4. Nội dung cơ bản của Hiến pháp
4.1. Bộ máy nhà nước
Hình thức chính thể mà nước Nga xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa chế độ đại nghị với chế độ tổng thống. Quyền lực nhà nước được phân chia làm ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan quyền lực đều hoạt động độc lập (điều 10). Tuy nhiên, chúng vẫn có sự phối hợp với nhau trong khuôn khổ hiến định với vai trò điều hành của Tổng thống. Khoản 2 điều 80 Hiến pháp chỉ rõ: Tổng thống Liên bang Nga là người điều hành chung mọi hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền lực tối cao trước đây của Quốc hội bị hạn chế. Điều này cũng thể hiện trong cơ cấu Hiến pháp: chương 4 nói về Tổng thống mở đầu các chương quy định về bộ máy nhà nước.
Theo TSKH. Lê Cảm, sự phối hợp hoạt động của các nhánh quyền lực nhà nước Liên bang Nga được đảm bảo bằng cơ chế kiểm soát và đối trọng giữa chúng (lập pháp, hành pháp và tư pháp), được điều chỉnh bởi các quy phạm hiến định và thể hiện chủ yếu trên bốn bình diện như sau:
• Trong việc thực hiện các thẩm quyền của mỗi nhánh quyền lực (ở các mức độ khác nhau) có liên quan đến các thẩm quyền của nhánh quyền lực kia;
• Trong quá trình thông qua các Luật Hiến pháp liên bang và các Luật liên bang khác;
• Trong các trường hợp Tổng thống có thể và không thể giải tán Đuma quốc gia;
• Trong việc phế truất Tổng thống khỏi chức vụ (với sự phối hợp giữa Hội đồng Liên bang, Đuma Quốc gia, Tòa án Tối cao và Tòa án Hiến pháp Liên bang).
* Tổng thống
Tổng thống Nga là nguyên thủ quốc gia đồng thời điều hành toàn bộ hoạt động của chính phủ Nga. Quyền hành pháp được phân chia giữa Tổng thống và Thủ tướng, là người đứng đầu chính phủ.Theo Hiến pháp Liên bang Nga, một người muốn đứng ra làm ứng cử viên tổng thống thì phải là một công dân Nga ít nhất 35 tuổi, đã sinh sống lâu dài ở Liên bang Nga không ít hơn 10 năm. Hiến pháp Liên bang Nga cũng hạn chế số nhiệm kỳ mà một cá nhân có thể giữ chức tổng thống, với mỗi cá nhân chỉ có thể giữ chức vụ này không quá hai nhiệm kỳ liên tục.
Khi nhậm chức, Tổng thống phải tuyên thệ như sau: “Tôi xin thề, khi thực hiện quyền hạn của Tổng thống Liên bang Nga, tôn trọng và bảo vệ quyền và tự do của con người và của công dân, tuân thủ và bảo vệ Hiến pháp Liên bang Nga, bảo vệ chủ quyền và độc lập, an ninh và sự toàn vẹn của quốc gia và trung thành phục vụ nhân dân”.
Theo điều 80 Hiến pháp, Tổng thống là người bảo vệ Hiến pháp Liên bang Nga, quyền và tự do của cá nhân và công dân Nga . Theo những thủ tục hiến định, Tổng thống thông qua những biện pháp nhằm bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Liên bang Nga và điều phối hoạt động giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Đối với Quốc hội, Tổng thống có quyền gửi thông điệp Liên bang, đưa ra hay bác bỏ các dự luật, giải tán Đuma Quốc gia và quyết định bầu cử Đuma trước thời hạn. Đối với Chính phủ, Tổng thống là người điều hành toàn bộ hoạt động: có quyền đề cử ứng cử viên Thủ tướng Chính phủ để Đuma Quốc gia phê chuẩn cũng như tuyên bố giải tán Chính phủ bất cứ lúc nào. Tổng thống có nhiệm vụ quyết định chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước. Trong quan hệ quốc tế, Tổng thống có quyền đám phán và ký kết các điều ước quốc tế. Chúng sẽ có hiệu lực khi hai viện của Quốc hội phê chuẩn. Tổng thống cũng là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống có quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp trên lãnh thổ Liên bang hoặc ký kết hiệp ước hòa bình với sự phê chuẩn của Quốc hội. Tổng thống cũng được quyền trao huân và huy chương, giải quyết các vấn đề về quốc tịch và có quyền ân xá và đặc xá.
*Quốc hội
Quốc hội Liên bang là cơ quan đại diện và lập pháp tối cao của quốc gia; hoạt động thường xuyên; bao gồm hai viện: Hội đồng Liên bang (Thượng nghị viện) và Viện Đuma Quốc gia (Hạ nghị viện).
Hội đồng Liên bang là cơ quan đại diện của các chủ thể liên bang. Mỗi chủ thể liên bang được cử hai đại diện vào Hội đồng, bao gồm một đại diện của cơ quan lập pháp và một đại diện của cơ quan hành pháp. Hiến pháp không quy định nhiệm kỳ của cơ quan này bởi với cơ cấu như trên, thành viên của Hội đồng sẽ thay đổi theo sự thay đổi nhân sự cấp cao từ các chủ thể liên bang.
Viện Đuma Quốc gia có 450 đại biểu được bầu với thời hạn 5 năm. Trong số đó, một nửa số đại biểu được bầu theo danh sách bầu cử của các đảng phái chính trị, phong trào xã hội, nửa còn lại được bầu theo danh sách bầu cử của các khu vực bầu cử (mỗi đại biểu trong nhóm này được bầu từ một khu vực bầu cử từ các địa phương).
Để đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động đại biểu, Hiến pháp quy định: một người không thể là thành viên Hội đồng Liên bang và Đuma Quốc gia; đại biểu Đuma Quốc gia không thể đồng thời là thành viên của các cơ quan quyền lực nhà nước khác hoặc các cơ quan tự quản địa phương; đại biểu Đuma Quốc gia làm việc trên cơ sở thường xuyên, chuyên nghiệp; đại biểu không được làm việc trong các tổ chức dân sự khác có trả lương trừ hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và sáng tác (điều 97).
Hai viện Quốc hội tiến hành họp riêng và công khai, trừ một số phiên họp kín theo quy chế. Bên cạnh đó, cả hai viện sẽ tiến hành họp chung để nghe thông điệp của Tổng thống, thông điệp của Tòa án Hiến pháp Liên bang cũng như phát biểu của các nhà lãnh đạo nước ngoài (điều 100).
Hiến pháp cũng quy định rõ vấn đề giải tán Quốc hội để đảm bảo hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước cũng như việc giải quyết xung đột chính trị giữa nhánh quyền lực:
• Các trường hợp Đuma Quốc gia có thể bị Tổng thống giải tán (3 trường hợp): một là, sau 3 lần Đuma Quốc gia bác bỏ ứng cử viên chức Thủ tướng Chính phủ do Tổng thống đề nghị; hai là, Tổng thống không đồng ý với tuyên bố bất tín nhiệm Chính phủ do Đuma Quốc gia đưa ra; ba là, Đuma Quốc gia từ chối tín nhiệm Chính phủ (vấn đề tín nhiệm do Chính phủ đặt ra trước Đuma);
• Các trường hợp Đuma Quốc gia không thể bị giải tán (4 trường hợp): một là, theo các căn cứ tại điều 117 trong thời hạn một năm sau khi Đuma được bầu; hai là, từ khi Đuma đưa ra lời buộc tội chống lại Tổng thống đến trước khi Hội đồng Liên bang đưa ra quyết định tương ứng; ba là, trong thời hạn áp dụng tình trạng khẩn cấp hoặc thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Liên bang; bốn là, trong thời hạn 6 tháng trước khi kết thúc nhiệm kỳ của Tổng thống Nga. (điều 109)
* Chính phủ
Chính phủ là cơ quan đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp. Thành phần Chính phủ bao gồm: Chủ tịch Chính phủ (Thủ tướng) do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý của Đuma quốc gia (điều 111); các Phó Chủ tịch Chính phủ và Bộ trưởng Liên bang do Tổng thống bổ nhiệm và cách chức theo đề nghị của Chủ tịch Chính phủ (điều 83). Tập thể Chính phủ chấm dứt vai trò của mình trong những trường hợp sau: bầu cử Tổng thống mới; từ chức; Tổng thống ra quyết định giải tán Chính phủ; Đuma quốc gia biểu quyết bất tín nhiệm Chính phủ và được Tổng thống chấp thuận; Đuma quốc gia không chấp thuận vấn đề tín nhiệm Chính phủ do Thủ tướng đặt ra. Quyền lãnh đạo hành pháp ở nước Nga được chia sẻ bởi Tổng thống và Thủ tướng. Theo điều 113 Hiến pháp, Thủ tướng căn cứ vào Hiến pháp Liên bang, các luật của Liên bang và các sắc lệnh của Tổng thống để xác định những phương hướng cơ bản trong hoạt động của Chính phủ và tổ chức thực thi chúng.
* Cơ quan tư pháp
Chương 7 – “Quyền tư pháp” quy định các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp cũng như vị trí pháp lý, cơ cấu tổ chức, chức năng và thẩm quyền của Toà án Hiến pháp, Tòa án Tối cao và Tòa án Trọng tài tối cao và Viện kiểm sát Liên bang.
Các nguyên tắc nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp Nga được khẳng định là: quyền tư pháp độc lập với các nhánh quyền lực nhà nước khác và chỉ do các tòa án thực hiện theo tố tụng Hiến pháp, dân sự, hành chính và hình sự. Hệ thống tòa án được thành lập dựa trên các quy định của Hiến pháp và các đạo luật liên bang. Các nhà lập hiến cũng nghiêm cấm việc thành lập những tòa án đặc biệt (khoản 3 điều 118). Việc xét xử tuân theo những nguyên tắc tố tụng tiến bộ như: pháp chế, xét xử công khai, xét xử tập thể, xét xử trực tiếp và liên tục, xét xử thông qua hoạt động tranh tụng tại tòa án, xét xử bằng lời nói, đảm bảo quyền sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ tại tòa án, bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Các thẩm phán độc lập và chỉ phục tùng Hiến pháp, các luật của Liên bang Nga (khoản 1 điều 120).
Hệ thống Tòa án Liên bang:
• Tòa án Hiến pháp Liên bang được lập ra nhằm mục đích bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của chế độ Hiến pháp, những nguyên tắc cơ bản về quyền và tự do của con người và công dân; bảo đảm tính tối cao và hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp trên toàn lãnh thổ Liên bang Nga. Tòa án Hiến pháp xem xét và ra các quyết định trên cơ sở Hiến pháp Liên bang.
• Tòa án Tối cao Liên bang là cơ quan xét xử cao nhất trong lĩnh vực dân sự, hình sự và hành chính; giám sát và hướng dẫn các toà án cấp dưới hoạt động tuân thủ hệ thống pháp luật Liên bang (điều 126).
• Tòa án Trọng tài tối cao Liên bang là cơ quan xét xử cao nhất các tranh chấp về kinh tế và những vụ kiện do các tòa án trọng tài khác xét xử cũng như giám sát và hướng dẫn các tòa án này tuân thủ hệ thống pháp luật Liên bang (điều 127).
Chương 7 chỉ có một điều (điều 129) đề cập đến việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát Liên bang. Đến năm 1995, Luật Viện kiểm sát được ban hành thì chức năng của nó mới được quy định rõ hơn: “Viện kiểm sát Liên bang Nga là một hệ thống cơ quan liên bang tập trung thống nhất, nhân danh liên bang thực hiện hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật hiện hành trên phạm vi lãnh thổ của liên bang” (điều 1).
4.2. Các chủ thế liên bang
Nước Nga là một Nhà nước Liên bang bao gồm nhiều loại hình chủ thể liên bang: nước cộng hòa, vùng, tỉnh, thành phố trực thuộc Liên bang, tỉnh tự trị và khu tự trị. Đặc trưng này bắt nguồn từ lịch sử lâu đời của cộng đồng đa sắc tộc cùng nhau sinh sống trên một vùng lãnh thổ rộng lớn. Các chủ thể này tuy có quyền bình đẳng về đại diện trong Hội đồng Liên bang (mỗi chủ thể được cử 2 đại biểu) song mỗi loại lại có quy chế pháp lý riêng. Năm 1993, khi Hiến pháp được thông qua, Liên bang Nga có 89 chủ thể liên bang; cụ thể gồm:
• 21 Nước Cộng hòa (respublika - tiếng Nga): Đây là các vùng lãnh thổ mang quy chế quốc gia thành viên thuộc Liên bang, có Hiến pháp riêng, công dân có quốc tịch riêng bênh cạnh quốc tịch Liên bang, có tổng thống và nghị viện riêng, do chính phủ liên bang đại diện trong quan hệ quốc tế; có quyền quy định ngôn ngữ thứ hai (sau ngôn ngữ chính thức của Liên bang là tiếng Nga) và được hiểu là nơi sinh sống của một nhóm dân tộc thiểu số.
• 46 Tỉnh (oblast - tiếng Nga): Tỉnh là chủ thể phổ biến nhất, là đơn vị hành chính có thống đốc do liên bang bổ nhiệm và cơ quan lập pháp dân cử địa phương; có thể bao gồm khu tự trị.
• 9 Vùng (krai - tiếng Nga): Vùng thực chất cùng loại chủ thể với tỉnh, có thể bao gồm khu tự trị. Tên gọi "vùng" mang tính lịch sử do các chủ thể này đã từng được coi là vùng biên cương.
• 1 Tỉnh tự trị (avtonomnaya oblast - tiếng Nga): Một tỉnh duy nhất là Tỉnh tự trị Do Thái, được hình thành chủ yếu do đặc thù sắc tộc. Tỉnh tự trị có thể bị sáp nhập vào các chủ thể liên bang khác.
• 4 Khu tự trị (avtonomny okrug - tiếng Nga): Khu tự trị có nhiều quyền tự trị hơn một tỉnh nhưng ít hơn một nước cộng hòa; thường là khu vực có đa số người dân tộc thiểu số và có thể bị sáp nhập vào các chủ thể liên bang khác.
• 2 Thành phố Liên bang (federalny gorod – tiếng Nga): Đây là các thành phố lớn – trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa – xã hội của đất nước, chúng hoạt động như là các đơn vị hành chính độc lập và nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của chính quyền Liên bang; bao gồm Matxcơva và Xanh Pêtecbua.
4.3. Địa vị hiến định của cá nhân
* Nguyên tắc hiến định về địa vị pháp lý của cá nhân
1. Các quyền, tự do và nghĩa vụ của cá nhân và công dân được thực thi trên cơ sở bình đẳng: điều 19 Hiến pháp nêu rõ ba khía cạnh cơ bản của nguyên tắc này, đó là bình đẳng trước pháp luật và toà án, bình đẳng trong các quyền và tự do của cá nhân và công dân, bình đẳng nam nữ.
2. Các quyền, tự do và nghĩa vụ của cá nhân và công dân có tính chất được bảo đảm: Hiến pháp ấn định trách nhiệm của nhà nước trong việc thừa nhận, tuân thủ và bảo vệ các quyền và tự do của cá nhân và công dân. Trách nhiệm này cũng được xem như một trong những nguyên tắc lập hiến cơ bản. Các quyền và tự do của cá nhân và công dân xác định một cách trực tiếp ý nghĩa, nội dung và việc thực thi các điều khoản pháp luật; hoạt động của các cơ quan quyền lực lập pháp và hành pháp, của chính quyền tự quản địa phương; được bảo đảm bằng Tòa án và thực thi công bằng.
* Đảm bảo quyền và tự do của cá nhân và công dân
Đồng thời, Hiến pháp cũng ghi nhận quyền của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ các quyền và tự do của mình bằng mọi phương thức mà pháp luật không cấm. Sự bảo đảm quyền và tự do của cá nhân và công dân được thể hiện trên ba mặt:
• Bảo đảm về mặt pháp luật: thể hiện qua hệ thống các phương tiện pháp luật có vai trò thực hiện và bảo vệ các quyền và tự do cá nhân và công dân. Hiến pháp ghi nhận nền tảng pháp lý các hoạt động của bộ máy nhà nước trong việc đảm bảo quá trình phục hồi các quyền và tự do bị xâm phạm trên thực tế. Hiến pháp đảm bảo các nguyên tắc dân chủ trong tố tụng tư pháp biểu hiện qua mối quan hệ nhân văn đối với cá nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hành chính, bảo vệ các quyền của những cá nhân bị oan do tội phạm hoặc lạm dụng quyền lực, sự tiếp cận công lý và bồi thường thiệt hại từ phía Nhà nước cũng như các chủ thể khác có liên quan.
• Bảo đảm về mặt chính trị: chính sách nhà nước nhằm tạo điều kiện đảm bảo một cuộc sống xứng đáng và sự phát triển tự do của cá nhân; sự bền vững trong giáo dục chính trị; mức độ khoan dung chính trị thích đáng; công cuộc đấu tranh chống thói quan liêu trong bộ máy nhà nước và phòng chống tội phạm chức vụ.
• Bảo đảm về mặt kinh tế - xã hội: xây dựng môi trường thích hợp và tạo nền tảng vật chất đảm bảo việc sử dụng các quyền và tự do thông qua tính ổn định của xã hội, nền kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất thích ứng, mạng lưới cơ sở hạ tầng đồng bộ.
* Những hạn chế hiến định về các quyền và tự do cá nhân và công dân
Các chủ thể phải sử dụng các quyền và tự do trong phạm vi của những giới hạn hiến định. Chỉ có các đạo luật liên bang mới quy định những hạn chế này nhằm mục đích bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của chế độ Hiến pháp, đạo đức, nhân phẩm, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác, đảm bảo phòng thủ đất nước và an ninh quốc gia (khoản 3 điều 55). Nhà nước không được tùy tiện ban hành các đạo luật hủy bỏ hoặc hạn chế các quyền và tự do của cá nhân. Những hạn chế hiến định về các quyền và tự do có thể phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Xin dẫn chứng cách phân loại theo thời gian mà các hạn chế ấy có hiệu lực:
• Hạn chế cố định: có hiệu lực mọi lúc, hạn chế loại này được quy định rõ trong bản văn Hiến pháp năm 1993; ví dụ: Khoản 2 điều 34 Hiến pháp quy định: không cho phép tiến hành các hoạt động kinh tế có khuynh hướng độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh;
• Hạn chế tạm thời: có hiệu lực trong một thời điểm nhất định, hạn chế loại này được quy định trong các đạo luật Hiến pháp Liên bang; ví dụ: đạo luật Hiến pháp về tình trạng đặc biệt hoặc những hạn chế liên quan đến việc cấm hội họp, diễu hành, biểu tình, những nghĩa vụ kèm theo trong lĩnh vực tự do in ấn và hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng khác, việc đình chỉ hoạt động của các đảng chính trị, việc ban hành lệnh giới nghiêm và những hạn chế khác…
4.5. Vấn đề sửa đổi và thay thế Hiến pháp
Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 được đặc trưng bởi tính chất khắt khe hiếm có – những quy chuẩn của Hiến pháp cực kỳ bền vững và hầu như không thể thay đổi. Tính chất này được đảm bảo bởi sự phức tạp trong quy trình sửa đổi Hiến pháp, được trình bày tại Chương 9 - “Sửa đổi và thay thế Hiến pháp” (phần thứ nhất của Hiến pháp).
Đối tượng có thẩm quyền đưa ra yêu cầu sửa đổi và thay thế Hiến pháp: Tổng thống Liên bang; Chính phủ Liên bang; Viện Đuma Quốc gia; Hội đồng Liên bang; cơ quan lập pháp của các chủ thể liên bang hoặc ít nhất 1/5 số lượng đại biểu Đuma Quốc gia hoặc thành viên Hội đồng Liên bang.
Khả năng sửa đổi và thay thế Hiến pháp:
• Quốc hội Liên bang: Hiến pháp có thể được sửa đổi từng phần (trừ các chương 1, 2 và 9 – phần thứ nhất) với sự tán thành của ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Đuma Quốc gia hoặc ¾ tổng số thành viên Hội đồng Liên bang kèm theo điều kiện sửa đổi này phải được ít nhất 2/3 các cơ quan lập pháp của các chủ thể liên bang phê chuẩn;
• Việc thay đổi nội dung các chương 1, 2 và 9 đồng nghĩa với việc thay thế Hiến pháp và nằm ngoài quyền hạn của Quốc hội. Trong trường hợp này, cần thành lập Quốc hội lập hiến với sự nhất trí của ít nhất 3/5 tổng số đại biểu Quốc hội Liên bang. Quốc hội lập hiến có chức năng khẳng định tính bất biến của Hiến pháp hoặc soạn thảo dự thảo Hiến pháp mới với sự tán thành của 2/3 tổng số thành viên của mình hoặc thông qua một cuộc trưng cầu dân ý;
• Việc sửa đổi tên gọi của các chủ thể liên bang không cần tiến hành theo các thủ tục trên;
• Việc thay đổi thành phần các chủ thể liên bang (thành lập chủ thể liên bang mới hoặc thay đổi quy chế hiến định của chủ thể liên bang) được tiến hành theo phương thức thông qua đạo luật Hiến pháp Liên bang.
Cho đến nay, hầu hết các sửa đổi đều liên quan tới điều 65, tức liên quan đến việc thay đổi tên gọi các chủ thể Liên bang hoặc thành phần của Liên bang Nga; trừ một ngoại lệ hiếm hoi liên quan đến việc thay đổi nhiệm kỳ Tổng thống và Đuma Quốc gia (đã được trình bày ở phần trên).
• Những sửa đổi liên quan đến việc đổi tên các chủ thể thuộc Liên bang Nga: Tổng thống Nga đã ban hành 4 sắc lệnh vào các năm 1996 và 2001 để đổi tên các chủ thể liên bang gồm các nước cộng hòa và khu tự trị;
• Những sửa đổi liên quan đến việc thay đổi thành phần Liên bang Nga: tính đến nay, đã có 5 đạo luật Hiến pháp Liên bang được ban hành về việc bổ sung và loại bỏ các chủ thể liên bang được quy định tại khoản 1 điều 65 Hiến pháp 1993.
(Website Đại học Luật TpHCM)
4.1. Bộ máy nhà nước
Hình thức chính thể mà nước Nga xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa chế độ đại nghị với chế độ tổng thống. Quyền lực nhà nước được phân chia làm ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan quyền lực đều hoạt động độc lập (điều 10). Tuy nhiên, chúng vẫn có sự phối hợp với nhau trong khuôn khổ hiến định với vai trò điều hành của Tổng thống. Khoản 2 điều 80 Hiến pháp chỉ rõ: Tổng thống Liên bang Nga là người điều hành chung mọi hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền lực tối cao trước đây của Quốc hội bị hạn chế. Điều này cũng thể hiện trong cơ cấu Hiến pháp: chương 4 nói về Tổng thống mở đầu các chương quy định về bộ máy nhà nước.
Theo TSKH. Lê Cảm, sự phối hợp hoạt động của các nhánh quyền lực nhà nước Liên bang Nga được đảm bảo bằng cơ chế kiểm soát và đối trọng giữa chúng (lập pháp, hành pháp và tư pháp), được điều chỉnh bởi các quy phạm hiến định và thể hiện chủ yếu trên bốn bình diện như sau:
• Trong việc thực hiện các thẩm quyền của mỗi nhánh quyền lực (ở các mức độ khác nhau) có liên quan đến các thẩm quyền của nhánh quyền lực kia;
• Trong quá trình thông qua các Luật Hiến pháp liên bang và các Luật liên bang khác;
• Trong các trường hợp Tổng thống có thể và không thể giải tán Đuma quốc gia;
• Trong việc phế truất Tổng thống khỏi chức vụ (với sự phối hợp giữa Hội đồng Liên bang, Đuma Quốc gia, Tòa án Tối cao và Tòa án Hiến pháp Liên bang).
* Tổng thống
Tổng thống Nga là nguyên thủ quốc gia đồng thời điều hành toàn bộ hoạt động của chính phủ Nga. Quyền hành pháp được phân chia giữa Tổng thống và Thủ tướng, là người đứng đầu chính phủ.Theo Hiến pháp Liên bang Nga, một người muốn đứng ra làm ứng cử viên tổng thống thì phải là một công dân Nga ít nhất 35 tuổi, đã sinh sống lâu dài ở Liên bang Nga không ít hơn 10 năm. Hiến pháp Liên bang Nga cũng hạn chế số nhiệm kỳ mà một cá nhân có thể giữ chức tổng thống, với mỗi cá nhân chỉ có thể giữ chức vụ này không quá hai nhiệm kỳ liên tục.
Khi nhậm chức, Tổng thống phải tuyên thệ như sau: “Tôi xin thề, khi thực hiện quyền hạn của Tổng thống Liên bang Nga, tôn trọng và bảo vệ quyền và tự do của con người và của công dân, tuân thủ và bảo vệ Hiến pháp Liên bang Nga, bảo vệ chủ quyền và độc lập, an ninh và sự toàn vẹn của quốc gia và trung thành phục vụ nhân dân”.
Theo điều 80 Hiến pháp, Tổng thống là người bảo vệ Hiến pháp Liên bang Nga, quyền và tự do của cá nhân và công dân Nga . Theo những thủ tục hiến định, Tổng thống thông qua những biện pháp nhằm bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Liên bang Nga và điều phối hoạt động giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Đối với Quốc hội, Tổng thống có quyền gửi thông điệp Liên bang, đưa ra hay bác bỏ các dự luật, giải tán Đuma Quốc gia và quyết định bầu cử Đuma trước thời hạn. Đối với Chính phủ, Tổng thống là người điều hành toàn bộ hoạt động: có quyền đề cử ứng cử viên Thủ tướng Chính phủ để Đuma Quốc gia phê chuẩn cũng như tuyên bố giải tán Chính phủ bất cứ lúc nào. Tổng thống có nhiệm vụ quyết định chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước. Trong quan hệ quốc tế, Tổng thống có quyền đám phán và ký kết các điều ước quốc tế. Chúng sẽ có hiệu lực khi hai viện của Quốc hội phê chuẩn. Tổng thống cũng là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống có quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp trên lãnh thổ Liên bang hoặc ký kết hiệp ước hòa bình với sự phê chuẩn của Quốc hội. Tổng thống cũng được quyền trao huân và huy chương, giải quyết các vấn đề về quốc tịch và có quyền ân xá và đặc xá.
*Quốc hội
Quốc hội Liên bang là cơ quan đại diện và lập pháp tối cao của quốc gia; hoạt động thường xuyên; bao gồm hai viện: Hội đồng Liên bang (Thượng nghị viện) và Viện Đuma Quốc gia (Hạ nghị viện).
Hội đồng Liên bang là cơ quan đại diện của các chủ thể liên bang. Mỗi chủ thể liên bang được cử hai đại diện vào Hội đồng, bao gồm một đại diện của cơ quan lập pháp và một đại diện của cơ quan hành pháp. Hiến pháp không quy định nhiệm kỳ của cơ quan này bởi với cơ cấu như trên, thành viên của Hội đồng sẽ thay đổi theo sự thay đổi nhân sự cấp cao từ các chủ thể liên bang.
Viện Đuma Quốc gia có 450 đại biểu được bầu với thời hạn 5 năm. Trong số đó, một nửa số đại biểu được bầu theo danh sách bầu cử của các đảng phái chính trị, phong trào xã hội, nửa còn lại được bầu theo danh sách bầu cử của các khu vực bầu cử (mỗi đại biểu trong nhóm này được bầu từ một khu vực bầu cử từ các địa phương).
Để đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động đại biểu, Hiến pháp quy định: một người không thể là thành viên Hội đồng Liên bang và Đuma Quốc gia; đại biểu Đuma Quốc gia không thể đồng thời là thành viên của các cơ quan quyền lực nhà nước khác hoặc các cơ quan tự quản địa phương; đại biểu Đuma Quốc gia làm việc trên cơ sở thường xuyên, chuyên nghiệp; đại biểu không được làm việc trong các tổ chức dân sự khác có trả lương trừ hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và sáng tác (điều 97).
Hai viện Quốc hội tiến hành họp riêng và công khai, trừ một số phiên họp kín theo quy chế. Bên cạnh đó, cả hai viện sẽ tiến hành họp chung để nghe thông điệp của Tổng thống, thông điệp của Tòa án Hiến pháp Liên bang cũng như phát biểu của các nhà lãnh đạo nước ngoài (điều 100).
Hiến pháp cũng quy định rõ vấn đề giải tán Quốc hội để đảm bảo hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước cũng như việc giải quyết xung đột chính trị giữa nhánh quyền lực:
• Các trường hợp Đuma Quốc gia có thể bị Tổng thống giải tán (3 trường hợp): một là, sau 3 lần Đuma Quốc gia bác bỏ ứng cử viên chức Thủ tướng Chính phủ do Tổng thống đề nghị; hai là, Tổng thống không đồng ý với tuyên bố bất tín nhiệm Chính phủ do Đuma Quốc gia đưa ra; ba là, Đuma Quốc gia từ chối tín nhiệm Chính phủ (vấn đề tín nhiệm do Chính phủ đặt ra trước Đuma);
• Các trường hợp Đuma Quốc gia không thể bị giải tán (4 trường hợp): một là, theo các căn cứ tại điều 117 trong thời hạn một năm sau khi Đuma được bầu; hai là, từ khi Đuma đưa ra lời buộc tội chống lại Tổng thống đến trước khi Hội đồng Liên bang đưa ra quyết định tương ứng; ba là, trong thời hạn áp dụng tình trạng khẩn cấp hoặc thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Liên bang; bốn là, trong thời hạn 6 tháng trước khi kết thúc nhiệm kỳ của Tổng thống Nga. (điều 109)
* Chính phủ
Chính phủ là cơ quan đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp. Thành phần Chính phủ bao gồm: Chủ tịch Chính phủ (Thủ tướng) do Tổng thống bổ nhiệm với sự đồng ý của Đuma quốc gia (điều 111); các Phó Chủ tịch Chính phủ và Bộ trưởng Liên bang do Tổng thống bổ nhiệm và cách chức theo đề nghị của Chủ tịch Chính phủ (điều 83). Tập thể Chính phủ chấm dứt vai trò của mình trong những trường hợp sau: bầu cử Tổng thống mới; từ chức; Tổng thống ra quyết định giải tán Chính phủ; Đuma quốc gia biểu quyết bất tín nhiệm Chính phủ và được Tổng thống chấp thuận; Đuma quốc gia không chấp thuận vấn đề tín nhiệm Chính phủ do Thủ tướng đặt ra. Quyền lãnh đạo hành pháp ở nước Nga được chia sẻ bởi Tổng thống và Thủ tướng. Theo điều 113 Hiến pháp, Thủ tướng căn cứ vào Hiến pháp Liên bang, các luật của Liên bang và các sắc lệnh của Tổng thống để xác định những phương hướng cơ bản trong hoạt động của Chính phủ và tổ chức thực thi chúng.
* Cơ quan tư pháp
Chương 7 – “Quyền tư pháp” quy định các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp cũng như vị trí pháp lý, cơ cấu tổ chức, chức năng và thẩm quyền của Toà án Hiến pháp, Tòa án Tối cao và Tòa án Trọng tài tối cao và Viện kiểm sát Liên bang.
Các nguyên tắc nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp Nga được khẳng định là: quyền tư pháp độc lập với các nhánh quyền lực nhà nước khác và chỉ do các tòa án thực hiện theo tố tụng Hiến pháp, dân sự, hành chính và hình sự. Hệ thống tòa án được thành lập dựa trên các quy định của Hiến pháp và các đạo luật liên bang. Các nhà lập hiến cũng nghiêm cấm việc thành lập những tòa án đặc biệt (khoản 3 điều 118). Việc xét xử tuân theo những nguyên tắc tố tụng tiến bộ như: pháp chế, xét xử công khai, xét xử tập thể, xét xử trực tiếp và liên tục, xét xử thông qua hoạt động tranh tụng tại tòa án, xét xử bằng lời nói, đảm bảo quyền sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ tại tòa án, bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Các thẩm phán độc lập và chỉ phục tùng Hiến pháp, các luật của Liên bang Nga (khoản 1 điều 120).
Hệ thống Tòa án Liên bang:
• Tòa án Hiến pháp Liên bang được lập ra nhằm mục đích bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của chế độ Hiến pháp, những nguyên tắc cơ bản về quyền và tự do của con người và công dân; bảo đảm tính tối cao và hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp trên toàn lãnh thổ Liên bang Nga. Tòa án Hiến pháp xem xét và ra các quyết định trên cơ sở Hiến pháp Liên bang.
• Tòa án Tối cao Liên bang là cơ quan xét xử cao nhất trong lĩnh vực dân sự, hình sự và hành chính; giám sát và hướng dẫn các toà án cấp dưới hoạt động tuân thủ hệ thống pháp luật Liên bang (điều 126).
• Tòa án Trọng tài tối cao Liên bang là cơ quan xét xử cao nhất các tranh chấp về kinh tế và những vụ kiện do các tòa án trọng tài khác xét xử cũng như giám sát và hướng dẫn các tòa án này tuân thủ hệ thống pháp luật Liên bang (điều 127).
Chương 7 chỉ có một điều (điều 129) đề cập đến việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát Liên bang. Đến năm 1995, Luật Viện kiểm sát được ban hành thì chức năng của nó mới được quy định rõ hơn: “Viện kiểm sát Liên bang Nga là một hệ thống cơ quan liên bang tập trung thống nhất, nhân danh liên bang thực hiện hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật hiện hành trên phạm vi lãnh thổ của liên bang” (điều 1).
4.2. Các chủ thế liên bang
Nước Nga là một Nhà nước Liên bang bao gồm nhiều loại hình chủ thể liên bang: nước cộng hòa, vùng, tỉnh, thành phố trực thuộc Liên bang, tỉnh tự trị và khu tự trị. Đặc trưng này bắt nguồn từ lịch sử lâu đời của cộng đồng đa sắc tộc cùng nhau sinh sống trên một vùng lãnh thổ rộng lớn. Các chủ thể này tuy có quyền bình đẳng về đại diện trong Hội đồng Liên bang (mỗi chủ thể được cử 2 đại biểu) song mỗi loại lại có quy chế pháp lý riêng. Năm 1993, khi Hiến pháp được thông qua, Liên bang Nga có 89 chủ thể liên bang; cụ thể gồm:
• 21 Nước Cộng hòa (respublika - tiếng Nga): Đây là các vùng lãnh thổ mang quy chế quốc gia thành viên thuộc Liên bang, có Hiến pháp riêng, công dân có quốc tịch riêng bênh cạnh quốc tịch Liên bang, có tổng thống và nghị viện riêng, do chính phủ liên bang đại diện trong quan hệ quốc tế; có quyền quy định ngôn ngữ thứ hai (sau ngôn ngữ chính thức của Liên bang là tiếng Nga) và được hiểu là nơi sinh sống của một nhóm dân tộc thiểu số.
• 46 Tỉnh (oblast - tiếng Nga): Tỉnh là chủ thể phổ biến nhất, là đơn vị hành chính có thống đốc do liên bang bổ nhiệm và cơ quan lập pháp dân cử địa phương; có thể bao gồm khu tự trị.
• 9 Vùng (krai - tiếng Nga): Vùng thực chất cùng loại chủ thể với tỉnh, có thể bao gồm khu tự trị. Tên gọi "vùng" mang tính lịch sử do các chủ thể này đã từng được coi là vùng biên cương.
• 1 Tỉnh tự trị (avtonomnaya oblast - tiếng Nga): Một tỉnh duy nhất là Tỉnh tự trị Do Thái, được hình thành chủ yếu do đặc thù sắc tộc. Tỉnh tự trị có thể bị sáp nhập vào các chủ thể liên bang khác.
• 4 Khu tự trị (avtonomny okrug - tiếng Nga): Khu tự trị có nhiều quyền tự trị hơn một tỉnh nhưng ít hơn một nước cộng hòa; thường là khu vực có đa số người dân tộc thiểu số và có thể bị sáp nhập vào các chủ thể liên bang khác.
• 2 Thành phố Liên bang (federalny gorod – tiếng Nga): Đây là các thành phố lớn – trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa – xã hội của đất nước, chúng hoạt động như là các đơn vị hành chính độc lập và nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của chính quyền Liên bang; bao gồm Matxcơva và Xanh Pêtecbua.
4.3. Địa vị hiến định của cá nhân
* Nguyên tắc hiến định về địa vị pháp lý của cá nhân
1. Các quyền, tự do và nghĩa vụ của cá nhân và công dân được thực thi trên cơ sở bình đẳng: điều 19 Hiến pháp nêu rõ ba khía cạnh cơ bản của nguyên tắc này, đó là bình đẳng trước pháp luật và toà án, bình đẳng trong các quyền và tự do của cá nhân và công dân, bình đẳng nam nữ.
2. Các quyền, tự do và nghĩa vụ của cá nhân và công dân có tính chất được bảo đảm: Hiến pháp ấn định trách nhiệm của nhà nước trong việc thừa nhận, tuân thủ và bảo vệ các quyền và tự do của cá nhân và công dân. Trách nhiệm này cũng được xem như một trong những nguyên tắc lập hiến cơ bản. Các quyền và tự do của cá nhân và công dân xác định một cách trực tiếp ý nghĩa, nội dung và việc thực thi các điều khoản pháp luật; hoạt động của các cơ quan quyền lực lập pháp và hành pháp, của chính quyền tự quản địa phương; được bảo đảm bằng Tòa án và thực thi công bằng.
* Đảm bảo quyền và tự do của cá nhân và công dân
Đồng thời, Hiến pháp cũng ghi nhận quyền của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ các quyền và tự do của mình bằng mọi phương thức mà pháp luật không cấm. Sự bảo đảm quyền và tự do của cá nhân và công dân được thể hiện trên ba mặt:
• Bảo đảm về mặt pháp luật: thể hiện qua hệ thống các phương tiện pháp luật có vai trò thực hiện và bảo vệ các quyền và tự do cá nhân và công dân. Hiến pháp ghi nhận nền tảng pháp lý các hoạt động của bộ máy nhà nước trong việc đảm bảo quá trình phục hồi các quyền và tự do bị xâm phạm trên thực tế. Hiến pháp đảm bảo các nguyên tắc dân chủ trong tố tụng tư pháp biểu hiện qua mối quan hệ nhân văn đối với cá nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hành chính, bảo vệ các quyền của những cá nhân bị oan do tội phạm hoặc lạm dụng quyền lực, sự tiếp cận công lý và bồi thường thiệt hại từ phía Nhà nước cũng như các chủ thể khác có liên quan.
• Bảo đảm về mặt chính trị: chính sách nhà nước nhằm tạo điều kiện đảm bảo một cuộc sống xứng đáng và sự phát triển tự do của cá nhân; sự bền vững trong giáo dục chính trị; mức độ khoan dung chính trị thích đáng; công cuộc đấu tranh chống thói quan liêu trong bộ máy nhà nước và phòng chống tội phạm chức vụ.
• Bảo đảm về mặt kinh tế - xã hội: xây dựng môi trường thích hợp và tạo nền tảng vật chất đảm bảo việc sử dụng các quyền và tự do thông qua tính ổn định của xã hội, nền kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất thích ứng, mạng lưới cơ sở hạ tầng đồng bộ.
* Những hạn chế hiến định về các quyền và tự do cá nhân và công dân
Các chủ thể phải sử dụng các quyền và tự do trong phạm vi của những giới hạn hiến định. Chỉ có các đạo luật liên bang mới quy định những hạn chế này nhằm mục đích bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của chế độ Hiến pháp, đạo đức, nhân phẩm, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác, đảm bảo phòng thủ đất nước và an ninh quốc gia (khoản 3 điều 55). Nhà nước không được tùy tiện ban hành các đạo luật hủy bỏ hoặc hạn chế các quyền và tự do của cá nhân. Những hạn chế hiến định về các quyền và tự do có thể phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Xin dẫn chứng cách phân loại theo thời gian mà các hạn chế ấy có hiệu lực:
• Hạn chế cố định: có hiệu lực mọi lúc, hạn chế loại này được quy định rõ trong bản văn Hiến pháp năm 1993; ví dụ: Khoản 2 điều 34 Hiến pháp quy định: không cho phép tiến hành các hoạt động kinh tế có khuynh hướng độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh;
• Hạn chế tạm thời: có hiệu lực trong một thời điểm nhất định, hạn chế loại này được quy định trong các đạo luật Hiến pháp Liên bang; ví dụ: đạo luật Hiến pháp về tình trạng đặc biệt hoặc những hạn chế liên quan đến việc cấm hội họp, diễu hành, biểu tình, những nghĩa vụ kèm theo trong lĩnh vực tự do in ấn và hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng khác, việc đình chỉ hoạt động của các đảng chính trị, việc ban hành lệnh giới nghiêm và những hạn chế khác…
4.5. Vấn đề sửa đổi và thay thế Hiến pháp
Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 được đặc trưng bởi tính chất khắt khe hiếm có – những quy chuẩn của Hiến pháp cực kỳ bền vững và hầu như không thể thay đổi. Tính chất này được đảm bảo bởi sự phức tạp trong quy trình sửa đổi Hiến pháp, được trình bày tại Chương 9 - “Sửa đổi và thay thế Hiến pháp” (phần thứ nhất của Hiến pháp).
Đối tượng có thẩm quyền đưa ra yêu cầu sửa đổi và thay thế Hiến pháp: Tổng thống Liên bang; Chính phủ Liên bang; Viện Đuma Quốc gia; Hội đồng Liên bang; cơ quan lập pháp của các chủ thể liên bang hoặc ít nhất 1/5 số lượng đại biểu Đuma Quốc gia hoặc thành viên Hội đồng Liên bang.
Khả năng sửa đổi và thay thế Hiến pháp:
• Quốc hội Liên bang: Hiến pháp có thể được sửa đổi từng phần (trừ các chương 1, 2 và 9 – phần thứ nhất) với sự tán thành của ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Đuma Quốc gia hoặc ¾ tổng số thành viên Hội đồng Liên bang kèm theo điều kiện sửa đổi này phải được ít nhất 2/3 các cơ quan lập pháp của các chủ thể liên bang phê chuẩn;
• Việc thay đổi nội dung các chương 1, 2 và 9 đồng nghĩa với việc thay thế Hiến pháp và nằm ngoài quyền hạn của Quốc hội. Trong trường hợp này, cần thành lập Quốc hội lập hiến với sự nhất trí của ít nhất 3/5 tổng số đại biểu Quốc hội Liên bang. Quốc hội lập hiến có chức năng khẳng định tính bất biến của Hiến pháp hoặc soạn thảo dự thảo Hiến pháp mới với sự tán thành của 2/3 tổng số thành viên của mình hoặc thông qua một cuộc trưng cầu dân ý;
• Việc sửa đổi tên gọi của các chủ thể liên bang không cần tiến hành theo các thủ tục trên;
• Việc thay đổi thành phần các chủ thể liên bang (thành lập chủ thể liên bang mới hoặc thay đổi quy chế hiến định của chủ thể liên bang) được tiến hành theo phương thức thông qua đạo luật Hiến pháp Liên bang.
Cho đến nay, hầu hết các sửa đổi đều liên quan tới điều 65, tức liên quan đến việc thay đổi tên gọi các chủ thể Liên bang hoặc thành phần của Liên bang Nga; trừ một ngoại lệ hiếm hoi liên quan đến việc thay đổi nhiệm kỳ Tổng thống và Đuma Quốc gia (đã được trình bày ở phần trên).
• Những sửa đổi liên quan đến việc đổi tên các chủ thể thuộc Liên bang Nga: Tổng thống Nga đã ban hành 4 sắc lệnh vào các năm 1996 và 2001 để đổi tên các chủ thể liên bang gồm các nước cộng hòa và khu tự trị;
• Những sửa đổi liên quan đến việc thay đổi thành phần Liên bang Nga: tính đến nay, đã có 5 đạo luật Hiến pháp Liên bang được ban hành về việc bổ sung và loại bỏ các chủ thể liên bang được quy định tại khoản 1 điều 65 Hiến pháp 1993.
(Website Đại học Luật TpHCM)
0 comments
Post a Comment