương Ujjain vào năm -280. Theo Phật-đà Cồ-sa (Buddhaghosa, thế
kỷ thứ V), một vị đại luận sư của tông phái Thượng tọa bộ thì chính
A-dục đã mang quân chinh phạt nơi này, nhưng theo kinh sách Pali thì vua
cha là Bindusara đã gởi ông đến đây để nhậm chức.
Tại Ujjain, A-dục cưới
một người vợ tên là Vedisa-devi, con gái của một doanh nhân làm chủ tịch
hiệp hội các thương gia. Đám cưới tổ chức theo đúng « nghi lễ cổ truyền
», có nghĩa là mang tính cách chính thức. Khi đến Ujjain A-dục có lưu
ngụ một thời gian trong dinh thự của vị doanh nhân giàu có này. Bà
Vedisa-devi sinh được hai con, một trai và một gái. Hai người con này về
sau đã xuất gia và được gởi sang Tích lan để hoằng Pháp và truyền bá
văn hóa Ấn độ.
Tuy nhiên một số sử gia
Tây phương nghiên cứu vể hoàng đế A-dục trước đây đã xem cuộc hôn phối
đó không mang tính cách chính thức, vì thế hai người con cũng không được
xem là chính thống. Sở dĩ có sự hiểu lầm này là vì các sử gia vừa kể
mang định kiến sai lầm là không tin vào các nguồn sử liệu có nguồn gốc
kinh sách Tích lan và đồng thời cũng suy đoán theo quan niệm Tây phương
về sự kiện A-dục rời Ujjain mang theo hai con trở về kinh đô Hoa Thị
thành nhưng lại bỏ bà vợ là Vedisa-devi ở lại. Xã hội Ấn độ cổ đại phân
chia việc hôn phối thành mười cấp bậc khác nhau, tất cả đều chính thức
trong đó có cả việc hôn phối không được gia đình hai bên tán thành và
gọi trường hợp này là « gandharva ». Đám cưới của A-dục thì được cha mẹ
bên nhà vợ đứng ra đảm trách đúng theo nghi lễ truyền thống, ngoài ra
cũng cần nhắc thêm là trong xã hội nước Ấn thời bấy giờ không hề có khái
niệm về con cái chính thức hay không chính thức. Tóm lại khi hoàng đế
A-dục đưa hai người con lớn của ông tháp tùng trong phái bộ hoằng Pháp
tại Tích lan thì điều này đã chứng tỏ ý định và quyết tâm của ông. Hai
người con tuy sinh ở Ujjain trước khi ông lên ngôi nhưng điều đó vẫn làm
tăng thêm ý nghĩa và tầm quan trọng của phái bộ hoằng Pháp.
Ngoài sự kiện A-dục lập
gia đình ở Ujjain thì không thấy các tư liệu ghi chép gì khác hơn nữa
suốt trong mười năm làm phó vương và cai trị nơi đây, vì thế cũng không
ai biết được rõ ràng về những việc làm của ông trong thời gian vừa kể.
Nắm thời cơ và thừa kế vua cha
Tư liệu về các sự kiện
xảy ra trong giai đoạn này được các kinh sách Tích lan ghi chép thật
phong phú, với đầy đủ chi tiết và rất đáng tin cậy, so với những gì tìm
thấy trong các tư liệu tìm được ở miền bắc lục địa Ấn độ.
Theo tục lệ thời bấy giờ
thì nhà vua có rất nhiều vợ, một số tư liệu cho biết là Bindusara vua
cha của A-dục có đến 101 người con trai. A-dục không thuộc dòng thừa kế
cũng không phải là con cả, có nghĩa là hoàng tử kế nghiệp không phải là
A-dục. Tuy nhiên rất có thể những kinh nghiệm trong mười năm làm phó
vương cai trị Ujjain và các chiến công do ông lập được trong các cuộc
chinh phạt và dẹp loạn xảy ra sau đó, nhất là tại Taxila, đã khiến triều
đình và cả dân chúng chú ý đến ông nhiều hơn so với các hoàng tử khác.
Khi vua cha mất, A-dục
được sự hậu thuẫn của quần thần liền cướp lấy ngôi vua. Ông giết hết hay
ít ra cũng gần hết các anh em trai, chỉ trừ người em cùng mẹ. Theo một
số tài liệu thì hình như A-dục cướp ngôi khi được thông báo là vua cha
lâm bệnh nặng và chưa kịp chỉ định hoàng tử kế nghiệp.
Các tư liệu thuộc vùng
bắc Ấn thì thuật lại câu chuyện thừa kế có pha trộn thêm một vài sự kiện
mang tính cách diệu kỳ và hoang đường. Các văn bản đó khẳng định là mẹ
của A-dục là hoàng hậu chính thức, nhưng trước khi bà được tuyển vào
cung và được phong đệ nhất hoàng hậu thì nhà vua Bindusara cũng đã có
một người con trai với một bà khác, người con này tên Susima và đã được
chọn làm hoàng tử kế nghiệp. Ngay từ lúc thiếu thời Susima đã bị vị thừa
tướng của triều đình không thích, vì có lần đùa giỡn cậu đã hỗn láo và
tát tai vị này. Khi trưởng thành thì cậu được sai đi dẹp loạn ở Taxila
và trong khi đang ở Taxila thì vua cha là Bindusara lâm bệnh, ông cho
trục Susima về triều và sai A-dục đến thay thế. Vị thừa tướng sợ sau này
khi Susima lên ngôi sẽ loại trừ mình nên âm mưu cùng một số bộ hạ tâu
lên với nhà vua rằng A-dục đang lâm bệnh không thể sai đi thay được. Sau
đó nhóm người này lại mặc triều phục cho A-dục và đưa đến trình diện
với vua cha, họ yêu cầu Bindusara hãy phong cho A-dục làm hoàng đế
trước khi Susima quay trở về kinh đô. Hoàng đế Bindusara bừng bừng nổi
giận, A-dục bèn cầu khẩn các vị trời giúp sức, tức thời vua cha
Bindusara thổ máu và chết ngay. Susima hay tin vội vàng trực chỉ kinh đô
và lọt vào bẫy của vị thừa tướng và các vị quan khác trong triều. Trên
đây là câu chuyện tóm lược từ các tư liệu Ấn độ, các học giả và sử gia
Tây phương không mấy tin vào những chuyện pha trộn ít nhiều tính cách
huyền thoại như thế. Đối với các biến cố liên quan đến việc lên ngôi của
A-dục thì các học giả tin vào kinh sách Tích lan nhiều hơn, như đã
trình bày sơ lược ở phần trên.
Dù cho biến cố đưa A-dục
lên ngôi thật sự xảy ra như thế nào thì việc thừa kế cũng không phải là
chuyện dễ dàng. Tự phong hoàng đế là một việc, nhưng trấn an dân
chúng, điều khiển quan lại và loại trừ mọi âm mưu tranh dành quyền lực
để cai trị một đế quốc mênh mông lại là một chuyện khác. Nhất định A-dục
phải đối đầu với đám anh em và bộ hạ của họ. Một số tư liệu ghi chép là
A-dục giết hết các anh em khác mẹ với mình và cả các bộ hạ của họ, tuy
nhiên theo các học giả Tây phương thì cuộc chiến tranh huynh đệ tương
tàn đó có tính cách phóng đại nhiều hơn là sự thực, mục đích thổi phồng
sự hung bạo của A-dục là để chứng minh biệt danh của ông là Chandasoka :
tức là Kẻ hung ác Asoka. Cũng theo các học giả Tây phương thì danh xưng
này có thể cũng đã được đặt ra trong mục đích tạo sự tương phản với một
biệt danh khác của ông là Dharmasoka : có nghĩa là Asoka của Đạo pháp.
Lên ngôi hoàng đế và cai trị xứ sở
Khoảng bốn năm sau khi
chiếm giữ quyền bính và củng cố quyền hành bằng sắt máu, A-dục tổ chức
lễ đăng quan thật rầm rộ có lẽ theo nghi thức và phong tục Bà-la-môn.
Tuy nhiên cũng có vài tư liệu cho rằng đế quốc Maurya có thiết lập riêng
cho mình các nghi thức về lễ đăng quan, trong nghi lễ này có sự hiện
diện của các vị Bà-la-môn và có cả đại diện của tất cả ba thành phần
giai cấp lớn trong xã hội.
Ngày lễ đăng quan được
tổ chức vào năm -267 trước Tây lịch, khi đó A-dục khoảng 35 tuổi. Biến
cố này giữ một vị thế vô cùng quan trọng đối với lịch sử Phật giáo, vì
niên đại chính thức của Phật giáo đều được căn cứ vào mốc thời gian trên
đây như một điểm chuẩn. Trong một quyển sách dầy 675 trang về tiểu sử
của A-dục của học giả Phật giáo nổi tiếng người Tích lan là Ananda
Guruge, thì năm đăng quan là -265 trước Tây lịch, không phải là năm
-267.
Sau khi chính thức lên
ngôi, ông phong cho người em trai cùng mẹ làm phó vương và đặt con trai
của vị thừa tướng trước đây của cha mình vào chức thừa tướng. Tuy rằng
tất cả các tư liệu đều công nhận A-dục đã sử dụng những phương tiện độc
ác để nắm lấy chính quyền, nhưng tuyệt nhiên những sự kiện này không hề
thấy ghi chép trên các mặt đá hay các trụ đá chung với những đoạn mà
hoàng đế A-dục chính thức tỏ bày sự ân hận và hối tiếc về những hành
động của mình trong quá khứ, những đoạn ghi khắc chỉ nhắc đến sự hung
bạo trong các cuộc chiến tranh nhưng không nói đến hành vi của ông khi
chiếm đoạt quyền bính. Tuy nhiên phần lớn các sử gia vì muốn giữ tính
cách vô tư trước lịch sử nên hầu hết đã chấp nhận cho rằng việc chiếm
đoạt quyền bính không mấy khi tránh khỏi sự hung bạo, nhưng theo họ thì
không đến nổi quá sức tàn ác như phần lớn các tư liệu cố ý thổi phồng.
Trong những năm đầu tiên
của triều đại, hình như hoàng đế A-dục cũng đã mở mang thêm bờ cõi, sáp
nhập một số lãnh thổ mới, và theo truyền thống cổ truyền thì ông cũng
có ban bố việc tự do tín ngưỡng cho những người dân theo đạo Bà-la-môn
và các giáo phái khác. Riêng các tư liệu Tích lan thì xoay quanh việc
tìm hiểu những nguyên nhân đã thúc đẩy hoàng đế A-dục theo về với Phật
giáo và kết luận rằng đấy là một quyết tâm có tính cách riêng tư và đã
được hoàng đế A-dục suy nghĩ thật kỹ từ trước. Cũng theo các tài liệu
này thì ông đã quan tâm đến vấn đề tôn giáo từ lâu và đã nghiên cứu
tường tận tất cả các tín ngưỡng thời bấy giờ.
Quy y Phật giáo và cuộc chiến Kalinga
Hầu hết tất cả các sử
liệu đều ghi nhận là sự lựa chọn Phật giáo của hoàng đế A-dục mang tính
cách cá nhân nhiều hơn, riêng cho bản thân ông và vì lý tưởng của riêng
ông. Tuy nhiên sau khi lên ngôi thì ông mới bắt đầu ý thức rõ rệt hơn
bổn phận của một Phật tử trong việc hoằng Pháp. Tuy thế các sử liệu lại
không hoàn toàn đồng ý với nhau về động cơ đã thúc đẩy việc lựa chọn
Phật giáo của hoàng đế A-dục. Một vài truyền thuyết chẳng hạn như trong
kinh Divyavadana, hoặc theo câu chuyện thuật lại trong hồi ký của ngài
Huyền Trang thì việc quy y Phật giáo của hoàng đế A-dục mang tính cách
kỳ diệu và mầu nhiệm. Tuy nhiên phần lớn các sử liệu khác đều đồng ý cho
rằng sự hung bạo trong cuộc chiến tranh đẫm máu ở Kalinga là động cơ
trực tiếp và quan trọng hơn hết đã thúc đẩy hoàng đế A-dục quyết tâm trở
thành một Phật tử. Sau đây là một đoạn trích dịch từ một chỉ dụ khắc
trên đá của hoàng đế A-dục :
« Tám năm sau khi lên
ngôi, nhà vua bạn của các vị trời là Priyadarsin đã chinh phục được
lãnh thổ Kalinga. Một trăm năm mươi ngàn người bị lưu đày ; một trăm
ngàn người bị giết trong các trận chiến ; một số người khác nhiều lần
lớn hơn con số đó đã bị thiệt mạng. Sau khi Kalinga bị chiếm thì bây giờ
đây là lúc phải hăng hái áp dụng Pháp giới, tôn trọng Pháp giới, phải
tuân theo những điều huấn dụ ghi trong Pháp giới áp dụng trên khắp lãnh
thổ của người bạn các vị trời. Sự hối hận không buông tha cho người bạn
của các vị trời sau khi đã chinh phục được Kalinga. Thật vậy, chinh phục
một xứ sở độc lập chính là một hành vi sát nhân, gây ra cảnh chết chóc
và lưu đày cho thật nhiều người : những ý nghĩ đó hiện lên thật mãnh
liệt và dày vò người bạn của các vị trời... » (Phỏng dịch theo học giả Jules Bloch)
Do đó người ta nghĩ rằng
hành động quy y Phật giáo của hoàng đế A-dục là kết quả của một quá
trình lâu dài của sự suy nghĩ và hối hận. Theo nội dung các văn bản Pali
và các chỉ dụ thì quyết tâm của hoàng đế A-dục có thể đã phát xuất trực
tiếp từ bản chất và tính tình của ông và từ những xu hướng đã sẵn có
trong ông. Sau khi nắm giữ quyền bính bằng vũ lực ông liền chọn ngay các
vị quân thần dựa vào đạo đức của họ, ông giao du với các vị hiền triết
có thể gọi là thánh nhân lúc bấy giờ. Ông biết được Phật giáo khi tình
cờ gặp một sa-di (samanera) tên là Nigrodha vào khoảng năm -262. Rất có
thể ông đã sửng sốt khi lần đầu tiên nhìn thấy vẻ khiêm tốn và điềm đạm
khác thường hiện lên từ gương mặt và cử chỉ của một sa-di trẻ tuổi. Sau
khi tiếp xúc ông lại càng kính nể hơn nữa trước những hành động gương
mẫu và thái độ trong sáng của người này, vị sa-di tỏ ra đối với ông hoàn
toàn khác hẳn với một số các vị đạo sĩ Bà-la-môn lúc nào cũng bồn chồn,
háo thắng mà ông từng quen biết trước đây.
Ngay sau lễ tấn phong,
hoàng đế A-dục bắt đầu nghiên cứu và tìm hiểu tất cả các tín ngưỡng lớn
thời bấy giờ, đồng thời ông tiếp xúc với các nhà tu hành Phật giáo,
trong số này có nhà sư Nigrodha mà ông đã gặp trước đây. Lên ngôi được
bốn năm thì ông quy y. Tuy nhiên lúc đầu ông chỉ quan tâm đến việc bố
thí, xây cất chùa chiền và cung cấp các nhu cầu cần thiết cho tăng đoàn
và sau đó thì mời nhà sư Nigrodha làm cố vấn cho ông.
Kể từ năm thứ bảy của
triều đại (theo học giả Ananda Guruge là năm -259), ông mới bắt đầu tích
cực và nhiệt thành hơn, nhất là từ khi hai đứa con của ông là Mahinda
và Sanghamitta xuất gia. Đây là hai người con của ông với bà vợ « chính
thức » là bà Vedisa-devi, cưới hỏi theo tục lệ cổ truyền khi ông còn làm
phó vương ở Ujjain. Hai người con lớn xuất gia làm cho ông cảm thấy gần
gũi hơn với tăng đoàn, và có lẽ cũng là động cơ thúc đẩy ông tích cực
hơn trong việc bảo vệ và phát triển Phật giáo. Ông khởi sự chăm chỉ
nghiên cứu kinh sách, học hỏi và lĩnh hội rất nhanh giáo lý nhà Phật.
Ông cũng tự lựa chọn và đưa ra một số kinh sách làm tiêu chuẩn học hỏi
cho hàng tu sĩ.
Vào năm thứ chín của
triều đại, tức khoảng năm -257, thì xảy ra cuộc chinh phạt Kalinga. Dù
là một người đã thấm nhuần Phật giáo và chủ trương bất bạo động nhưng
ông vẫn chấp nhận khởi động cuộc chiến vì theo các chỉ dụ ghi khắc trên
đá thì đây là một việc không thể tránh được. Dù sao thì hậu quả của việc
chinh phạt Kalinga đã tác động hết sức mạnh và làm chấn động lương tâm
của ông.
Năm thứ mười một thuộc
triều đại, lần đầu tiên ông hành hương viếng cội Bồ đề nơi Đức Phật
thành đạo. Người ta tìm thấy một chỉ dụ nhỏ không mấy quan trọng ghi
chép hẳn hoi hoàng đế A-dục là một « Phật tử » và cũng là một « vị thầy
giảng dạy về những hành vi ngay thật ». Tuy thế không thấy có chỉ dụ nào
chính thức nêu lên động cơ đã thúc đẩy hoàng đế A-dục trở thành một
Phật tử. Các văn bản tiếng Pali của Tích lan không hề nói đến cuộc chiến
Kalinga mà chỉ thấy đề cập đến các cuộc xung đột khác, nhưng các cuộc
xung đột này thì lại không thấy ghi chép trong các chỉ dụ. Dù sao đi nữa
thì sự kiện quy y của hoàng đế A-dục là một việc hiển nhiên không thể
phủ nhận.
Theo học giả người Pháp
là Robert Lingat trong tác phẩm nổi tiếng của ông nghiên cứu về các đế
vương theo Phật giáo trên thế giới, thì ngay cả việc sử dụng danh từ quy
y mà một số học giả đã dùng, thì tự nó cũng đã mang tính cách lạm dụng
hay quá đáng, tức « đi quá xa » và không thích nghi để chỉ trường hợp
hoàng đế A-dục theo về với Phật giáo, vì vào thời bấy giờ « Phật giáo »
còn rất « nguyên thủy », không có những hình thức màu mè của nghi lễ tôn
giáo như ngày nay. Tăng đoàn chỉ là một tập thể những người tu hành
sống bằng khất thực và khá biệt lập với thế tục. Về phần những « người
thế tục theo Phật giáo » thì họ là những cư sĩ (upasak) và không có gì
khác biệt với những người dân khác trong xã hội. Họ chỉ có bổn phận phải
tôn kính, giúp đỡ và cung cấp những nhu cầu tối thiểu cho những người
xuất gia, và bổn phận đó cũng không hẳn là một sự bắt buộc.
Hoàng đế A-dục cũng chỉ
là một Phật tử, một cư sĩ như những người khác, không có một trói buộc
nào đòi hỏi ông phải thực thi nhiều hơn người khác để tương xứng với uy
quyền của ông. Hối hận vì trận chiến Kalinga, lòng tôn kính tăng đoàn và
sự mộ đạo của ông nhất định là những gì riêng tư, xuất phát từ thâm tâm
ông, cũng có thể nói là ông được sinh ra với một chủng tử đã có sẵn
trong lòng để hướng ông vào con đường Phật pháp.
Đạo pháp và sự quản lý xứ sở
Trong các chỉ dụ ghi
khắc trên trụ đá người ta thường thấy nhắc đến chữ Pháp hay Đạo pháp
(Dharma) mà các học giả Tây phương trước đây thường dịch là Luật pháp
(Loi, Law), chẳng hạn như trường hợp của học giả Jules Bloch đã dịch một
chỉ dụ nói về sự hối hận của hoàng đế A-dục mà một đoạn đã được trích
dẫn trong phần trình bày trên đây. Khi chuyển ngữ sang tiếng Việt chữ
Luật pháp trong bản dịch của Jules Bloch được đề nghị đổi lại thành Pháp
giới, tuy không hoàn toàn sát nghĩa nhưng có lẽ phù hợp hơn với ý nghĩa
trong chỉ dụ. Khi dịch chữ dharma hay dhamma học giả Jules Bloch có thể
đã nghĩ đến chữ Svadharma, chữ này có nghĩa là những quy tắc hay kỷ
luật mà mỗi người Ấn giáo phải tuân thủ phù hợp với giai cấp của mình
trong xã hội. Các học giả Tây phương ngày nay không tìm cách chuyển ngữ
chữ Dharma nữa mà dùng thẳng tiếng Phạn.
Trong một chỉ dụ khác, hoàng đế A-dục xác định rất rõ ràng ý nghĩa của chữ Dharma là gì : Dharma có nghĩa là « không
có nguyên nhân nào làm phát sinh ra tội lỗi, tràn đầy những hành vi đạo
hạnh, lòng thương cảm, bố thí, tính trung thực, sự tinh khiết », cách định nghĩa đó gợi lại một tiết trong kinh Pháp cú (Dhammapada) như sau : « Tránh làm điều tội lỗi, thực thi những điều đạo hạnh, tinh khiết hoá tâm thức, đấy là những lời Phật dạy ».
Ngoài ra còn có rất nhiều đoạn trong các chỉ dụ khác mang ý nghĩa tương
đương với các câu trong kinh sách nhắc nhở hành vi mà người thế tục
phải giữ. Vì thế Dharma theo hoàng đế A-dục mang ý nghĩa đạo hạnh và hàm
chứa những nguyên tắc đạo đức xã hội, không hề có tính cách thiêng
liêng hay thần bí hàm chứa trong các quy tắc có tính cách nghi lễ của
đạo Bà-la-môn.
Ngoài ra còn thêm một
điểm đáng chú ý nữa là người ta không tìm thấy bất cứ một chỉ dụ nào ghi
khắc trực tiếp những lời giảng huấn của Đức Phật, kể cả những câu có
tính cách gợi ý hoặc ám chỉ những khái niệm đặc thù của Phật giáo, kể
cả những chữ như Giác ngộ, Giải thoát, Luân hồi, Niết bàn…cũng không hề
thấy ghi khắc. Điều này cũng dễ hiểu vì các chỉ dụ được công bố chung
cho toàn thể dân chúng, không phân biệt một tín ngưỡng nào. Hoàng đế
A-dục đã sử dụng một ngôn ngữ phổ quát, dễ hiểu cho tất cả mọi thành
phần trong xã-hội, giống như trường hợp trước kia Đức Phật đã từng
thuyết giảng cho những người thế tục.
Theo phần lớn các học
giả và sử gia Tây phương thì dù cho trận chiến Kalinga không phải là
động cơ duy nhất quyết định việc quy y của hoàng đế A-dục đi nữa nhưng
đã giữ một vai trò then chốt trong việc chuyển hướng toàn bộ về chính
trị và cách quản lý xứ sở của ông. Ông quyết định từ bỏ bạo lực, xảo
quyệt và dối trá trong việc quản lý và điều hành xứ sở và nhất quyết chỉ
sử dụng sự ngay thật và đạo đức để chinh phục toàn dân. Quyết tâm ấy
của hoàng đế A-dục được ghi nhận một cách rõ rệt khởi sự từ năm thứ mười
của triều đại, tức khoảng hai năm sau khi trận chiến Kalinga chấm dứt.
Suốt trong gần hai năm hối hận và học hỏi thêm Phật pháp bên cạnh tăng
đoàn, hoàng đế A-dục đã hoàn toàn thay đổi đường hướng cai trị của mình,
ông tôn vinh đạo đức, khuyến khích dân chúng hãy giữ gìn sức khoẻ để
được sống lâu, khuyên họ hướng vào những giá trị tinh thần và niềm phúc
hạnh nơi cõi cực lạc. Những lý tưởng đó không hẳn là những gì đặc thù
của Phật giáo mà chung cho tất cả các truyền thống tôn giáo khác lúc bấy
giờ.
Guồng máy hành chính
được hoàn toàn cải tổ. Các cấp bậc chính quyền phải tuyệt đối thực thi
chủ trương đạo đức và ngay thật do ông đề xướng. Một số chức vụ mới và
quan lại mới được thành lập, chẳng hạn như các vị quan gọi là
dharmamahamatra, giữ trọng trách giáo dục, hướng dẫn và giải thích về
đạo đức cho dân chúng. Các quan chức khác trong triều cũng phải thay
phiên nhau đến gần và tiếp xúc với dân chúng, giải thích, thuyết phục
đường lối đạo đức do hoàng triều đề xướng và đồng thời phải tự hành động
đạo đức để làm gương. Các người có nghề nghiệp đòi hỏi thường xuyên
phải di chuyển, chẳng hạn như các người đánh xe ngựa, xe bò, các con
buôn, kể cả những đoàn người du thực sinh sống bằng nghề múa hát và kể
chuyện trong dân gian cũng được tận dụng, ngoài nghề nghiệp làm kế sinh
nhai của họ hoàng triều còn nhờ họ gánh thêm một trọng trách nữa là
truyền bá đạo đức, làm gương và khuyến khích một lối sống lương thiện và
ngay thật với những người mà họ có dịp tiếp xúc.
Hoàng đế A-dục chủ
trương thuyết phục và khuyến khích dân chúng hơn là ép buộc và sử dụng
luật pháp. Luật lệ và sự ngăn cấm chỉ đem ra thực thi trong một số
trường hợp thật khó khăn, không thể giải quyết được bằng sự tự nguyện,
chẳng hạn như việc cấm sát sinh để tế lễ. Giết súc vật để làm lễ hiến
sinh là một thói tục ảnh hưởng từ Ấn giáo và đã ăn sâu vào thói tục của
xã hội thời bấy giờ, hoàng đế A-dục phải ra chỉ dụ hẳn hoi cấm đoán việc
này. Ông cũng thiết lập những ủy ban thanh tra thật tích cực và linh
động để kiểm soát việc thực thi đường lối của hoàng triều.
Một nhà vua Phật tử
Phạm vi truyền bá Phật giáo dưới triều vua Ashoka
Hoàng đế A-dục nâng đỡ
Phật giáo trên nhiều lãnh vực. Trước hết và dễ nhận thấy hơn hết là kế
hoạch thật quy mô của ông nhắm vào việc xây dựng chùa chiền, tu viện và
bảo tháp. Tài liệu thời bấy giờ cho biết hoàng đề A-dục đã thực hiện
được 84 000 công trình tất cả, lẽ tất nhiên con số này có phần nào phóng
đại trong mục đích đề cao công đức của A-dục. Kinh sách Pali thì ghi
chép những công trình kiến trúc lớn lao về chùa chiền tại Tích lan do
hoàng đế A-dục chủ xướng, trong khi đó trên lục địa lại dồn mọi nổ lực
vào việc xây dựng bảo tháp khắp nơi. Việc xây dựng bảo tháp có mục đích
phân tán và đem xá lợi đến gần hơn với dân chúng trong các địa phương xa
xôi trên toàn lãnh thổ. Ông cho khai mở các bảo tháp xây dựng sau khi
Đức Phật tịch diệt để đem xá lợi phân phối đến các bảo tháp mới. Kinh
sách thường khẳng định là hoàng đế A-dục là người đầu tiên khởi xướng
việc thờ cúng Xá lợi, điều này cũng có vẻ hợp lý khi nhìn vào vô số bảo
tháp được xây dựng dưới triều đại của ông.
Riêng về cá nhân mình
thì hoàng đế A-dục thường xuyên giao tiếp với tăng đoàn, tìm kiếm các vị
chân tu để học hỏi. Ông biết lắng nghe sự hướng dẫn của tăng đoàn,
chẳng hạn có một vị đại sư thời bấy giờ dựa vào một điềm tiên tri đã
khuyên A-dục nên khai mở các bảo tháp xưa để phân phối xá lợi. Vì thế xá
lợi trước đây được giữ kín trong những bảo tháp đầu tiên đã được chia
ra 84 000 bảo tháp mới. A-dục cũng nghe theo lời khuyên và chỉ dẫn của
vị La-hán Ưu-bà-cúc-đa (Upagupta) và đi hành hương khắp các thánh địa
của Phật giáo. Ông cũng bày ra tục lệ tổ chức mỗi năm một ngày lễ thật
long trọng để hiến dâng với tính cách tượng trưng tất cả cung nữ, quan
lại của triều đình và cả lãnh thổ quốc gia cho tăng đoàn, buổi lễ chấm
dứt với cảnh nhà vua đem tiền của ra cúng dường tăng đoàn để chuộc lại.
Đó là một hình thức để giúp cho người xuất gia có ngân khoảng chi dùng.
Thiết nghĩ đó cũng là một cách giúp đỡ tăng đoàn một cách công khai và
đồng thời cũng là một hình thức làm gương cho dân chúng. Các vua chúa
Phật giáo khắp nơi ở Á châu thời bấy giờ cũng noi theo phong tục này.
Hoàng đế A-dục cũng thường công bố hẳn hoi là trên phương diện cúng
dường ông cũng muốn được xếp ngang hàng với ngài Cấp-cô-độc
(Anathapindika) ngày xưa đã cúng dường cả khu vườn Kỳ viên để Đức Phật
tịnh dưỡng và chu cấp thật rộng rãi nhu cầu cho tăng đoàn.
Các tư liệu tiếng Pali
ghi chép chính xác và rất tỉ mỉ về các niên đại. Sau khi hoàng đế A-dục
gặp trở lại nhà sư Nigrodha thì ông mới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến
tăng đoàn. Liên tiếp trong những năm sau đó trong gia tộc ông có nhiều
người xuất gia và phần riêng ông thì đứng ra phát động chương trình xây
dựng 84 000 bảo tháp. Bên cạnh mỗi bảo tháp đều được xây thêm một tu
viện, mỗi tu viện được giao phó trách nhiệm nghiên cứu một chủ đề rõ rệt
trong Kinh điển. Vào năm -256, trong nước có một vị đại sư qua đời vì
thiếu một vị thuốc tinh chế từ chất bơ của sữa, biến cố này làm cho
hoàng đế A-dục bị chấn động mạnh và ông gia tăng cúng dường cho tăng
đoàn nhiều hơn nữa. Tiếp sau đó thì ông ra chỉ dụ mở rộng việc chăm lo
sức khoẻ và y tế miễn phí cho dân chúng trên toàn thể đế quốc của ông
không phân biệt ai cả.
Tuy nhiên, sự hào phóng
và chăm lo tận tình của hoàng đế A-dục cho tăng đoàn đã làm phát sinh
một sự kiện tất yếu, có thể xem như một tệ trạng đáng tiếc, ấy là cuốc
sống dễ dãi của tăng đoàn đã thu hút một số người không xứng đáng. Hậu
quả gián tiếp của sự kiện đó là việc xảy ra thường xuyên những tranh
biện về mặt giáo lý và cãi vã nhau về việc tuân thủ giới luật giữa các
thành phần trong tăng đoàn. Sự kiện này đã làm cho tăng đoàn bị chia rẽ
nội bộ suốt trong nhiều năm liên tiếp. Vào năm thứ mười bảy của triều
đại, hoàng đế A-dục nhận thấy cần phải trực tiếp can thiệp vì khi đó có
một địa phương lơ là trong việc đến chùa vào các ngày lễ gọi là
uposatha để thiền định, sám hối và tự nguyện giữ thêm một số giới luật
vào các ngày rằm, mùng một và các ngày thứ tám và hai mươi hai trong
tháng. Trước sự việc đó ông liền gởi một vị quan đến nơi này để thanh
tra và khuyên nhủ, nhưng có lẽ vì quá vụng về hay bị hiểu lầm nên sự can
thiệp của vị quan này đã chuyển thành bạo động gây ra sự chống đối và
chết người. Biến cố này làm chấn động hoàng đế A-dục.
Một năm sau đó chính ông
quyết tâm đích thân tu học và trau dồi thêm nữa về Phật pháp dưới sự
hướng dẫn của một đại sư tên là Mục-kiền-liên Tứ-đế-tu
(Moggaliputtatissa). Tiếp theo đó đích thân ông đứng ra thẩm vấn và sát
hạch hàng tăng lữ, dò tìm những vị nào có khuynh hướng lệch lạc mang
tính cách tà thuyết và « dị giáo » để loại trừ ra khỏi tăng đoàn. Có thể
xem đó là một chiến dịch « thanh lọc » hàng ngũ tăng đoàn. Ông giao phó
cho Mục-kiền-liên Tứ-đế-tu tổ chức và chủ trì lễ kết tập Đạo pháp lần
thứ ba. Phần đông các học giả Tây phương cho rằng lần « kết tập thứ ba
về Đạo Pháp » có thể đã xảy ra nhiều lần và ở nhiều nơi khác nhau, vì
nhiều kinh sách ghi chép thời gian, địa điểm tổ chức không giống nhau
đối với « lần kết tập thứ ba », kể cả nội dung bàn thảo cũng khác nhau.
Theo tư liệu bằng tiếng
Pali của Tích lan thì lần kết tập thứ ba do hoàng đế A-dục giao phó cho
Mục-kiền-liên Tứ-đế-tu đảm trách được tổ chức ở Hoa thị thành với các
mục đích sau đây
- chỉnh đốn lại bộ Luận sử (Kathavatthu), tức một trong bảy quyển thuộc Luận tạng (Abhidhamma-pitaka)
- sưu tập và giữ lại các
văn bản chính thống trong tất cả các kinh sách đồng thời loại bỏ những
thêm thắt có tính cách tà thuyết hay dị giáo.
- gởi chín phái bộ hoằng
Pháp ra nước ngoài, mỗi phái bộ gồm năm vị sư hướng dẫn. Riêng phái bộ
được đưa đến Tích lan có hai người con của hoàng đế A-dục tháp tùng.
Cả ba dự án trên đây đều
do Mục-kiền-liên Tứ-đế-tu khởi xướng và trình ra trước đại hội, hoàng
đế A-dục chỉ là người đứng ra tổ chức, cung cấp phương tiện và bảo đảm
an toàn cho hội nghị. Những sự kiện liên quan đến lần kết tập này và sứ
mạng hoằng pháp của chín phái bộ đã được ghi khắc khắp nơi và còn lưu
lại đến ngày nay. Trong các văn bản đó người ta còn thấy ghi chép là sau
khi hoàn tất công tác các vị sư đều phải trở về nơi chùa cũ của mình.
Những việc cải tổ trên
đây xảy ra vào khoảng năm -249 đến -248, và phái bộ hoằng Pháp được gởi
đi Tích lan lên đường vào năm -247.
Sau hết trong niên đại
thứ mười chín, ni sư Sanghamitta, con gái của hoàng đế A-dục mang theo
một cành chiết từ gốc Bồ đề nơi Đức Phật đạt được Giác ngộ để mang đi
Tích lan trồng. Tại Tích lan bà gặp lại người anh đang giảng Pháp tại
đây. Phần bà thì thiết lập một tăng đoàn tỳ kheo ni.
Tuy nhiên các học giả
ngày nay cũng tìm thấy một vài điểm không trùng hợp giữa các tư liệu và
các văn bản ghi khắc trên đá. Các bảng ghi khắc tán thán và nêu lên công
đức của hoàng đế A-dục, nhưng lại không thấy nói gì đến các công trình
xây dựng về bảo tháp và chùa chiền do ông chủ xướng và cũng không hề
nhắc đến việc thờ cúng Xá lợi. Các văn bản chính thức ghi khắc trên mặt
đá chỉ nêu lên chủ trương của hoàng triều ban bố cho tăng đoàn được hoàn
toàn tự do trong mọi lãnh vực sinh hoạt tôn giáo. Trong khi đó thì một
số tư liệu khác và nhất là các kinh sách Pali của Tích lan thì đều có
nói đến việc cải tổ và thanh lọc tăng đoàn, loại bỏ những thêm thắt có
tính cách hủ hoá và tà thuyết trong giáo lý, nêu lên việc chỉnh đốn kinh
sách do lần kết tập thứ ba. Chỉ dụ trên trụ đá số II cũng nêu lên mối
quan tâm lớn lao của hoàng đế A-dục trong việc chăm lo sức khoẻ miễn phí
cho toàn thể dân chúng không phân biệt giai cấp xã hội và tín ngưỡng.
Một Phật tử làm vua
Dù sao đi nữa thì hoàng
đế A-dục vẫn là một vị vua như những vị vua khác, rập theo khuôn mẫu
của truyền thống Ấn độ, được tấn phong đúng theo nghi thức Bà-la-môn cổ
truyền. Ông có rất nhiều vợ, các văn bản có ghi chép tên một số các bà
hoàng hậu như sau : bà Asandhimitta, đệ nhất hoàng hậu cưới hỏi khi
hoàng đế A-dục đăng quan ; bà Tisyraraksa (các văn bản tiếng Pali ghi là
Tissarakkha) về sau bà này được thăng lên chức đệ nhất hoàng hậu sau
khi bà Asandhimitta qua đời ; bà Kaluvaki mẹ của hoàng tử Tivala, hình
như bà này sống trong một hậu cung của hoàng đế A-dục tại tỉnh lỵ
Kausambi, một tỉnh lỵ thật giàu có, quý phái và sang trọng của thời bấy
giờ, ngày nay đã hoang tàn và chỉ còn lưu lại những di tích khảo cổ, vị
trí gần thành phố Allahabad ngày nay ; bà Padmavati mẹ của hoàng tử
Kunala v.v… ; và nhất là phải kể đến bà Vedia-devi, người vợ mà vua
A-dục cưới hỏi theo tục lệ truyền thống khi ông còn là một hoàng tử được
vua cha gởi đi trấn giữ Ujjain.
Cháu chắt của hoàng đế
A-dục cũng rất đông, trong số này có một người tên là Sumana, con của
hoàng tử Sanghamitta, người này cũng xuất gia. Hai người cháu khác, một
người tên là Samprati con của hoàng tử Kanula và một người khác nữa tên
là Dasaratha cả hai được xếp vào danh sách những người có thể kế vị
hoàng đế A-dục sau này.
Các nguyên tắc đạo đức
trong các chỉ dụ ghi khắc trên đá thì gồm có sự khoan dung và nhân
nhượng đối với tất cả các tôn giáo, bổn phận của nhà vua là phải chăm lo
đến sự an vui và hài hòa của toàn thể dân chúng, phải bảo vệ chính giáo
cho quốc gia v.v… Thật ra thì các nguyên tắc tổng quát đó đã có từ
trước trong truyền thống của nước Ấn, quy định phẩm tính của một nhà vua
đạo đức. Hoàng đế A-dục cũng phải rập khuôn theo đó để làm một vị quốc
vương đúng với danh nghĩa một « Hoàng đế vạn năng » (Cakravartin) theo
truyền thống Ấn độ. Cũng xin chú ý là chữ Cakravartin, tiếng Hán dịch là
Chuyển luân vương, theo khái niệm đặc thù của Phật giáo thì có nghĩa
khác hơn, chỉ định một thánh nhân mang những phẩm tính vượt bực giống
như một vị phật.
Quan niệm của hoàng đế
A-dục về bạo lực cũng được ghi khắc trên các trụ đá, tuy nhiên sự diễn
giải thường không thống nhất. Cùng một câu trong chỉ dụ nhưng có người
thì diễn giải đấy là thái độ nhất quyết từ bỏ vũ lực, có người lại giải
thích là hoàng đế A-dục chủ trương sự thuyết phục trước hết nhưng không
vì thế mà từ bỏ vũ lực khi phải cần đến. Riêng học giả Robert Lingat thì
khẳng định A-dục là một vị hoàng đế lỗi lạc, ý thức một cách minh bạch
trọng trách của mình trước sự an vui của toàn dân, tuy nhiên trên thực
tế đôi khi ông đã không hoàn toàn giữ đúng theo những nguyên tắc lý
tưởng mà ông đã nêu lên, chẳng hạn như ông không hủy bỏ án tử hình mà
chỉ đưa ra các biện pháp và thủ tục giúp cho thân nhân chống án và thiết
lập những nghi lễ cầu siêu cho người tử tội.
Tuy hối hận và cảm thấy
sự tàn ác do chính mình gây ra nhưng hoàng đế A-dục đã tiếp tục cho đến
thành công trong trận chiến Kalinga, vì theo ông đó là một sự cần thiết
không thể dừng lại được, trong khi đó nhiều người vẫn cho là chiến thắng
Kalinga không hẳn là một chiến thắng hoàn toàn vẻ vang như người ta
thường tưởng. Các sử gia và các học giả cho biết là đến nay ngoài vùng
lãnh thổ đã có từ trước của đế quốc Maurya, thì chưa có ai tìm thấy một
trụ đá nào ghi khắc sự hối hận của hoàng đế A-dục trong vùng biên giới
mở rộng Kalinga.
Sự hòa đồng tôn giáo
Sau khi chinh phục được
Kalinga, hoàng đế A-dục giới hạn tối đa việc sử dụng vũ lực và cố gắng
giải quyết mọi tranh chấp bằng cách thuyết phục và đối thoại. Một đế
quốc mênh mông không sao tránh khỏi sự chia rẽ và nội loạn, vì thế hoàng
đế A-dục đã tìm cách đoàn kết toàn dân bằng một lý tưởng chung, và lý
tưởng đó phải được hỗ trợ bởi các tập thể tôn giáo. Theo học giả Robert
Lingat thì chủ trương hòa đồng tôn giáo là nhắm vào mục đích quản lý và
cai trị xứ sở. Tất nhiên khi còn là một hoàng tử, A-dục phải được giáo
dục về cách cai trị, có nghĩa là phải biết tôn trọng mọi thành phần dân
chúng không phân biệt họ thuộc tín ngưỡng nào. Theo sử gia nổi tiếng
người Ấn là Romila Thapar thì đường hướng cai trị của hoàng đế A-dục là
tìm cách trấn an các tín ngưỡng khác, gián tiếp cho họ biết là không
phải vì sự ưu đãi Phật giáo mà ông sẽ gạt bỏ họ ra ngoài cộng đồng quốc
gia. Hơn thế nữa, chẳng những ông mong muốn các trào lưu tôn giáo được
nẩy nở một cách toàn vẹn mà còn khuyến khích các tôn giáo phải đến gần
với nhau, tìm hiểu và sống chung với nhau một cách hài hòa.
Sự hòa đồng đó có thể
gọi là chủ trương « đa tôn giáo » trong các thể chế chính trị ngày nay.
Hoàng đế A-dục đã thực thi chủ trương này một cách cụ thể, chẳng hạn như
việc ban bố một chỉ dụ chính thức đặt các nhà tu hành thuộc các tôn
giáo khác vào một giai cấp cao, được ưu đãi và kính nể trong xã hội,
đồng thời ông cũng cúng dường cho tất cả các tôn giáo khác. Vào năm -253
ông hiến dâng hai hang động thiên nhiên thật nổi tiếng riêng cho các
nhà tu khổ hạnh thuộc giáo phái Ajivika, giáo phái này chủ trương tất cả
đều do nơi số phận mà ra và sự hoán chuyển của linh hồn tùy thuộc vào
một nguyên tắc vận hành có tầm vóc vũ trụ hoàn và toàn phi cá thể.
Theo những nhận xét
trình bày trên đây thì hoàng đế A-dục vừa là một Phật tử thuần thành vừa
là một nhà lãnh đạo sáng suốt. Ông luôn luôn ước mong Đạo pháp sẽ
trường tồn mãi mãi trong dòng họ của ông. Ông bày tỏ trong một số chỉ dụ
lòng ước vọng của mình được nhìn thấy Đạo pháp truyền sang đời con, đời
cháu, đời chắt và mãi mãi như mặt trời và mặt trăng. Ước vọng đó được
ghi khắc lên mặt đá và đã giúp cho chúng ta hơn hai ngàn năm sau vẫn
nhìn thấy được tấm lòng thiết tha của ông đối với Phật giáo.
Theo sử liệu thì không
có những xáo trộn đáng kể nào xảy ra trong suốt triều đại của ông, nhưng
một số học giả Tây phương vẫn còn chưa tin hẳn vì số tư liệu quá dồi
dào chưa khai thác hết. Tuy nhiên một điều chắc chắn là tấm lòng hào
phóng của hoàng đế A-dục đối với Phật giáo và các tín ngưỡng khác đã làm
cho xứ sở nghèo đi, và đó cũng có thể là một trong những lý do để giải
thích sự suy tàn nhanh chóng của đế quốc Maurya sau khi ông qua đời.
Chế độ quân chủ và Phật giáo
Từ bi và bất bạo động
nếu giữ đúng theo lý tưởng Phật giáo thì rất khó đi đôi với sự thể hiện
quyền lực của những người cai trị. Khi nhà vua cần dùng đến sức mạnh, dù
là để bảo vệ dân chúng đi nữa, thì cũng không tránh khỏi được hậu quả
của sự hung bạo do chính mình gây ra, và đó là quy luật nhân quả trong
Phật giáo. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử, không phải chỉ riêng trên
đất Ấn mà khắp các nước khác ở Á châu, các triều đại Phật giáo vẫn quảng
bá, đề cao, tán dương chủ trương khoan dung, từ bi và đạo đức, từ bỏ
bạo lực và tôn vinh những giá trị tinh thần.
Những câu chuyện về Tiền
thân Đức Phật (Jataka) và vô số kinh điển khác « tán dương » hay « dựng
» lên những tấm gương đạo hạnh của những thánh nhân, những nhà tu hành,
những bậc vua chúa là nhắm vào mục đích xây dựng một quốc gia đạo đức,
vừa lợi ích cho dân gian lại vừa củng cố cho vương quyền. Hoàng đế A-dục
là một vị vua rất quan tâm đến sự tương quan hai chiều giữa tăng đoàn
và người thế tục, và ông đã ý thức được vị trí của mình trong sự tương
quan đó. Nhu cầu vật chất của tăng đoàn lệ thuộc vào sự cúng dường của
người thế tục và nhà vua là người đứng đầu và đại diện cho khối dân
gian. Người dân đương nhiên sẽ nhìn vào hành động, thái độ, cách đối xử
của nhà vua đối với tăng đoàn và Đạo pháp để đánh giá nhiệt tâm của
hoàng triều. Một thể chế quân chủ Phật giáo, hay bất cứ một sức mạnh cầm
quyền tôn thờ một tôn giáo nào khác cũng thế. Tất cả đều ít nhiều dùng
tôn giáo hay xem tôn giáo như một công cụ để củng cố quyền lực của mình.
Suốt trong lịch sử nhân loại sự tương quan giữa chính trị và tôn giáo
gần như là một sự kiện hiển nhiên, nhưng cũng có những thể chế không
nhìn thấy sự tương quan đó và đã thất bại nặng nề. Những thí dụ điển
hình quả thật cũng không hiếm.
Trường hợp của hoàng đế
A-dục là một thành công lớn vì ông đã tạo ra được sự tương quan hai
chiều như vừa kể, một sự cộng hưởng tuyệt vời giữa dân chúng và hoàng
triều, giữa người thế tục và tăng đoàn, giữa tâm linh và vật chất. Sự
tương quan đó hướng về một lý tưởng cao cả là một sức mạnh mang lại đoàn
kết cho xã hội, an vui cho con người và giải thoát cho chúng sinh. Sự
thành công của hoàng đế A-dục là nhờ vào chính sách cai trị xây dựng
trên sư chân thật, phát xuất từ thâm tâm của ông. Sự chân thật đó của
ông đối với tôn giáo đã được đền bù một cách xứng đáng bằng sự tin tưởng
của dân chúng.
Khi nghiên cứu tư liệu
và kinh sách liên quan đến hoàng đế A-dục hầu hết các học giả đều nhìn
thấy vị trí của ông trước một ngã ba đường, ông đứng trước hai thể chế
của Phật giáo : một bên là tăng đoàn và một bên là thế tục. Một mặt ông
mong muốn thiết lập hẳn hoi một quốc gia Phật giáo cho những người xuất
gia là tăng đoàn, và mặt khác là một quốc gia của những người Phật giáo
thế tục. Học giả Robert Lingat nhận xét và trình bày hai thể dạng này
thật rõ ràng, ông cho rằng hoàng đế A-dục đã xây dựng xã hội trên hai mô
hình Phật giáo khác nhau : thứ nhất là mô hình của một quốc gia mà toàn
thể mọi người đều biết tu tập, tiêu biểu cho một tăng đoàn rộng lớn, mô
hình thứ hai là một tập thể đông đảo gồm những người thế tục mà ông là
người đứng đầu để làm gương và hướng dẫn họ. Mô hình thứ nhất hướng đế
quốc của ông về cõi Niết bàn, mô hình thứ hai tuy còn vướng mắc trong
thế giới ta bà nhưng có thể giúp cho người dân được mãn nguyện trong bối
cảnh của một Thiên đường. Hai chữ Niết bàn và Thiên đường là các chữ do
chính học giả Robert Linga đã dùng để chỉ vị trí của hoàng đế A-dục
trước ngã ba đường. Dùng chữ Thiên đường thì hơi có vẻ Tây phương, tuy
nhiên cách nêu lên hai cảnh giới Niết bàn và Thiên đường đã diễn tả khá
chính xác và cụ thể cách cai trị của hoàng đế A-dục và những gì mà ông
ước mong thực hiện cho toàn dân trong vương quốc của ông.
Những năm cuối cùng của hoàng triều A-dục
Quyển Đại sử (Mahavamsa)
của Tích lan do vị đại sư Ma-ha Na-ma (Mahanama) ghi chép vào thế kỷ
thứ VI là một sử liệu quý giá, và cũng là quyển sử duy nhất ghi chép rất
minh bạch một số biến cố lớn trong vòng mười năm sau cùng của triều đại
A-dục, trong đó có thể trích ra một vài biến cố đáng chú ý sau đây :
- bà đệ nhất hoàng hậu qua đời vào năm thứ hai mươi chín của triều đại, tức vào khoảng năm -236.
- lễ tấn phong đệ nhất
hoàng hậu mới là bà Tissarakkha (tư liệu tiếng Phạn trên lục địa thì
viết là Tisyaraksa) vào năm thứ ba mươi hai. Bà này lúc nào cũng ghen
tức với hoàng đế A-dục vì ông mãi mê lo hành hương, chăm bón gốc cây Bồ
đề nơi Đức Phật đã đạt được Giác ngộ và thường xuyên làm lễ để tưởng nhớ
đến Đức Phật dưới cội cây này. Những sinh hoạt vừa kể của hoàng đế
A-dục xảy ra trong khoảng thời gian từ năm -232 đến năm -230.
- vào năm thứ ba mươi bốn của triều đại, hoàng hậu Tissarakkha tìm cách làm chết cây Bồ đề.
- hoàng đế A-dục qua đời vào năm thứ ba mươi bảy của triều đại.
Quyển Đại sử vừa kể trên
đây khá khách quan, trình bày các biến cố và sự kiện thật chính xác,
trong đó có những hành động điên rồ của đệ nhất hoàng hậu mới lên thay.
Kinh sách thường hay nhắc đến trường hợp độc ác của bà hoàng hậu này khi
hoàng tử Kunala được sai đi dẹp loạn ở Taxila vào khoảng năm -230 đến
-228. Tại hoàng cung bà âm mưu sai người đến Taxila làm mù cả hai mắt
của vị hoàng tử này, có tài liệu nói là móc cả hai mắt. Khi người ta
khám phá ra người chủ mưu chính là đệ nhất hoàng hậu Tissarakkha, thì bà
liền bị kết án tử hình.
Sự dòm ngó ngôi vua, âm
mưu và tranh chấp trong hậu cung và hoàng triều không sao tránh khỏi khi
hoàng đế A-dục bước vào tuổi già. Trên trụ đá số IV, có một chỉ dụ nhỏ
đặc cách cho hoàng hậu Kaluvaki, mẹ của hoàng tử Tivala, có quyền liệt
kê riêng tất cả các công đức và những lễ vật cúng dường mà bà đã thực
hiện được. Các học giả suy luận và nghĩ rằng ngay cả trên phương diện
cúng dường cũng có sự tranh chấp và ganh tị trong hoàng tộc. Các học giả
Tây phương còn đặt một nghi vấn nữa là trong khoảng thời gian yên lặng
kéo dài suốt ba năm từ khi đệ nhất hoàng hậu qua đời đến lúc chọn lựa
xong và đăng quan bà hoàng hậu thay thế rất có thể cũng đã xảy ra những
sự tranh dành quyết liệt.
Tư liệu và kinh sách cho
thấy có một số quan điểm bất đồng chính kiến liên quan đến một số biến
cố xảy ra, và sở dĩ có những bất đồng chính kiến là vì những người ghi
chép có khuynh hướng và những động cơ thúc đẩy khác nhau. Tuy nhiên tất
cả các nguồn sử liệu đều công nhận là cội Bồ đề nơi Đức Phật đạt được
Giác ngộ ở Chính giác sơn (Bodh Gaya) đã bị hủy diệt. Kinh sách trên lục
địa thì cho là cội Bồ đề đã đâm chồi trở lại một cách mầu nhiệm. Các tư
liệu Tích lan thì dồn tất cả sự tôn kính vào cành cây chiết từ cội Bồ
đề do chính người con gái của hoàng đế A-dục là ni sư Sanghamitta đem
đến Tích lan và không quan tâm nhiều đến cội Bồ đề trên lục địa. Người
Phật tử Tích lan xem gốc Bồ đề trên đất Tích lan là một sự hồi sinh của
những gì đã bị tàn phá.
Có một số tư liệu với
tính cách suy đoán có nêu lên tình trạng tinh thần của hoàng đế A-dục
trước khi ông băng hà. Quyển Đại sử (Mahavamsa) bằng ngôn ngữ Pali phản
ảnh trung thực quan điểm của trường phái Thượng toạ bộ (Theravada) cho
rằng hoàng đế A-dục cũng như bất cứ một chúng sinh nào khác, không ai
tránh khỏi định luật của vô thường. Các văn bản trên lục địa thì cho là
hoàng đế A-dục qua đời trong hân hoan và hạnh phúc vì ông đã thực hiện
được mục đích của đời mình : công đức cúng dường của ông có thể sánh
ngang hàng với công đức của ngài Cấp-cô-độc, và người con yêu quý mù loà
của ông tự nhiên sáng mắt trở lại một cách vô cùng kỳ diệu.
Các văn bản bằng ngôn
ngữ Pali chỉ quan tâm đến sự kiện Phật giáo được đưa vào Tích lan, và
không nói gì đến những biến cố xảy ra sau khi hoàng đế A-dục qua đời.
Các sử liệu trên lục địa thì ghi chép là có sáu thế hệ tiếp nối nhau trị
vì đế quốc Maurya, nhưng thật ra phả hệ đó không chính xác và có nhiều
nhầm lẫn quá lộ liễu. Các sử gia ngày nay cũng chịu thua, không thiết
lập được phả hệ các vị kế nghiệp hoàng đế A-dục từ khi ông qua đời cho
đến khi triều đại Maurya bị lật đổ và triều đại Sunga lên thay vào
khoảng năm -185 trước Tây lịch.
Lời kết
Khi nhìn qua những thành
quả và cách cai trị của hoàng đế A-dục từ 23 thế kỷ trước, thì chúng ta
hôm nay, với nhiều hiểu biết và nhiều kinh nghiệm hơn, hãy thử suy tư
và so sánh xem sao về những gì mà chúng ta gọi là sự tiến bộ của lịch sử
con người trong các xã hội hiện đại.
Tôn giáo và chính trị đã
tạo ra một sự tương quan khá chặt chẽ trong suốt lịch sử nhân loại từ
khi các tổ chức xã hội và quốc gia được hình thành. Đúng hơn thì phải
nói là khái niệm về tôn giáo dù còn mơ hồ nhưng đã phát sinh trước chính
trị rất lâu, từ lúc con người còn bán khai, sống thành từng nhóm trước
khi được tổ chức thành bộ tộc, và sau đó định cư thành làng mạc và phân
định ranh giới để tạo thành « quốc gia ». Trong lịch sử cận đại thì mối
tương quan giữa tôn giáo và chính trị đôi khi bị phá vỡ vì có sự tranh
dành quyền lực lẫn nhau hoặc vì chủ trương cho rằng tôn giáo là một trở
ngại cho sự tiến bộ xã hội.
Khái niệm « thế tục »
(laïc, laïcité, laique) là một khái niệm khá đặc thù của nước Pháp và
dân tộc Pháp. Chữ laïc phát sinh vào thế kỷ thứ XIII từ tiếng la-tinh là
laicus, có nghĩa là chung, thuộc dân gian hay dân chúng (laos), chữ
lacus bắt nguồn từ tiếng Hy lạp là laikos có cùng ý nghĩa như vừa kể.
Thật sự chữ « thế tục » lúc bấy giờ ít người biết đến, đó là một từ khá
đặc thù do nhà Thờ Thiên chúa giáo đặt ra để vạch một biên giới phân
biệt giữa hàng giáo sĩ nắm trọng trách lãnh đạo và những người cùng đạo
nhưng thuộc vào khối dân gian, trong đó kể cả những người cầm quyền dân
sự tức vương quyền. Nếu muốn nhìn thấy sự tranh chấp về quyền lực xưa
hơn nữa thì cũng có thể đơn cử một sự kiện khác là vào thế kỷ thứ V,
giáo hoàng Gélase I viết một bức thư cho hoàng đế Anastase của xứ Ba-tư
(Perse) để giải thích và cảnh giác vị hoàng đế này về sự phân quyền như
sau : quyền lực tạm thời tức vương quyền phải phục tùng uy lực tâm linh
tức thần quyền. Bức thư này báo hiệu sự ra đời về sau này của chủ thuyết
hai thanh kiếm (théorie de deux glaives) do giáo hoàng Boniface VIII
chủ xướng vào thế kỷ thứ XIII, một thanh kiếm tượng trưng cho vương
quyền và một thanh kiếm tượng trưng cho thần quyền. Hai quyền lực vừa
chống đối nhau lại vừa nương tựa vào nhau để củng cố vị thế của mình.
Mãi cho đến thời cận đại
tức vào cuối thế kỷ XVIII và nhất là từ đầu thế kỷ XIX, một khuynh
hướng mới được hình thành trong xã hội Pháp, đó là phong trào cách mạng
chống lại cả vương quyền lẫn thần quyền. Chữ « thế tục » (laïc) cũng
theo đó mà thay đổi ý nghĩa và chỉ định thành phần dân chúng đứng hẳn ra
bên ngoài tôn giáo và chống lại ảnh hưởng của tôn giáo trong các lãnh
vực sinh hoạt quốc gia. Một đạo luật hết sức quan trọng do quốc hội Pháp
biểu quyết ngày 9 tháng 9 năm 1905 tách rời nhà Thờ ra khỏi chính trị.
Hơn nữa thế kỷ sau bản hiến pháp 1959 mở đầu bằng một câu như sau : «
Nước Pháp là một nước Công hòa thế tục » (« La France est une République
laïque »).
Việc tách rời tôn giáo
ra khỏi chính trị vào các thế kỷ XIX và XX đã làm cho hầu hết mọi người
thở phào và xem đó là một tiến bộ vượt bực của các xã hội Tây phương.
Tuy nhiên dưới một khía cạnh khác hay một góc nhìn khác người ta cũng
nhận thấy rằng sự kiện tách rời đó trùng hợp với sự suy sụp thảm hại đã
xảy ra cho phía thần quyền, và phía bên kia tức là khối « thế tục », đại
diện bởi những thể chế chính trị phi tôn giáo cũng không khá hơn gì.
Mặc dù cực kỳ hùng mạnh trên phương diện quân sự và kinh tế, nhưng các
xã hội ấy đã đánh mất « linh hồn » của mình và trở nên bất định hướng,
thiếu một lý tưởng cao đẹp, tự đánh mất những giá trị đạo đức, nhân phẩm
và công lý do chính mình đề cao và cổ súy. Dưới áp lực của sự phát
triển kinh tế và những giá trị vật chất, một quốc gia hùng mạnh và dư
thừa vẫn có thể khom mình chịu nhục để tìm kiếm thêm thị trường, bất
chấp công lý, nhân quyền và lẽ phải, đôi khi còn tệ hại hơn thế nữa là
thực thi những âm mưu đen tối để lũng đoạn một số quốc gia yếu kém trong
mục đích củng cố vị thế và quyền lợi của mình.
Ngoài ra trong thế kỷ
XX, người ta cũng thấy có một số quốc gia trên thể giới chủ trương cho
rằng sức mạnh thần quyền là một trở ngại cho sự tiến bộ xã hội vì thế
cần phải loại bỏ tôn giáo trong xã hội, thực tế đã chứng minh cho thấy
đấy là một sự phiêu lưu hết sức ngây thơ và thiển cận. Nếu lật lại lịch
sử Phật giáo Trung hoa suốt trong hai mươi thế kỷ thì chúng ta sẽ nhận
thấy Phật giáo đã mang lại những lợi ích thiết thực tức là đạo đức cho
đời sống dân gian và cho cả phía vương quyền, và hơn thế nữa đã mở thêm
một chiều sâu cho nền văn hóa Trung hoa. Vương quyền Trung quốc trong
suốt gần hai mươi thế kỷ đã biết khai thác những giá trị đạo đức và nền
tư tưởng thâm sâu đó của Phật giáo. Tuy nhiên sự phát triển của Phật
giáo trên đất nước Trung hoa không phải là một sự kiện hiển nhiên và dễ
dàng, nhiều lần Phật giáo đã bị ngược đãi và gần như biến mất. Hai nền
văn hóa Ấn độ và Trung hoa hoàn toàn khác biệt nhau, hơn nữa khi Phật
giáo truyền sang Trung quốc thì Lão giáo và Khổng giáo là những truyền
thống đã ăn sâu từ trước trong xã hội Trung hoa. Sự phát triển của Phật
giáo ở Trung quốc là nhờ vào nền tảng rộng lớn và vững chắc của đạo đức
và chiều sâu của những tư tưởng triết học. Lòng Từ bi của Phật giáo vượt
hẳn lên trên những giá trị đạo đức kỳ thị nhắm vào mục đích an bài xã
hội và củng cố vương quyền của Khổng giáo, sự Giải thoát của Phật giáo
cũng đi xa hơn những phương thuốc trường sinh và các cách tu tiên của
Lão giáo. Hầu hết các vua chúa Trung hoa trong quá khứ đã nhìn thấy và
khai thác sức mạnh đó của tín ngưỡng Phật giáo.
Chỉ cần lật ra vài trang
đầu tiên của lịch sử Phật giáo trên đất nước Trung hoa, chúng ta cũng
sẽ tìm thấy vô số giai thoại ca ngợi những vị đế vương. Phật giáo truyền
vào Trung quốc vào giữa thế kỷ thứ I dưới triều đại của Đông Hán Minh
Đế, vậy xin trích dẫn một đoạn trong các truyền thuyết liên quan đến
Minh Đế nhà Đông Hán như sau :
« …Một đêm, Hán Minh
đế mơ thấy một vị thần cao hai trượng, toàn thân phủ một lớp vàng lóng
lánh…Ngài bay đến trước đại điện trong Vương Cung…Ngày hôm sau ngài lại
mơ thấy vị thần này, lập tức ngài đi hỏi quần thần…Có một vị tên là Sát
Âm, là một người học sâu biết rộng…liền trả lời rằng : « Con nghe nói ở
nước Thiên trúc phương Tây có một vị đắc đạo, được mọi người tôn xưng là
Phật, ngài có thể bay một cách nhẹ nhàng…Lập tức ngài [tức là Hán Minh
đế] sai một sứ giả tên là Trương Khiên cùng quan Vũ Lâm…. đến ngay Tây
phương cầu Phật pháp » (Trích trong quyển Các đế vương Phật giáo, tác giả Vương Chí Bình, bản dịch Đào Nam Thắng).
Theo các học giả Tây
phương thì các nhà sư đầu tiên đến Trung quốc giảng Pháp vào giữa thế kỷ
thứ I là những người thuộc Tây vực, tức vùng Tân cương và vùng cận đông
ngày nay, không phải là người Ấn độ như trong các tư liệu Trung quốc,
hơn nữa việc giảng Pháp cho người dân Trung hoa đã thấm nhuần Khổng giáo
và Lão giáo không phải là một chuyện dễ dàng. Những huyền thoại như vừa
trích dẫn trên đây có chủ đích tự lập công của Hán Minh đế. Phương pháp
cai trị của thời cổ đại và quân chủ nói chung thường dựa vào sự thuyết
phục và hàng quan lại phải tự làm gương cho dân chúng. Phương pháp đó
tương đương với những gì mà thuật ngữ ngày nay gọi là tuyên truyền.
Hoàng đế A-dục cũng đã
sử dụng cách cai trị ấy tức là cách thuyết phục và làm gương cho dân
chúng bằng những « sản phẩm tuyên truyền » gồm có những sự tích, những
câu chuyện nêu lên những tấm gương từ bi, hiếu thảo, hy sinh và đạo đức.
Những sự tích hay những câu chuyện ấy gọi chung là avadana, nhưng nếu
nhân vật chính trong câu chuyện là hoàng đế A-dục thì gọi là
azokavadana. Ngay cả tập sách kể lại những câu chuyện về Tiền thân Đức
Phật (Bản sinh kinh – Jataka) cũng rất có thể được trước tác trong mục
đích này. Cũng xin minh chứng là Bản sinh kinh tuy gọi là kinh và thuộc
vào Tam tạng kinh điển, nhưng không phải là những lời thuyết giảng của
Đức Phật, và tập truyện này có lẽ đã được trước tác vào khoảng thế kỷ
thứ IV trước Tây lịch. Những câu chuyện đạo đức từ nghìn xưa mà hôm nay
khi đọc lại chúng ta vẫn thấy còn có một chút gì lưu luyến, trái lại
những sản phẩm tuyên truyền ngày nay có khi sang ngày hôm sau cũng đã
lỗi thời. Đấy là chưa nói đến những sự lường gạt, dối trá, nhồi sọ và
khích động làm cho con người trở nên điên rồ, ôm bom tự sát để giết hại
thêm nhiều người khác.
Khi đem so sánh sự tuyên
truyền ngày nay với cách thuyết phục và làm gương của hoàng đế A-dục,
thì người ta sẽ thấy ngay sự khác biệt và sẽ phải công nhận hoàng đế
A-dục là một nhà lãnh đạo có thực tài, đã tạo ra một mối tương giao
thăng bằng giữa tôn giáo và chính trị, sự thành công đó không phải hoàn
toàn nhờ vào những câu chuyện đạo đức và sự thuyết phục tức là tuyên
truyền mà còn nhờ vào sự ngay thật, lòng từ tâm và tác phong đạo đức của
chính ông.
Phật giáo là một lối
sống, một phương pháp suy nghĩ và nhận biết thật tướng của những hiện
tượng trong vũ trụ này. Tất cả những thứ ấy, từ lối sống và cách suy
nghĩ cũng như cách cảm nhận về mọi biến cố trong vũ trụ vượt xa hơn và
cao hơn mọi khái niệm về chính trị. Đức Phật đi chân đất, hai tay ôm
bình bát để làm gương cho các đệ tử của Ngài, và đồng thời tạo ra cho họ
một lối sống. Lối sống đó không đứng lên trên, cũng không đứng vào
trung tâm mà chỉ đứng bên cạnh hay bên ngoài xã hội này mà thôi. Chủ
đích và mối quan tâm hàng đầu của lối sống đó là tìm hiểu sự vận hành
của tâm thức trước mọi hiện tượng để phân tích và phá vỡ mọi tổng thể,
tháo gỡ mọi kết nối giả tạo của trí tưởng tượng, đánh tan những chập
chờn của ảo giác. Chủ đích đó và mối quan tâm đó không giống những chủ
trương của sinh hoạt chính trị.
Các chủ thuyết chính trị
thường so sánh một quốc gia, hay một xã hội với một cơ cấu to lớn, một «
cá nhân tập thể » trong đó mỗi con người biến thành những bộ phận đơn
vị, kết hợp lại để tạo ra một « cá thể không lồ ». Quá trình suy luận
của Phật giáo thì đi ngược hẳn lại khái niệm đó và hướng về một chiều
đối nghịch bằng cách sử dụng con dao trí tuệ (prajna) để chia cắt cá thể
con người thành cơ quan, tế bào và sau cùng là không gian trống không
giữa những hạt nguyên tử. « Cái tôi » chỉ là một danh xưng vì dưới lưỡi
dao của trí tuệ người ta không tìm thấy nó. Vì thế cơ cấu quốc gia hay
một tập thể xã hội gồm vô số những « cái tôi » mà người ta lầm tưởng là
một thực thể vững chắc thật ra chỉ là những chuyển động của ảo giác,
những bóng ma mà những người làm chính trị không ngừng chạy theo để đuổi
bắt, và chắc chắn là không bao giờ họ nắm bắt được, vì ảo giác này chưa
kịp chấm dứt thì ảo giác khác đã sinh ra. Vì thế đối với một người tu
tập thì « nói chuyện chính trị » không có nghĩa gì cả. Những lời kêu gọi
và hô hào, những chương trình, những thành quả, những mục tiêu… đều
hoàn toàn rỗng tuếch đối với họ.
Phật giáo không tìm cách
kết nạp cho nhiều thêm, mạnh thêm, mà chỉ phân tích mọi hiện tượng cho
đến chỗ trống không giữa những hạt nguyên tử đang chuyển động, để tự
đồng hóa với mọi con người, với nhân loại và tất cả chúng sinh trong
muôn ngàn thế giới. Trong khi đó chính trị thì phân biệt và dừng lại
trong các giai cấp con người, kết nạp và tổ chức đảng phái, phân định
lãnh thổ quốc gia để kình chống và gây hấn với nhau.
Tuy nhiên theo một hướng
nhìn khác, chúng ta cũng cần phải hiểu rằng đối với Phật giáo một cá
thể con người không phải chỉ là sự cấu hợp hỗn độn và ngẫu nhiên của các
mô cơ thể, của những tế bào và những hạt nguyên tử. Cái tổng thể cấu
hợp đó là hậu quả của nhiều nguyên nhân và điều kiện, hàm chứa bản năng,
giác cảm và những xu hướng giúp cho nó biết cảm nhận và bám víu. Sự cảm
nhận và bám víu tạo ra ảo giác của một « cái tôi » hay một « cái ngã »
tự tại, trường tồn và bất biến, làm nguồn gốc phát sinh ra khổ đau. Cái
không gian trống không liên kết các hạt nguyên tử không khổ đau, cái
tổng thể ảo giác luôn luôn chuyển động của một thể chế quốc gia hay xã
hội cũng không khổ đau, nhưng từng cá thể con người tạo ra các cơ cấu
khổng lồ đó phải trực tiếp gánh chịu khổ đau.
Đến đây chúng ta hãy thử
mượn thí dụ về một sợi dây thừng của Thế thân (Vasubanhu), một luận sư
thuộc thế kỷ thứ IV của đại học Na-lan-đà, nêu lên trong tập A-tì-đạt-ma
câu-xá luận (Abhidharmakosa) của ông như sau : sợi dây thừng gồm vô số
những cọng xơ dừa bện chặt vào nhau, nếu đem tháo rời từng cọng xơ dừa
thì nó sẽ làm mất đi chiều dài và sức bền chặc của một sợi dây thừng.
Nhất định mỗi cọng xơ dừa không thể dùng để kéo một chiếc xe hay cột một
con trâu, sự tương quan giữa cá thể con người đối với một cơ cấu xã hội
hay một cộng đồng quốc gia cũng giống như sự tương quan giữa những cọng
xơ dừa và sợi dây thừng.
Tuy nhiên dù là mỗi cọng
xơ dừa hay toàn thể sợi dây thừng thì cả hai cũng đều là những tổng thể
cấu hợp, chỉ có sự khác biệt là hai tổng thể ấy ở vào hai cấp bậc cấu
hợp khác nhau và hàm chứa những chức năng khác nhau. Khi một cá thể con
người tự nhận diện và đồng hóa mình với một tổng thể xã hội hay một cộng
đồng quốc gia thì cũng sẽ tự động cảm nhận được vị trí và chức năng tập
thể của cái xã hội ấy hay cái quốc gia ấy.
Phật giáo nêu lên bốn
nguyên tắc nòng cốt mà tất cả các tông phái và học phái đều tán đồng và
chấp nhận, bốn nguyên tắc ấy gọi là bốn dấu ấn, dấu ấn thứ nhất là : tất
cả mọi hiện tượng cấu hợp đều vô thường, và dấu ấn thứ hai là : tất cả
những gì hư cấu (hay giả hợp) đều là khổ đau. Vì thế nếu đã tự đồng hóa
với tổng thể xã hội thì mỗi cá thể con người phải gánh chịu hai thứ khổ
đau : khổ đau của chính mình và khổ đau của « cá nhân tập thể » tức xã
hội hay quốc gia. Hai thứ khổ đau đó có thể xem như hậu quả phát sinh từ
biệt nghiệp và cộng nghiệp của mỗi con người.
Nếu những khổ đau tập
thể của một cộng đồng xã hội hay một quốc gia là một sự thực, thì nhất
định những khổ đau đó phải có một nguyên nhân, nếu có một nguyên nhân
làm phát sinh ra khổ đau thì dù cho khổ đau đó có rộng lớn đến đâu đi
nữa thì vẫn có thể làm cho nó chấm dứt được. Đức Phật đã thuyết giảng
cho chúng ta con đường đưa đến chấm dứt khổ đau. Tuy nhiên nếu có một
thứ khổ đau tập thể thì nhất định nó phải phát sinh từ một nguyên nhân
nào đó, cái nguyên nhân ấy chính là cái vô minh tập thể.
0 comments
Post a Comment