NGUYỄN CẢNH BÌNH
Ngày 24 và 25 tháng Bảy năm 1787
Cách thức bầu chọn và
nhiệm kỳ của Tổng thống là một điểm quan trọng của bản Hiến pháp Mỹ. Mọi
đại biểu đều lo lắng và mong muốn tìm ra được giải pháp tối ưu để chọn
được một Tổng thống có tư cách đạo đức tốt, không phụ thuộc vào những
mưu đồ của những phe phái khác, cũng như không phụ thuộc vào các thế lực
nước ngoài, như sau này vẫn xảy ra ở nhiều quốc gia khác.
Cũng như hiện nay, việc bầu chọn nguyên thủ quốc gia
của rất nhiều nước chịu sức ép của chính nước Mỹ, điều mà khi đó, các
đại biểu đều lo ngại. Giải pháp bầu cử bởi những đại cử tri là sự thỏa
hiệp và sáng kiến của Hội nghị nhằm vừa có những cử tri có chất lượng,
vừa bầu chọn theo tỷ lệ của các tiểu bang, lại không làm cho Tổng thống
phụ thuộc vào Quốc hội.
Đôi khi có cảm tưởng rằng các đại biểu đã quá cẩn
thận khi tính đến mọi chuyện có thể xảy ra, nhưng thực tế lại cho thấy,
sự lựa chọn của họ là rất sáng suốt và mọi thảo luận kỹ lưỡng này đều là
nhằm giảm tối đa bất cứ nguy cơ nào có thể phát sinh.
Qui định "Tổng thống được các đại cử tri bầu chọn" được đưa ra xem xét.
Ngài HOUSTON: Đề xuất Tổng thống sẽ được "cơ
quan lập pháp quốc gia" bổ nhiệm thay cho "việc các đại cử tri được các
cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa, để bầu Tổng thống". Ông cho rằng
không thể tập hợp được những đại cử tri ở những vùng quá xa xôi của đất
nước.
Ngài SPAIGHT: Ủng hộ đề xuất này.
Ngài GERRY: Phản đối đề xuất đó vì không
thấy những khó khăn nào như Ngài Houston nói. Việc bầu chọn Tổng thống
cần phải được coi là quan trọng đặc biệt vì chức vụ này kích động lòng
khao khát mãnh liệt của nhiều người muốn đạt chức vụ này. Nếu quan điểm
này được đồng ý, cần phải để Tổng thống không thể được tái cử để ông ta
độc lập với cơ quan lập pháp, vì sự phụ thuộc sẽ ảnh hưởng vô cùng xấu
xa đến cách suy nghĩ và hành động của ông ta.
Ngài STRONG: Cho rằng qui định không cho
Tổng thống được tái cử là điều không cần thiết. Nếu Tổng thống được cơ
quan lập pháp bổ nhiệm, thì đến khi cuộc bầu cử Tổng thống lần thứ hai
diễn ra, các đại biểu tại cơ quan lập pháp cũng đã được bầu lại rồi. Vì
thế, những người bầu chọn Tổng thống lần thứ hai, không phải là những
người đã bầu ông ta lần thứ nhất.
Có Ngài nói là lòng biết ơn của Tổng thống vì được
bầu chọn lần thứ nhất cũng làm cho ông ta phụ thuộc vào cơ quan lập pháp
trong cuộc bầu cử lần thứ hai. Ông lại nghĩ rất khác. Ngoài ra, lý do
phản đối việc để những đại cử tri bầu chọn là vì những người này cũng sẽ
được Tổng thống mang ơn huệ như là đối với cơ quan lập pháp. Điều rất
quan trọng là đừng để chính quyền trở nên quá phức tạp với việc tham gia
của những đại cử tri.
Ngài WILLIAMSON: Mô hình ban đầu là Tổng
thống có nhiệm kỳ bảy năm và không được tái cử. Những đại cử tri của các
tiểu bang chắc chắn không phải là những người khôn ngoan nhất. Nên tốt
hơn là trao quyền bầu chọn đó cho Thượng viện hoặc Hạ viện. Ông cũng
không tán thành sự đơn nhất trong bộ máy hành pháp. Ông muốn quyền hành
pháp sẽ trao cho ba người từ ba vùng lãnh thổ.
Vì Tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật và có
những khác biệt cơ bản về lợi ích giữa các tiểu bang miền Bắc với các
bang miền Nam, đặc biệt là lĩnh vực thương mại. Do vậy, quyền này rất
nguy hiểm đối với những vùng kia nếu Tổng thống chỉ là một người từ một
vùng lãnh thổ của liên minh. Bộ máy hành pháp của chúng ta rất khác với
chính quyền của Anh, bởi cả nước Anh có cùng một lợi ích. Một lý do khác
là nếu bầu một người, Tổng thống sẽ trở thành một dạng Vua được bầu và
sẽ có tư tưởng độc tôn.
Tổng thống sẽ không chịu sự kiềm chế nào và sẽ tìm
cách dọn đường cho con cháu mình lên kế nhiệm. Ông nghĩ chắn chắc đến
một lúc nào đó, nước Mỹ sẽ cần có một vị Vua. Nhưng ông muốn phòng ngừa
để trì hoãn việc này càng lâu càng tốt. Không được tái cử là điều đề
phòng tốt nhất. Với sự đề phòng này, nhiệm kỳ dài trên bảy năm cũng
không có gì đáng sợ, thậm chí, nhiệm kỳ có thể lên tới 10, hay 12 năm…
Ngài GERRY: Đề nghị các cơ quan lập pháp
tiểu bang sẽ bỏ phiếu bầu Tổng thống theo tỷ lệ giống như việc bầu cử
của các đại cử tri. Trong trường hợp không ai đủ đa số phiếu, Hạ viện sẽ
chọn hai trong số bốn ứng cử viên có nhiều phiếu nhất, còn Thượng viện
chọn Tổng thống trong số hai người này.
Kết quả cuộc bỏ phiếu về đề xuất của Ngài Houston rằng cơ quan lập pháp quốc gia sẽ bầu chọn Tổng thống:
NH: đồng ý; MA: đồng ý; CT: phản đối; NJ: đồng ý; PA:
phản đối; DE: đồng ý; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC: đồng
ý; GA: đồng ý; (7 bang đồng ý; 4 bang phản đối, tiểu bang New York khi
này không còn đại biểu nào tham dự)
Ngài GERRY: Tổng thống nhất thiết phải độc
lập với Quốc hội. Nhiệm kỳ càng dài, càng ít phụ thuộc. Tốt hơn là để
Tổng thống có nhiệm kỳ dài, 10, 15 hay thậm chí 20 năm và không được tái
cử.
Ngài L. MARTIN: Đề xuất viết là "sự bổ nhiệm Tổng thống sẽ có hiệu lực trong 11 năm".
Ngài GERRY: Gợi ý là 15 năm.
Ngài KING: Đề xuất là 20 năm. Đó là thời gian cầm quyền trung bình của một nhà vua.
Ngài DAVIE: Đề nghị tám năm.
Ngài WILSON: Những khó khăn và phức tạp mà Hội nghị
gặp phải là vì qui định Tổng thống sẽ do cơ quan lập pháp bầu chọn. Sự
bất lợi của mô hình này buộc ông phải đồng ý với bất kỳ nhiệm kỳ dài nào
để loại bỏ sự phụ thuộc của Tổng thống vào Quốc hội do cách bầu chọn
này gây ra. Ông tin rằng nhiệm kỳ dài nhất cũng không đáp ứng được yêu
cầu, trừ phi Tổng thống có một nhiệm kỳ suốt đời với tư cách đạo đức
tốt. Dường như mọi người cho rằng sau khi giữ chức vụ một thời gian nào
đó, viên chức sẽ bớt lòng nhiệt tình và hăng hái phụng sự công chúng.
Nhưng kinh nghiệm đã cho thấy nhiều tấm gương vẫn đủ
năng lực và lòng hăng hái, dù đã rất nhiều tuổi, như viên Tổng trấn
Venice được bầu chọn khi đã ngoài 80 tuổi. Dù các Giáo hoàng thường được
chọn khi đã khá già, nhưng không ở đâu có sự vững chắc và được điều
hành tốt như Giáo Hội La Mã.
Nếu Tổng thống nhậm chức khi chừng 35 tuổi và giả sử
ông ta được bầu với nhiệm kỳ 15 năm, thì tại tuổi 50 mới chính là giai
đoạn sung sức và có năng lực nhất của cuộc đời.
Nhưng lúc này, khi tích lũy được rất nhiều kinh
nghiệm, thì ông ta chắc chắn lại bị bỏ đi, giống như một kẻ vô dụng. Sự
mất mát không thể bù đắp được khi pháp luật nước Anh qui định rằng 50
tuổi là giới hạn tối đa của năng lực và khả năng phục vụ công chúng. Một
nhân vật sáng chói là Bá tước Mansfield giữ chức vụ của mình trong suốt
30 năm sau khi nhậm chức năm 50 tuổi.
Ngài G. MORRIS: Trong mọi mô hình, việc để
Quốc hội bầu cử là tồi tệ nhất. Nếu Quốc hội có quyền luận tội, có quyền
bổ nhiệm, hay tác động đến việc luận tội, thì Tổng thống chỉ là “kẻ đầy
tớ” cho cơ quan này. Ông từng phản đối việc luận tội, nhưng bây giờ tin
rằng nếu Tổng thống được bổ nhiệm có kỳ hạn thì việc luận tội là cần
thiết. Nếu biết Tổng thống nhận tiền của kẻ thù, thì nhất định ông ta
phải bị cách chức. Đại tá Mason từng nói ông là người hay thay đổi, lúc
thì nói tin tưởng vào nhánh lập pháp, lúc thì lại không tin cơ quan này.
Sự phê phán đó không có cơ sở. Quốc hội đáng tin cậy ở
một số khía cạnh, nhưng một số khía cạnh khác lại không đáng tin. Khi
lợi ích của các nghị sĩ trùng với lợi ích của cử tri thì các đạo luật do
họ ban hành đều là tốt đẹp và không đáng sợ. Nhưng khi lợi ích cá nhân
quá lớn, đi ngược lại lợi ích chung của xã hội thì cơ quan lập pháp lại
không còn đáng tin nữa. Mọi nhà nước đều chia thành hai phe phái.
Tổng thống nhất định sẽ thân thiết và gần gũi với phe
này hơn phe kia. Do đó, lợi ích cá nhân sẽ khiến một phe ủng hộ Tổng
thống, còn phe kia sẽ chống lại. Nhiều người nói về những âm mưu tranh
giành chức Tổng thống, nhưng không ai nói đến những âm mưu hạ bệ ông ta.
Lãnh tụ của các phe phái luôn thèm khát chiếc ghế đó, nên sẽ tìm cách
gây rối sự điều hành của Tổng thống, sẽ bày đặt âm mưu với Quốc hội, cho
tới khi hắn ta giành được chức Tổng thống.
Đó chính là cách Vua Anh bị hạ bệ và bị thay thế bởi
một ông vua thật sự khác là Thủ tướng. Đó là cách William Pitt tự đặt
mình vào vị trí đó. Fox còn đi xa hơn thế. Nếu ông ta thi hành đạo luật
Ấn Độ, điều ông ta định làm, ông ta sẽ trở thành Thủ tướng, cũng có
quyền lớn như Vua nước Anh. Tổng thống của chúng ta cũng giống như Thủ
tướng ở Anh, nhưng lại do cơ quan lập pháp bổ nhiệm.
Nhiều người đã nói về nguy cơ của một nền quân chủ,
nhưng bây giờ, nếu một chính quyền tốt không được thiết lập, nếu một
nhánh hành pháp hiệu quả không được tạo ra, thì chúng ta sẽ gặp những
điều còn tồi tệ hơn cả một nền quân chủ có giới hạn. Để loại bỏ sự phụ
thuộc của nhánh hành pháp vào cơ quan lập pháp, chúng ta đã qui định
rằng ông ta không được tái cử. Chúng ta cần phải cho Tổng thống có kinh
nghiệm và tận dụng được những kinh nghiệm này. Nhưng việc cấm ông ta
được tái cử lại khiến chúng ta không sử dụng được những kinh nghiệm đó,
dù kéo dài nhiệm kỳ tới 15 năm đi nữa. Liệu ông ta có sẵn lòng từ bỏ
chức vụ này không?
Con đường đạt đến mục đích nhờ Hiến pháp đã bị ngăn
chặn, nên ông ta sẽ tìm cách dùng đến gươm giáo. Một cuộc nội chiến tất
yếu sẽ xảy ra và người chiến thắng, dù thuộc bên nào, cũng sẽ trở thành
kẻ chuyên quyền trên mảnh đất này. Suy nghĩ này buộc ông đặc biệt lo
ngại chức vụ Tổng thống khó được thiết lập đúng đắn. Những sai trái
trong hệ thống như vậy sẽ khó lòng chữa được và nhánh hành pháp là cơ
quan khó cân bằng nhất. Nếu thiết lập một Tổng thống yếu, Quốc hội sẽ đè
bẹp và lấn át ông ta, nhưng nếu thiết lập một Tổng thống mạnh, ông ta
sẽ đè bẹp và lấn át Quốc hội.
Ông tán thành Tổng thống có một nhiệm kỳ ngắn, được
quyền tái cử, nhưng theo cách bầu cử khác. Một nhiệm kỳ dài sẽ làm cho
mô hình này khó được dân chúng chấp nhận, nhưng cần phải làm như vậy.
Ông cho rằng cần phải xem xét rất kỹ lưỡng cách thức bầu cử.
Ngài WILSON: Đề xuất rằng Tổng thống sẽ được chọn cho nhiệm kỳ ______ năm bởi ______ đại cử tri, được chọn bởi cơ quan lập pháp quốc gia".
Ngài GERRY: Điều này rất nguy hiểm. Nếu
phiếu bầu lại chọn ra những cử tri tầm thường, thì Tổng thống được bầu
cũng tầm thường và sẽ phá hỏng đất nước này. Mọi mô hình bầu cử, nếu
liên quan tới cơ quan lập pháp quốc gia, sẽ không thể là mô hình tốt
đẹp.
Ngài KING: Đa số dân chúng của cùng một tiểu
bang nhất định sẽ bầu chọn Tổng thống là người tiểu bang mình. Chúng ta
cần phải được dẫn dắt bởi sự suy xét khôn ngoan chứ không thể trông chờ
may rủi. Vì không ai hài lòng nên ông đề nghị hoãn lại vấn đề này.
Ngài WILSON: Nhất định đòi phải để dân chúng bầu chọn Tổng thống.
… Ngài ELSEWORTH: Đề xuất "Tổng thống sẽ được cơ quan lập pháp bổ nhiệm", trừ những lần bầu chọn sau này thì sẽ do các đại cử tri chọn ra. Các đại cử tri này lại do các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa. Cách này sẽ cho phép Tổng thống được tái cử, nhưng không phụ thuộc vào cơ quan lập pháp.
Ngài GERRY: Mọi cuộc bầu cử do cơ quan lập
pháp quốc gia tiến hành đều là hoàn toàn sai lầm và không thể sửa chữa
được. Ông đề xuất Tổng thống sẽ do các Thống đốc tiểu bang bổ nhiệm, với
sự tư vấn của các Hội đồng lập pháp, hoặc các đại cử tri do các cơ quan
lập pháp tiểu bang bầu chọn.
Ngài MADISON: Mọi mô hình bầu cử đều vấp phải những
trở ngại. Nhưng cuộc bầu cử hoặc phải do một cơ quan nào đó của tiểu
bang, hay liên bang tiến hành, hoặc do một thẩm quyền đặc biệt do dân
chúng quyết định, hay do chính dân chúng. Hai thẩm quyền khác, hiện đang
thiết lập theo bản Hiến pháp này, là Tòa án và Quốc hội, nhưng Tòa án
không thể là cơ quan bầu chọn Tổng thống. Còn việc bầu cử do Quốc hội
tiến hành cũng gặp những trở ngại không thể vượt qua được. Ngoài ảnh
hưởng của Quốc hội đến sự độc lập của Tổng thống thì:
1. Việc bầu chọn người đứng đầu nhà nước chắc chắn sẽ
gây chia rẽ và kích động Quốc hội, tới mức lợi ích chung của đất nước
cũng sẽ bị tổn thương nghiêm trọng. Mọi viên chức chính quyền đều tham
gia vào các cuộc tranh luận, hay cãi vã nên dễ sinh ra bạo lực hơn mọi
trường hợp khác.
2. Các ứng cử viên chắc chắn sẽ ngấm ngầm vận động
Quốc hội để được phe đa số chọn lựa. Vì thế, Tổng thống sẽ có khuynh
hướng trao quyền hành pháp cho phe phái này, hoặc qui thuận theo ý muốn
của phe này.
3. Các Ðại sứ của ngoại quốc cũng lợi dụng cơ hội này để gây ảnh hưởng và thi hành nhiều mưu đồ trong cuộc bầu cử này.
Hạn chế quyền lực của nhánh hành pháp là một mục tiêu
quan trọng mà các cường quốc của châu Âu từng cai trị nước Mỹ đeo đuổi.
Họ muốn người đứng đầu chính quyền của chúng ta là một cá nhân gắn bó
với lợi ích và nền chính trị của họ.
Không thể kể hết những mối nguy hiểm, nếu trao cho
Quốc hội quyền bầu chọn Tổng thống. Đức và Ba Lan là những ví dụ về mối
nguy hiểm này. Tại Đức, việc bầu chọn người đứng đầu Đế chế vẫn theo
cách cha truyền con nối, hiện đang phổ biến ở châu Âu, nhưng lại chịu
ảnh hưởng rất nhiều của các thế lực ngoại bang. Tại Ba Lan, mặc dù người
đứng đầu chính quyền được bầu có rất ít quyền lực, nhưng luôn luôn chịu
sức ép và sự can thiệp rất lớn của các thế lực quý tộc nước ngoài. Trên
thực tế, việc này hoàn toàn rơi vào tay ngoại bang.
Những cơ quan quyền lực hiện nay của tiểu bang là
nghị viện, thống đốc và tòa án tiểu bang. Nhiều người đã phản đối việc
các cơ quan lập pháp tiểu bang bổ nhiệm Tổng thống, nhưng ông muốn nói
đến một lý do khác. Những cơ quan lập pháp tiểu bang thường phản bội lại
sự thịnh vượng chung bằng nhiều mưu đồ xấu xa và tầm thường. Vì thế,
một trong những mục đích của Nghị viện Liên bang là kiểm soát xu hướng
này.
Quyền phủ quyết mọi đạo luật của Tổng thống chính là
nhằm kiểm soát Nghị viện Liên bang, bởi cơ quan này đôi khi cũng rơi vào
tình trạng tương tự như các nghị viện tiểu bang. Nếu việc bầu chọn Tổng
thống do các cơ quan lập pháp bang tiến hành thì mục đích kiểm soát này
không thể thực hiện được. Những cơ quan lập pháp bang sẽ bầu chọn người
nào không chống lại họ.
Đa số các cơ quan lập pháp, vào thời gian bầu cử,
thường có cùng một mục đích, hay dù có những mục đích khác nhau, nhưng
đều cùng một hướng, nên Tổng thống thường phải qui thuận ý muốn của họ.
Để các Thống đốc tiểu bang bổ nhiệm Tổng thống cũng bị phản đối vì các
Thống đốc tiểu bang cũng âm mưu và thông đồng với các ứng cử viên, với
những người theo phe họ và với những thế lực nước ngoài.
Các tòa án tiểu bang cũng không thể là những người
bầu chọn đúng đắn được. Sự lựa chọn của chúng ta bây giờ chỉ còn là giữa
các đại cử tri, được dân chúng chọn ra, hay trực tiếp từ chính dân
chúng. Ông nghĩ giải pháp thứ nhất tránh được những phản đối mà nhiều
người đã nói và ưu việt hơn nhiều giải pháp do cơ quan lập pháp quốc gia
bầu chọn.
Những đại cử tri được chọn lựa cho mục đích này, sẽ
phải gặp nhau và ngay lập tức tiến hành việc bầu chọn, nên có rất ít cơ
hội và thời gian cho những mưu mô xấu xa, hay những trò tham nhũng. Cẩn
thận hơn nữa, có thể yêu cầu cuộc họp của những đại cử tri này phải tiến
hành xa cơ quan chính quyền và thậm chí qui định rằng không một ai
trong một phạm vi nhất định nào đó được bầu. Tuy nhiên, giải pháp này
mới bị đa số bác bỏ nên có thể sẽ không được đưa ra xem xét.
Giải pháp còn lại là sự bầu cử trực tiếp của dân
chúng, hoặc là do một phần dân chúng có chất lượng, ông tán thành giải
pháp này nhất, dù có nhiều điểm không hoàn hảo. Nhưng giải pháp này gặp
khó khăn rất lớn.
Thứ nhất là dân chúng có khuynh hướng lựa chọn công
dân của tiểu bang mình và các tiểu bang nhỏ sẽ phải gánh chịu phần bất
lợi này. Cuộc bầu cử Tổng thống có ý nghĩa rất quan trọng, nên không thể
bác bỏ mọi giải pháp được đề xuất.
Nếu được điều chỉnh, giải pháp này sẽ bớt bị chống
đối hơn. Thứ hai là sự mất cân đối của các cử tri có chất lượng giữa
miền Bắc và miền Nam nên miền Nam sẽ phải gánh chịu bất lợi này.
Giải pháp cho vấn đề này sẽ là: (i) Sự khác biệt đó
sẽ tiếp tục giảm đi dưới ảnh hưởng của các đạo luật cộng hòa được thi
hành ở các tiểu bang miền Nam và sự tăng dân số nhanh chóng của vùng
này. (ii) Những lợi ích địa phương phải hy sinh cho những lợi ích quốc
gia. Là một công dân của các tiểu bang miền Nam ông sẵn lòng hy sinh vì
điều này.
Ngài PINKNEY: Đề xuất giải pháp cơ quan lập
pháp sẽ bầu Tổng thống với điều kiện bổ sung là không người nào được bầu
chọn nhiều hơn 6 năm trong bất kỳ giai đoạn 12 năm nào. Qui định này sẽ
mang lại mọi thuận lợi và một mức độ nào đó, loại bỏ được sự bất lợi,
nếu qui định Tổng thống tuyệt đối không được tái cử.
Đại tá MASON: Tán thành ý kiến này. Giải
pháp này đã được tiến hành tại một số cuộc bầu cử Quốc hội và Thống đốc
tiểu bang. Đồng thời cũng làm cho Tổng thống trở nên độc lập giống như
qui định không được tái cử, nhưng lại mở ra triển vọng được phục vụ tiếp
trong tương lai. Ông hoàn toàn tán thành việc để Quốc hội có quyền bầu
cử, nhưng cũng thú nhận rằng như vậy rất dễ nguy hiểm do ảnh hưởng của
nước ngoài và đó là mối nguy hiểm gây tai họa nhất.
Ngài BUTLER: Hai điều xấu xa cần phải tránh
là những mưu đồ trong nước và ảnh hưởng của ngoại bang. Nhưng cả hai đều
khó tránh nếu việc bầu cử do Quốc hội tiến hành. Giải pháp tốt nhất là
việc bầu cử Tổng thống sẽ do các đại cử tri do các cơ quan lập pháp tiểu
bang tiến hành. Ông phản đối mọi hình thức tái cử.
Ông cũng phản đối việc phân bổ tỷ lệ phiếu bầu đối
với các tiểu bang. Mọi tiểu bang cần phải bình đẳng. Những lập luận về
sự cần thiết phiếu bầu theo tỷ lệ dân chúng đối với cơ quan lập pháp
không đúng với nhánh hành pháp nữa.
Ngài G. MORRIS: Phản đối mọi việc quay vòng.
Vì điều này sẽ hình thành một nhóm chính khách. Những mối nguy hiểm cần
ngăn chặn trong trường hợp này là: 1. Ảnh hưởng quá mức của cơ quan lập
pháp; 2. Sự bất ổn của các Hội đồng Nhà nước; 3. Những hành vi và tư
cách xấu xa.
1. Để ngăn chặn nguy cơ thứ nhất, chúng ta sẽ rơi
ngay vào nguy cơ thứ hai. Nếu chúng ta chấp nhận sự quay vòng thì điều
này sẽ gây ra sự bất ổn trong các hội đồng quốc gia. Như thể, chẳng khác
gì việc "tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa". Con người thay đổi thì các biện
pháp cũng bị thay đổi.
Chúng ta thấy điều này được chứng minh qua sự thăng
trầm của chính chúng ta, nhất là tại tiểu bang Pennsylvania. Tính tự
phụ, tự mãn của phe thắng thế sẽ làm họ khinh thường những điều mà những
người tiền nhiệm của họ đã làm. Rehoboam sẽ không thể bắt chước
Soloman.
2. Sự quay vòng trong nhánh hành pháp không ngăn chặn
được những âm mưu xấu xa và sự phụ thuộc vào nhánh lập pháp. Tổng thống
đương nhiệm sẽ trông đợi tới ngày ông ta được quyền tái cử. Mặc dù con
người biết cuộc sống của mình có giới hạn, nhưng cứ hành động như thể
mình sẽ sống mãi. Tính thiếu hiệu quả của giải pháp này cũng rất rõ
ràng.
Nếu Tổng thống không trông đợi đến kỳ được tái cử,
chắc chắn ông ta sẽ tìm mọi cách để tham gia Quốc hội. Ông ta sẽ dễ dàng
trúng cử vào cơ quan này, sẽ tận dụng cơ hội đó để mở rộng quyền lực và
ảnh hưởng của mình và không dám làm bất cứ điều gì có thể gây tổn hại
cho uy tín của ông đối với Quốc hội. Vì thế, ông ta sẽ lại phụ thuộc vào
Quốc hội.
3. Để tránh nguy cơ thứ ba, sự luận tội là cần thiết.
Nên đây lại là lý do nữa chống lại việc để Quốc hội bầu chọn Tổng
thống. Ông coi việc bầu cử Tổng thống do dân chúng tiến hành là giải
pháp tốt nhất, do cơ quan lập pháp là giải pháp tồi tệ nhất. Ngoài hai
giải pháp này, ông không thể không tán thành một giải pháp pha trộn như
Ngài Wilson đề xuất. Nếu cách thức này không loại bỏ được những mưu mô
xấu xa và sự phụ thuộc của Tổng thống vào Quốc hội, chí ít cũng giảm bớt
đáng kể những mối nguy hiểm này.
Ngài WILLIAMSON: Phản đối việc để cơ quan
lập pháp tiến hành cuộc bầu chọn Tổng thống vì điều này mở ra cơ hội can
thiệp của các thế lực ngoại bang. Nhưng lý lẽ chủ yếu chống lại việc
bầu cử do dân chúng tiến hành là những bất lợi sẽ xảy ra với các bang
nhỏ. Cách giải quyết khó khăn này là mỗi cử tri sẽ được chọn ra ba ứng
cử viên. Một trong số đó có thể là công dân của tiểu bang quê nhà, còn
hai người kia phải thuộc các tiểu bang khác, có thể các bang lớn, cũng
có thể là các bang bé.
Ngài G. MORRIS: Rất tán thành ý kiến này,
nhưng đề nghị sửa thành một người có thể bầu chọn hai ứng cử viên, trong
đó ít nhất một người không thuộc tiểu bang của mình .
Ngài MADISON: Cho rằng điều gợi ý vừa rồi
rất có giá trị. Người thứ hai được bầu có thể là người có tư cách tốt
nhất. Những vẫn có thể gặp trở ngại do có thể mỗi cử tri bầu chọn người
đồng bào của mình sẽ cố tình bầu chọn một người tầm thường nào đó của
một tiểu bang khác nhằm đảm bảo chiến thắng cho sự lựa chọn số một của
mình.
Nhưng khó lòng cho rằng công dân của nhiều tiểu bang
lạc quan về sự bầu chọn của mình nên sẽ phớt lờ sự bầu chọn thứ hai.
Hơn nữa, điều này có thể mang lại thuận lợi cho các bang nhỏ, nếu qui
định Tổng thống không thể được bầu chọn một số lần nào đó từ cùng một
tiểu bang.
Ngài GERRY: Cuộc bầu cử của toàn thể dân
chúng là vô cùng nguy hiểm. Sự thiếu hiểu biết của dân chúng sẽ làm cho
một nhóm người nào đó vận động trên khắp toàn quốc nhằm lôi kéo dân
chúng bầu chọn một kẻ nào đó. Ông thấy rằng một xã hội như vậy chỉ tồn
tại trong trật tự của Hội Cincinnati . Họ rất đáng kính, thống nhất và
có ảnh hưởng lớn.
Thực tế, họ sẽ quyết định việc bầu chọn Tổng thống
trong mọi lần bầu cử nếu quyền bầu cử được trao cho dân chúng. Sự kính
trọng của ông đối với những thành viên của hội này không làm ông mù
quáng đến mức không nhận ra những mối nguy hiểm và tính không đúng đắn
nếu trao quyền lực này vào tay những con người đó.
Ngài DICKENSON: Những tranh luận này cho
thấy, những lý lẽ phản đối chủ yếu nhất là đối với mô hình bầu cử do cơ
quan lập pháp quốc gia, cũng như do các cơ quan lập pháp tiểu bang và
Thống đốc tiểu bang tiến hành. Ông nghiêng dần về giải pháp để dân chúng
bầu chọn, đó là cách thức tốt nhất và trong sạch nhất. Ông hiểu rằng
những phản đối cách bầu này không lớn như với những cách bầu khác. Khó
khăn lớn nhất xuất phát từ sự thiên vị của các tiểu bang đối với công
dân của mình.
Nhưng có thể sự thiên vị này sẽ có hiệu quả tốt. Hãy
để dân chúng của mỗi tiểu bang bầu chọn công dân tốt nhất của mình. Dân
chúng sẽ biết những cá nhân xuất sắc nhất trong tiểu bang của họ và dân
chúng của các tiểu bang khác cũng sẽ ganh đua trong việc bầu chọn những
cá nhân tốt nhất đáng để họ tự hào. Trong số 13 cá nhân được chọn lựa
như vậy, cơ quan lập pháp quốc gia hoặc những đại cử tri sẽ chọn ra Tổng
thống.
Đề xuất của Ngài Pinkney rằng không ai được giữ chức
Tổng thống nhiều hơn 6 năm trong giai đoạn 12 năm bất kỳ, cũng bị Hội
nghị bỏ phiếu bác bỏ.
NH: đồng ý; MA: đồng ý; CT: phản đối; NJ: phản đối;
PA: phản đối; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC:
đồng ý; GA: đồng ý; (6 bang phản đối, 5 bang đồng ý).
Trong mọi giai đoạn thảo luận liên quan đến Tổng
thống, khó khăn lớn nhất là các ý kiến quá đa dạng. Không có mô hình nào
được tất cả mọi người hài lòng.
1. Từng có đề xuất rằng cuộc bầu cử phải do toàn thể
dân chúng tham gia. Nhưng lại có lý do phản đối rằng một hành động, lẽ
ra cần phải được tiến hành do những người hiểu biết nhất về tư cách và
phẩm chất của các cá nhân, lại được thực hiện bởi những người ít hiểu
biết nhất.
2. Cuộc bầu cử đó phải được cơ quan lập pháp của các tiểu bang tiến hành.
3. Do các Thống đốc tiểu bang, nhưng những mô hình này cũng bị nhiều phản đối.
4. Từng có đề xuất là Tổng thống sẽ do những đại cử
tri, những người được dân chúng lựa chọn, bầu ra. Điều này lúc đầu được
mọi người đồng ý, nhưng sau những tranh luận chi tiết lại bị bác bỏ.
5. Sau đó, Ngài Williamson đề xuất là mỗi người sẽ
được chọn nhiều ứng cử viên. Điều này cũng giống như những đề xuất khác,
dù bề ngoài có vẻ hợp lý, nhưng khi xem xét kỹ lại có những sai lầm
nguy hiểm. Cuộc bầu cử phổ thông dưới bất kỳ hình thức nào, như Ngài
Gerry nhận xét, đều mang lại sự lựa chọn vào tay những người theo hội
Cincinnati, một hội có nhiều cá nhân đáng kính. Nhưng ông không bao giờ
mong muốn có những ảnh hưởng như vậy trong chính quyền.
6. Ngài Dickenson đề xuất một giải pháp khác, nhưng
rất bất tiện và chính bản thân ông cũng nghi ngờ và bác bỏ cách này.
Cách này sẽ loại bỏ những người không nổi tiếng trong tiểu bang quê nhà
dù nổi tiếng trên toàn quốc.
Sau khi xem xét mọi mô hình, ông kết luận rằng việc
để cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn là tốt nhất. Nếu có bị phản đối
thì cũng bị phản đối ít hơn những giải pháp khác. Ông cũng tin rằng cùng
lúc đó, một cuộc bầu cử thứ hai là tuyệt đối bị ngăn cấm [tức là khi
cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra thì sẽ không thể có bất cứ cuộc bầu cử
nào khác, dù là của Thượng viện, hay Hạ viện].
Với mục đích cơ bản nhất để đảm bảo tư cách đạo đức
của Tổng thống, để duy trì quyền tự do của con người, một điểm rất then
chốt là các viên chức cao cấp của nhà nước, nhất là của nhánh hành pháp,
sau một thời gian nhất định, phải quay trở về sống với những cử tri để
thấu hiểu tâm trạng, tình cảm, lợi ích và quyền lợi của họ. Ông kết luận
rằng cần quay lại đề xuất ban đầu "Tổng thống sẽ được bầu với nhiệm kỳ
bảy năm và không được tái cử".
Ngài DAVIE: Ủng hộ ý kiến này.
Bác sĩ FRANKLIN: Dường như một vài quý ngài cho rằng việc bầu cử do toàn thể dân chúng tiến hành sẽ làm hạ thấp giá trị của chức Tổng thống, nhưng
điều này đi ngược lại các nguyên tắc cộng hòa. Trong mọi chính quyền tự
do, những người cai trị chỉ là đầy tớ, còn dân chúng mới là người chủ
thật sự. Vì thế, trao cho dân chúng quyền bầu chọn Tổng thống không phải
làm hạ thấp mà nâng cao giá trị của chức vụ này.
Về đề xuất của Đại tá Mason: Hội nghị nhất trí với
kết quả bỏ phiếu như sau: NH: đồng ý; MA không quyết định. CT: phản đối;
NJ: đồng ý; PA: phản đối; DE: phản đối; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC:
đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý;
Toàn bộ điều khoản nói về Tổng thống được sửa chữa
như sau: "nhánh hành pháp quốc gia sẽ được thiết lập, chỉ gồm một người
duy nhất, được cơ quan lập pháp quốc gia lựa chọn, với nhiệm kỳ bảy năm,
không được bầu lại lần hai, có quyền thi hành mọi đạo luật quốc gia, có
quyền bổ nhiệm các viên chức không được Hiến pháp qui định, có thể bị
cách chức nếu bị luận tội vì thiếu trách nhiệm hoặc có những hành vi sai
trái, được nhận một khoản tiền không thay đổi trong suốt thời gian giữ
chức vụ, từ Ngân khố Quốc gia".
Tuy nhiên, tới ngày 4, 5 và 6 tháng Chín, khi bản
phác thảo Hiến pháp được làm xong và đem ra tranh luận, sau rất nhiều
đắn đo và dựa theo những điều chỉnh của các điều khoản khác, Hội nghị
lại quyết định phương pháp bầu chọn Tổng thống theo như cách Madison đã
đề xuất. Tức là bầu ra các đại cử tri và những người này mới bầu chọn
Tổng thống.…
0 comments
Post a Comment