David Couzens Hoy
Như Huy dịch
Những thập kỷ cuối của thế kỷ này được đánh dấu bởi một cuộc khảo sát
liên ngành [interdisciplinary] và đa cấp độ nhắm vào lý thuyết thông
diễn và các hậu quả về mặt thực hành của nó. Để nói về một cuộc cách
mạng trong lịch sử tư tưởng thì có lẽ là hơi to tát, song một cách đích
xác, đã có thể gọi cái trào lưu chung này là “khúc ngoặt thông diễn”.
Khúc ngoặt này thể hiện qua vô số hình thức, bao gồm các nghiên cứu văn
hóa hậu cấu trúc, nghiên cứu văn chương giải kết cấu, nhân học và khoa
học xã hội có tính diễn giải, cũng như các nghiên cứu luật pháp có tính
phê phán. Đương nhiên, các khúc ngoặt cụ thể xẩy ra trong mỗi lãnh vực
nói trên chính là sự phản ứng lại với các phương cách thực hành khuôn
phép khoa học trước đó, thuộc mỗi lãnh vực ấy. Song, ở mỗi trường hợp,
việc nhấn mạnh vào diễn giải đều thường được sử dụng như thể thuốc giải
[antidote] cho các quan niệm kiểu khách quan chủ nghĩa nơi các phương
pháp thuộc khuôn phép khoa học trước đó. Tuy nhiên, thật khó tưởng tượng
về sự xuất hiện của bất kỳ khúc ngoặt cụ thể nào nếu trước thời điểm
của những sự xuất hiện ấy, cũng trong cùng thế kỷ này, không có một cuộc
đổi thay quan trọng do triết học của Martin Heidegger, trong cuốn Tồn
tại và Thời gian [Being and Time] của ông, in năm 1927, – mang lại. Khúc
ngoặt thông diễn của Heidegger xẩy ra hiển ngôn trong phần 31 và 32 của
cuốn sách nói trên, ở đó, Heidegger tạo nên sự quán giác
[understanding] có tính diễn giải vào mẫu trung tâm của sự hiện sinh
thuộc con người (hay còn gọi là Dasein)(1).
Vào năm 1927, bản thân Heidegger không thể hình dung được các tác
động đa dạng mà lý thuyết của ông sẽ gây ra trên nền tư tưởng sau này,
và trong phần kết bài tiểu luận này tôi sẽ tường thuật ảnh hưởng của ông
lên các dòng triết học giải kết cấu và thông diễn xuất hiện ở nửa sau
thể kỷ 20. Song vào thời gian đó, Heidegger cũng đã coi nghiên cứu của
ông về sự quán giác như một cuộc công phá cách mạng nhắm vào mối quan
tâm chủ đạo của triết học truyền thống nơi vấn đề nhận thức hay nơi mối
quan hệ lưỡng phân giữa chủ thể tính và khách thể tính. Để tường giải
cuộc công phá này, tôi sẽ bắt đầu bằng việc xem xét cẩn thận các chi
tiết trong nghiên cứu của Heidegger về sự quán giác và diễn giải ở cuốn
Tồn tại và Thời gian, đặt để chất liệu này trên hậu cảnh của thông diễn
học truyền thống cũng như của triết học Kant và Descartes.
KHÚC NGOẶT SIÊU THÔNG DIỄN TRONG SỰ TỰ KHÁI NIỆM HÓA CỦA TRIẾT HỌC.
Hans-Georg Gadamer, qua cuốn Chân Lý và Phương pháp (Truth and
Method) của mình đã là triết gia đầu tiên phát triển nghiên cứu về diễn
giải của Heidegger thành môn thông diễn học tổng quát -, định nghĩa
thông diễn học như thể sự dấn thân triết học với câu hỏi cốt tử, đó là:
làm thế nào có thể có được sự quán giác? (2) Lối lập vấn này cũng giúp
đặc tính hóa một cách đủ trực diện về ngành triết học thông diễn mà bản
thân Gadamer cung hiến cho nền tư tưởng của thế kỷ 20. Tuy nhiên, trước
thời Heidegger, hay với bất kỳ ai chưa từng đọc qua Heidegger, câu hỏi
cốt tử trên của Gadamer lại có vẻ lạc đề [misleading], bởi qua đó, thông
diễn học dường như có vẻ chỉ là một nhánh của triết học, tức nhánh phân
tích về hiện tượng quán giác, đối lập với các tác vụ khác của con người
như: nhận thức hay ngôn ngữ. Các triết gia thông diễn trước thời
Heidegger đã thực sự nghĩ về quán giác theo hướng này, và bởi vậy họ
phân biệt các khuôn khép khoa học giúp thụ đắc nhận thức một cách khách
quan, như trong khoa học tự nhiên chẳng hạn, khỏi các khuôn phép khoa
học không thể đưa ra sự tường giải kiểu quy luật [lawlike], mà thay vào
đó, chỉ mang tới các diễn giải, như trong các ngành khoa học nhân văn
(hay Geisteswissenschaften: Các Khoa Học Tinh Thần [tiếng Đức]) chẳng
hạn.
Sở dĩ có sự phân loại như thế là bởi lý do rằng; các khuôn phép khoa
học theo kiểu khoa học nhân văn như lịch sử, luật, các nghiên cứu văn
hóa và văn chương (và có lẽ ngay chính triết hoc) hiếm khi, hay không
bao giờ đưa ra được các tường giải cạnh tranh nổi với các quy luật nhân
quả thuộc khoa học tự nhiên, và như vậy, các khuôn phép thuộc khoa học
nhân văn có vẻ chỉ là những họ hàng nghèo trong họ tộc của sự nhận thức.
Một phương cách dùng để bảo vệ cho các Geisteswissenshaften sẽ là việc
đòi hỏi một địa vị tách bạch cho chúng và coi chúng như các ví dụ cho
một thao tác nhận thức [cognitive] kiểu khác với tên gọi là: sự quán
giác. Mặt yếu của sự chuyển vị này, đi suốt dọc con đường của thông diễn
học truyền thống từ Friedrich Schleiermacher (1768-1834) tới Wilhelm
Dilthey (1833-1911), nằm ở chỗ; dường như nó để mặc sự quán giác trong
vai trò một tiểu loài [subspecies] yếu ớt và phái sinh của nhận thức.
Bộ phận trung tâm nơi di sản của Heidegger có nguồn mạch từ quan niệm
hoàn toàn khác của ông về thông diễn học. Phân tích của Heidegger về
Dasein trong vai trò là tồn-tại-trong-thế-giới [being-in-the-world]
(3)đã thay đổi cách hiểu của chúng ta về quán giác, từ việc coi nó là
một hiện tượng phái sinh thành ra một đặc trưng trung tâm, một viên đá
đỉnh vòm nơi kinh nghiệm con người. Như Gadamer đã lưu ý,” các phân tích
về khía cạnh thời gian mà Heidegger dành cho Dasein, tôi nghĩ, đã
trình bày một cách thuyết phục rằng: sự quán giác không chỉ là một trong
những hành vi khả hữu của chủ thể, mà tự thân nó, còn là một mẫu tồn
tại của Dasein…và do đó bao quát toàn thể kinh nghiệm của Dasein về thế
giới” (4) Khi sự quán giác trở nên hiện tượng trung tâm cho triết học,
thông diễn học sẽ không còn bị quan niệm chỉ như một nhánh phái sinh của
triết học nữa, mà thay vào đó, bản thân triết học sẽ có tính thông
diễn, hay ít nhất, giờ đây, người ta có thể nói về một tiếp cận mang
tính thông diễn rõ rệt đối với triết học, đối lập với kiểu tiếp cận
truyền thống, đi từ Descartes, Kant, tới Husserl, tức kiểu tiếp cận quan
niệm con người như một ‘chủ thể”, hay kẻ nhận thức đứng tách biệt khỏi
thế giới và hành vi thực hành [của nó-ND] ở trong thế giới.
Bởi lẽ đó, sự triệt để nơi khúc ngoặt thông diễn của Heidegger so với
triết học trước đây nằm ở chỗ; nó từ khước mô hình chủ thể theo kiểu
truyền thống: một kẻ nhận thức đứng cao hơn những gì sẽ được nhận thức,
tức thế giới khách quan. Khúc ngoặt thông diễn học của ông cho thấy hai
điều, một là: vốn từ vựng về tâm thức thuộc mô hình chủ thể-đối tượng
không phải là mốc xuất phát duy nhất của triết học, và hai là: vốn từ
vựng này được sinh ra từ một mốc xuất phát cơ sở hơn, đó là từ sự quán
giác, tức từ chính ngay nơi mà Dasein và thế giới gặp nhau. Heidegger
coi Dasein và thế giới như thể một vòng tuần hoàn [circle], và bởi vậy,
ông đã mở rộng vòng tuần hoàn thông diễn kiểu truyền thống giữa văn bản
và sự đọc văn bản ấy tới một cấp độ nguyên bản [primordial] nhất của sự
hiện sinh thuộc con người. Dưới góc độ truyền thống, hình hệ cho vòng
tuần hoàn thông diễn chính là việc đọc một văn bản, tức hành vi mà [kẻ
đọc-ND] sẽ không thể diễn giải được các bộ phận nếu thiếu đi sự quán
giác về toàn thể, song cùng lúc, cũng không thể nắm bắt được toàn thể,
nếu không có một quán giác vào các bộ phận. Như tôi sẽ tường giải, trong
quan niệm sâu xa hơn về vòng tuần hoàn thông diễn như một đặc trưng của
sự hiện sinh thuộc con người nói chung, mối liên hệ giữa nhận thức và
sự quán giác không đối kháng, cũng không bất cần, mà là một mối liên hệ
trong đó tác vụ được quy định của việc đạt tới nhận thức chỉ là một tiểu
loài của hiện tượng quán giác tổng quát hơn của con người.
Heidegger bắt đầu công cuộc triệt để hóa khúc ngoặt thông diễn của
ông trong phần 31 của Tồn tại và Thời gian nhờ vào việc phân biệt quan
niệm về quán giác của mình khỏi một quan niệm khác về việc một triết
gia làm thế nào có thể có mối quan tâm tới việc phân tích về quán giác:”
‘Sự quán giác’, theo nghĩa một kiểu nhận thức khả hữu trong số các kiểu
nhận thức khác (được phân biệt khỏi, ví dụ như, “sự tường giải”), cũng
như sự tường giải vậy, phải được Diễn Giải như là một phái sinh phổ sinh
[existential derivative] từ sự quán giác sơ cấp [primary
understanding], tức một trong những cấu tố của “Tồn tại”[Being] (5) nơi
cái “tại-thế” [‘there’] nói chung (Tồn tại và Thời gian, 182). Từ góc độ
truyền thống, thông diễn học tiền Heidegger phân biệt sự quán giác và
diễn giải thuộc khoa học nhân văn khỏi các tường giải theo kiểu quy luật
của khoa học tự nhiên, và bởi vậy nó đặt bản thân vào một vị trí yếu
kém khi cái siêu truy vấn [metaquestion] xuất hiện: Bản thân triết học
thông diễn sẽ đòi hỏi vai trò thế nào cho sự nhận thức? Phải chăng chính
triết học thông diễn là một chân tường giải [right explanation], hay nó
chỉ là một diễn giải khả hữu [trong số các diễn giải khác-ND] mà thôi?
Rõ ràng là thông diễn học tự mình không đưa ra được các tường giải nhân
quả, và nếu thế, sự xuất hiện của nó, trong trường hợp tốt nhất, chỉ là
một diễn giải khả hữu, chứ không thể là sự tường giải khẳng quyết sinh
ra từ sự khảo cứu và cuộc hiện sinh thuộc con người. Thông diễn học
truyền thống, và đặc biệt là thông diễn học của Dilthey, do đó bị đe dọa
bởi thuyết tương đối, đặc biệt là về chính vai trò triết học của bản
thân nó.
Heidegger cũng sẽ cho rằng: Tồn tại và Thời gian chính là một diễn
giải. Song bởi sở hữu một quan niệm sâu xa hơn về việc thế nào là sự
quán giác, ông cũng sẽ có một quan niệm khác về diễn giải, và một nghiên
cứu khác về việc làm thế nào sự diễn giải sinh ra từ sự quán giác. Ông
hiểu sự quán giác không đơn giản chỉ là một hình thức nhận thức trong số
các hình thức khác, mà là khả năng cơ sở nhất chúng ta sở hữu để sống
và hòa hợp thành thạo cùng thế giới xung quanh. Đương nhiên, khả năng
này cũng còn phải lưu tâm tới việc là: những phương cách qua đó đặc tính
của thế giới tỏ lộ ra luôn thay đổi miên viễn, và chính sự thay đổi
miên viễn này sẽ đòi hỏi chúng ta phải kiến tạo nên các diễn giải cụ
thể. Khi các dự phóng và nhu cầu của chúng ta thay đổi, sự diễn giải của
chúng ta sẽ thay đổi theo. Ví dụ, đôi khi, ta phải diễn giải bản thân
trong vai trò là sinh viên, đôi khi như thành viên gia đình, đôi khi như
kẻ tiêu thụ hàng hóa, và có lẽ, đôi khi như triết gia. Tuy nhiên
Heidegger gợi ý rằng, tất cả các diễn giải này đều tiền giả định một sự
quán giác cơ sở về thế giới, tức điều gì luôn cắt ngang qua các diễn
giải ấy. Sự chuyển đổi của chúng ta từ diễn giải này tới diễn giải khác
vào khoảnh khắc thích hợp chính là dấu hiệu của việc chúng ta thực sự
hiểu [understand] thế giới. Như thế, một sự thay đổi trong diễn giải
không nhất thiết là dấu hiệu của sự quán giác sai, bởi trong những
trường hợp này, các sự thay đổi trong diễn giải cho thấy rằng chúng ta
có thể hòa hợp với vô số đòi hỏi mà thế giới đặt cho chúng ta.
Heidegger mô tả “sự quán giác cơ sở” là điều cắt ngang qua vô số
phương cách hiện sinh (trong) cũng như qua vô số sự diễn giải (về) thế
giới. Vậy vai trò nào dành cho tác vụ triết học của sự tường thuật? Sự
tường thuật triết học tự thân đã là một sự diễn giải, song nó nằm trên
một mặt bằng [plane] khác với những diễn giải tuôn chảy thuần nhiên từ
các ứng xử thường nhật của chúng ta khi chúng ta hòa hợp cùng thế giới.
Bởi vậy, Heidegger phân biệt giữa Auslegung và Interpretierung.
Auslegung, được dịch một cách thông thường sang tiếng Anh là
“intepretation” (sự diễn giải), với mẫu tự “i” viết thường-, tham chiếu
tới các hiện tượng thường nhật thể hiện nơi các kỹ năng thông thường như
đóng đinh, đánh máy, hay lái xe. Intepretierung, được dịch sang tiếng
Anh là: “Intepretation” (Sự Diễn Giải), với mẫu tự “I’ viết hoa, tham
chiếu tới sự nối khớp và lý thuyết hóa có tính đề hóa và diễn ngôn. Bản
thân Interpretierung được coi là một hình thức phái sinh của Auslegung,
song Heidegger rõ ràng không có ý coi nhẹ Interpretierung chút nào, bởi
đây chính là những gì mà Tồn tại và Thời gian thể hiện ra. Một
Interpretierung là một cuộc xem xét kỹ lưỡng mang tính phản tư về các
hiện tượng, như khi nó được tiến hành trong triết học và ngữ văn học. Và
như thế, Heidegger đã đòi hỏi rằng, chính vai trò của sự
Interpretierung triết học chứ không phải “sự nhận thức” hay “tường
giải”-, mới là một tường thuật về công việc của ông.
Trong khi các diễn giải thông thường ít nhiều đều có tính tự động,
Diễn Giải triết học về những diễn giải thông thường này lại có tính phản
tư trong hai cảm thức. Ở cảm thức thứ nhất, nó phải nối khớp hay đề hóa
một cách hiển ngôn những gì đang tiếp diễn một cách trực tiếp và ít
hiển ngôn hơn trong cuộc chìm nhập thường nhật. Ở cảm thức thứ hai, một
cách lo-gic, tự nó phải là một tuyên ngôn trong các tuyên ngôn khác về
sự quán giác cơ sở. Nó sẽ không là một tái hiện về điều gì đó có trật
tự khác với nó, mà cùng kiểu với chính những gì nó nắm bắt. “Diễn Giải”
triết học có thể trở nên “đồng dạng” với các hành vi thuộc hiện tượng
học nơi các diễn giải thông thường về thế giới bởi bản thân nó chính là
một hình thức của hiện tượng tương tự, dù là một hình thức hiển ngôn và
nối khớp hơn. Như thế, Diễn Giải triết học không hề có tính võ đoán, và
không bị đe dọa bởi vấn đề thuyết tương đối, bởi nó chính là một trường
hợp của sự quán giác cơ sở mà nó đang gắng nắm bắt. Diễn Giải triết học
có lẽ được tinh lọc, hay có lẽ được thay thế bằng các tái miêu tả đến
sau về việc triết học nên là gì, song nếu ta đồng ý rằng có hiện diện
một sự quán giác cơ sở về thế giới, việc nối khớp triết học cho sự quán
giác ấy sẽ gắn kết tới độ trở nên các tuyên ngôn có tính hiện tượng học
về sự quán giác, tức điều bao hàm cả bản thân triết học.
Vậy có cách nào “thẩm xét”[test] được Diễn Giải triết học của
Heidegger không? Một Diễn Giải như thế sẽ không đơn thuần nhắm tới việc
làm rõ các cách dùng thông thường những thuật ngữ như:” quán giác”, “
tường giải”, và”nhận thức”, mà sẽ “tái diễn giải” hay “tái sắp xếp trật
tự” [reordering] chúng. Sự tái sắp xếp trật tự này chính là tác vụ tiếp
sau của Heidegger khi ông lý luận rằng có điều gì đó phái sinh từ điều
gì khác. Nếu Heidegger có thể biện giải thành công rằng nhận thức có
tính tường giải là một trường hợp phái sinh của sự quán giác, ông sẽ ở
trong vị trí triết học vững vàng hơn môn thông diễn học truyền thống,
tức nơi mà sự quán giác chỉ đơn giản là một mẫu nhận thức khác. “Các
phái sinh” của Heidegger nhắc nhớ tới “diễn dịch pháp siêu nghiệm” của
Kant trong Phê Phán Lý Tính Thuần túy (the Critique of Pure Reason), mà ở
đó, Kant đòi hỏi chứng minh và biện hộ cho giả định rằng kinh nghiệm
của chúng ta không đơn giản là chủ quan hay khách quan. Heidegger coi
phần 31 trong cuốn sách của mình như một nỗ lực thâm sâu hơn Kant khi ở
đó ông tường giải về những gì Kant vẫn chưa tường giải (Tồn tại và Thời
gian 184). Một siêu vấn đề-do chính sự phê phán yêu cầu phải đặt ra cho
nỗ lực của Kant, muốn tường giải khả thể của nhận thức khoa học về giới
tự nhiên-, chính là câu hỏi về vai trò của nhận thức tổng hợp tiên
nghiệm(6). Có nghĩa là, Kant luôn bị buộc tội về việc cố gắng đưa ra các
tường giải triết học về tường giải khoa học song lại không phản tư đầy
đủ về việc, phải chăng nhận thức triết học được đề xuất trong cuốn Phê
phán thứ nhất có các điều kiện tương tự với nhận thức khoa học.
Heidegger có thể thoát khỏi vấn đề này nhờ vào việc nhất quán xác
nhận rằng Tồn tại và Thời Gian là Diễn Giải. Sự Diễn Giải này không giải
hóa các thao tác có tính suy luận như tường giải, suy xét thấu đáo
[deliberating], phản tư, và sự chủ động ra quyết định, nhưng đặt để
chúng nơi phạm vi của một nghiên cứu tổng quát hơn về việc làm thế nào
chúng thích nghi được bên nhau trong một sự quán giác cơ sở, tức điều
cũng bao hàm cả các tương tác thường nhật của chúng ta trong và cùng với
thế giới. Nghiên cứu của Heidegger kể một câu chuyện về việc làm thế
nào mà sự tường giải có tính nhận thức [cognitive] luôn tồn tại cố hữu
trong một văn cảnh của tính khả niệm, tức điều gì được phóng chiếu vào
sự quán giác. Do đó, nghiên cứu của Heidegger đã được minh giải chính
xác rằng; nó không phải là một biện luận siêu nghiệm có tính khẳng
quyết, và độc lập, mà là một Diễn Giải, có nghĩa là, một sự tái sắp xếp
trật tự đáng tin cậy và thấu đáo theo kiểu suy lý về các điều kiện cần
có để có thể lý giải được các sự vật của thế giới, khi các hữu thể như
chúng ta cũng là bộ phận của thế giới. Quán giác thuộc về các điều kiện
này và là sự phóng chiếu một văn cảnh hay mẫu có tính bao gộp
[inclusive] của tính khả niệm thành một hậu cảnh để trên đó các ví dụ cụ
thể của giác quan có thể xuất hiện thành công.
Nói tóm lại, trái với cả Kant lẫn thông diễn học truyền thống,
Heidegger tìm cách cho chúng ta thấy rằng, chúng ta không cần coi “nhận
thức” là cơ sở, và nhìn nhận “sự quán giác” và “diễn giải” là phái sinh,
mà có thể đảo chiều sự phái sinh này [thành cơ sở-ND]. Song thậm chí cả
khi sự đảo chiều này có thành công đi nữa, một vấn đề xa hơn sẽ khởi
lên vào lúc kết quả đó nói với chúng ta một cách đơn giản rằng mỗi hướng
phái sinh đều có giá trị hiệu lực ngang nhau. Toàn bộ chiến thuật tái
sắp xếp trật tự hay phái sinh sẽ bị tan rã nếu tất cả các phái sinh đều
có chỉ một kết luận, và thuyết tương đối sẽ đe dọa quay trở lại một lần
nữa. Song Heidegger lại nghĩ rằng, bởi triết học truyền thống đã từng
phải đối mặt với những khó khăn của các thế mâu thuẫn không thể giải
quyết hay các thế lưỡng phân không thể bắc cầu, sự tái sắp xếp trật tự
của ông sẽ thu được tính khả tín lớn lao hơn-tới một cấp độ mà nó có thể
vượt thắng những khó khăn đó. Cũng bằng cách đó, Heidegger có thể
thuyết phục rằng, bởi xuất phát từ hiện tượng có tính cơ sở hơn của sự
quán giác, ông có thể tạo ra sự quán giác tốt hơn so với câu hỏi truyền
thống rằng: làm thế nào để nhận thức thực sự khả hữu? Triết học truyền
thống từ Descartes tới Kant muốn đem lại không chỉ một định nghĩa về
nhận thức (ví dụ, nó là sự tái hiện tương ứng về thế giới thực), mà còn
một nghiên cứu về việc kẻ nhận thức liên hệ ra sao với điều được nhận
thức. Chiến thuật của Heidegger lại khác với chiến thuật của Descartes.
Trong khi Descartes khởi đầu bằng việc giả định một sự đứt liên kết nền
tảng về mặt bản thể học (ví dụ, giữa bản thể tâm thức và bản thể vật lý)
và rồi truy tìm các ví dụ của sự liên kết không thể nghi ngờ về mặt
hiện tượng học (ví dụ: nhận thức về sự hiện hữu của một chủ thể tư
duy)-, thì chiến thuật của Heidegger là coi Dasein như thể đã ở trong
thế giới, tức ông gợi ý rằng điều cần được tường giải không phải là sự
liên kết như thể nền tảng sẵn có, mà chính là sự đứt liên kết. Các ví dụ
của sự đứt liên kết xảy ra tường minh và liên tiếp, như lúc con người
ta phạm sai lầm, không chỉ về mặt nhận thức [cognitive], mà cả thực hành
nữa. Chiến thuật kiểu Descartes sẽ đối mặt với sự khó khăn khi nó thất
bại trong việc tường giải (ví dụ, trong mắt những kẻ hoài nghi) về sự
liên kết. Trong khi ấy, chiến thuật của Heidegger cho thấy rằng nó sẽ
không đối mặt với các vấn đề tương tự khi cố gắng tường giải việc, làm
thế nào các sự đứt liên kết tường minh có thể xuất hiện, như trong sự
gãy vỡ của một công cụ khả-dụng-ngay-lúc-đó và chuyển hóa thành ra một
đối tượng hay một bộ phận vô giá trị thiểu-dụng-ngay-lúc-đó(7) Bộ phận
quan trọng nơi nghiên cứu của Heidegger về sự liên kết của Dasein và thế
giới chính là phần viết về sự quán giác như thể sự phóng chiếu của các
khả thể, và giờ đây, tôi sẽ tập trung lý giải việc các chi tiết của phần
này đã đóng góp như thế nào cho khúc ngoặt ngôn ngữ.
QUÁN GIÁC, PHÓNG CHIẾU, VÀ KHẢ THỂ
Nếu bản thân triết học là một mẫu diễn giải, một câu hỏi sẽ xuất
hiện, đó là: Làm thế nào có thể coi một Diễn Giải như vậy là tốt hơn
những Diễn Giải khác? Phải chăng vì nó”chân xác”? thế các Diễn Giải khác
không thể “chân xác” sao? Để làm rõ các câu hỏi này, Heidegger đã phân
biệt hai cách hiểu về sự chân xác. Thứ nhất là cảm thức triết học thông
thường về sự chân xác, nơi một xác tín [assertion] phanh phui [uncover]
hay khám phá [discover] một số thực kiện về thế giới. Heidegger thường
xuyên mô tả rằng sự chân xác theo cảm thức này là để áp dụng cho các sự
vật không có đặc tính của Dasein (Tồn tại và Thời Gian 118), và với
chúng, ông dùng thuật ngữ Entdeckteit (discoverness:sự khám phá). Tương
phản với thuật ngữ “khám phá”, thuật ngữ Erschlossenheit (disclosedness:
sự bị phơi bày) gợi ý việc văn cảnh tổng thể được mở ra nhờ vào quán
giác. Sự quán giác bởi vậy không chỉ bao hàm việc đưa ra xác tín về thế
giới, mà còn là sự nắm bắt trọn vẹn mẫu tồn-tại-trong-thế-giới. Nếu
không có sự quán giác nắm bắt về thế-giới-tự-thân [the world as such],
sẽ là bất khả cho việc khám phá các đặc tính cụ thể của thế giới. Tuy
nhiên, sự quán giác không chỉ nắm bắt về thế giới, mà còn về phương cách
Dasein tồn tại trong thế giới. Như thế, một sự quán giác về thế giới
cũng luôn là sự tự quán giác.
Song, sẽ là lạc hướng khi nói về sự tự-quán giác, nếu qua đó, ta có
hàm ý tới một cái ngã kiểu Kant hay Descartes, tức cái ngã đứng lùi xa
khỏi thế giới khách quan như thể thuộc về một thế giới chủ quan khác
biệt. Thay vào đó, Heidegger nói rằng sự phơi bày cùng lúc bao gồm cả
thế giới lẫn Dasein. Sự quán giác của Dasein về thế giới do đó không
tách khỏi sự quán giác của nó về bản thân, mà đồng thời còn chính là một
diễn giải về bản thân. Vì thế, sự tự-diễn giải này không khám phá những
thực kiện về các tính chất của một bản thể tâm thức hay một cái ngã
thuộc noumena
[xuất tượng-ND], mà phơi bày việc làm thế nào Dasein đã và đang ứng xử
với câu hỏi hay “chủ đề” [‘issue’] của cuộc hiện sinh của chính nó. Ví
dụ, một sinh viên ngành vật lý học không đơn giản học một số thực kiện
về thế giới vật lý, mà là học để làm sao thực hành vật lý học. Vì lý do
này, gã sinh viên đó sẽ trở nên một nhà vật lý học, ít ra là ở một cấp
độ nào đó. Mô tả chính xác nhất về vai trò sinh viên không phải ở việc
hắn ta tìm kiếm các khả năng bẩm sinh trong bản thân, cũng không phải ở
việc hắn ta thụ đắc một khối lượng lớn các thực kiện về thế giới. Thay
vào đó, theo nghiên cứu của Heidegger, là một sinh viên có nghĩa là học
để biết làm thế nào ứng xử trong thế giới theo một phương cách đích xác
nào đó, ví dụ, như một vật lý gia hay một triết gia, tức những phương
cách mà ở đó, việc ta là ai và việc ta làm gì là không thể phân ly.
Bởi vậy, quán giác bao gồm nhiều hơn việc khám phá các thực kiện
[facts] nơi các đặc tính cụ thể của thế giới. Quán giác, nhìn một cách
nguyên bản hơn, chính là sự phơi bày những gì Heidegger gọi là các khả
thể. Heidegger gợi ý rằng sự phơi bầy các khả thể không thể được phái
sinh từ sự khám phá các đặc tính thực kiện. Sự Diễn Giải triết học của
ông cố gắng cho biết rằng cả khám phá và phơi bày đều cần thiết cho hành
vi của con người, song nếu chỉ tập trung vào sự khám phá các thực kiện
(ví dụ: là điều mà các triết gia duy nghiệm sẽ làm) chiều kích của sự
phơi bày sẽ bị che khuất, trong khi đó, nếu chiều kích của sự phơi bầy
được nhận diện, thì cả sự khám phá và phơi bày đều có thể được biện
minh, bởi sự phơi bày sẽ làm cho hiện tượng khám phá trở nên khả niệm.
Sự khám phá có tính nguyên tử luận và xa cách về hết thực kiện này đến
thực kiện khác sẽ không sinh ra được sự quán giác về một thế giới có ý
nghĩa và khả niệm, mà chỉ là một sự quán giác về một tập hợp của các
mảnh lẻ. Một diễn giải, nhìn một cách chính xác, không phải là một hỗn
độn của các thực kiện mà là một nghiên cứu về việc làm thế nào các thực
kiện ấy có thể khả hữu
Với Heidegger, bởi sự quán giác là về các mối liên hệ và tình huống
trong hiện thực, khả thể không đơn giản là khả thể lo-gic. Khả thể cũng
không hàm nghĩa là chưa-thực-hữu [not-yet-actual], bởi bản thân Dasein
đang là một phương cách hiện sinh và quán giác khả hữu. Dasein hiện hữu
như các khả thể “khẳng quyết” và cụ thể (Tồn tại và Thời gian, 183), tức
những gì nó không lựa chọn một cách võ đoán. Dasein thấy bản thân đã sở
hữu các khả thể này. Ta có thể bắt đầu nhận ra những gì Heidegger muốn
nói ở đây nhờ vào ví dụ của tôi về việc một sinh viên là gì. Heidegger
không mô tả tiến trình của việc tường minh lập kế hoạch để trở nên một
vật lý gia hay một triết gia, và các khả thể không phải là các tư tưởng
trừu tượng của một sinh viên về việc là một nhà vật lý hay một triết gia
phải như thế nào. Các khả thể chỉ được nhận diện trong hành vi cụ thể
của việc thực hành vật lý học hay triết học, và chính chúng sẽ giới hạn
phạm vi cho những gì là phải lẽ mà các hành vi ấy có thể làm hay thử
làm. Những gì là phải lẽ cần được thực hiện trong một tình huống cụ thể
thì đã được lột trần ra trước đó trong một quán giác thuần phác [genuine
understanding] về những khả thể cụ thể. Dasein có lẽ không nhận biết
[aware] tường minh về các khả thể mà nó từng bỏ qua, hay thậm chí các
khả thể đang đặc tính hóa nó. Dasein cũng có thể lầm lẫn về các khả thể
của nó, ví dụ, qua việc cố gắng thực hiện các khả thể ấy một cách nghiêm
cẩn đến mức coi chúng như thể các tất yếu chứ không phải các khả thể,
và vì thế, hiểu lầm về bản thân, qua đó đứt liên kết với một quán giác
sơ cấp hơn về bản thân (Tồn tại và Thời gian 183).
Sự quán giác của Dasein về bản thân như là khả thể, và “nhận thức”
của nó về các khả thể trong phạm vi khả năng của nó, do đó, là một vấn
đề thuộc cấp độ. “Nhận thức”này thường thiên về sự “biết-qua-thực-hành”
[know-how] ngầm ẩn hơn là về sự “biết-qua-lý-thuyết” [knowing-that]
tường minh, và nó thiên về một sự nắm bắt tình huống tại thế [worldly
situation] hơn là một sự nội chiếu phản tư. Trong chừng mực Dasein nhận
biết bản thân đã bị ném vào [thrown] (8)vào một tình huống không phải do
nó tạo nên, “ở mọi trường hợp, nó đều lạc lối và thất bại khi nhận diện
bản thân” (Tồn tại và Thời gian 184). Do đó, Dasein không “nhận biết”
về bản thân ngay từ đầu, song nếu nó muốn phục sinh hay “tìm lại bản
thân”, nó phải tiến tới việc quán giác những gì nó có thể làm, tức những
điều có sẵn trong khả thể của nó nơi một tình huống tại thế cụ thể.
Do đó, sự quán giác bao gồm các khả thể, và các khả thể này không đơn
giản là các hiện tượng bên trong hay có tính chủ quan, mà luôn gắn chặt
với các tình huống tại thế. Heidegger muốn tách biệt khỏi ý tưởng
truyền thống rằng các khả thể này nên được coi là các chọn lựa tự do một
cách ngẫu hứng, và ông bác bỏ “quyền tự do bất cần” [liberty of
indifference](9) [quyền tự do lựa chọn theo kiểu thế nào cũng được-ND]
(Tồn tại và Thời gian 183). Như thế, ông từ chối việc biến “hành vi chọn
lựa” thành điểm xuất phát cho phân tích của ông về sự quán giác cơ sở,
để thay vào đó, khởi đi từ những gì ông gọi là ‘hành vi phóng chiếu”
[‘projecting’]. Sự phóng chiếu bao hàm một quán giác về điều gì là quan
trọng [what matters], và luôn có hai khía cạnh chi phối việc điều gì là
quan trọng. Trước hết, phải có một văn cảnh của ý nghĩa [significance],
của các nghĩa [meanings], tức những gì thực sự khả hữu trong “thế giới
hiện đương”. Thứ đến, điều gì là quan trọng hay tạo nên sự khác biệt chỉ
quan trọng hay tạo nên sự khác biệt đối với các hữu thể quan tâm tới
chúng mà thôi, và qua đây, Heidegger đã gợi ý rằng hữu thể của chính
Dasein cũng được phóng chiếu như thể sự nhắm-đạt-được-mục-đích [tiếng
Đức: Das Worumwillen, tiếng Anh: for-the-sake-of-which] vào bất kỳ điều
gì quan trọng hay tạo ra một sự khác biệt
Sự phóng chiếu không đơn giản là việc suy lý từ một danh sách ta có
về các lựa chọn khả hữu cụ thể, cũng như từ sự cân nhắc thiệt hơn trong
mỗi lựa chọn. Việc lên danh sách các ”thực kiện” về bản thân ta và tình
huống của ta sẽ trở nên một tiến trình bất tận, và thậm chí có lẽ là
không thể tưởng tượng nổi việc ai đó có thể phân biệt được tất cả những
gì họ có thể biết về tất cả mọi điều. Hơn nữa, “các thực kiện” về con
người luôn-đã-từng [always-already] mang chở nghĩa và có tính diễn giải.
Do đó, Heidegger rút ra sự phân biệt giữa “tính thực hữu” [factuality]
và “tính thực kiện” [facility]. Tính thực hữu liên quan tới các sự vật
không thuộc con người, tức các thực kiện biệt lập mà ta có thể lập danh
sách về chúng. Tuy nhiên, sự cố gắng lập một danh sách như thế cho mọi
ví dụ cụ thể của Dasein luôn chứng tỏ là không thích hợp cho việc đặc
tính hóa bản thân Dasein, và bởi vậy, Dasein luôn là điều gì đó “nhiều
hơn” bản thân (thực hữu của) nó. Song một hướng trung tâm trong nghiên
cứu của Heidegger về sự quán giác là việc tìm cách cho thấy sự tồn tại
cố hữu của Dasein trong thế giới, có nghĩa là ông cho rằng Dasein không
phải là một tinh thần vô sở trụ [free-floating spirit] siêu vượt lên
tình huống vật chất của nó. Như một phóng chiếu (bắt nguồn từ động từ
tiếng Đức “Entwurf”: “ném, quăng”)(10), Dasein thấy mình “bị ném vào”
vào một thế giới, và thấy mình như thể đã bị phóng chiếu hay “ném vào”
một tình huống với các khả thể cụ thể. Các khả thể cụ thể (hay xác định,
tiếng Đức: bestimmte) này khác với các khả thể lo-gic thuần túy ở chỗ
chúng đồng hành với các giới hạn cụ thể. Như thế, ở đây, Heidegger đã
nói về các giới hạn cụ thể này như thể “tính thực kiện” của Dasein, phân
biệt với kiểu thực kiện [fact] khác mà ông gọi là “tính thực hữu”.
Giờ đây, có lẽ thật khó để kể hay tường giải cho bản thân hoặc cho
người khác việc: chính xác là vì sao mà điều gì đó lại quan trọng hay
lại tạo nên một sự khác biệt. Do đó Heidegger muốn phân biệt khái niệm
của ông về sự quán giác có tính phóng chiếu không chỉ khỏi sự lựa chọn
ngẫu hứng, mà còn khỏi những sự chủ động ra quyết định cẩn trọng, sự lập
kế hoạch có ý thức, hay sự cân nhắc các khả năng khác nhau. Ông từ
khước cho rằng sự phóng chiếu bao hàm việc tạo ra các kế hoạch tường
minh hay việc nắm bắt các khả thể của nó “một cách có hệ thống” theo
kiểu các nội dung tường minh trong tâm thức. Phải chăng việc lập kế
hoạch tường minh hay sự cân nhắc các khả năng khác nhau và sự chủ động
ra quyết định một cách có ý thức không bao giờ có mặt trong tác vụ thuộc
con người? Trong cuốn Tồn tại và Hư vô (Being and Nothingness) Jean
Paul Sactre còn đi tới quan điểm cực đoan là sự phản tư trong ý thức (
hay sự suy xét kỹ lưỡng) chỉ tác động rất ít tới các chọn lựa trong thực
tế, và rằng thật ra ta chỉ tự đánh lừa bản thân khi dựa vào sự phản tư
như thế để trì hoãn nhu cầu hành động tất định. Như Sactre nói, “sự chủ
động suy xét kỹ lưỡng luôn chỉ là một lừa dối,” tức điều gì thực sự làm
trì hoãn một lựa chọn đã được đưa ra; như thế, sự chủ động ra quyết
định có ý thức luôn đến quá muộn, và “les jeux sont faits” (xúc xắc đã
gieo)(10) [mọi việc đã xong-ND]
Heidegger không đưa ra sự khẳng quyết cực đoan như thế, chính xác là
bởi ông có một Diễn Giải khác về sự quán giác. Sự quán giác bao gồm một
dự phóng toàn thể về một văn cảnh mà trong đó các khả thể cụ thể lần đầu
tiên trở nên khả niệm. Rất nhiều những gì chúng ta quán giác, do đó, về
đại thể vẫn không tường minh. Tuy nhiên, khi Heidegger nói rằng sự quán
giác không nắm bắt các khả thể của nó “như các đề tài” thì không phải
ông đang bác bỏ rằng sự quán giác, nhìn từ mọi cấp độ, là không hề có
tính đề tài. Không giống Sactre, ông không nhất thiết xác nhận rằng hành
vi đề hóa [thematizing] ( hành vi suy xét cẩn trọng và hành vi quyết
định) luôn chỉ là một cách trì hoãn nhu cầu đưa ra hành động và do đó,
có tính vô hiệu. Thay vào đó, quan điểm của ông là các thao tác phản tư
hơn như tường giải, suy xét thấu đáo, hay chủ động ra quyết định sẽ chỉ
khả hữu được bằng sự can thiệp bất ngờ [superverning] vào hậu cảnh
[background] rộng lớn hơn của các đặc tính không bao giờ có thể được đề
hóa tường minh, song lại là bộ phận của sự quán giác và do đó của các
khả thể cụ thể.
Trái với sự khẳng quyết của Sactre rằng, “les jeux sont faits”, lý lẽ
của Heidegger được xây dựng từ một khẳng quyết khác,” Trở nên chính
mình” [become what you are] (Tồn tại và Thời gian 186). Khẩu hiện này có
một truyền thống từ thượng cổ, tận tới thời Hy lạp, song cũng là đặc
tính nổi tiếng trong triết học của Nietzsche. Mệnh lệnh rằng ta nên trở
thành ta dường như mâu thuẫn, bởi có lẽ người ta chỉ có thể trở nên
những gì họ không (chưa) là mà thôi, và một hữu thể đã là bản thân thậm
chí còn không thể trở nên những gì không là nó. Giải pháp của Heidegger
là việc cho rằng sự mâu thuẫn đó thật ra chỉ xảy ra cho những hữu thể
không có đặc tính của Dasein. Song ông cũng xác nhận rằng, Dasein không
chỉ có thể trở nên chính nó, mà cũng có thể thất bại trong việc trở nên
chính nó. Bởi vậy, sự phân biệt Tính thực kiện-Tính thực hữu sẽ giải
thích việc: làm thế nào khẩu hiệu “Trở nên chính mình” lại tỏ ra chính
là một mệnh lệnh thực sự. Dasein không phải tính thực hữu của nó, và như
thế, nó không phải là nó một cách thực hữu. Tuy nhiên, bởi Dasein là sự
quán giác, và quán giác bao gồm sự phóng chiếu vào một “thế giới hiện
đương” cụ thể, thế nên Dasein là những gì nó là một cách thực kiện. Song
bởi sự phóng chiếu cũng bao gồm các khả thể cụ thể, Dasein có thể trở
nên là nó nhờ vào việc trở nên những khả thể của nó. Tuy nhiên, ở đây
thực sự cũng có hiện diện một khả năng khác, đó là: bởi Dasein cũng có
thể thất bại trọn vẹn trong việc đối mặt với các khả thể này, do đó, nó
có thể trở nên đứt liên kết với bản thân khi sa ngã vào sự tùy thuộc của
bản thân vào mọi khả thể mà nó đã từng hoặc có thể trở nên.
*Nguồn: the Cambridge Companion to Heidegger, Charles B. Guignon biên
tập, Cambridge University Press xuất bản năm 1993, từ tr.170 tới tr.
194
Lưu ý: Trong bản dịch này, tôi đề nghị dịch Understanding là: sự quán giác (được), và (to) understand là: hiểu (được)
CƯỚC CHÚ:
Những cước chú của người dịch sẽ có dấu hiệu [ND], còn những cước chú
trong nguyên bản sẽ có dâu hiệu[TG] nằm ở cuối mỗi cước chú.
(1) Dasein: đây là một thuật ngữ vô cùng quan trọng do Heidegger tái
sử dụng và cấp nghĩa mới. Sự quan trọng của nó có thể được chứng tỏ qua
ví dụ: Trong từ điền Heidegger[blackwell philosopher dictionaries,
published 1999, Michael Inwood] dầy 149 trang, nó xuất hiện 483 lần (có
mặt trong toàn bộ các mục từ). Tuy nhiên, Dasein cũng là một thuật ngữ
được Heidegger dùng trong một phạm vi hàm chỉ rất rộng, và bởi thế, khó
có thể định vị một cách hiểu duy nhất cho nó. Dasein là một thuật ngữ
được ghép từ hai thành tố tiếng Đức: Da ( tiếng Anh: There) và Sein
(Tiếng Anh: Being) [tiếng Đức: Dasein, tiếng Anh: Being-there]. Trong
tiếng Đức, như Mark Twain từng có lần nhận xét, chữ “Da” dường như là
một chữ có thể hàm chỉ tới tất cả mọi thứ. Nó vừa có nghĩa “ở đây”, vừa
có nghĩa “ở đó”, vừa có nghĩa “ và thế rồi” [then], hay “ từ khi ”
[since], v.v. Khi được ghép với Sein, nó trở thành Dasein (danh từ giống
trung: das Dasein) , có nghĩa là: “ở đây [to be here], hiện diện, có
mặt [present], sẵn sàng [available], hiện hữu([to exist]”. Vào thế kỷ
17, Dasein được sử dụng theo nghĩa “sự hiện diện, có mặt” (the
presence). Vào thế kỷ thứ 18, các triết gia sử dụng nó như một sự thay
thế cho tuật ngữ Latin: Existenz (sự hiện hữu/sinh), còn các thi sỹ sử
dụng nó theo nghĩa “cuộc sống”. Một cách thông tục, nó thường được hiểu
là sự tồn tại [being] hay đời sống của con người. Heidegger sử dụng
Dasein theo cách hiểu sau:
Trong cuốn Tồn tại và Thời gian, ông dùng nó để 1, hàm chỉ tới sự tồn
tại của con người và 2, tới thực thể, hay con người sở hữu sự tồn tại
đó. Dasein ở đây được Heidegger phục sinh ý nghĩa “tại –thế” (Da/There),
có nghĩa nó luôn ở trong thế giới, và tự soi sáng bản thân cùng thế
giới. (cái Ở-Đó [Da/There], là một không gian được Dasein mở ra và soi
sáng: Dasein không phải là một nơi chốn này…đối lập với nơi chốn
khác:Da-sein không phải là ở-đây, chứ không phải ở-đó, mà cũng không
phải là ở-đây, hoặc ở-đó, mà là một khả thể, điều kiện cho sự tồn tại
theo hướng này hay theo hướng khác (XVII, 136). Trong mọi trường hợp,
Dasein đều có liên quan đến Tôi […] ( trong các hệ ngôn ngữ châu Âu)
người ta luôn phải sử dụng đại từ nhân xưng đi kèm với nó, ví dụ: I am,
you are…(Tồn tại và Thời gian, tr.42). Như Kant từng nói, mọi người đều
tự tìm kiếm chính mình […], mục đích của mình. Chính cuộc tìm kiếm bản
thân này thiết tạo nên Tự -Ngã-tự-thân ( the self-as-such) (XXVII, 324;
cf. BT, 84, 147). Ý nghĩa của thế giới được thiết lập bởi nhu cầu và mục
đích của Dasein. Sau này Dasein không còn hàm chỉ tới con người nữa.
Dasein giờ đây không phải là con người, mà là mối quan hệ với sự tồn
tại, tức điều con người đạt được hay đánh mất[ND]
(2)Hans-Georg Gadamer, Truth and Method [ Chân lý và Phương pháp], in
lần thứ 2, dịch và biên tập.Joel Weinsheimer và Donald G. Marshall (
New york: Crossroad, 1989), tr.xxx[TG]
(3) Being-in-the-world là sự thay thế của Heidegger cho các thuật ngữ
như chủ thể [subject], đối tượng [object], ý thức, thế giới (là những
thuật ngữ thuộc siêu hình học cổ điển). Với ông, sự chia rẽ chủ thể/đối
tượng trong truyền thống phương Tây, và thậm chí trong ngôn ngữ của
chúng ta, phải bị vượt qua, như từng được chỉ ra trong các cấu trúc cội
rễ của khái niệm ý hướng tính [intentionality] của Husserl và Bretano,
ví dụ: mọi ý thức đều là ý thức về điều gì đó, không có một ý thức tách
biệt theo kiểu đối tượng vô trùng để nghiên cứu. Và bởi lẽ đó, cũng
không thể có các đối tượng tách rời khỏi một ý thức đang quan sát hay
liên đới với nó. Ở cấp độ cơ sở của Being-in-the-world, Heidegger lưu ý
rằng luôn có một tâm trạng, một tâm trạng “tấn công chúng ta” khi chúng
ta liên đới một cách hết mình vào thế giới. Một tâm trạng không đến từ
“ngoài” hay từ “trong”, mà khởi lên từ chính sự tồn-tại-trong-thế-giới
của chúng ta. Ta có thể từ khước một tâm trạng, song, chỉ là để đến với
một tâm trạng khác, và đây là bộ phận của tính-thực-kiện [facticity] của
chúng ta. Chỉ với một tâm trạng cụ thể chúng ta mới có thể gặp gỡ các
sự vật trong thế giới. Dasein (một thuật ngữ tương tự của
being-in-the-world) đi vào thế giới nhờ việc hòa hợp “tâm trạng” hay não
trạng với thế giới. Ở đây tôi tạm dịch being-in-the-world là
tồn-tại-trong-thế-giới.[ND]
(4) Hans-Georg Gadamer, Truth and Method, sđd [TG]
(5) Trong tiếng Hy lạp, hiện tại phân từ của einei [tồn tại] (tiếng
Anh là to be) là on). Đây là danh ngữ thuộc giống trung số ít. Khi được
kết hợp với mạo từ xác định, nó sẽ chuyển thành (to) on (số nhiều của
(to) on là (ta) onta). (to) on, dịch sang tiếng Anh là the being (tiếng
Đức: sein), tức thực thể [entity]. (To) on hay (ta) onta chính là đối
tượng của bản(hữu) thể học [ontology] truyền thống ( trước thế kỷ thứ
16, được gọi chung là Siêu hình học [Metaphysics]). Tuy nhiên ở đây,
quan niệm về being [hữu thể, tồn tại, thể tính] như một đề tài nghiên
cứu của Heidegger là rất khác so quan niệm của bản thể học truyền thống
(do cả trình độ hạn chế của bản thân lẫn khuôn khổ có hạn của bài
dịch, tôi chỉ chỉ xin đề cập về vấn đề này một cách vắn tắt). Với Plato,
người coi tất cả cái gì tồn tại [(to) on], đều tồn tại theo một cách,
và chỉ khác nhau về cấp độ. Cấp độ tồn tại cao nhất (ontos on [tồn tại
đích thực]) theo Plato, chính là Eidos (ý niệm, tức mô thức thuộc tình
thần). Theo Plato, chỉ những gì ontos on mới được nghiên cứu, còn những
gì có đó, hiện sinh đó, chỉ thuộc thế giới tư kiến (doxa) của chúng ta
thì tuyệt nhiên không được đưa vào kính ngắm của triết học. Aristotle,
học trò của Plato, nhìn chung, cũng đồng ý như vậy khi cho rằng, đối
tượng của Siêu hình học chính là cái tồn tại cao nhất, song, ông khác
thầy mình ở chỗ, vẫn cho thế giới tư kiến tham dự vào phòng thí nghiệm
Siêu hình học của mình. Tuy nhiên, thế giới tư kiến, của những hiện sinh
có đó, với Aristotle, chỉ xuất hiện trong vai trò là là chất liệu kinh
nghiệm thuộc tư kiến, để từ đó truy ngược lên cái tồn tại cao nhất. Nói
khác đi, với Aristotle, nhà duy nghiệm đầu tiên, thế giới hiện sinh
(existential), có đó, bất biến phù du sớm nở tối tàn dựa trên tư kiến
của con người chính là nấc thang đầu tiên để chủ thể nhờ đó tìm tới cái
ousia [hằng cửu]. Trái hẳn lại, với Heidegger, Being (luôn được ông viết
hoa mẫu tự B, hoặc viết là Beying), không phải là điều gì đó như thể
một đối tượng nghiên cứu xa cách, độc lập, theo kiểu một sự vật trong
phòng thí nghiệm Siêu hình học cổ truyền – bị tách rời khỏi mối liên
quan với lịch sử và chủ thể cũng như khỏi các đặc tính thường nhật của
đời sống. Being của Heidegger là một Being có tính bao gộp rất rộng,
bao quát cả sự hiện sinh thông thường (existence) (that-being), vẻ dạng
ngẫu nhiên bề ngoài (so-being), lẫn cả yếu tính của sự vật (
what-being). Trong cái Being đó của Heiddeger, thậm chí còn hiện diện cả
Dasein (Being-there|Hữu-thể- tại-thế), theo nghĩa, vừa là chủ thể – kẻ
nghiên cứu về being, vừa là thực thể hay con người, vật hay kẻ sở hữu
being, vừa là being của con người (being of human) vừa thuộc loài người
(human beings). Trước đây, theo một số cách dịch, Being của Heiddeger
thường được dịch là Thể tính (Phạm Công Thiện), Tính Thể (Trần Xuân
Kiêm), Tinh Thể Tồn Lưu (hay Lưu tồn) [Bùi Giáng], Hữu thể (Trần Công
tiến), v.v, và v.v. Tuy nhiên, theo gợi ý của học giả Bùi Văn Nam Sơn,
các cách dịch này, dù khác nhau, song dường như đều có hàm nghĩa hàm chỉ
vào “một” đặc tính của Being, hoặc là yếu tính, hoặc là hiện sinh tính.
Nói khác đi, các cách dịch này dường như bắt nguồn từ quan điểm cổ
truyền coi Being là being thông thường, một thực thể bị tách rời khỏi
lịch sử và mối liên quan với chủ thể, là đối tượng của theoria. Tuy
nhiên, chúng ta đã biết rằng Being của Heidegger có tính bao gộp hàm
chứa cả lịch sử lẫn mối liên quan với chủ thể – là kẻ nghiên cứu being,
cả yếu tính của sự vật lẫn yếu tính sự vật nói chung ( trừu tượng), cả
dạng vẻ bên ngoài của sự vật, cả sự hiện sinh (existence) của sự vật.
Như vậy Being ở đây vừa là đối tượng nghiên cứu, vừa là điều kiện khả
thể cho nghiên cứu, vừa là chủ thể nghiên cứu. Chính vì các lẽ này, học
giả Bùi văn Nam Sơn đã đề nghị và gợi ý cho chúng tôi tạm dịch Being của
Heidegger, là Tồn tại (hay Cái-Là)– tức một thuật ngữ hàm chỉ một khái
niệm bao gộp, trung tính. Vẫn biết rằng không thể có một thuật-ngữ-dịch
nào là hoàn hảo, và vì thế, chúng sẽ luôn để ngỏ cho mọi cách dịch khác
hợp lý hơn đến sau. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể này của việc dịch
Being là Tồn tại, lý do của nó là, chí ít, việc dịch ấy cũng có ích ở
chỗ tránh cho khái niệm Being của Heidegger rơi vào cách hiểu như một
thực thể nghiên cứu đơn lập, tách rời khỏi nơi chốn và lịch sử – chính
là điều mà bản thân ông phê phán [ND]
(6) Synthetic a priori knowledge: nhận thức tổng hợp tiên nghiệm, tức
nhận thức đến từ phán đoán tổng hợp tiên nghiệm. Theo Kant, phán đoán
tổng hợp tiên nghiệm là phán đoán cùng lúc vừa có tính mở rộng nhận
thức, vừa có tính tất yếu [phân tích], vừa có tính duy nghiệm, vừa độc
lập hoàn toàn với kinh nghiệm [tất yếu] [ND]
(7) cái-để-sử-dụng [Anh: ready-to-hand, Đức: Zuhanden] và cái-có-đó
[Anh: present-at-hand, Đức:vorhanden] được sử dụng để mô tả các định
niệm (attitudes) hướng về mọi sự vật trong thế giới. Khi đối diện với
cái-có-đó, là khi người ta sở hữu một định niệm theo kiểu một khoa học
gia hay một lý thuyết gia, của một sự đơn thuần quan sát hay theo dõi sự
vật nào đó. Khi coi một thực thể nào đó như là cái-có-đó, người quan
sát chỉ quan tâm tới các thực kiện trần trụi của một sự vật hay một khái
niệm, bởi họ chỉ ở đó để lý thuyết hóa sự vật mà thôi. Cách nhìn thờ ơ
này có lẽ là cách nhìn mà kẻ quan sát chiếu vào dasein, vào lịch sử và
tính sử dụng của nó. Định niệm này thường xuyên được mô tả là hiện hữu
trong không gian trung tính hoàn toàn vắng bóng bất kỳ tâm trạng hay chủ
thể tính cụ thể nào. Cái-có-đó không phải là cách mọi sự vật trong thế
giới luôn rơi vào, và tình thế này chỉ xẩy ra như một mẫu thứ cấp và
thiểu trừ, y như trường hợp một cái búa gẫy cán, không còn sử dụng được,
nằm chỏng chơ trần trụi, chỉ có-đó mà thôi. Khi một vật bị phát hiện
rơi vào tình trạng có-đó, nó bị loại khỏi bất kỳ hệ thống các công cụ
sử dụng nào, song ngay lập tức, nó cũng mất ngay đi mẫu tồn tại có-đó
này, để trở nên điều gì đó cần được phục hồi hay thay thế.
Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp, chúng ta tham dự vào thế giới theo
một cách thông tục và liên đới hơn nhiều. Chúng ta thường thực hiện điều
gì đó để đạt được điều gì đó. Ví dụ, với một cái búa: Nó có tính
để-sử-dụng; chúng ta sử dụng nó mà không cần lý thuyết hóa lôi thôi.
Thật ra, nếu chúng ta định coi nó như thể cái-có-đó, và định tìm cách lý
thuyết hóa nó, chúng ta sẽ dễ dàng phạm sai lầm. Chỉ khí nó gẫy vỡ hay
có điều gì hỏng hóc chúng ta mới có thể nhìn nhận cái búa đó như là
cái-có-đó, và chỉ nằm chỏng chơ ở đó mà thôi. Song, thậm chí cả khi ấy
đi nữa, nó cũng không phải là cái-có-đó hoàn toàn, bởi cũng ngay khi ấy,
nó cho thấy bản thân như điều gì cần phục hồi hay sắp xếp lại, và bởi
vậy, là bộ phận trong tổng thể các sự can dự của chúng ta. Một điều quan
trọng cần lưu ý ở đây, tình trạng có-đó chỉ có thể có được nếu trước đó
chúng ta có một định niệm về các sự vật có thể sử dụng cho mục đích của
chúng ta. Theo cảm thức này, cái-để-sử-dụng có tính nguyên mộc hơn khi
so sánh với tính nguyên mộc của cái-có-đó[ND]
(8) Cùng với hiện sinh (existence) [một phương cách tồn tại của
Dasein]và sa ngã (falling) [sự chìm nhòa vào cái tồn
tại-chung-với-tha-nhân (being-with-one-another) của Dasein], Tính
bị-ném-vào (thrownness) cũng là một đặc trưng của Dasein. Dasein bị ném
vào cái tại thế (Da/there) của nó (Tồn Tại và Thời Gian 135). Trong một
lá thư gửi Goethe, Schiller từng viết một đoạn có thể nói lên rất rõ mối
liên hệ giữa hiện sinh và tính bị-ném-vào,” Giả dụ anh sinh ra là người
Đức, giả dụ tinh thần Hy Lạp của anh bị ném vào vào thế giới miền Bắc
này, anh sẽ có hai lựa chọn. Một là trở nên một nghệ sỹ của miền Bắc,
hai là tác tạo tinh thần Hy Lạp nguyên thủy bên trong anh qua một tiến
trình trí tuệ. Mọi Dasein đều sở hữu tính bị-ném-vào, chứ không chỉ
riêng kẻ lạc thời [misfit]. Throwness là một thuật ngữ tiếng Anh để dịch
thuật ngữ tiếng Đức Geworrfenheit. Đây là thuật ngữ do Heidegger chế
ra. Nguyên gốc của thuật ngữ này bắt nguồn từ động từ tiếng Đức werfen
(tiếng Anh là throw), có nghĩa là “ném, quăng”. Quá khứ phân từ của
động từ này là geworfen (bị ném, bị quăng) [tiếng Anh: thrown].
Heidegger đã danh hóa quá khứ phân từ của động từ werfen: geworfen,
thành ra: Geworfenheit [tiếng Anh: thrownness], và biến nó thành thuật
ngữ trong hệ thống triết học của riêng ông[ND]
(9)Quyền tự do bất cần: Theo Heidegger, con người là tự do về mặt bản
chất. Song tự do không phải là tính chất [Eigenschaft, ‘chất lượng’]
của họ, mà con người là đặc tính [Eigentum, tài sản]của tự do. Ông phân
biệt bẩy dị bản của tự do: 1/ khả năng tự tạo ra thay đổi, 2/ không bị
ràng buộc bởi điều gì, tự do không thực hiện điều gì, 3/ gắn bó với điều
gì, tự do thực hiện điều gì, 4/ thống trị nhục dục ( tự do ngụy giả),
5/ tự xác quyết từ quy luật nơi yếu tính của bản thân (chân tự do), 6/
năng lực thực hiện điều ác và điều thiện, và 7/ sự tự do bất cần[ND]
(10)Jean Paul Sactre, Being and Nothingness [Tồn tại và Hư vô], Hazel
E. Barnes dịch (New York: Whasington press, 1956), tr. 581[TG]
© Như Huy
0 comments
Post a Comment