Lời mở đầu
Việc giảng dạy chủ nghĩa Marx ở Việt Nam
theo phương pháp “thầy nói trò nghe” và “thầy đọc trò ghi” đã gây ra
rất nhiều tai hại cho việc hiểu biết về lý luận của Marx. Trong những
năm tháng dài vừa qua tại các nước xã hội chủ nghĩa, việc tuyệt đối hoá
chủ nghĩa Marx, cho rằng nó luôn luôn đúng trong mọi thời kỳ và khi có
ai đó phát triển hoặc bổ sung cho lý luận của Marx thì đều bị cho là
“hữu khuynh”, là không có lập trường Marxist, đã làm cho lý luận của
Marx bị đóng kín hoàn toàn. Mọi sự sáng tạo đều đã bị lên án hoặc cô
lập. Khi cơ chế xã hội thông thoáng hơn thì ở một vài điểm nào đó cũng
có sự bổ sung vào lý luận của Marx, nhưng đáng tiếc là sự bổ sung không
mang tính hệ thống. Đôi khi đó chỉ là sự cóp nhặt một vài khái niệm của
kinh tế học hiện đại để thay thế, mở rộng khái niệm của Marx. Điều đó là
chưa đủ, bởi vì hệ thống lý luận của Marx, nếu nhìn nhận một cách hệ
thống, toàn diện, là một hệ thống logic. Bổ sung mà không xây dựng lại
theo logic thì sẽ biến học thuyết của Marx thành một mớ hỗn độn, thiếu
tính logic và không giúp cho chúng ta hiểu rõ về những sai sót cũng như
những điều cần bổ sung cho học thuyết của ông. Nó không giúp cho chúng
ta hiểu rõ được bản chất của các vấn đề, hiện tượng trong thế giới hiện
thực đã phần nào thay đổi hiện nay. Con đường phát triển của khoa học
luôn luôn là sự sáng tạo và bổ sung những cái mới theo thực tiễn cho
những học thuyết đã không còn phù hợp với thực tiễn. Chủ nghĩa Marx
không phải là một chủ nghĩa đóng, là chủ nghĩa đã tuyệt đối đúng, nó cần
được bổ sung theo thực tiễn, đó chính là mục đích của bài viết này.
Để đọc và hiểu bài viết này, người đọc
cần có một lượng kiến thức nhất định về kinh tế chính trị Marxist cũng
như những kiến thức về kinh tế học hiện đại. Nhưng cần tránh áp dụng
những giáo điều của lý thuyết cũ để đánh giá cho lý luận của lý thuyết
mới – lý thuyết đã bổ sung cho những giáo điều, những thiếu sót của lý
thuyết cũ, vì vậy người đọc cần đứng trên quan điểm khoa học để đánh giá
những lý luận mới này, tức là chúng ta cần nhìn thẳng vào thực tiễn và
tính logic để đánh giá. Với những kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế
của mình, tôi không dám khẳng định tuyệt đối những điều mình viết ra là
đúng. Nhưng tôi hy vọng những ai có kiến thức sẽ chung tay bổ sung và
hoàn thiện nó để có thể góp phần làm cho xã hội công bằng và tốt đẹp
hơn.
Bài viết này sẽ làm rõ những sai lầm và
thiếu sót của học thuyết “giá trị lao động” của Marx đồng thời thử tìm
cách bổ sung và hoàn thiện học thuyết này. Nó có thể sẽ giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội mà Việt Nam đang xây dựng. Đồng thời nó có thể gợi mở ra
con đường tăng trưởng cân bằng mà kinh tế học hiện đại đang tìm kiếm.
Đây là bài viết đã được tôi hoàn thành lần đầu tiên vào ngày 30/4/2007,
khi tôi ở Thành phố Hồ Chí Minh; nó được bổ sung lần thứ nhất vào ngày
23/3/2008 khi tôi làm việc cho Foxconn Technology Group tại Thâm Quyến –
Trung Quốc. Và được hoàn thiện lần thứ hai vào ngày 17/4/2009 khi tôi
đang làm việc tại công Silkroad Hà Nội JSC, khu công nghiệp Đại An – Hải
Dương.
I. Đặt vấn đề
Cơ sở lý luận của bài viết này là học
thuyết “giá trị lao động” của Karl Marx. Theo học thuyết này, lượng giá
trị của hàng hoá là: W = C + V + m, với W là lượng giá trị của hàng hoá,
C là tư bản bất biến, là tư liệu sản xuất như nhà xưởng, máy móc,
nguyên vật liệu…; V là tư bản khả biến, là tiền để thuê công nhân; m là
giá trị thặng dư của người công nhân đồng thời cũng là lợi nhuận mà nhà
tư bản thu được. Theo lý luận của Marx, nhà tư bản không đóng góp vào
giá trị của hàng hoá nhưng mà vẫn thu được lợi nhuận là giá trị thặng
dư: P = m. Câu hỏi đặt ra là: lợi nhuận P phải chăng chỉ là giá trị
thặng dư m do người công nhân tạo ra? Và công thức W = C + V + m là hoàn
toàn đúng cho mọi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế hàng
hoá?
Câu trả lời của tôi là không! Lợi nhuận
không chỉ là giá trị thặng dư của người công nhân, cũng như công thức W =
C + V + m là không đúng cho giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh
tế hàng hoá, nó cần phải được bổ sung. Lý luận mới sẽ xây dựng trên cơ
sở mở rộng khái niệm “hàng hoá”, qua đó mở rộng khái niệm “lao động tạo
ra giá trị”, mở rộng khái niệm “giá trị của hàng hoá”, từ đó chúng ta sẽ
có khái niệm về bản chất của “giá trị thặng dư” và “lợi nhuận”. Đồng
thời có thể gợi mở về một con đường tăng trưởng cân bằng và ổn
định trong kinh tế học. Để người đọc dễ hình dung, chúng ta có thể dùng
sơ đồ dưới đây:
II. Giải quyết vấn đề
Hàng hóa và trao đổi hàng hoá là cơ sở
tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng quan điểm
về hàng hoá của ông lại rất hạn hẹp. Karl Marx chưa bao giờ nêu rõ khái
niệm về hàng hoá. Ông cũng chưa từng chú ý đến việc xây dựng khái niệm
hàng hoá, một khái niệm cơ bản của nền kinh tế hàng hoá, một phạm trù
mang tính lịch sử. Trong “Lời tựa” của Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị
ông viết: “Tôi xem hệ thống kinh tế tư sản theo thứ tự sau đây: tư bản,
sở hữu ruộng đất, lao động làm thuê, nhà nước, ngoại thương, thị trường
thế giới” [1]. Chúng ta đã không thấy khái niệm hàng hoá trong những lý
luận chủ yếu mà ông quan tâm xây dựng. Marx chỉ nêu ra khái niệm về
hàng hoá của các nhà kinh tế học Anh và chỉ rõ thêm về các thuộc tính
của hàng hoá. Trong khi đó, khi trình bày về khái niệm hàng hoá của Marx
thì các giáo trình đại học của Việt Nam về kinh tế chính trị Mác-Lênin
lại trình bày khái niệm của kinh tế học hiện đại, mặc dù khái niệm mà
các nhà Marxist Việt Nam trình bày cũng chưa hoàn toàn chính xác. Đây là
một sự lẫn lộn nguy hiểm, họ dùng một phần khái niệm hàng hoá của kinh
tế học hiện đại nhưng lại vẫn để nguyên học thuyết giá trị lao động của
Marx. Nếu dùng khái niệm mới về hàng hoá thì học thuyết giá trị lao động
cũng phải được xây dựng lại. Đó chính là mục đích của bài viết này, và
chúng ta cần hiểu rằng khái niệm mới về hàng hoá không phải là khái niệm
mới so với kinh tế học hiện nay mà là mới so với khái niệm hàng hoá của
Karl Marx. Ông viết: “Thoạt nhìn, của cải trong chế độ tư sản biểu hiện
ra là một đống hàng hoá khổng lồ và từng hàng hoá là hình thái tồn tại
giản đơn nhất của nó. Nhưng mỗi hàng hoá lại thể hiện dưới hai mặt là
giá trị sử dụng và giá trị trao đổi
Theo lối nói của các nhà kinh tế học
Anh, thì hàng hoá trước hết là “một vật thể nào đó, cần thiết, có ích
cho đời sống hoặc làm cho đời sống dễ chịu”, là một đối tượng của nhu
cầu của con người, là một tư liệu sinh hoạt hiểu theo nghĩa rộng nhất.
Phương thức tồn tại ấy của hàng hoá với tư cách là giá trị sử dụng nhất
định với phương thức tồn tại tự nhiên, có thể sờ mó được của nó. Chẳng
hạn, lúa mì là một giá trị sử dụng đặc biệt, khác với giá trị sử dụng
của bông, thuỷ tinh, giấy…” [2]. Theo Marx giá trị sử dụng của hàng hoá
là sự cần thiết, có ích, là đối tượng của nhu cầu của con người. Và
“giá trị trao đổi biểu hiện thành quan hệ về lượng, theo đó các giá
trị sử dụng có thể trao đổi được lẫn nhau” [3]. Nhưng ngay sau đó Marx
lại viết: “Các giá trị sử dụng đều trực tiếp là tư liệu sinh hoạt” [4].
Trong khi đó máy móc, nhà xưởng, nguyên vật liệu, sức lao động đều được
Marx coi là hàng hoá nhưng lại không hề có thuộc tính là tư liệu sinh
hoạt trực tiếp. Nhưng mâu thuẫn này không hẳn đã là quan trọng, mà quan
trọng hơn là khi đọc toàn bộ chương một trong Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị – Lời tựa
chúng ta chỉ thấy Marx nhấn mạnh đến hàng hoá hữu hình là những vật
thể, có công dụng, được sản xuất bằng công cụ máy móc và được trao đổi
trên thị trường tự do. Chúng ta đã hoàn toàn không thấy bóng dáng của
hàng hoá vô hình là các dịch vụ và hàng hoá công cộng theo cách hiểu
hiện đại – những hàng hoá đang tồn tại trong thực tiễn hiện nay.
Trong các giáo trình Kinh tế Chính trị
Marxist đang được giảng dạy tại Việt Nam, thì hàng hoá lại được hiểu một
phần theo cách hiểu của kinh tế học hiện đại: “Hàng hoá là sản phẩm của
lao động có thể thoả mãn một nhu cầu nhất định nào đó của con người
thông qua trao đổi mua-bán với nhau. Hàng hoá là một phạm trù lịch sử.
Sản phẩm lao động mang hình thái là hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán
trên thị trường. Hàng hoá có thể ở dạng vật thể (hữu hình) hoặc ở dạng
phi vật thể” [5]. Đây là một khái niệm khá rộng mặc dù nó chưa hoàn toàn
chính xác vì chưa phản ánh hết khái niệm hàng hoá hiện nay. Nhưng chúng
ta phải chú ý rằng đây hoàn toàn không phải là khái niệm về hàng hoá mà
Marx muốn trình bày. Nếu được trình bày cụ thể thì hàng hoá có thể phân
biệt thành hàng hoá dưới dạng vật thể (được thể hiện bằng các thuộc
tính vật lý, hoá học, sinh học…) và hàng hoá dưới dạng phi vật thể (được
thể hiện dưới dạng dịch vụ) và hàng hoá công cộng. Hàng hoá dưới dạng
vật thể như là đất đai, máy móc, nguyên vật liệu, tư liệu sinh hoạt trực
tiếp như cơm, áo, giấy… Hàng hoá dưới dạng phi vật thể ở dạng dịch vụ
như bảo hiểm, nghệ thuật, công trình khoa học, sức lao động, chứng
khoán… và hàng hoá dưới dạng công cộng như Quốc phòng, An ninh, Giáo
dục, Y tế, luật pháp, cơ sở hạ tầng… Tất nhiên là chúng phải thoả mãn
được yêu cầu, nhu cầu của con người cả về mặt vật chất và tinh thần,
chúng trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho cuộc sống của con người.
Như vậy, hàng hoá là những vật
thể hoặc dịch vụ được con người tìm ra, làm ra, nó trực tiếp hoặc gián
tiếp phục vụ cho một nhu cầu, yêu cầu nhất định của con người đồng thời
nó được trao đổi mua-bán trên thị trường mở rộng.
Hàng hoá là những gì có giá trị sử dụng
nhưng không nhất thiết những gì có giá trị sử dụng đều là hàng hoá. Việc
cái gì là hàng hoá, cái gì không là hàng hoá là do lịch sử phát triển
của loài người quy định, vì vậy nó là một phạm trù của lịch sử. Hàng hoá
có thuộc tính giá trị trao đổi, đó là sự trao đổi một số lượng hàng hoá
này lấy một số lượng hàng hoá thông qua một loại hàng hoá đặc biệt là
tiền tệ. Nhưng điều cần lưu ý ở đây là sự trao đổi không chỉ diễn ra
trên thị trường tự do mà nó còn diễn ra trên “thị trường hành chính”, đó
là trường hợp của hàng hoá công cộng. Thị trường tự do ở đây là thị
trường mà kinh tế học vẫn đang hiểu, nó là một không gian trao đổi tự do
của một nhóm hoặc một nhóm cá thể, như là chợ, siêu thị, thị trường
ngoại hối, chứng khoán… Còn thị trường hành chính là sự trao đổi thông
qua luật pháp về lương do toàn xã hội cùng nhau lập ra. “Thị trường mở
rộng” là thị trường tự do và thị trường hành chính. Hàng hoá theo khái
niệm mới sẽ có thuộc tính giá trị trao đổi trên thị trường mở rộng. (Và
sự phân biệt nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế tập trung bao
cấp trước đây chính là phần trăm của thị trường tự do và thị trường hành
chính)
Bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang vấn đề
“giá trị của hàng hoá”. Marx cho rằng “giá trị trao đổi” là hình thức
còn “giá trị” là nội dung. Theo Marx: “Thời gian lao động được vật hoá
trong các giá trị sử của hàng hoá, là cái thực thể làm cho các trị sử
dụng trở thành những giá trị trao đổi, vì vậy trở thành những hàng hoá,
đồng thời nó cũng đo những lượng nhất định giá trị của hàng hoá. Những
lượng so sánh của các giá trị sử dụng khác nhau mà trong đó thời gian
lao động giống nhau được vật hoá là những vật ngang giá, hay là tất cả
các giá trị sử dụng đều là những vật ngang giá theo những tỷ lệ trong đó
các giá trị sử dụng này chứa đựng nhưng lượng giống nhau về thời gian
lao động đã chi phí, đã được vật hoá. Với tư cách là những giá trị trao
đổi, tất cả các hàng hoá chỉ là những lượng nhất định của thời gian lao
động đã kết đọng lại” [6] và “giá trị trao đổi, xét về nội dung của
mình, là một lượng lao động nào đó hoặc một lượng thời gian lao động nào
đó đã được vật hoá” hay “giá trị trao đổi chỉ biểu hiện ra ra với tư
cách là sản phẩm của lao động” [7]
Như vậy xét về nội dung của bản thân nó
thì giá trị trao đổi là do thời gian lao động quy định, mà nội dung của
giá trị trao đổi là giá trị, do đó giá trị của hàng hoá do lao động kết
tinh trong hàng hoá quy định, hay lao động tạo ra giá trị. Thế nhưng vấn
đề cần đặt ra là: Đó là lao động nào và của ai? Karl Marx đã không có
một lý luận đầy đủ về hàng hoá, do đó Ông đã trả lời không đúng cho câu
hỏi này. Và việc ông không có câu trả lời đúng cho câu hỏi này đã làm
cho lý luận giá trị của ông không đầy đủ, do đó từ lý luận giá trị sai
lầm của mình mà Marx đã xây dựng một lý luận không đầy đủ về giá trị
thặng dư và lợi nhuận. Marx lập luận rằng: “Giá trị trao đổi nảy sinh từ
lưu thông, có trước lưu thông, tự duy trì trong lưu thông và tự nhân
lên thông qua lao động” [8]. Có từ trước lưu thông tức là giá trị của
hàng hoá có từ sản xuất, hay giá trị của hàng hoá là do lao động của
người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Theo logic suy luận của
Marx thì: Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Suy rộng ra từ lý luận của Marx, thì
chỉ những người lao động trong lĩnh vực sản xuất (chủ yếu là công nhân)
mới tạo ra giá trị của hàng hoá, còn những lao động gián tiếp như lao
động trong lĩnh vực lưu thông, lao động của nhà tư bản, lao động trong
lĩnh vực hàng hoá dịch vụ, lao động trong lĩnh vực hàng hoá công cộng
thì không tạo ra giá trị của hàng hoá. Luận điểm này không những là sai
lầm của Marx mà nó còn là sai lầm của các nhà Marxist Việt Nam, như
trong giáo trình Quốc gia về Kinh tế chính trị Mác-Lênin họ viết: “Lao
động hao phí để tạo ra hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là cơ sở chung
của trao đổi, được gọi là giá trị hàng hoá. Giá trị hàng hoá là lao động
của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá” [9]
Theo triết học của Marx: thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý. Vì vậy chúng ta hãy nhìn vào thực tiễn để đánh
giá lý luận của Marx, cũng như xây dựng lý luận mới. Chúng ta sẽ bắt đầu
từ nền kinh tế sản xuất hàng hoá giản đơn, nền sản xuất mà ở đó có sự
trao đổi trực tiếp các loại hàng hoá với nhau theo phương thức hàng đổi
hàng. Đó là trường hợp trao đổi hàng hoá của một người nông dân và một
người thợ rèn theo tỷ lệ: 2 cân gạo = 1 con dao. Tại sao hai hàng hoá
khác nhau với số lượng khác nhau lại có thể trao đổi được với nhau? Câu
trả lời là hai loại hàng hoá này có cùng một lượng giá trị hay công sức
(sức lao động) mà mỗi người bỏ ra để sản xuất hàng hoá của họ là giống
nhau.Thời gian lao động – lượng giá trị của hàng hoá – để làm ra hàng
hoá là một đại lượng tương đối, hay đó là một sự “trừu tượng hoá”. Như
Marx đã viết: “Việc quy như thế là một sự trừu tượng hoá, nhưng đó là sự
trừu tượng hoá diễn ra hàng ngày trong quá trình sản xuất xã hội. Việc
quy mọi hàng hoá thành thời gian lao động không phải là một sự trừu
tượng hoá lớn hơn, đồng thời nó cũng không phải là một sự trừu tượng hoá
kém hiện thực hơn việc quy mọi thể hữu cơ thành không khí. Thực ra lao
động được đo bằng thời gian như thế không thể hiện ra như là lao động
của những chủ thể khác nhau, mà ngược lại, những cá nhân lao động khác
nhau thể hiện ra là những khí quan giản đơn của lao động đó. Nói cách
khác, lao động như nó biểu hiện ra trong các giá trị trao đổi, có thể
gọi là lao động chung của con người. Sự trừu tượng hoá đó của lao động
nói chung của con người tồn tại trong thứ lao động trung bình mà mỗi cá
nhân trung bình của xã hội nhất định có thể thực hiện được, đó là sự chi
phí sản xuất nhất định về bắp thịt, thần kinh, óc… của con người. Đó là
thứ lao động giản đơn mà mỗi cá nhân trung bình có thể học được và phải
được thực hiện dưới một hình thức này hay hình thức khác. Bản thân tính
chất của thứ lao động trung bình đó thay đổi tuỳ theo các nước và các
thời đại văn minh, nhưng trong mỗi xã hội đang tồn tại thì nó thể hiện
ra như là cái đã được xác định. Lao động đơn giản là bộ phận lớn hơn cả
trong toàn khối lượng lao động của xã hội tư sản, như người ta có thể
tham khảo bất kỳ thống kê nào. A sản xuất Sắt trong 6 giờ và Vải trong 6
giờ, và B cũng sản xuất Sắt trong 6 giờ và Vải trong 6 giờ, hay A sản
xuất Sắt trong 12 giờ và B sản xuất Vải trong 12 giờ, thì đấy rõ ràng
chỉ là cách sử dụng khác nhau của cùng một thời gian lao động giống nhau
mà thôi” và ” Việc quy định giá trị trao đổi bằng thời gian lao động
còn giả định một lượng lao động ngang nhau, đã được vật hoá trong một
hàng hoá nhất định, ví dụ một tấn Sắt, không kể là lao động của A hay
của B, hoặc là những cá nhân khác nhau dùng một số lượng thời gian lao
động bằng nhau để sản xuất ra cùng một giá trị sử dụng nhất định giống
nhau về lượng và chất. Nói cách khác, người ta giả định là thời gian lao
động chứa đựng trong một hàng hoá là thời gian cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá đó, nghĩa là thời gian lao động cần có để sản xuất ra cùng một
loại hàng hoá giống như thế trong các điều kiện sản xuất chung đó”
[10]. Những luận điểm này là hoàn toàn đúng trong nền kinh tế hàng hoá
giản đơn, và lượng giá trị của hàng hoá đúng bằng thời gian để sản xuất
ra hàng hoá đó. Người nông dân và người thợ cơ khí thủ công sản xuất ra
hàng hoá bằng các công cụ sản xuất giản đơn, họ đem ra chợ trong làng,
xã của mình để trao đổi và việc trao đổi là hợp lý với họ khi họ nhận
thấy rằng giá trị của hàng hoá (sức lao động, hay thời gian lao động mà
họ đã bỏ ra để làm nó) của 2 kg gạo bằng giá trị của 1 con dao. Họ thực
hiện việc trao đổi này như là việc tất yếu, đã có từ trước do thế hệ cha
ông để lại. Nhưng vấn đề chủ yếu là họ chưa phải suy nghĩ về thị trường
tiêu thụ, về vấn đề lưu thông.
Nền kinh tế hàng hoá tư bản hiện nay thì
không phải hoàn toàn như vậy. Trao đổi không chỉ diễn ra giữa từng cá
nhân tự mình sản xuất, tự mình trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng trong
một không gian hẹp của làng xã nữa mà sự phân công lao động cùng với
việc mở rộng không gian trao đổi đã làm cho nền kinh tế hàng hoá tư bản
khác hẳn về bản chất với nền sản xuất hàng hoá giản đơn. Trong nền sản
xuất hàng hoá tư bản, để cho ra đời một loại hàng hoá và bán được nó
(thực hiện được giá trị của hàng hoá), thì nhà tư bản phải trả lời hàng
loạt câu hỏi như: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế
nào? vận chuyển và tiêu thụ ra sao? … Đó việc tìm ra loại hàng hoá nào
để sản xuất, sản xuất cho đối tượng tiêu dùng nào, sản xuất như thế nào
(thành lập công ty, xây dựng nhà xưởng, mua máy móc, chọn công nghệ,
tuyển dụng lao động, xây dựng hệ thống quản trị và quản lý hệ thống
đó…), tiêu thụ hàng hoá đó như thế nào, vận chuyển ra sao, cạnh tranh
như thế nào… Trong khi nền kinh tế hàng hoá giản đơn thì thời gian lao
động sản xuất trực tiếp là yếu tố duy nhất để tạo nên và đóng góp vào
giá trị của hàng hoá (vì các lao động khác như lưu thông hay nhà tư bản
chưa hề phải tính tới và do đó không được tính vào giá trị của hàng hoá)
còn trong nền kinh tế hàng hoá tư bản, sản xuất trực tiếp (lao động của
công nhân) chỉ là một bộ phận trong hệ thống các bộ phận khác nhau đóng
góp sức lao động của mình để làm ra và thực hiện được giá trị của hàng
hoá. Ngoài công nhân sản xuất trực tiếp ra chúng ta còn có sự đóng góp
sức lao động của các bộ phận khác như là đội ngũ quản lý, kỹ thuật, kế
toán, nhân sự, kinh doanh, vận chuyển, bảo vệ, bán hàng, giám đốc… và cả
chủ sở hữu, tức là nhà tư bản nữa. Không có sự đóng góp sức lao động
của tất cả các bộ phận khác nhau trong một công ty thì không bao giờ cho
ra đời được hàng hoá chứ chưa nói đến thực hiện giá trị của nó. Nếu chỉ
riêng có bộ phận sản xuất trực tiếp mà không có các bộ phận khác cùng
bỏ sức lao động, thì không thể sản xuất ra hàng hoá hoặc có sản xuất
một sản phẩm nào đó thì cũng không thể thực tiêu thụ được nó tức là
không thể biến sản phẩm đó thành hàng hoá, hay lao động của người sản
xuất trực tiếp không tạo ra được hàng hoá và lao động riêng của họ không
tạo ra giá trị. Không sản xuất ra được hàng hoá và không thực hiện được
giá trị của nó thì nền kinh tế hàng hoá tư bản không tồn tại, hay lý
luận giá trị của Marx trở thành vô giá trị.
Hơn thế nữa học thuyết giá trị lao động
của Marx là rất phiến diện, không đầy đủ khi nó đã không tính đến hàng
hoá công cộng và lao động tạo ra giá trị trong lĩnh vực hàng hoá công
cộng. Bản thân hàng hoá tư nhân (hàng hoá do doanh nghiệp tư nhân làm
ra) và bản thân doanh nghiệp tư nhân chưa đủ để tạo nên nền kinh tế hàng
hoá tư bản. Tự bản thân mình, các doanh nghiệp tư nhân không thể làm
nên được điều gì cả, các doanh nghiệp tư nhân và hàng hoá tư nhân chỉ là
điều kiện cần cho sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tư bản. Các doanh
nghiệp tư nhân (hiểu theo nghĩa là có một hoặc một vài chủ sở hữu nhưng
không phải là sở hữu toàn xã hội như doanh nghiệp nhà nước) đã và đang
tồn tại trong một hệ thống Nhà nước nhất định, trong một thể chế nhất
định. Không có hệ thống Nhà nước với các luật lệ, các điều kiện cơ sở
vật chất, xã hội được Nhà nước nhất định cung cấp thì không thể có hàng
hoá tư nhân và doanh nghiệp tư nhân (tức là không tồn tại Chính phủ với
các luật lệ, các cơ sở vật chất xã hội do Chính phủ cung cấp). Mà không
có doanh nghiệp tư nhân và hàng hoá tư nhân, không có sự trao đổi tự do
trong một hệ thống luật lệ nhất định thì cũng không có nền kinh tế hàng
hoá tư bản. Nhà nước, thể chế xã hội là điều kiện đủ để có nền kinh tế
hàng hoá tư bản. Như vậy, ngoài những lao động trong doanh nghiệp tư
nhân (cả lao động trực tiếp và gián tiếp trong doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá và dịch vụ) đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hoá thì
những lao động trong lĩnh vực hành chính công như nhà làm luật, nhà quản
lý xã hội, ngân hàng, bác sĩ công, giáo viên công, nhà khoa học… cũng
đóng góp sức lao động của mình vào giá trị của hàng hoá. Mỗi công chức,
viên chức trong các lĩnh vực làm việc của mình sẽ đóng góp sức lao động
vào một khâu, một công đoạn nhất định để vận hành nền kinh tế thị trường
và qua đó đóng góp vào giá trị của hàng hoá, tất nhiên sự đóng góp này
là gián tiếp. Từ việc đảm bảo An ninh, Quốc phòng, luật lệ, cung cấp sức
khỏe thể chất, tinh thần, kiến thức cho người lao động, khoa học kỹ
thuật công nghệ cho sản xuất đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho việc
sản xuất và trao đổi hàng hoá. Sức lao động của họ đóng góp cho giá trị
của hàng hoá sẽ được tính gián tiếp vào chi phí thành lập và hoạt động
của doanh nghiệp tư nhân liên quan đến lĩnh vực hành chính công, đóng
góp cho sức khoẻ thể chất, tinh thần và kiến thức của người lao động… Và
giá trị do họ đóng góp vào giá trị của hàng hoá sẽ được họ nhận lại
bằng tiền lương từ các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm,… mà doanh nghiệp tư
nhân phải trả và đóng góp cho Chính phủ. Marx cho rằng chỉ lao động
trực tiếp mới đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hoá và các bộ
phận khác chỉ nhận phần giá trị được phân phối lại do bộ phận sản xuất
tạo ra. Nhưng nếu nhìn một cách hệ thống, tổng thể như ở trên thì lao
động của những người được hưởng lương (cả tư nhân và chính phủ) và nhà
tư bản đều đóng góp sức lao động vào giá trị của hàng hoá.
Việc Marx hiểu một cách không đầy đủ về
hàng hoá và việc xây dựng khái niệm giá trị của hàng hoá trên khái niệm
hàng hoá không đầy đủ, việc áp dụng lý luận giá trị trong nền sản xuất
hàng hoá giản đơn cho nền kinh tế hàng hoá tư bản đã dẫn đến sai lầm,
theo logic, cho khái niệm giá trị thặng dư và lợi nhuận. Để hiểu được lý
luận về giá trị thặng dư của Marx chúng ta cần bắt đầu từ công thức
chung của tư bản. Tiền tệ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ vân
động theo công thức:
T – H … Sx … H’ – T’
Như ông đã viết: “Quá trình tuần hoàn
của tư bản trải qua ba giai đoạn; căn cứ vào sự trình bày ở tập thứ
nhất, thì các giai đoạn ấy hình thành nên chuỗi sau đây:
Giai đoạn thứ nhất: Nhà
tư bản, với tư cách là người mua, xuất hiện trên thị trường hàng hoá và
thị trường lao động; tiền của hắn chuyển hoá thành hàng hoá, hay thông
qua hành vi lưu thông T – H.
Giai đoạn thứ hai: Nhà
tư bản tiêu dùng một cách sản xuất những hàng hoá mà hắn đã mua. Hắn
hoạt động với tư cách là người sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa; tư
bản của hắn thực hiện quá trình sản xuất. Kết quả là có một hàng hoá có
giá trị lớn hơn giá trị của các yếu tố sản xuất ra hàng hoá đó.
Giai đoạn thứ ba: Nhà
tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán; hàng hoá của hắn
chuyển hoá thành tiền, hay thực hiện hành vi lưu thông H – T.
Do đó, công thức có thể ứng dụng cho
tuần hoàn của tư bản tiền tệ là: T – H … Sx – H’ … T’, đường chấm chỉ ra
rằng quá trình lưu thông bị đứt quãng, còn H’ và T’ là H và T đã tăng
thêm giá trị thặng dư” [11]. T là số tiền – tư bản (với tư bản được hiểu
là giá trị đem lại giá trị thặng dư) ban đầu được dùng vào việc thành
lập công ty, thuê đất đai, xây nhà xưởng, mua máy móc, nguyên vật liệu,
mua lao động… (tất cả các hàng hoá này đều là H). Sau đó nhà tư bản sẽ
sản xuất ra hàng hoá mới là H’. Khi nhà tư bản bán được hàng hoá H’ và
thu được số tiền mới là T’, và lợi nhuận là: P = T’ – T. P là số tiền
dôi ra so với số tiền ban đầu nhà tư bản đã đầu tư, và Marx gọi đó là
giá trị thặng dư. Nếu tính trên quy mô toàn xã hội và nếu giá trị của
hàng hoá bằng với giá cả của nó thì lợi nhuận P cũng chính là giá trị
thặng dư m, hay P = m. Karl Marx đã viết: “Giá trị thặng dư được quan
điểm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hoá
là lợi nhuận” [12]
Từ lý luận giá trị và giá trị thặng dư của mình, Marx đã đưa ra công thức về lượng giá trị của hàng hoá:
W = C + V + m (1) [13]
Với W là lượng giá trị của hàng hoá.
C là tư bản bất biến, là bộ phận tư bản
tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và
chuyển hoá vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong
quá trình sản xuất.
V là tư bản khả biến, là bộ phận tư bản
tồn tại dưới hình thái sức lao động của những người làm thuê. Những
người làm thuê được Marx hiểu là những người làm việc trong lĩnh vực sản
xuất trực tiếp (chủ yếu là công nhân) chứ không phải là những người làm
việc trong lĩnh vực ngoài sản xuất trực tiếp như là lưu thông… và những
người làm việc trong lĩnh vực hành chính công thì càng không được tính.
Còn m là giá trị thặng dư của người công
nhân và nó bị nhà tư bản chiếm không, hay m là lượng giá trị dôi ra mà
nhà tư bản đã bóc lột từ người công nhân.
Bây giờ chúng ta sẽ làm rõ hơn những hạn
chế trong lý luận của Marx về giá trị và giá trị thặng dư. Trong khái
niệm giá trị của hàng hoá, Marx cho rằng chỉ lao động tham gia vào quá
trình sản xuất mới tạo ra giá trị của hàng hoá, nên Ông cho rằng các lao
động khác không tạo ra giá trị, hay giá trị thặng dư chỉ là lượng giá
trị lao động dôi ra trong lĩnh vực sản xuất; hay giá trị thặng dư không
nảy sinh trong quá trình lưu thông mà nảy sinh trong quá trình sản xuất.
Marx viết: “nếu chúng ta so sánh quá trình tạo ra giá trị với quá trình
làm tăng giá trị, thì chúng ta sẽ thấy rằng, quá trình làm tăng giá trị
chẳng qua cũng là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá một thời
điểm nào đó mà thôi. Nếu quá trình tạo ra giá trị kéo dài đến thời điểm ở
đó giá trị sức lao động do tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang
giá mới thì đó là quá trình giản đơn tạo ra giá trị. Còn nếu như quá
trình tạo ra giá trị vẫn tiếp diễn quá thời điểm đó, thì nó trở thành
một quá trình làm tăng giá trị” [14]. Và nguyên nhân cơ bản của việc
tăng giá trị là do hàng hoá sức lao động có một thuộc tính cơ bản là khi
được đưa vào tiêu dùng thì nó có thể tạo ra một lượng giá trị mới lớn
hơn lượng giá trị ban đầu được mua. Marx lập luận rằng: “Các giá trị chỉ
có thể tăng lên nhờ giá trị nào đó xuất hiện, có nghĩa là được tạo ra
trội thêm ngoài vật ngang giá” và “Giá trị thặng dư – xét chung đó là
giá trị trội thêm ngoài vật ngang giá. Xét theo đúng định nghĩa thì vật
ngang giá chỉ đồng nghĩa với chính nó. Vì vậy giá trị thặng dư không bao
giờ có thể xuất hiện từ vật ngang giá; có nghĩa là giá trị thặng dư
thoạt đầu không thể xuất hiện từ lưu thông được; nó phải xuất hiện từ
chính quá trình sản xuất của tư bản” [15]. Đúng là “giá trị thặng dư
không bao giờ có thể xuất hiện từ vật ngang giá” và nếu lưu thông ở đây
chỉ là đơn thuần là trao đổi trực tiếp hàng hoá lấy hàng hoá như trong
nền sản xuất hàng hoá giản đơn thì không bao giờ giá trị thặng dư có thể
xuất hiện từ lưu thông được. Nhưng trong nền kinh tế hàng hoá tư bản
thì lưu thông là một quá trình có sự đóng góp sức lao động của nhiều
người lao động. Không có sự đóng góp sức lao động của họ thì hàng hoá
không thể thực hiện được giá trị. Họ “tạo ra” giá trị và “làm tăng” giá
trị như lao động trong lĩnh vực sản xuất vậy. Trong lưu thông giá trị
của hàng hoá sẽ tăng lên chứ không phải là sự bảo toàn giá trị của hàng
hoá như trong lưu thông của nền sản xuất hàng hoá giản đơn – khi mà lưu
thông không có gì khác hơn là hành động trao đổi trực tiếp của hàng hoá,
hành động không cần đóng góp của lao động nào và không mất thời gian
lao động như trong nền kinh tế hàng hoá tư bản. Với lưu thông ở đây được
hiểu là quá trình chuẩn bị sản xuất T – H và quá trình tiêu thụ hàng
hoá H’ – T’. Marx đã liên tiếp mắc phải sai lầm khi Ông viết: “Giá trị
thặng dư mà nhà tư bản có được vào giai đoạn cuối của quá trình sản
xuất, – là giá trị thặng dư, với tư cách là giá cả đã tăng lên của sản
phẩm, chỉ được thực hiện trong lưu thông, song chỉ được thực hiện như
kiểu tất cả các giá cả đã được thực hiện trong lưu thông chỉ vì lý do
những giá cả ấy đã có trước lưu thông trên ý niệm, đã được quyết định từ
trước khi chúng được ném vào lưu thông” [16]. Marx đã ngụy biện khi cho
rằng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được là ở cuối giai đoạn sản
xuất. Ở cuối giai đoạn sản xuất, một sản phẩm chưa trở thành hàng hoá,
tức là chúng chưa thực hiện được giá trị (chưa được bán đi); một sản
phẩm mà chưa được bán thì lấy đâu ra giá trị của nó, chứ chưa nói đến
giá trị thặng dư. Marx đã nhìn vào hiện tượng mà chưa hiểu bản chất của
vấn đề, việc “giá cả đã có từ trước lưu thông trên ý niệm” và “được
quyết định từ trước khi chúng được ném vào lưu thông” (trước khi đưa vào
tiêu thụ) không đồng nghĩa với việc lưu thông không đóng góp vào quá
trình “tạo ra” và “làm tăng” giá trị. Tất cả những người hiểu biết về
kinh tế thị trường ngày nay đều biết rằng, khi hàng hoá được sản xuất và
tiêu thụ thì nhà tư bản đã tính toán được trong đầu của mình là họ sẽ
sản xuất và tiêu thụ như thế nào, và khi đưa ra giá cả của hàng hoá thì
nhà tư bản đã tính toán được tất cả các chi phí từ giai đoạn chuẩn bị
sản xuất (T – H giai đoạn lưu thông trước sản xuất), giai đoạn sản xuất
và giai đoạn tiêu thụ (H’- T’ giai đoạn lưu thông sau sản xuất). Những
chi phi được tính đó chính là giá trị sức lao động của các bộ phận khác
nhau đã đóng góp vào giá trị của hàng hoá. Nếu lao động trong lưu thông
không tạo ra giá trị thì nhà tư bản chẳng khi nào chịu trả lương cho
những lao động không đóng góp vào giá trị của hàng hoá của ông ta sơ
hữu, mặt khác giá trị là do lao động tạo ra thì chẳng có lý do nào mà
lao động trong lưu thông lại không tạo ra giá trị. Lao động trong lưu
thông “tạo ra” giá trị thì theo suy luận logic lao động trong lưu thông
cũng “làm tăng” giá trị, hay lao động này cũng đóng góp vào giá trị
thặng dư. Như vậy cả lý luận lẫn thực tiễn của nền kinh tế hàng hoá tư
bản chủ nghĩa đã chỉ ra rằng lý luận của Marx là không chính xác.
Tài liệu tham khảo
[1] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13 trang 13
[2] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13 trang 21-22
[3, 4] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13 trang 23
[5] Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999 trang 120
[6] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13, trang 26-27
[7] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46 (phần I), trang 352-353
[8] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46 (phần I), trang 353
[9] Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999 trang 123
[10] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13, trang 27
[11] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 24, trang 45
[12] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 25 (phần I), trang 65
[13] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 25 (phần I), trang 47
[14] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 23, trang 291-292
[15] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46 (phần I), trang 461
[16] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46 (phần I), trang 454
[17] Chương VI, Phần chưa được Nhà xuất bản Tri thức dịch. http://www.scribd.com/doc/6546651/Karl-MarxNew-Ideas-From-Dead-Economists?__cache_revision=1231652476&__user_id=-1&enable_docview_caching=1
[2] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13 trang 21-22
[3, 4] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13 trang 23
[5] Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999 trang 120
[6] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13, trang 26-27
[7] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46 (phần I), trang 352-353
[8] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46 (phần I), trang 353
[9] Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999 trang 123
[10] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tập 13, trang 27
[11] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 24, trang 45
[12] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 25 (phần I), trang 65
[13] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 25 (phần I), trang 47
[14] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994, tập 23, trang 291-292
[15] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46 (phần I), trang 461
[16] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1999, tập 46 (phần I), trang 454
[17] Chương VI, Phần chưa được Nhà xuất bản Tri thức dịch. http://www.scribd.com/doc/6546651/Karl-MarxNew-Ideas-From-Dead-Economists?__cache_revision=1231652476&__user_id=-1&enable_docview_caching=1
(Còn 1 kì)
© 2009 Đàm Văn Vĩ
© 2009 talawas blog
0 comments
Post a Comment