Những sai lầm của Marx đã chỉ ra ở trên
đây là chưa đủ, ông còn những sai lầm quan trọng hơn, mà những sai lầm
này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của ông về hàng hoá và giá trị của
hàng hoá. Quá trình: T – H … Sx … H’ – T’ không phải là một quá trình tự
thân vận động, nó cần những lao động khác ngoài những lao động trong
các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào, đó là lao động trực tiếp của nhà
tư bản trong doanh nghiệp của họ cùng toàn bộ hệ thống Nhà nước hỗ trợ
gián tiếp cho quá trình vận động này được thực hiện và lặp lại trong nền
kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Như đã chỉ ra ở trên, nếu không có
hệ thống Nhà nước, hàng hoá công cộng thì không có nền kinh tế hàng hoá
tư bản chủ nghĩa. Những lao động trong lĩnh vực hàng hoá công cộng là
những lao động đóng góp gián tiếp cho giá trị của hàng hoá, được thể
hiện qua việc đảm bảo An ninh, Quốc phòng, luật lệ, cơ sở hạ tầng, khoa
học kỹ thuật công nghệ, là giáo dục, y tế, văn hoá cho người lao động…
Những đóng góp này được tính vào các chi phí thành lập công ty, lệ phí,
thuế, và các chi phí khác liên quan đến lĩnh vực hành chính, chi phí cho
sức khoẻ thể chất và tinh thần, kiến thức của người lao động, chi phí
đến cơ sở hạ tầng cho hoạt động sản xuất kinh doanh… Và các chi phí này
được tính vào trong tổng giá trị của hàng hoá mà nhà tư bản đã cho ra
thị trường. Những chi phí này được tính vào chi phí sản xuất K = C + V
(K là chi phí để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, cụ thể sau này
chi phí đó sẽ được tính vào C với khái niệm C đã được mở rộng hơn so với
lý thuyết của Marx). Đồng thời những chi phí mà nhà tư bản đã bỏ ra như
thuế nhà đất, thuế thu nhập… lệ phí về xuất nhập khẩu, cơ sở hạ tầng…
bảo hiểm cho người lao động…sẽ được dùng để trả lương cho công chức,
viên chức trong bộ máy hành chính; trả cho giá trị sức lao động mà công
chức, viên chức đóng góp vào giá trị của hàng hoá. Marx cho rằng đó chỉ
là sự phân phối lại giá trị của người sản xuất trực tiếp; nhưng thực ra
đó là việc trả cho giá trị sức lao động mà họ đã bỏ ra, một sự đóng góp
vào giá trị của hàng hoá mang tính gián tiếp, nhưng thực sự cần thiết
cho quá trình vận động của hàng hoá trong nền kinh tế hàng hoá tư bản
chủ nghĩa hiện nay.
Chúng ta cần phải phân biệt lao động
trong lĩnh vực tư nhân và lao động trong lĩnh vực công cộng về mặt giá
trị thặng dư. Lao động trong lĩnh vực hành chính công thì không có sự
bóc lột về giá trị thặng dư. Bởi vì, sức lao động được bỏ ra được đo
bằng giá trị các hàng hoá do họ tạo ra, được xã hội đồng thuận đánh giá –
đó là một sự trừu tượng hoá nhưng là sự trừu tượng hoá trong thực tiễn
mà chúng ta không cần phải thêm hay bớt nó. Mức lương trả cho giá trị
sức lao động được toàn xã hội (hay đại diện cho toàn xã hội) quy định
bằng luật. Hơn nữa họ không có một ông chủ thực sự của mình, không có sự
theo đuổi lợi nhuận của nhà tư bản, nên họ không hề bị bóc lột. Chỉ có
những người lao động trong lĩnh vực tư nhân là thực sự bị bóc lột, trong
đó công nhân (mà trong xã hội tư bản thì luôn có dư thừa lao động – một
xã hội không bao giờ có toàn dụng lao động) là bị bóc lột nhiều nhất.
Todd G. Buchholdz trong “Ý tưởng mới từ
các nhà kinh tế tiền bối” đã viết: “Marx đã bỏ quyên điều gì? Ông đã bỏ
quyên một khả năng sáng tạo và tài kinh doanh” và “Tại sao người Nga
sống dưới chế độ cộng sản lại phải xin những chiếc quần bò mà người Mỹ
làm ra? Không phải vì Liên Xô thiếu bông hay thiếu công nhân để sản xuất
quần áo chất lượng cao, mà bởi vì họ thiếu sáng tạo, thiếu động lực làm
việc và thiếu kỷ luật” [17]. Học thuyết giá trị lao động của Marx đã bỏ
qua vai trò của nhà tư bản – chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân. Không
có họ thì sẽ không có nên kinh tế hàng hoá tư bản. Động lực theo đuổi
lợi nhuận đã thúc đẩy họ làm việc để cho ra đời hàng hoá và thực hiện
giá trị của hàng hoá và lao động của họ đã không được Marx tính vào giá
trị của hàng hoá, trong khi đáng ra lao động của họ phải được tính vào
giá trị của hàng hoá. Khả năng quản lý kinh doanh của họ đã giúp cho
doanh nghiệp ra đời cũng như cho ra đời các loại hàng hoá. Đó là việc
lao động ở tầm bao quát, chiến lược. Cụ thể là họ phải suy nghĩ và làm
việc để: huy động vốn, xây dựng cơ sở vật chất cho sản xuất (thuê đất
đai, xây nhà xưởng, chọn máy móc công nghệ…) hiện thực hoá ý tưởng sản
xuất kinh doanh của họ thành hiện thực (tuyển lao động, tìm ra cơ chế
hoạt động của công ty và hiện thực hoá cơ chế đó…) giải quyết quá trình
thực hiện giá trị của hàng hoá (vận chuyển, tiêu thụ như thế nào, tìm
ra đối tượng tiêu thụ, tác động tới việc cải tiến chất lượng, mẫu mã,
giá thành… để cạnh tranh, tác động tới việc hình thành sản phẩm mới…).
Việc quản lý tất cả các mặt của sản xuất và lưu thông không phải là làm
việc, là lao động thì là gì? Họ phải bỏ công sức, phải suy nghĩ, tính
toán để cho ra đời hàng hoá, đó không phải là lao động thì là gì? Lao
động tạo ra giá trị của hàng hoá thì tại sao lao động của họ lại không
được tính vào giá trị của hàng hoá. Thành ngữ Việt Nam có câu “Một người
lo bằng một kho người làm” để nói lên rằng công sức và giá trị sức lao
động của họ bỏ ra là rất lớn so với những người làm thuê. Đó là thực
tiễn, Marx luôn coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, thế nhưng ông
lại bỏ qua giá trị sức lao động của nhà tư bản đóng góp vào giá trị của
hàng hoá, đó là điều đáng chê trách của Marx.
Như vậy, từ những phân tích ở trên, chúng
ta có thể thấy rằng tất cả mọi lao động hưởng lương, dù là lao động
trong lĩnh vực tư nhân hay công cộng, và nhà tư bản đều đóng góp giá trị
sức lao động của mình vào giá trị của hàng hoá. Do đó chúng ta cần xây
dựng lại công thức về lượng giá trị của hàng hoá. Lao động trong lĩnh
vực công cộng đóng góp gián tiếp vào giá trị của hàng hoá; đó là các chi
phí về thuế, lệ phí, bảo hiểm… và vốn con người (sức khoẻ, trí tuệ của
người lao động) của một xã hội nhất định. Lao động trong lĩnh vực tư
nhân (gồm người làm thuê và nhà tư bản) đóng góp trực tiếp vào giá trị
của hàng hoá. Nếu gọi C là tư bản bất biến, là khoản tư bản đóng góp một
lượng nhất định, không tăng lên về lượng trong quá trình vận động của
hàng hoá thì C không chỉ là tư liệu sản xuất như trong lý luận của Karl
Marx nữa, mà C bao gồm tư liệu sản xuất, chi phí cho hành chính công
(thuế, lệ phí…), chi phí giao dịch, chi phí kinh doanh, marketing, quảng
cáo… hay C là tất cả các chi phí của một công ty, ngoài chi phí trả
lương cho người lao động. Còn V là tư bản khả biến, là phần tư bản sẽ
tạo ra sự tăng thêm về lượng giá trị của hàng hoá trong quá trình vận
động của hàng hoá; hiểu một cách đơn giản thì V là tiền lương và phụ cấp
khác cho người làm thuê, với người làm thuê là tất cả những người làm
việc trong công ty ngoài nhà tư bản – chủ sở hữu. m là giá trị thặng dư
của người làm thuê chứ không phải chỉ có công nhân. Ngoài ra còn một đại
lượng nữa cần được bổ sung vào công thức (1) của Marx, đó là E
(Entrepreneurship). E là giá trị sức lao động của nhà tư bản đóng góp
vào giá trị của hàng hoá. E bao gồm E1 và E2. E1
là những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nhà tư bản sống và làm việc (lao
động cần thiết của nhà tư bản) nó tương đương với V của người làm thuê.
E2 là giá trị lao động tăng thêm ngoài những tư liệu sinh hoạt cần thiết của nhà tư bản E1,
đó là lao động thặng dư của nhà tư bản và nó tương đương với m của
người làm thuê (giá trị thặng dư của nhà tư bản không liên quan đến khái
niệm bóc lột như của Marx). Tóm lại với những lập luận ở trên chúng ta
sẽ đưa ra khái niệm mới về lượng giá trị của hàng hoá:
Giá trị của hàng hoá là lao động
trừu tượng của những người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá
trình vận động của hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Công thức về lượng giá trị của hàng hoá có thể viết lại theo khái niệm mới này là:
W = C + V + E + m (2)
Trong đó quá trình vận động của hàng hoá bao gồm cả quá trình sản xuất và lưu thông.
Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu vì sao Karl
Marx lại không đưa đại lượng E vào công thức (1) và vì sao Ông lại cho
rằng số tiền tăng lên so với tư bản ban đầu chỉ là giá trị thặng dư?
Karl Marx đưa ra giả thuyết: “Nếu ban đầu
tư bản bằng 100 ta-le thì nó vẫn tiếp tục bằng 100 ta-le, mặc dù trong
quá trình sản xuất 100 ta-le ấy đã tồn tại dưới hình thức 50 ta-le bông,
40 ta-le tiền công, 10 ta-le máy kéo sợi, còn giờ đây tồn tại dưới hình
thức sợi bông trị giá 100 ta-le. Sự tái sản xuất ấy ra 100 ta-le chỉ là
việc 100 ta-le ấy duy trì sự ngang bằng với bản thân, chỉ với một sự
khác biệt là sự duy trì ấy ở đấy phải thông qua khâu trung gian là quá
trình sản xuất vật chất” [18]. Và ông viết tiếp: “Khi người ta nói rằng
chi phí sản xuất, hay giá cả tất yếu của hàng hoá, bằng 110 thì tính
toán được thực hiện như sau: tư bản ban đầu 100 (như vậy, thí dụ nguyên
liệu bằng 50, lao động bằng 40, công cụ lao động bằng 10) + 5% (lợi tức)
+ 5% (lợi nhuận). Có nghĩa là, chi phí sản xuất bằng 110; chứ không phi
bằng 100; do đó chi phí sản xuất lớn hơn giá thành” [19]. Và Marx, cũng
như chúng ta vẫn coi rằng 10 ta-le tăng thêm đó chỉ là giá trị thặng dư
của người công nhân sản xuất tạo ra. Thực ra, việc chuyển 100 ta-le tư
bản ban đầu thành 100 ta-le bông chỉ là sự tính toán ở trong đầu nhà tư
bản và 100 ta-le cũng không thể coi là “giá thành sản xuất”. Bởi vì “giá
thành sản xuất” không phải chỉ là 100 ta-le tư bản ban đầu cũng như
không phải chỉ qua “khâu trung gian là quá trình sản xuất vật chất” thì
hàng hoá đã thực hiện được giá trị mà giá thành sản xuất còn bao gồm sức
lao động của nhà tư bản bỏ ra (tôi gọi nó là E1) và còn phải
trải qua khâu vận chuyển, tiêu thụ nữa chứ không phải chỉ có khâu “sản
xuất vật chất”. Như vậy giá thành của sản xuất phải lớn hơn 100 ta-le
nhưng nó cũng không thể bằng 110 ta-le được. Và 10 ta-le tăng thêm cũng
không thể lý giải đó là 5% lợi tức + 5% lợi nhuận. Thực chất, 10 ta-le
tăng thêm bao gồm: chi phí sản xuất tăng thêm ngoài tư bản ban đầu, chi
phí tăng này bao gồm sức lao động của nhà tư bản E1 và sức lao động của
khâu vận chuyển tiêu thụ (tôi gọi là V2, còn V trong (2) được gọi là V1
và từ bây giờ trở đi chúng ta thống nhất với nhau V = V1 + V2); giá trị thặng dư do nhà tư bản tạo ra E2
(vì nhà tư bản cũng là một người lao động, có sức lao động và sức lao
động thì có đặc điểm khi tiêu dùng thì tạo ra giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu – giá trị của những tư liệu cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất sức lao động E1); giá trị thặng dư của người làm thuê m; cùng với
đó là các chi phí cho hàng hoá công cộng G. Hay G + E1 + E2 + V2 + m = 10 hay G + E + V2
+ m = 10. Trên đây là những lập luận theo cách đặt vấn đề của Mác. Còn
trên thực tế ngày nay, V đã bao gồm tiền công ở tất cả các khâu sản
xuất, vận chuyển, tiêu thụ; và G cùng những chi phí khác đã được tính
vào C. Do vậy, 10 ta-le dư ra so với tư bản ban đầu, về thực chất chỉ
là: E + m.
Marx đặt ra vấn đề: “người ta có thể nói
rằng nhà tư bản phải được trả công lao động, lao động ấy thể hiện ở chỗ
là nó ném 100 ta-le, với tư cách là tư bản, vào quá trình sản xuất, chứ
không phải ăn tiêu vào số tiền đó. Nhưng lấy đâu ra nguồn trả công cho
hắn”[20] . Nhưng trên thực tế, lao động của nhà tư bản đâu chỉ là “bỏ ra
100 ta-le” và “không ăn tiêu số tiền đó” mà lao động của nhà tư bản là
lao động thực sự như ở phần trên đã phân tích. Còn nguồn trả cho nhà tư
bản chính là một phần trong 10 ta-le tăng thêm sau khi giá trị của hàng
hoá được thực hiện. Thực vậy, bây giờ chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi, thế
nguồn trả cho công nhân là từ đâu? Câu trả lời là từ tư bản ban đầu 100
ta- le. Thế 100 ta-le đó ở đâu ra? Câu trả lời là do tích luỹ, do dư
thừa. Hay chính là tiền (giá trị) do sức lao động của con người tạo ra.
Như vậy lao động tạo ra giá trị, hay hiển nhiên nhà tư bản bỏ sức lao
động để tạo ra giá trị và phải được hưởng nó!
Ông viết tiếp: “Và lao động của hắn liệu
có tỏ ra là hoàn toàn vô ích không, bởi vì tư bản bao gồm tiền công, và
do đó công nhân có thể sống nhờ vào tái sản xuất giản đơn ra số chi phí
sản xuất, mà điều này thì nhà tư bản không thể làm được. Như vậy, nhà tư
bản được ghi ở cột những hư phí của sản xuất”[21]. Đúng vậy, người công
nhân là những người vô sản, phải bán sức lao động để lấy tiền kiếm
sống. Nhưng nhà tư bản thì không, họ không phi là vô sản, họ có tiền
riêng để sống và số tiền này không nằm trong tư bản ban đầu. Và số tiền
này được lấy lại sau khi giá trị của hàng hoá được thực hiện – nó chính
là E1. Còn việc Marx nói lao động của nhà tư bản thuộc vào
“những hư phí của sản xuất” là không đúng. Bởi vì, một lao động mà không
đóng góp vào giá trị của hàng hoá chỉ khi lao động ấy không tạo ra giá
trị sử dụng hoặc giá trị của hàng hoá không thực hiện được, còn nếu hàng
hoá thực hiện được giá trị thì mọi lao động tham gia vào quá trình vận
động của hàng hoá đều đóng góp vào giá trị của hàng hoá. Cho nên, lao
động của nhà tư bản có đóng góp vào giá trị của hàng hoá.
Tiếp đến, ông viết: “Và cho dù nhà tư bản
có những công lao như thế nào đi nữa thì tái sản xuất vẫn có thể được
thực hiện không cần đến hắn ta, bởi vì trong quá trình sản xuất công
nhân chỉ đưa vào đó cái giá trị mà họ rút ra từ quá trình ấy, nghĩa là
công nhân hoàn toàn không cần đến quan hệ tư bản chủ nghĩa cũng có thể
thường xuyên lặp lại quá trình sản xuất” [22]. Những suy nghĩ này của
Mác là quá giản đơn và xa rời thực tế. Bởi vì, trên thực tế, nếu một tổ
chức, một hệ thống mà không có người lãnh đạo, quản lý thì tổ chức, hệ
thống đó làm sao mà hoạt động được; còn nếu như Nhà nước hay tập thể tự
đứng lên để tổ chức quá trình sản xuất như trong nền kinh tế tập trung,
bao cấp của chúng ta trước đây thì kết quả như thế nào có lẽ không cần
phải nói thêm nữa. Nếu công nhân không cần đến quan hệ tư bản chủ nghĩa
mà vẫn có thể lặp lại thường xuyên quá trình sản xuất và tái sản xuất
thì quá trình ấy cũng chỉ mang tính máy móc, dập khuân. Mà một quá trình
sản xuất chỉ mang tính dập khuân, máy móc thì trên thực tế sẽ không bao
giờ tồn tại được trong nền kinh tế thị trường luôn luôn vận động và
phát triển không ngừng. Lý luận của Marx trong trường hợp này trở lên
không còn là lý luận về nên kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa nữa.
Tiếp theo, Marx cho rằng: “vả lại, ngoài
ra, cũng không có một nguồn quỹ nào có thể rút từ đó ra để trả những
đóng góp của nhà tư bản, bởi vì như thế giá cả của hàng hoá sẽ bằng chi
phí sản xuất”[23] . Phải chăng, Marx viết “bởi vì như thế” là có ý nói
tới việc nếu lấy 10 ta-le tăng thêm để trả công cho nhà tư bản thì giá
cả của hàng hoá sẽ bằng chi phí sản xuất? Phải chăng Marx muốn nói chi
phí sản xuất là: C + V + E? Quả thật, nếu cho rằng chi phí sản xuất bằng
giá cả của hàng hoá thì không đúng. Bởi vì lượng giá trị của hàng hoá
(giá cả) bao gồm không chỉ chi phí sản xuất mà còn có giá trị thặng dư
của nhà tư bản cộng với giá trị thặng dư của người làm thuê. Như chúng
ta đã biết, lượng giá trị của hàng hoá là tổng giá trị ban đầu đã được
đưa vào trong hàng hóa (đó chính là sự bảo toàn của
lượng giá trị của hàng hóa), ở đây lượng giá trị của hàng hoá bao gồm:
tư bản bất biến C, với C hiểu theo nghĩa mới ở trên, nó bao gồm tất tư
liệu sản xuất và tất cả các chi phí khác ngoài V; giá trị sức lao động
của người làm thuê (bao gồm phần được nhà tư bản mua V và phần giá trị
thặng dư m); giá trị sức lao động của nhà tư bản (bao gồm E1 – những tư
liệu cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động của nhà tư
bản và phần giá trị thặng dư của nhà tư bản E2). Vì vậy, nếu Marx cho
rằng công để trả cho nhà tư bản là 10 ta-le trội thêm thì Mác đã sai và
nếu ông cho rằng giá cả của hàng hoá bằng chi phí sản xuất: W = C + V + E
thì ông lại càng sai. Do đó những lập luận phủ định này của Mác trở lên
vô nghĩa, nó không giải thích được điều gì, cũng như nó chẳng phản bác
được điều gì cả.
Còn một điều nữa mà Marx đã nghĩ tới
nhưng ông đã không thừa nhận nó (có lẽ là do định kiến, do căm hận bọn
tư sản đến tận xương tủy vì mỗi đồng tiền chúng kiếm được đều chứa đầy
máu và nước mắt của người lao động, trong thời đại mà ông sống), đó là:
Nhà tư bản vừa là người đối lập với người lao động (vì đã chiếm hữu phần
giá trị thặng dư của người lao động) đồng thời cũng là người lao động
(vì ông ta cũng lao động để thu được phần bỏ ra E1 và phần giá trị thặng dư của mình E2).
Ông viết: “Nếu ta coi lao động của nhà tư bản là một thứ lao động đặc
biệt bên cạnh lao động của công nhân và ngoài lao động của công nhân,
thí dụ là lao động giám sát v.v. , thì nhà tư bản sẽ nhận được – cũng
như công nhân – một khoản tiền công nào đó, cũng thuộc vào một phạm trù
như công nhân, và nhà tư bản quan hệ với lao động tuyệt nhiên không phải
với tư cách là nhà tư bản”[24]. Karl Marx là người khai sinh ra logic
học biện chứng, nhưng Ông lại không áp dụng nó cho thực tiễn này thì
thật là một điều đáng trách. Chúng ta nghe tới điều này có vẻ hơi lạ:
nhà tư bản vừa là nhà tư bản lại không phải là nhà tư bản mà lại là
người lao động. Nhưng trên thực tế, nếu chúng ta hiểu biết về Vật lý
hiện đại thì chúng ta sẽ thấy: một thực thể vừa là hạt nhưng lại cũng
không phải là hạt mà lại là sóng, như photon chẳng hạn (lưỡng tính sóng –
hạt của vật chất).
Và cuối cùng Marx khẳng định: “nhà tư bản
cũng sẽ không làm giàu được, mà chỉ thu được một giá trị trao đổi mà
hắn ta sẽ phải tiêu dùng thông qua lưu thông”[25] . Điều khẳng định này
của Marx là sai. Bởi vì, trên thực tế, khi hàng hoá được bán nhà tư bản
không chỉ thu được giá trị do mình tạo ra mà còn thu được cả giá trị
thặng dư của người làm thuê, do đó mà ông ta vẫn làm giàu được. Vì vậy
mà quy luật giá trị thặng dư, với nội dung: Sản xuất ra giá trị thặng dư
tối đa bằng cách tăng quy mô sản xuất và nâng cao trình độ bóc lột dựa
trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật, tăng năng suất lao
động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, vẫn là quy luật
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản bởi vì nó phản ánh bản chất của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và nó phản ánh được động lực, mục
đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Từ những lập luận ở trên, chúng ta sẽ xem
lợi nhuận bao gồm những gì? Theo công thức chung của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa: T – H – T’, nếu số tiền bỏ ra ban đầu là T = K = C + V
(chi phí sản xuất), thì số tiền thu được là: T’ = C + V + E + m, suy ra
lợi nhuận là: P = T’ – T = E + m.
Như vậy lợi nhuận của nhà tư bản thu được
(nếu giá cả của hàng hoá bằng giá trị của hàng hoá) không phải chỉ là
giá trị thặng dư m của người làm thuê tạo ra mà còn có cả giá trị do nhà
tư bản tạo ra E.
III. Kết luận và một số hướng mở
1. Giá trị của hàng hóa
là lao động trừu tượng của những người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp
vào quá trình vận động của hàng hóa kết tinh trong hàng hoá.
Lượng giá trị của tổng số hàng hóa được
sản xuất ra trong một khoảng thời gian là: W = C + V + E + m. Với C là
tư bản bất biến. V là tư bản khả biến hay chính là sức lao động của
người làm thuê đóng góp vào giá trị của hàng hoá. E là sức lao động của
nhà tư bản kết tinh vào hàng hoá, E = E1 + E2, với E1 là giá trị để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động của nhà tư bản (lao động cần thiết), E2
là giá trị thặng dư (giá trị tăng thêm ngoài E1) của nhà tư bản tạo ra
(lao động thặng dư). Còn m là giá trị thặng dư của những người làm thuê.
2. Lợi nhuận mà nhà tư
bản thu được là: P = E + m. Lợi nhuận này bao gồm giá trị do nhà tư bản
tạo ra E và giá trị thặng dư của người làm thuê m.
3. Từ những bổ sung vào
khái niệm giá trị và giá trị thặng dư chúng ta sẽ phải thay đổi nhiều
vấn đề khác trong kinh tế chính trị Marxist và kinh tế học.
4. Nếu chúng ta tính
được tỷ lệ E/m trên lý thuyết và áp dụng được vào thực tế thì chúng ta
sẽ có cơ sở lý luận rõ ràng cho việc đảng viên làm kinh tế tư nhân. Và
hơn thế nữa chúng ta sẽ sử dụng được một nền kinh tế thị trường mang bản
chất xã hội chủ nghĩa đó là làm theo lao động và hưởng theo lao động,
tức là E nhà tư bản giữ còn m nhà tư bản trả lại cho người làm thuê. Do
đó, nền kinh tế thị trường này sẽ khác hẳn về chất so với nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa mang bản chất bóc lột. Khái niệm nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ rất đơn giản: đó là một nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước,
trong đó mọi người làm theo lao động và hưởng theo lao động. Chúng ta sẽ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội bằng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với một
lý luận rõ ràng, khoa học chứ không mơ hồ, gượng ép như
hiện nay.
Toàn cầu hoá, mà về thực chất là sự mở
rộng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra toàn thế giới, đang là một
xu thế tất yếu không thể đảo ngược. Việc tất cả các nước sẽ phải sử
dụng nền kinh tế thị trường là một điều chắc chắn. Nền kinh tế của tất
cả các nước sẽ chịu sự tác động, phụ thuộc lẫn nhau, sẽ phải kết hợp lại
với nhau để tạo thành một chỉnh thể thống nhất – một nền kinh tế toàn
thế giới. Một nền kinh tế thị trường toàn thế giới (mà ở đó không còn
bóc lột vì mọi người làm theo lao động và hưởng theo lao động, tức là E
nhà tư bản giữ và m trả lại cho người làm thuê) kết hợp với xu thế cổ
phần hoá (tài sản, của cải được phân chia lại cho mọi người chứ không
còn tập trung vào một số ít người) và xu thế phát triển như vũ bão của
cách mạng khoa học, kỹ thuật, công nghệ (phát triển lực lượng sản xuất)
phải chăng chính là ba xu thế sẽ đưa loài người tiến
lên chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa tư bản ở trên quy mô toàn thế giới –
điều mà Marx đã dự đoán cách đây hơn 100
năm!
Khủng hoảng trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa là một điều tất yếu. Trong bài nghiên cứu “Nguyên nhân của khủng
hoảng toàn cầu”, nhóm “Cộng sản trẻ” chúng tôi đã chỉ ra nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng đang diễn ra hiện nay. Việc hạn chế khủng hoảng có thể
thực hiện được khi Nhà nước kiểm soát được thị trường chứng khoán, thị
trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, và việc đầu cơ. Đồng thời sử dụng
lý thuyết tiền tệ của Milton Friedman (với lượng cung tiền không đổi).
Lượng cung tiền không đổi sẽ tạo ra sự tăng trưởng cân bằng, ổn định mặc
dù có thể tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao. Nó sẽ hạn chế sự tăng
trưởng quá “nóng”, vì sau khi quá “nóng” sẽ là quá “lạnh”. Ngoài ra việc
tính được E và m và phân phối theo đúng tính toán đó “có thể” sẽ giúp
cho việc tiêu dùng ổn định hơn, tránh việc tiêu dùng bùng phát – thu
hẹp. Đồng thời nó có thể hạn chế sự mất cân bằng giữa hai khu vực tiêu
dùng hàng hoá tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, theo lý luận mất
cân bằng giữa hai khu vực sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực sản xuất
tư liệu tiêu dùng của Karl Marx.
IV. Một số lưu ý
1. Trong bài viết này
ngoài những khái niệm mới đã giải thích cũng như những khái niệm cũ đã
được bổ sung, còn tất cả các khái niệm khác tôi đều sử dụng theo cách
hiểu của Marx.
2. Với điều kiện và khả
năng của mình, tôi chưa tính được tỉ lệ E/m trên lý thuyết và tôi cũng
chưa biết áp dụng như thế nào vào thực tế ở Việt Nam và trên thế giới
(nếu lý luận của tôi là đúng). Khi mà chúng ta chưa tính được trên lý
thuyết tỉ lệ E/m và chưa áp dụng được vào thực tế thì tôi phản đối việc
dùng lý luận này để ngụy biện cho việc đảng viên làm kinh tế tư nhân.
Việc đảng viên không nên làm kinh tế tư nhân đã được tôi phân tích trong
bài viết “Tương lai nào cho chủ nghĩa xã hội?” (talawas, 18.6.2009).
Tài liệu tham khảo
[18] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 762
[19] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 765
[20 - 25] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 768
[19] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 765
[20 - 25] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, tập 2, trang 768
Ngày 17/4/2009
© 2009 Đàm Văn Vĩ
© 2009 talawas blog
0 comments
Post a Comment