NGUYỄN CẢNH BÌNH
Ngày 2 và 5 tháng Bảy năm 1787
Bất đồng rất lớn của
các đại biểu về quyền bỏ phiếu bình đẳng tại Thượng viện đã dẫn Hội nghị
tới bế tắc và mọi thảo luận đều trở nên cực kỳ căng thẳng mà chẳng bên
nào chịu nhường bên nào. Để giải quyết vấn đề này, một ủy ban được lập
ra để tìm giải pháp hòa giải.
Sự thỏa hiệp đạt được là Hạ viện sẽ đại diện theo số
dân, còn Thượng viện sẽ đại diện bình đẳng. Nhờ thỏa hiệp này và nhờ tư
tưởng thỏa hiệp của hai phe mà Hội nghị cuối cùng đã thu được kết quả
như mong muốn. Bedford là một trong những đại biểu các bang nhỏ đấu
tranh mạnh mẽ nhất cho quyền bình đẳng tại Thượng viện.
Ngài PINKNEY: Sự bình đẳng phiếu bầu
tại Thượng viện là điều không thể chấp nhận được. Nhưng đồng thời, ông
thừa nhận rằng các bang lớn sẽ thiên vị các công dân của mình và ưu đãi
họ trong cuộc bỏ phiếu. Các bang lớn có thể tìm được những điểm tương
đồng về lợi ích thương mại và thúc đẩy những Hiệp ước ưu đãi họ. Có sự
khác biệt chủ yếu giữa các lợi ích miền Bắc và miền Nam.
Tiểu bang Bắc và Nam Carolina và Georgia có nền văn
hóa lúa gạo và chàm (Rice và Indigo) có lợi ích khác biệt và có thể bị
hy sinh. Vậy khi đó phải ngăn chặn các bang lớn áp đặt chính quyền trung
ương ban hành những biện pháp có lợi cho họ thế nào, nếu họ không đếm
xỉa đến ý muốn của các bang nhỏ? Chỉ nên cho phép họ có ưu thế về phiếu
bầu chứ không phải một tỷ lệ đầy đủ với qui mô dân số.
Ông đặc biệt lo ngại về kết quả của Hội nghị này, coi
đó như cơ hội cuối cùng cho cuộc thử nghiệm. Trước đây, mọi nỗ lực nhằm
sửa đổi hệ thống Liên bang của Quốc hội Hợp bang hầu như đều thất bại.
Không có giải pháp nào ngăn chặn được sự giải tán Hợp bang ngoài việc
triệu tập Hội nghị này. Ông rất lo ngại về những hậu quả nguy hiểm sẽ
xảy ra nếu liên minh tan rã. Ông đề xuất chia các tiểu bang thành các
hạng để bổ nhiệm số lượng Thượng nghị sĩ tương ứng.
Tướng PINKNEY: Không hoàn toàn chấp
nhận đề xuất này. Ông ủng hộ đề xuất của Ngài Franklin hơn [ý định của
Franklin trình bày ngày 30 tháng Sáu về việc qui định tỷ lệ phiếu bầu
tùy thuộc vào nội dung của dự luật-ND]. Thỏa hiệp là cần thiết bởi hai
phe hầu như cân bằng nhau trong cuộc bỏ phiếu về quyền bình đẳng tại
Thượng viện. Ông đề xuất thành lập một ủy ban với mỗi bang có một đại
biểu để tìm ra các thỏa hiệp.
Ngài L. MARTIN: Không phản đối việc thành lập ủy ban này, nhưng không thể hòa giải nếu không chấp nhận ý muốn bình đẳng của các bang nhỏ.
Ngài SHARMAN: Lúc này, chúng ta hầu
như bế tắc và không ai muốn Hội nghị sẽ chấm dứt mà không làm một điều
gì đó. Ông nghĩ một ủy ban dường như đáp ứng nhất yêu cầu hiện nay.
Ngài G.MORRIS: Việc lập ủy ban hòa
giải là khôn ngoan vì Hội nghị hoàn toàn bất đồng. Ông tin chắc rằng mô
hình bổ nhiệm Thượng viện với quyền bỏ phiếu là bình đẳng, sẽ đi ngược
lại mục đích của cơ quan này.
Thượng viện được lập ra để làm gì? Để kiểm soát sự
vội vã, tính dễ thay đổi và thái quá của Hạ viện. Mọi người đều chứng
kiến sự hấp tấp trong các Viện dân chủ của các cơ quan lập pháp tiểu
bang và tính thiếu kiên định của Quốc hội Hợp bang. Trong mọi cơ quan,
sự thái quá đều ảnh hưởng xấu đến sự an toàn và tự do cá nhân. Vậy cần
những phẩm chất nào để thiết lập sự kiểm soát trong trường hợp này? Năng
lực và đức hạnh đều cần thiết ở cả hai Viện. Nhưng bây giờ chúng ta còn
muốn hơn thế.
1. Viện kiểm tra cần phải có lợi ích cá nhân trong
việc kiểm soát viện kia, lợi ích này sẽ kiềm chế lợi ích kia. Những sai
trái và thói xấu, khi cùng tồn tại, sẽ chống đối và kiềm chế nhau.
2. Thượng viện phải có tài sản cá nhân thật lớn và
phải có tư tưởng quý tộc. Thượng viện sẽ khao khát vinh quang và sự cao
cả nhờ lòng kiêu hãnh và tự trọng của mình. Thực ra, lòng kiêu hãnh và
tự trọng là nguyên tắc vĩ đại thúc đẩy cả người nghèo và người giàu.
Người nghèo thường chống lại còn người giàu thường lạm dụng nó.
3. Viện này cần phải độc lập. Trong tôn giáo, loài
người thường quên đi Đấng Tạo hóa. Mặt khác, trong các hoạt động chính
trị, những cuộc tranh luận căng thẳng vừa qua là những bằng chứng không
vui vẻ gì. Viện quý tộc cần phải độc lập và vững chắc để đối trọng với
Viện Bình dân. Nếu các thành viên của Viện này phụ thuộc vào sự bầu chọn
của Viện Dân chủ thì Viện Dân chủ sẽ chiếm ưu thế.
Nước Mỹ cần phải trù tính để bảo đảm các Thượng nghị
sĩ không khúm núm và quị lụy Viện Dân chủ. Nếu Thượng viện phụ thuộc vào
Hạ viện, thì tốt hơn chúng ta không nên lập ra nó. Để Thượng viện trở
thành một cơ quan độc lập, Thượng nghị sĩ cần phải được bầu chọn suốt
đời. Người giàu sẽ cố gắng thiết lập ưu thế và sự vượt trội của mình để
nô lệ hóa những người còn lại.
Trước đây, họ luôn luôn làm như vậy và sau này vẫn sẽ
làm như vậy. Sự đảm bảo an toàn đúng đắn chống lại nguy cơ này là phân
chia họ thành những lợi ích riêng biệt. Hai lợi ích riêng biệt sẽ kiểm
soát lẫn nhau. Nếu không có lợi ích thương mại, Viện Dân chủ sẽ chiến
thắng.
Điều đó đã xảy ra trên khắp thế giới và cũng sẽ xảy
ra trên đất nước chúng ta. Lý trí dạy chúng ta rằng chúng ta chẳng là ai
khác ngoài con người, chúng ta không thể trông đợi bất cứ sự thần kỳ
nào của Thượng đế cứu vớt và bênh vực chúng ta. Bằng sự kết hợp và tách
biệt đó, lợi ích quý tộc và lợi ích bình dân sẽ kiềm chế lẫn nhau để tất
cả cùng có lợi.
4. Sự độc lập suốt đời sẽ tạo ra sự bền vững cần
thiết. Nếu chúng ta liên tục thay đổi các đạo luật, thì không còn ai tin
chúng ta nữa. Nên để tránh thay đổi các đạo luật quá thường xuyên, phải
làm thế nào tránh sự thay đổi con người. Hãy hỏi bất cứ người dân nào
xem liệu ông ta có tin tưởng vào Quốc hội không, có tin tưởng vào tiểu
bang Pennsylvania không, nếu ông ta cho vay tiền hay ký kết hợp đồng?
Ông ta sẽ nói là không. Ông ta không thấy sự ổn định nên ông ta không
thể đặt niềm tin. Nếu nước Anh từ chối đối xử tử tế với chúng ta, chúng
ta cũng phải làm như vậy.
Ông phản đối việc ngăn cản Thượng nghị sĩ được giữ
nhiệm kỳ suốt đời, bởi đó là điều nguy hiểm. Nếu có mối nguy hiểm xuất
hiện từ nhánh hành pháp, thì phải ngăn chặn nó bằng cách nào? Nếu người
con trai, người anh, hay người bạn được Tổng thống bổ nhiệm, mối nguy
hiểm này sẽ tăng lên, khi người cha có tư cách kém lại thổi phồng những
ưu việt của những người thân, những phẩm chất mà họ không có.
Qui định đó sẽ ngăn cản những công dân tốt nhất, có
tư cách cao quý nhất, có khả năng nhất không được giữ chức vụ này. Khi
đó ai sẽ giữ chức Thượng nghị sĩ? Ông cũng phản đối việc trả lương cho
các Thượng nghị sĩ. Họ phải tự trả tiền cho mình.
Họ phải là những người giàu có và có thể làm việc mà
không cần trả lương. Thượng viện phải gồm những người đủ khả năng nuôi
sống mình. Nhánh hành pháp phải có quyền bổ nhiệm Thượng nghị sĩ và sẽ
bổ nhiệm những người mới cho những chỗ trống. Điều này sẽ loại bỏ những
khó khăn hiện nay.
Các Thượng nghị sĩ cần được độc lập nên phải được làm
việc suốt đời. Cũng cần phải xem xét phương pháp bầu chọn tiến hành ở
các tiểu bang. Ông hy vọng những quý ngài trong Hội nghị này đủ sáng
suốt để nhận ra sự thật đó. Do đó, ông không do dự để nói rằng bổng lộc
sẽ làm hư hỏng những kẻ mị dân. Một Thượng nghị sĩ suốt đời sẽ là cái
mồi quý phái. Nếu không có những triển vọng hấp dẫn đó, các nhà lãnh đạo
của dân chúng sẽ phản đối và bác bỏ kế hoạch này.
Hạ viện được dân chúng các tiểu bang chọn, còn Thượng
viện được toàn thể dân chúng Hợp chúng quốc chọn, nên đó sẽ không phải
là chính quyền của các tiểu bang mà là một chính quyền bởi sự kết hợp
giữa những người Virginia tại Thượng viện và Hạ viện với những người của
Massachusetts tại Thượng viện và Hạ viện…
Hệ thống đó rồi sẽ trở thành một thứ Hiệp ước thuần
tuý và chẳng còn là chính quyền nữa, sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào các tiểu
bang và chống lại những điều chúng ta đang làm hiện nay. Một chính
quyền vững chắc mới có thể bảo vệ được tự do của chúng ta.
Ông e sợ ảnh hưởng của người giàu. Họ sẽ có cùng ảnh
hưởng và tác hại như bất kỳ nơi nào khác, nếu chúng ta không thiết lập
được một chính quyền kiềm giữ họ trong những giới hạn nhất định. Chúng
ta cần phải nhớ rằng dân chúng không bao giờ hành động chỉ vì lý trí.
Người giàu sẽ lợi dụng tâm trạng của người nghèo làm công cụ để đàn áp
họ. Kết quả của cuộc xung đột đó là tạo ra một giới quý tộc bạo lực, hay
thậm chí là một nền chuyên quyền bạo lực.
Mưu mô của người giàu sẽ gặp thuận lợi nhờ sự mở rộng
lãnh thổ quốc gia. Dân chúng ở những vùng xa xôi không thể trao đổi với
nhau và không thể thống nhất hành động chung. Họ sẽ bị những người khôn
ngoan, có nhiều thông tin hơn, thường xuyên trao đổi với nhau, lừa dối.
Sự đảm bảo an toàn duy nhất chống lại những lạm quyền và xâm lấn đó là
chọn ra được một cơ quan gồm những người khôn ngoan để kiềm chế và kiểm
soát mọi phe phái.
Ngài RANDOLPH: Tán thành việc thiết
lập một ủy ban, dù không nghĩ rằng ủy ban này mang lại nhiều điều tốt
lành. Ông chỉ trích những ngôn từ thái quá, quá hấp tấp và quá gay gắt
của Ngài Bedford hôm thứ bảy. Nếu các bang lớn kết hợp lại với nhau có
thể gây nguy hiểm, nhưng ông tin là cần trao cho Tổng thống quyền phủ
quyết để kiểm soát mối nguy hiểm này hiệu quả hơn. Ông cũng tán thành
cho mỗi bang có một lá phiếu bình đẳng trong việc chọn Tổng thống.
Ông tin rằng hai cơ quan đối kháng như Ngài Morris đề
ra sẽ không bao giờ cùng nhau tồn tại lâu dài. Sự bất đồng có thể nảy
sinh như từng có giữa Thượng viện và Hạ viện Maryland. Khi đó, các phe
phái đều kêu gọi dân chúng ủng hộ mình và chỉ trong một thời gian ngắn,
những rối loạn sẽ nảy sinh. Trái lại, ông nghĩ rằng các bang lớn sẽ đảm
bảo sự tồn tại của mình dễ hơn là các bang nhỏ. Nhưng việc các bang nhỏ
từ chối gia nhập liên minh sẽ làm cho toàn thể đất nước này điêu tàn.
Ông quyết tâm theo đuổi một mô hình chính quyền chống lại tai họa đó.
Ngài STRONG: Tán thành việc lập ủy
ban và hy vọng sẽ tìm ra giải pháp thiết lập cả hai Viện của cơ quan lập
pháp. Nếu hai Viện này thiết lập trên những nguyên tắc khác nhau, sự
xung đột và bất hòa sẽ luôn luôn xuất hiện, nên họ sẽ không bao giờ đồng
tâm nhất trí trong các biện pháp cần thiết.
Bác sĩ WILLIAMSON: Nếu cả hai phe
không nhường nhịn, thì toàn bộ công việc của chúng ta sẽ chấm dứt. Ông
chấp nhận lập ủy ban này. Ủy ban càng nhỏ, càng dễ đạt thỏa hiệp.
Ngài WILSON: Phản đối việc thành lập
ủy ban, bởi vì ủy ban này chỉ quyết định căn cứ vào chính điều luật bỏ
phiếu bình đẳng từng bị một bên phản đối. Kinh nghiệm của ông tại Quốc
hội cũng chứng tỏ sự vô ích của các ủy ban như vậy.
Ngài LANSING: Không phản đối việc lập ủy ban, nhưng cho rằng sẽ chẳng thu được nhiều kết quả.
Ngài MADISON: Phản đối việc thành lập
ủy ban này. Ông không thấy ủy ban này sẽ mang lại bất cứ ích lợi nào
ngoài sự trì hoãn, như trong Quốc hội Hợp bang. Bất kỳ thỏa hiệp nào,
nếu được đề xuất trong ủy ban đó, đều có thể đề xuất ngay trong Hội nghị
này. Bản báo cáo của ủy ban này chỉ thuần tuý là ý kiến của riêng nó mà
thôi, nên việc lập ủy ban cũng sẽ chẳng rút ngắn quá trình thảo luận và
cũng chẳng ảnh hưởng đến quyết định của Hội nghị.
Ngài GERRY: Ủng hộ việc lập ủy ban.
Có thể họ sẽ làm được một việc gì đó, hoặc chúng ta không chỉ làm cả
nước Mỹ mà còn cả thế giới thất vọng. Những Hiệp ước của chúng ta là gì?
Những món nợ nước ngoài của chúng ta là gì? Những hoạt động trong nước
là gì? Chúng ta phải thừa nhận sự cần thiết của cả hai phía. Nếu không
có những điều đó, chẳng có bản Hiến pháp tiểu bang nào được lập ra cả.
Cuộc bỏ phiếu về việc "thành lập ủy ban hòa giải", kết quả bỏ phiếu như sau:
MA: đồng ý; CT: đồng ý; NY: đồng ý; NJ: phản đối; PA:
đồng ý; DE: phản đối; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: đồng ý;
GA: đồng ý. (9 bang đồng ý, 2 bang phản đối).
Về việc ủy ban này sẽ bao gồm "mỗi tiểu bang được cử một đại biểu":
Về việc ủy ban này sẽ bao gồm "mỗi tiểu bang được cử một đại biểu":
MA: đồng ý; CT: đồng ý; NY: đồng ý; NJ: đồng ý; PA:
phản đối; DE: đồng ý; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: đồng ý;
GA: đồng ý.
Ủy ban này được bầu chọn gồm Ngài Gerry, Ngài
Elseworth, Ngài Yates, Ngài Paterson, Bác sĩ Franklin, Ngài Bedford,
Ngài Martin, Ngài Mason, Ngài Davy, Ngài Rutlidge và Ngài Baldwin.
Ngày 5 tháng Bảy
Ngài GERRY đọc bản báo cáo của Ủy ban:
"Ủy ban xin đệ trình bản báo cáo như sau:
Rằng những đề xuất sau được gửi lên Hội nghị, sau khi về cơ bản, được cả hai bên đồng ý.
I. Hạ viện sẽ bao gồm đại biểu của các tiểu bang. Cứ 40.000 dân sẽ có
một người đại diện. Tiểu bang nào không đủ số người đó cũng có một đại
biểu. Mọi đạo luật liên quan đến lợi tức và thuế khoá, hay qui định
lương bổng của các nhân viên chính quyền liên bang đều do Hạ viện khởi
xướng. Thượng viện không có quyền thay đổi hay bổ sung. Không một khoản
tiền nào được lấy khỏi ngân khố của liên bang nếu không có sự phê chuẩn
của Hạ viện. Rằng những đề xuất sau được gửi lên Hội nghị, sau khi về cơ bản, được cả hai bên đồng ý.
II. Tại Thượng viện, mỗi tiểu bang sẽ có một phiếu bầu".
Ngài GHORUM: Bản báo cáo này đã bao
gồm những điều khoản có lợi cho cả hai phía, nhưng muốn nghe những lời
giải thích nền tảng thiết lập nên những điều khoản này.
Ngài GERRY: Ủy ban bất đồng về ý kiến
đúng như sự bất đồng cả các tiểu bang mà các đại biểu là người đại diện
và đồng ý rằng bản báo cáo này chỉ làm nền tảng cho sự hòa giải của Hội
nghị mà thôi.
Ngài WILSON: Nghĩ rằng Ủy ban này đã đi quá phạm vi quyền hạn được phép.
Ngài MADISON: Không coi việc ban đặc ân cho Hạ viện trong việc khởi thảo những đạo luật về lợi tức và thuế khóa là sự
thỏa hiệp và nhường nhịn của các bang nhỏ. Thực tế đã chứng minh rằng
điều này chẳng có hiệu quả gì. Nếu 7 bang trong Thượng viện muốn khởi
thảo một đạo luật, chắc chắn họ sẽ tìm đủ số thành viên của cùng tiểu
bang tại Hạ viện để khởi thảo bộ luật này.
Điều khoản hạn chế việc sửa đổi các đạo luật này cũng
có ít tác dụng. Những điều sửa đổi được Thượng viện trao cho các cá
nhân tại Hạ viện. Vì các dự luật có thể bị phủ quyết nên chúng sẽ được
đệ trình lên Thượng viện theo hình thức Thượng viện mong muốn.
Nếu Thượng viện bị khuất phục trước sự ngoan cố của
Hạ viện, thì việc dùng Thượng viện như một biện pháp kiềm chế trở nên vô
tác dụng. Nếu Hạ viện bị khuất phục trước ý muốn của Thượng viện, thì
đặc ân khởi thảo các đạo luật đó cũng vô giá trị.
Trước đây, nước Anh và các tiểu bang của chúng ta có
cùng luật pháp và qui định, nhưng thường xuyên bị thay đổi. Do đó, bất
cứ nhượng bộ nào hiện nay cũng không có giá trị và mọi phản đối việc cho
phép mỗi tiểu bang có một lá phiếu bình đẳng vẫn có hiệu lực.
Bây giờ, chúng ta chỉ còn hai cách chọn lựa, hoặc là
từ bỏ sự công bằng để hòa giải các bang nhỏ và thiểu số dân chúng Mỹ,
hoặc là làm họ phật ý bằng việc ưu đãi các bang lớn với đa số dân chúng
Mỹ. Ông không hề đắn đo và do dự khi nói rằng sự công bằng sẽ được đa số
dân chúng ủng hộ, nên Hội nghị chẳng có gì phải lo sợ cả. Trong khi với
sự thiếu bình đẳng và chỉ có thiểu số dân chúng tán thành, các bang nhỏ
phải sợ tất cả mọi điều.
Thật là vô ích nếu Hội nghị theo đuổi những điều
khoản gây sự bất hòa vĩnh viễn giữa các bang và cả dân chúng. Hội nghị
cần phải theo đuổi một mô hình bền vững, chịu đựng được mọi thử thách và
chắc chắn sẽ được phần lớn dân chúng Mỹ tán thành và ủng hộ. Chính dân
chúng sẽ thúc đẩy và tự làm sáng tỏ mô hình này.
Cần phải thấy rằng ban đầu nhiều người có thể phán
xét mô hình chính quyền được đề xuất bởi những thành kiến về Hội nghị
này, nhưng cuối cùng, mọi người sẽ phán xử Hội nghị bằng chính mô hình
chính quyền đó. Giá trị của hệ thống này chỉ đạt được hiệu quả nhờ sự
chấp thuận của toàn thể dân chúng.
Ông không tin các bang nhỏ sẽ ngoan cố chống đối mô
hình chính quyền thiết lập trên nguyên tắc công bằng và cam kết sẽ bảo
vệ mô hình này. Ông không nghĩ Delaware đủ dũng cảm kiếm tìm tương lai,
bằng cách từ bỏ liên minh với các tiểu bang khác, để tự thiết lập một
chính quyền mà ông nghi ngờ là sẽ theo đuổi những chính sách xấu xa,
trông chờ sự ủng hộ của ngoại bang, điều mà một đại biểu của tiểu bang
này [Ngài Bedford] lớn tiếng đề xuất.
Nếu tiểu bang này làm như vậy, thì cũng chỉ đạt được
một Hiệp ước quá hấp tấp. Ông tin dân chúng New Jersey, bất chấp quan
điểm của Ngài Paterson, sẽ đứng bằng đôi chân của mình và qui thuận một
chính quyền được thiết lập trên nền tảng các nguyên tắc công bằng. Mô
hình đó là tuyệt đối cần thiết để họ tránh những khoản thuế trong việc
kinh doanh buôn bán với các bang láng giềng.
Xem xét kỹ các tiểu bang khác cũng sẽ thấy sự chống
đối ngoan cố của các bang này cũng không có lập trường vững chắc. Các
bang chủ chốt gồm đa số dân chúng Mỹ sẽ tán thành mô hình công bằng và
khôn ngoan. Ông tin chắc rằng cuối cùng, mọi bang khác cũng sẽ tán
thành.
Ngài BUTLER: Không tin rằng chỉ với
lòng kính trọng Hội nghị này, dân chúng nước Mỹ sẽ chấp nhận một bản
Hiến pháp rõ ràng là không công bằng. Đặc ân khởi thảo những dự luật
liên quan đến tiền bạc của Hạ viện chẳng có ý nghĩa gì. Thượng viện phải
đại diện cho các tiểu bang căn cứ vào tài sản của mình.
Ngài G. MORRIS: Cả hình thức và nội
dung của bản báo cáo đó đều khó chấp nhận. Điều khoản đầu tiên đã làm
cho các tu chính án là không thể thực hiện được. Trong điều khoản tiếp
theo, dường như có cam kết rằng Thượng viện sẽ đồng ý nếu Hạ viện đồng
ý. Mọi khía cạnh của bản báo cáo đó đều sai lầm.
Ông tới đây như một người đại diện cho nước Mỹ và tự
cho rằng ở một mức độ nào đó là đại diện cho toàn thể loài người vì toàn
thể loài người sẽ chịu ảnh hưởng bởi kết quả của Hội nghị này. Ông mong
mọi đại biểu suy xét kỹ lưỡng vấn đề này trong cả tương lai chứ không
phải chỉ trong thời gian ngắn hạn trước mắt. Cần phải xóa bỏ mọi thành
kiến địa phương.
Chúng ta nhóm họp ở đây không phải để buôn bán và mặc
cả vì lợi ích riêng biệt tiểu bang quê nhà mà cần phải xem xét hậu quả
của những điều chúng ta sẽ làm. Chỉ riêng điều đó mới chỉ ra con đường
cho chúng ta. Rất nhiều người nói về tâm trạng của dân chúng. Nhưng nếu
kế hoạch chúng ta đề xuất là đúng đắn và hợp lý, mọi người có lý trí và
có óc xét đoán đều tán thành, bất chấp những gì mà nhiều quý ngài lo
ngại. Cứ coi rằng tất cả các bang lớn đều sẽ tán thành, còn những bang
nhỏ sẽ phản đối và hãy để chúng ta tự phân tích những hậu quả sẽ xảy ra.
Những người phản đối mô hình chính quyền này tại các
tiểu bang nhỏ, không nghi ngờ gì nữa, sẽ hình thành một phe phái và phản
đối ầm ĩ trong một thời gian. Nhưng các mối quan hệ về lợi ích, tâm
trạng chung và những phong tục tập quán hàng ngày với các tiểu bang khác
chặt chẽ đến mức không thể dễ dàng cắt đứt được.
Đặc biệt là tại New Jersey, ông tin là rất nhiều
người sẽ nói theo quan điểm của Pennsylvania và New York. Đất nước này
cần phải thống nhất. Nếu lời nói không thống nhất được, thì gươm đao sẽ
thống nhất. Mọi người cần nhận thức mối nguy hiểm này.
Những điều ghê rợn sinh ra do những xung đột và những
cuộc nội chiến là không thể tả nổi và thời điểm kết thúc những rối loạn
này còn tồi tệ hơn khi nó đang xảy ra.
Phe phái mạnh hơn sẽ kết tội những phe phái yếu là phản bội. Giá treo cổ và dây thòng lọng sẽ là hình phạt cuối cùng. Không thể kể hết được tác hại của việc ngoại bang can thiệp.
Phe phái mạnh hơn sẽ kết tội những phe phái yếu là phản bội. Giá treo cổ và dây thòng lọng sẽ là hình phạt cuối cùng. Không thể kể hết được tác hại của việc ngoại bang can thiệp.
Ông kể lại bức tranh ảm đạm do sự can thiệp của ngoại
bang trong lịch sử nước Đức và kêu gọi mọi người đừng quên bài học đó.
Ông tin rằng quý ngài thể hiện ý định đó chỉ là suy nghĩ nhất thời và vô
tình nhắc đến.Nhưng ông không tin bản báo cáo của ủy ban được suy xét
kỹ càng vì mục tiêu tốt đẹp cho toàn xã hội. Thượng viện được thiết lập
như vậy sẽ liên tục bất hòa sẽ khiến các tiểu bang phải tự quyết định về
chính sách liên bang để kiểm soát và hạn chế Hạ viện.
Giả sử các đại biểu của Massachusetts và Rhode Island
tại Thượng viện bất đồng ý kiến và quan điểm của Massachusetts bị bác
bỏ. Vậy kết quả sẽ là gì? Ngay lập tức bang Massachusetts sẽ tuyên bố
không chấp thuận quyết định đó. Một điều tương tự có thể xảy ra với
Virginia và các bang khác.
Chúng ta có thể không diệt hết được mọi xấu xa, nhưng
chúng ta phải rút hết mọi nọc độc của con rắn. Những quyết định của
chúng ta là để mang lại lợi ích thật sự cho con người, chứ không phải
nhằm đáp ứng những lợi ích hạn hẹp của một địa phương nào đó. Những tâm
địa hẹp hòi và ích ỷ sẽ chẳng mang lại điều gì lớn lao. Không một ai, kể
cả bản thân ông, dám khẳng định rằng liệu con cái ông rồi đây sẽ là
công dân của tiểu bang nào.
Ngài BEDFORD: Điều ông từng nói về
các bang nhỏ có thể đã bị hiểu sai nên ông đứng lên để giải thích. Ông
không có ý rằng các bang nhỏ sẽ tìm cách tranh thủ và lợi dụng sự viện
trợ, hay can thiệp của ngoại bang. Ý ông chỉ là các bang nhỏ không muốn
giải tán liên bang nếu các bang lớn không làm như vậy.
Trong trường hợp tan rã, trách nhiệm là thuộc về phía
các bang lớn, còn các bang nhỏ sẵn lòng thực thi những cam kết của
mình. Ngoại bang sẽ lợi dụng cơ hội này để trục lợi, bằng cách liên minh
với các bang nhỏ với những điều khoản công bằng. Đó là điều ông muốn
nói. Không ai dự đoán được cảnh túng quẫn và bước đường cùng mà các bang
nhỏ có thể rơi vào nếu bị chèn ép như thế.
Ông cũng muốn biện bạch rằng thói quen và bệnh nghề
nghiệp của ông [Bedford là luật sư - ND] đã thể hiện những điều cần
thiết này bằng lời lẽ mạnh mẽ đó. Nhưng những điều Ngài Govr. Morris đã
nói rằng gươm đao là cần thiết để thống nhất đất nước và Ngài Ghorum nói
rằng Delaware sẽ phải sáp nhập với Pennsylvania và New Jersey sẽ bị
chia cho Pennsylvania và New York không phải là đáng xấu hổ sao? Phải
nghe những lời lẽ đó mà không có cảm xúc gì, cũng giống như việc phải từ
bỏ mọi cảm xúc của con người và bổn phận của công dân.
Những điều khoản do Ủy ban này đề xuất là vì các bang
nhỏ muốn có những đảm bảo nào đó. Cũng giống như phải trao cho Tổng
thống quyền phủ quyết các đạo luật để tự vệ, thì các tiểu bang cũng cần
có những điều khoản để tự vệ. Để đạt được điều này, các tiểu bang nhỏ đã
thừa nhận quyền đại diện theo tỷ lệ dân số tại Hạ viện và các đạo luật
về tiền bạc và lợi tức sẽ do Hạ viện khởi thảo.
Nếu các bang nhỏ không được những nhượng bộ tương ứng
tại Thượng viện đáp ứng thì họ sẽ chẳng bao giờ chấp nhận mô hình này
và hậu quả sẽ là gì, nếu không có mô hình nào được phê chuẩn? Bối cảnh
nước Mỹ đòi ngay lập tức đạt được một điều gì đó. Một mô hình khiếm
khuyết được phê chuẩn còn tốt hơn là chẳng thu được điều gì. Những khiếm
khuyết này, nếu cần thiết, sẽ được chỉnh sửa tại một cuộc họp nào đó
sau 10, 15 hay 20 năm nữa.
Ngài ELSEWORTH: Dù không tham gia Ủy
ban nhưng sẵn sàng chấp nhận thỏa hiệp mà họ đạt được. Các thỏa hiệp là
cần thiết và ông thấy những điều khoản đó là hợp lý.
Ngài WILLIAMSON: Hy vọng những đại biểu khác không quá để tâm và
phiền muộn về tâm trạng và lời lẽ vừa trình bày của Ngài Bedford. Ông hy
vọng các lời lẽ đó không bị hiểu nhầm và không bị thổi phồng. Ông không
đồng ý với Ngài G.Morris rằng gươm đao là thứ cần rút ra để chống lại
các bang nhỏ. Ngài Morris chỉ nói về những hậu quả của sự vô chính phủ ở
Mỹ. Điều mà Ngài Ghorum nói cũng tương tự như vậy. Ông sẵn lòng nghe
những thảo luận về bản báo cáo của Ủy ban.
Ngài PATERSON: Bản báo cáo được Ủy
ban thỏa hiệp đề xuất, đối với ông, chính là kết quả của những cuộc
tranh luận tự do. Ông coi những lời lẽ nóng nảy là không thích đáng và
nghĩ rằng “Giá treo cổ và Dây thòng lọng” sẽ không đạt được kết quả cần
thiết. Ông phàn nàn cách Ngài Madison và Ngài G.Morris đối xử và xét
đoán các bang nhỏ.
Ngài GERRY: Mặc dù cơ bản tán thành
bản báo cáo của Ủy ban, thì ông vẫn có lý do để phản đối. Tuy nhiên,
chúng ta đang ở một tình huống rất đặc biệt. Chúng ta không phải là
những người cùng một tổ quốc, nhưng cũng không phải là những người khác
tổ quốc, nên không thể theo đuổi chính xác mô hình này, hay mô hình kia.
Nếu không có thỏa hiệp, liên minh chắc chắn tan rã. Hai mô hình được đề
xuất quá khác biệt và không ai dự đoán được hậu quả sẽ thế nào. Nếu
chúng ta không đạt được một thỏa thuận nào cho chúng ta, lưỡi gươm của
ngoại bang sẽ thay cho chúng ta làm điều đó.
Ngài MASON: Bản báo cáo đó không phải là những điều khoản phải chấp
nhận mà chỉ thuần tuý là những điều khoản mang tính hòa giải. Cần phải
có một số hòa giải, bởi nếu không, chúng ta sẽ chẳng làm được gì. Hội
nghị này lập ra Ủy ban đó với mục đích đạt được sự thỏa hiệp và đó là
điều mà Ủy ban này đã làm được. Ông thà chôn xác mình tại thành phố này
còn hơn để tổ quốc phải gánh chịu những hậu quả thảm khốc, nếu Hội nghị
này giải tán mà không đạt được kết quả nào.
Đến lúc này, Khoản I trong bản báo cáo của Ủy ban, ấn
định tỷ lệ đại diện của Hạ viện, một đại biểu đại diện cho 40.000 dân,
được đưa ra xem xét.
Ngài G. MORRIS: Phản đối qui định tỷ
lệ đó. Tài sản cũng cần được xem xét như qui mô dân số. Cuộc sống và sự
tự do nói chung là giá trị hơn tài sản. Nhưng nếu phân tích chính xác sẽ
thấy tài sản mới là mục đích chủ yếu của xã hội. Các tiểu bang hoang vu
ủng hộ tự do hơn những tiểu bang giàu có. Tự do cũng là điều mà những
người không biết thế nào là tài sản đòi hỏi, nên tài sản chỉ có thể được
chính quyền bảo đảm bằng qui định và luật pháp. Ý tưởng này có thể là
mới mẻ đối với một số quý ngài, nhưng đó mới chính là sự công bằng.
Nếu tài sản là mục tiêu chủ yếu của chính quyền thì
đó cũng phải là một hình thức đánh giá mức độ ảnh hưởng của con người.
Ông cũng mong đợi các tiểu bang mới sẽ nhanh chóng được thiết lập ở miền
Tây. Ông nghĩ qui định về đại diện cần phải được ấn định để đảm bảo các
tiểu bang bên bờ Đại Tây Dương chiếm ưu thế trong chính quyền liên
bang. Các bang mới nhận thức
về lợi ích của dân chúng kém hơn những bang ở đây, nên sẽ có những lợi
ích khác biệt nhất định. Họ đặc biệt khác xa với toàn thể cộng đồng về
các khoản nợ chiến tranh và với các bang có hoạt động thương mại hàng
hải.
Do vậy cần có các điều khoản ngăn chặn việc các bang
mới ở miền Tây áp đảo các tiểu bang ven biển trong các cuộc bỏ phiếu sau
này. Điều này có thể đạt được bằng việc ấn định số lượng đại biểu cho
từng tiểu bang.
Ngài RUTLIDGE: Ngài Morris nói rất
chính xác. Tài sản chắc chắn là mục đích chủ yếu của xã hội. Nếu dân số
được sử dụng để quyết định số người đại diện, các bang ven biển Đại Tây
Dương sẽ bị các bang miền Tây áp đảo. Ông đề xuất rằng điều khoản đầu
tiên của bản báo cáo cần phải hoãn lại để xem xét những qui định như
"quyền bỏ phiếu của các bang sẽ được qui định và chia tỷ lệ căn cứ vào
tổng số tiền được cư dân của tiểu bang đó đóng góp vào ngân khố liên
bang. Quyền bỏ phiếu phân chia theo tỷ lệ đó được qui định vào cuối năm
thứ _____ kể từ cuộc họp đầu tiên của cơ quan lập pháp liên bang. Cho
tới khi có qui định khác, quyền bỏ phiếu cho New Hampshire sẽ là _____;
cho Massachts sẽ là _____.
Đại tá MASON: Việc các bang mới gia
nhập liên minh không được ghi trong báo cáo. Dù không tham gia Ủy ban,
nhưng bản thân ông cho rằng nếu họ trở thành một bộ phận của liên minh,
họ không thể chịu những thiên vị lệch lạc và sự xem thường đó.
Ngài RANDOLPH cũng đồng ý với đại tá Mason.
Về đề xuất của Ngài Rutlidges qui định tỷ lệ bỏ phiếu căn cứ vào số tiền đóng góp:
MA : phản đối; CT: phản đối; NY: phản đối; NJ: phản đối; PA: phản đối; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: phản đối; SC: tán thành; GA: không thống nhất.
Hội nghị dừng họp tại đây.MA : phản đối; CT: phản đối; NY: phản đối; NJ: phản đối; PA: phản đối; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: phản đối; SC: tán thành; GA: không thống nhất.
Ngày hôm sau, Hội nghị đã thống nhất với ý kiến của
Ngài Morris trước mắt ấn định số lượng đại biểu của mỗi bang căn cứ vào
số dân và cứ sau 10 năm sẽ tổng kiểm tra dân số một lần.
0 comments
Post a Comment