Hiến pháp 1946 của ta, sau khi được Quốc
hội thông qua liền bị hoãn thi hành vì tình hình trong nước nghiêm trọng.
Nhưng từ sau Hiệp định Genève, tình hình miền Bắc, mặc dầu còn có nhiều
khó khăn kinh tế và cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất gay go phức tạp,
cũng phải coi là đã trở lại bình thường rồi. Vậy chúng ta có thể đề ra
hoặc việc thi hành hiến pháp 1956 sửa đổi lại, hoặc việc đặt một Hiến pháp
mới.
Có người nói: "Ta hãy chờ thống nhất xong đất
nước, khi đó sẽ có Quốc hội mới, hiến pháp mới. Miền Nam đã đặt hiến pháp riêng,
nếu miền Bắc cũng lại ban bố hiến pháp riêng nữa thì công cuộc thống nhất đất nước
càng khó khăn". Tôi không biết những người nói thế thành thực tới mức nào.
Tôi chỉ biết Đảng, Chính phủ và toàn dân miền Bắc đã đồng ý với nhau nhận định
là cuộc đấu tranh thống nhất sẽ lâu dài. Nếu trong thời gian lâu dài đó mà miền
Bắc không ban bố một hiến pháp tạm thời nghĩa là không có một nền tảng cho cái
lâu đài pháp trị xây dựng lên trên thì mọi việc còn xộc xệch. Như thế thì củng
cố làm sao được miền Bắc để tranh thủ miền Nam?
Nhất định phải ban bố hiến pháp.
Toàn bộ một hiến pháp thích hợp với hoàn cảnh
miền Bắc ngày nay phải thế nào, tôi không bàn trong bài này. Ở đây tôi chỉ muốn
quả quyết một điều là dù hiến pháp sẽ được ban bố có nội dung thế nào đi nữa,
cái phần bảo đảm tự do dân chủ của nó về căn bản vẫn không thể thay đổi so với
hiến pháp 1946. Vì đó là một điều kiện "không có không được" của một chính thể
dân chủ.
Hiến pháp 1946 ghi:
ĐIỀU THỨ 10: Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận.
- Tự do xuất bản.
- Tự do tổ chức và hội họp.
- Tự do cư trú, đi lại trong
nước và ra ngoài nước.
ĐIỀU THỨ 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được
bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt
Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.
Hôm nay tôi nhắc lại vài điều của hiến pháp 1946 hẳn có bạn nghĩ: hiến pháp 1946 là cả một sự nhân nhượng chiến thuật với bọn Quốc dân đảng Việt Nam được quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa giúp đỡ và những tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận lúc ấy chưa ngả theo cách mạng. Mức độ của nó so với ngay hoàn cảnh nước ta năm 1946 cũng chưa đủ, huống nữa là so với hoàn cảnh nước ta ngày nay chính quyền nhân dân đã tiến những bước khổng lồ. Ngày nay lực lượng công nông đã lớn mạnh, lẽ tất nhiên phải chuyên chính hơn chứ không thể lui lại trình độ gần với dân chủ tư sản như năm 1946.
Thật không còn tư tưởng nào phản dân chủ hơn tư
tưởng đó. Và nguy hiểm nhất là nó lại khoác áo "lập trường cách mạng", lớn tiếng
"vì công nông". Nghĩ như thế là không nắm vững cái kim chỉ nam trong mọi vấn đề
chính sách và pháp trị là: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch.
Nắm vững phương châm đó, ta thấy rằng những tự do
dân chủ là ban bố cho các tầng lớp nhân dân (gồm công nhân, nông dân, tiểu tư
sản và tư sản dân tộc) thì càng ngày càng phải được tăng cường, mở rộng theo sát
bước tiến của cách mạng. Hãy lấy trình độ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa làm
mức sẽ tiến tới của chúng ta. Có phải trình độ cách mạng ở Trung Hoa năm 1954
cao hơn trình độ cách mạng ở Việt Nam 1946 thì quyền tự do dân chủ trong hiến
pháp Trung Hoa 1954 thu hẹp hơn trong hiến pháp Việt Nam 1946 không?
Không!
Hiến pháp Trung Hoa 1954 ghi:
ĐIỀU 87: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa đều có quyền tự do ngôn luận, xuất bản, hội họp, tổ chức tuần hành thị uy.
Nhà nước cung cấp những điều kiện vật chất thuận lợi cần thiết và đảm bảo cho
công dân hưởng thụ những quyền kể trên.
ĐIỀU 89: Thân thể người công dân Trung Hoa là bất
khả xâm phạm. Bất luận công dân nào, nếu không có quyết định của Pháp viện Nhân
dân và phê chuẩn của Viện kiểm soát Nhân dân, thì không thể bị ai bắt giam được.
ĐIỀU 90: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa được pháp luật bảo đảm nhà cửa không bị xâm phạm, thư từ được giữ bí mật.
Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có quyền được tự do cư trú và đi lại.
Đọc đoạn trên này ta thấy hiến pháp Trung Hoa
1954 buộc Nhà nước phải cung cấp những điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo
cho công dân hưởng thụ đầy đủ những quyền tự do dân chủ. Như thế là vừa rộng rãi
hơn vừa thiết thực hơn hiến pháp Việt Nam 1946. Điều đó chứng tỏ chế độ càng tiến
bộ, dân chủ càng mở rộng.
Liên hệ những điều bảo đảm tự do dân chủ trong
hiến pháp Việt Nam 1946 và hiến pháp Trung Hoa 1954 với thực tế miền Bắc bây giờ
chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy các quyền tự do dân chủ bị hạn chế quá nhiều. Và
chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh nghị quyết của hội nghị lần thứ 10 của Trung ương
đảng Lao động đã nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng tự do dân chủ.
Nhưng tại sao việc đó mới đề ra chứ chưa thực
hiện được phần nào mà đã lại có ngay một luồng dư luận chống đối, hình như muốn
chuyên chính hơn nữa? Sự thay đổi đột ngột ấy làm cho quần chúng hoang mang, lo
ngại. Chuyên chính với địch thì bao nhiêu cũng chưa đủ và từ trước tới nay có
phút nào chúng ta buông lỏng đâu mà phải hô hào? Còn chuyên chính với nhân dân
thì cần xét kỹ. Nếu không, hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân sâu xa của những
biến cố ở Ba Lan và Hung-ga-ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì
thiếu chuyên chính?
Nhưng dù biện
luận thế nào đi nữa thì cũng không thể vứt bỏ được cái nguyên tắc mà ông Lưu Thiếu
Kỳ đã nêu ra trong bản báo cáo về hiến pháp đọc tại phiên họp đầu khoá thứ nhất
của Quốc hội Trung Hoa ngày 15-9-1954: "Chế độ chính trị của chúng ta tập
trung đến cao độ nhưng sự tập trung cao độ ấy căn cứ trên một nền dân chủ cao
độ”. Nói chi dân chủ cao độ, ngay dân chủ trung bình ta cũng còn phải bồi bổ
thêm nhiều, thế mà lại muốn chuyên chính hơn nữa thì không có lợi.
Nguyễn Hữu Đang
Nhân văn số 5
20/11/1956
0 comments
Post a Comment