Một nền cộng hòa đơn giản là kiểu chính quyền hiến định trong đó những
người nắm quyền là do các công dân chọn lựa. Một chính quyền hiến định
là một chính quyền mà trong đó tổ chức căn bản và các bộ phận của nó
được luật pháp xác lập. Đó là một chính quyền của luật pháp hơn là một
chính quyền của những con người cụ thể nào đó. Kiểu “Ta là quốc gia” của
Louis XIV[33] hay “Ta là luật pháp” của Adolf Hitler[34] là cách diễn
đạt tiêu biểu cho các chính quyền không do hiến định. Các nền cộng hòa
cũng khác biệt nhau. Đã có những nền cộng hòa do những người giàu có
hoặc dòng dõi thượng lưu cai trị. Những nền cộng hòa đó được gọi là chế
độ qúi tộc hoặc chế độ quả đầu. Chúng tồn tại ở Hy Lạp cổ, ở Ý thời Phục
hưng và ở Anh thế kỷ 18. Đó là những hình thức chính quyền hiến định
trong đó những người cầm quyền là do các công dân chọn ra, nhưng những
công dân đó chỉ là một thiểu số ưu tú dựa trên tiêu chuẩn dòng dõi hoặc
tài sản.
Dân chủ cũng là hình thức chính quyền hiến định hoặc cộng hòa như vậy
nhưng những người nắm quyền là do một số đông, thay vì một thiểu số,
chọn ra. Bây giờ, từ “số đông” lại có nhiều ý nghĩa thay đổi qua các
thời kỳ. Đã có một thời cách đây không lâu tại Mỹ khi phụ nữ không được
quyền bầu cử. Cuộc đấu tranh của người da đen để giành quyền bầu cử vẫn
còn diễn ra ở một số tiểu bang miền Nam. Ở Hy Lạp cổ, nơi phát nguyên
thuật ngữ “nền dân chủ”, các nô lệ và người nước ngoài không được quyền
bầu cử. Ở Athens thời Pericles, đỉnh cao của nền dân chủ Hy Lạp, trong
dân số 120.000 người thì có chưa tới 30.000 người được coi là công dân.
Ngay trong mô hình cộng hòa, nước Mỹ trong thời kỳ đầu cũng giới hạn
quyền bầu cử cho riêng những người tự do thôi (tức là người da trắng),
và ở nhiều bang người ta phải đạt những điều kiện về tài sản thì mới có
quyền bầu cử. Nhưng nguyên tắc về nền cai trị bởi “một bộ phận lớn dân
chúng” đã có mặt ngay từ buổi đầu ấy; thực tình, tôi đã lấy nhóm từ này
trong The Federalist (“Hồ sơ Liên bang”). Alexander Hamilton và những
người khác bảo vệ Hiến pháp Mỹ đã chọn “chính quyền nhân dân” hơn là chế
độ quân chủ, quí tộc hay quả đầu.
Một sự lẫn lộn nào đó đã nảy sinh từ sự kiện rằng Hamilton cùng những
nhà lập quốc khác của Mỹ đã nói rằng họ ủng hộ một nền cộng hòa hơn một
nền dân chủ. Nhưng khi nói đến nền cộng hòa, họ muốn nói đến một nền dân
chủ đại diện, trong đó dân chúng trao quyền lập pháp và hành pháp cho
những người mà họ bầu chọn. Họ muốn cơ chế này hơn là kiểu công dân trực
tiếp hành động cùng cai trị như trong những nền dân chủ ở Hy Lạp cổ.
Ngày nay sự phân biệt này cũng cổ lỗ rồi, vì các nền dân chủ hiến định
hầu như luôn vận hành thông qua các đại biểu của dân chúng. Nền dân chủ
đại diện, như chúng ta có ở Mỹ hiện nay, là một chính quyền cộng hòa.
Quyền bầu cử ngày nay đã được bảo đảm cho mọi công dân thành niên có
thần kinh lành mạnh. Địa vị công dân được dành cho bất kỳ ai ra đời tại
Mỹ hoặc đã nhập tịch đúng thủ tục. Phổ thông đầu phiếu là điều khác biệt
căn bản giữa nền dân chủ Mỹ với nền dân chủ ở Hy Lạp cổ hoặc nước Mỹ
buổi đầu lập quốc. Một khác biệt nữa giữa nền dân chủ Hy Lạp cổ và nền
dân chủ Mỹ là ở chỗ người Mỹ trao các quyền chính trị cho những người
nắm quyền thay vì trực tiếp cai trị thông qua những đại hội đồng nhân
dân.
Điều cốt tủy của nền dân chủ là phổ thông đầu phiếu mà không bị những
hạn chế độc đoán dựa trên dòng dõi, tài sản hay tín ngưỡng. Đây là nguồn
cội của điều tôi gọi là “tự do chính trị”. Tôi nghĩ điều này quan trọng
đến nỗi tôi dành cả một phần trong tập thứ nhất của bộ The Idea of
Freedom (“Ý niệm Tự do”) để bàn về nó.
Trong bộ sách đó, tự do chính trị là một quyền tự do mà chính quyền hiến
định dành cho người dân, và quyền đó chỉ nằm trong tay những người đã
hoàn toàn trưởng thành và là thành viên tích cực của một cộng đồng biết
tự trị. Quyền tự do đó nằm trong quyền bầu cử. Điều cốt yếu đối với tự
do chính trị là ở chỗ ý chí của cá nhân công dân thực sự quyết định ý
chí của chính quyền. Đó là điều mà các chế độ chuyên chế, độc tài, hoặc
dân chủ giả hiệu đều không đạt được.
0 comments
Post a Comment