Sử
Gia
Vũ
Ngự
Chiêu
Sự việc Hồ Chí Minh [HCM] tuyên bố
độc lập và thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa [VNDCCH] ngày 2/9/1945 không bảo đảm rằng nền
độc lập của Việt Nam và chế độ này được quốc tế
công nhận. Người Pháp, dù tiến bộ hay bảo thủ, đều
nhấn mạnh phải đưa ‘con thuyền lạc bến’ Đông Dương trở lại với đế
quốc Pháp, bằng vũ lực nếu cần. Những cường quốc khác,
vì những lý do khác nhau, đều yểm trợ sự
tái xâm lăng Đông Dương của Pháp.
Chính sách ngoại giao của HCM
trong giai đoạn từ tháng 8/1945 tới tháng 12/1946 bởi thế
tập trung vào chính sự sinh tồn của chế độ. Để đạt mục
đích này, HCM tìm cách quốc tế hóa
chính nghĩa quốc gia của Việt Nam, kêu gọi quốc tế yểm trợ
nền độc lập của Việt Nam và chống lại cuộc tái xâm
lăng của Pháp.
Nỗ lực của HCM gồm kháng thư hay
công hàm đến các cường quốc, phản đối sự xâm
lăng của Pháp và gợi nhớ lại những nguyên tắc ‘cao
cả’ của Hiến chương Đại Tây Dương, bản tuyên bố của
Liên Hiệp Quốc và Hiến chương San Francisco. HCM đặc biệt
quan tâm đến sự yểm trợ của Liên bang Mỹ, thậm chí
yêu cầu được hưởng giống như tình trạng của Phi-lip-pin
[Philippines] trong vùng ảnh hưởng của Mỹ.
Tất cả những thỉnh nguyện của HCM đều
không có hồi âm. HCM phải đương đầu với cả Trung Hoa
và Liên minh Pháp-Bri-tên [sau đó, chỉ
với Pháp] để sinh tồn. Với Trung Hoa, HCM mua chuộc đút
lót các quan tướng để họ cho HCM được tự trị. Với người
Pháp, vấn đề phức tạp hơn. Ngay sau cuộc cách mạng
tháng 8/1945, HCM cương quyết chống việc Pháp trở lại
và nhấn mạnh trên nền độc lập toàn vẹn của Việt
Nam. Sau đó, HCM phải giảm dần đòi hỏi, chấp nhận thực
tế, đồng ý được hưởng tình trạng một nước Việt Nam ‘tự
do’ trong Liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp
Pháp. Mặc dù Pháp chỉ thương thuyết với HCM để
kéo dài thời gian, hầu có thể tăng gia lực lượng
và thiết lập sự thống trị quân sự trên toàn
cõi Đông Dương, HCM được gần một năm để thủ diễn vai
trò nhà ngoại giao ngay tại Việt Nam cũng như tại
Pháp. HCM không đạt được những gì mình mong
muốn, nhưng qua tiến trình thương thuyết, đã phần
nào đạt được mục tiêu quốc tế hóa chính
nghĩa của người Việt và đồng hóa mục tiêu của phe
HCM với tinh thần yêu nước của người Việt.
I.
ĐI
TÌM
‘CHÍNH
THỐNG’:
Sau khi sống hơn phần tư thế kỷ ở quốc ngoại
và làm việc cho các cơ quan tình báo
quốc tế -trước hết cho Cục Quốc Tế Cộng Sản [Comintern] của Liên
Xô tại Trung Hoa và Xiêm, và các cơ
quan tình báo Mỹ tại Việt Nam- HCM hiểu rõ sự
tàn nhẫn của nền chính trị quốc tế. Kể từ những
ngày tháng đen tối ở Paris, khi kiếm tìm
tài liệu để hoàn tất bản thảo Les Opprimés [Những
kẻ bị áp bức], HCM đã hiểu rằng nếu Việt Nam muốn
giành được độc lập, phải phá vỡ lớp băng giá của
sự thờ ơ [nếu không phải đồng lõa] của thế giới đối với
các xứ thuộc địa. HCM [lúc ấy còn mang bí
danh Nguyễn Ái Quốc] đã có lần hy vọng được
các nhà xuất bản và tác giả mà HCM
đã trích dẫn nhưng không xin phép sẽ truy tố
HCM ra tòa để được chú ý.[1] Nhưng chuyện
đó không xảy ra.
Bị các cường quốc không thèm
đếm xỉa, HCM chỉ tìm thấy nguồn tiếp trợ từ Liên Xô.
Nhưng chua chát cho HCM là ‘tinh thần quốc tế vô
sản’ cũng đầy những mặn, ngọt, chua cay. Từ năm 1930, sau khi
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam [CSVN] ngày 6/1/1930,
HCM bị bỏ quên bên lề phong trào Quốc tế Cộng Sản,
không những bị chỉ trích là ‘nặng tinh thần quốc
gia’, ‘thời cơ’, mà còn bị tình nghi là
có liên hệ với tình báo tư bản. Suốt
bốn năm dài ở Mat-scơ-va từ tháng 10/1934 tới
tháng 9/1938, HCM chẳng được giao một công tác quan
trọng nào, trong khi nhóm QTCS trẻ trung từ Nga về như
Livitnov Lê Huy Doãn [Hồng Phong], Cinitchkin Hà
Huy Tập, Kan Nguyễn Ngọc Vi [Phùng Chí Kiên],
Bourov Dương Bạch Mai, Pallat Nguyễn Văn Phong [Minh], v.. v... thống
trị Đảng Cộng Sản Đông Dương tại nội địa. Ngay đến người vợ
cách mạng của HCM là ‘Fan Lan’, tức ‘Nguyễn Thị Minh
Khai’ [1910-1941] cũng trở thành vợ Livitnov Doãn trong
hai năm 1937-1938.
Mãi tới cuối tháng 9/1938, HCM mới
được phép trở lại Trung Hoa để chỉnh đốn lại Ban chấp ủy Trung
ương Đảng CSĐD, đưa tổ chức này vào chính
sách ‘mặt trận thống nhất’ do CSQT tái phát động
từ mùa Thu năm 1935. Nhưng tới Diên An từ tháng
11/1938, HCM vẫn không móc nối được với Ban Chấp ủy trung
ương của Đảng CSĐD, trước khi các lãnh tụ cao cấp bị mật
thám Pháp bắt giữ trong hai ngày 17-18
tháng 1/1940 -phần nào do sự tố cáo gián
tiếp của một liên lạc viên người Hoa gốc Việt của HCM.
Mãi tới tháng 2/1940, HCM mới tái xuất hiện ở
Côn Minh, thủ phủ Vân Nam, tiếp xúc với ban
lãnh đạo ở ngoài của Đảng CSĐD tại đây, và
trực tiếp chỉ huy nhóm Kan Vi, Hoàng Văn Hoan, Vũ Anh.
Sau ngày Pháp thất trận ở Âu
Châu [23/6/1940], HCM quyết định tìm đường về nước. Để che
mắt chính phủ Tưởng Giới Thạch, HCM quyết định xâm nhập
và khuynh đảo tổ chức Việt Minh của Hồ Học Lãm, biến tổ
chức không Cộng Sản này thành cánh tay ngoại
vi của Đảng CSĐD. Rồi, tháng 5/1941, HCM triệu tập Hội nghị thứ
8, khóa I, của Đảng CSĐD tại Pác Bó, tái
lập Ban chấp ủy trung ương, với Đặng Xuân Khu [sau này trở
thành Trường Chinh[TC]] làm Tổng Bí Thư.
Trong Thế chiến thứ II [1939-1945], cuộc
liên kết Tư Bản-Cộng Sản của Đồng Minh chống lại phe Trục mang
lại cho HCM cơ hội để quốc tế hóa chính nghĩa của Việt
Nam. Dự đoán được vai trò thắng vượt của Liên bang
Mỹ trong thời hậu chiến, HCM không ngừng mua chuộc cảm
tình của người Mỹ. Quyết định giải tán Cục QTCS của
Stalin vào tháng 3/1943 cho phép HCM theo đuổi một
chính sách mềm dẻo: HCM được tự do làm việc cho cả
cơ quan tình báo Trung Hoa và Liên bang Mỹ.
Đổi lại, HCM được phóng thích khỏi nhà tù
Trung Hoa ở Liễu Châu, tự do hoạt động trên lãnh thổ
Trung Hoa, có những vật liệu cần thiết và triển vọng được
Mỹ yểm trợ trong tương lai. HCM có những thủ thuật đặc biệt để
mua chuộc cảm tình của các quan tướng Mỹ tại địa phương.
A. ĐƯỜNG DÂY TÌNH
BÁO MỸ:
Từ cuối năm 1944, đầu năm 1945, HCM đã mở
được đường dây liên lạc với Sở Tình Báo Chiến
Lược [OSS] Mỹ. Trong mùa Hè 1945, đã có
lúc hai toán tình báo Mỹ có mặt tại
mật khu ‘Tân Trào’, thuộc địa phận Kim Lộng, Tuyên
Quang. Toán Con Nai [Deer Team] của Thiếu tá
Allison K. Thomas đã giúp huấn luyện khoảng 100 binh sĩ
Việt Minh và cứu thoát HCM trong cơn đau thập tử nhất
sinh tại Kim Lộng. Cũng chính Thomas và các
nhân viên thuộc toán Air Ground Aid Service [AGAS]
của Không lực Lục Quân Mỹ nhiều lần khẳng định với cấp chỉ
huy rằng tổ chức Việt Minh của HCM ‘không phải là Cộng
Sản, hay Cộng Sản kiểm soát, hay Cộng Sản lãnh đạo’[2].
Thomas và đại diện OSS tại Côn Minh cũng chuyển cho Jean
Sainteny, trưởng đoàn tình báo M-5 Pháp tại
Hoa Nam, một lá thư của Việt Minh, đề nghị hợp tác[3].
Sainteny [tên thực Roger] tới Côn Minh ngày
30/7/1945; nhưng gặp Nguyễn Tường Tam[NTT] mà không phải
HCM[4]. Nhân viên OSS đã trên thực tế
hành xử như Ban Ngoại Giao đầu tiên của HCM.
HCM rất rộng rãi trong việc ca ngợi sự vĩ
đại và truyền thống dân chủ, chống thực dân của nước
Mỹ. Từ tháng 7/1945, HCM đã bàn thảo với
các sĩ quan tình báo Mỹ tại Bộ Chỉ huy Việt Minh
tại Kim Lộng [Tân Trào] về bản Tuyên ngôn độc
lập của Mỹ, chứng tỏ mình rất quen thuộc với văn kiện
này. Vài tháng sau, HCM đã khởi đầu bản
Tuyên ngôn độc lập của mình bằng câu mở đầu
của Tuyên ngôn độc lập Mỹ. Sau đó, HCM thường nhắc
đến nước Mỹ như ‘vô địch về dân chủ’ [‘champion of
democracy’] hay ‘cứu tinh của mọi quốc gia’ [‘saviour of the
nations’][5]
Bản Hiến Chương Đại Tây Dương [14/8/1941]
do Tổng thống Franklin D. Roosevelt đề xướng, bản Tuyên
ngôn Liên Hiệp Quốc, và Hiến chương Liên Hiệp
Quốc ký kết tại San Francisco [1945], và ngay cả
bài diễn văn của Tổng thống Harry S. Truman [1945-1953]
vào Ngày Hải quân, 27/10/1945, cũng được ca ngợi
nồng nhiệt chẳng kém gì chủ thuyết của Lê-nin hơn
hai thập niên trước.[6]
Trong thư gửi Ngoại trưởng Mỹ ngày
22/10/1945, HCM viết: Những nguyên tắc cao thượng về công
pháp quốc tế và sự bình đẳng trong Hiến chương Đại
Tây Dương đã được người Việt hưởng ứng và
đóng góp vào việc biến tổ chức kháng chiến
Việt Minh trong chiến khu thành một phong trào chống Nhật
trên toàn quốc, một phong trào phản ảnh mạnh mẽ
khát vọng dân chủ của dân chúng. Hiến chương
Đại Tây Dương được coi như nền tảng của nước Việt Nam trong tương
lai. Một kế hoạch xây dựng quốc gia được soạn thảo theo
đúng tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc tại San
Francisco và đã được thực hiện trong những năm vừa qua. .
.[7]
Bài diễn văn ngày 27/10/1945 của
Truman về chính sách ngoại giao hậu chiến của Mỹ -trong
đó Truman không hề nhắc đến Đông Dương và
đã khéo léo dùng cách diễn tả mơ hồ,
chung chung hầu ai nấy đều có thể tự do diễn giải -được HCM
tán thưởng ngay là chứa đựng ‘những lý tưởng cao
cả của sự độ lượng và nhân bản’.[8] Sau đó,
HCM tuyên bố chế độ của HCM ‘dựa trên, và lấy sức
mạnh từ các điều thứ hai, thứ tư và thứ sáu trong
bài diễn văn 12 điểm của Truman’.[9]
Về phương diện vật chất, HCM chăm sóc
các cán bộ OSS rất chu đáo. Trung úy Phelan
[‘John’] nhận xét: [HCM] là một người thật dễ thương. Nếu
tôi phải chọn ra một điểm để nói về ông già
nhỏ bé ngồi trên ngọn đồi trong rừng rậm đó
thì đó là sự mềm mỏng của ông ta. [He was an
awfully sweet guy. If I had to pick out one quality about that little
old man sitting on his hill in the jungle, it was his gentleness][10]
Frank Tan, một người Mỹ gốc Hoa lo việc truyền tin của
toán GBT/AGAS tại Bộ chỉ huy của HCM từ tháng 4 tới
tháng 6/1945, cũng đầy thiện cảm với HCM. Theo lời Frank, sau
khi được biết Frank mới bị một cô gái Mỹ bỏ rơi, HCM
khuyến khích Frank ‘theo đuổi một cô nữ du kích
[Việt] nào đó’. HCM cũng tiết lộ với Frank rằng ‘trước
kia HCM rất yêu thương một cô gái nhưng sau khi đăng
ký đi Tàu đành phải quên cô
ta’[11] Sau khi Frank đã rời chiến khu, HCM còn gửi
tặng mấy cái vòng đeo tay bằng bạc để biếu các
nhân viên tham mưu GBT tại Trung Hoa[12]
Sau khi đã nắm chính quyền
vào tháng 8/1945, HCM tiếp tục mua chuộc những người bạn
Mỹ của rừng xanh. Thiếu tá Thomas và toán Con Nai
được ăn uống sang trọng và chăm sóc kỹ lưỡng khi ở
Thái Nguyên, giữa lúc những cuồng sóng bạo
lực cách mạng loáng rộng khắp đất nước. Khi tới Hà
Nội, họ cũng vẫn được tiếp đãi như thượng khách cho tới
lúc lên đường hồi hương[13]
Hai nhân vật Mỹ được người Pháp coi
như bạn thân của HCM là Thiếu tá Archimedes L. A.
Patti, trưởng Đoàn OSS tại Hà Nội, và Thiếu tướng
Philip E. Gallagher, Trưởng toán liên lạc bên cạnh
Bộ Tư lệnh Trung Hoa ở Bắc Việt. Để mua chuộc cảm tình của OSS
Mỹ, và cũng để quảng cáo cho sự ‘đồng minh’ với Mỹ, bốn
ngày sau khi Patti tới Hà Nội, sáng Chủ Nhật
26/8/1945, Võ Nguyên Giáp [VNG] dẫn một phái
đoàn 4 người tới thăm Patti ngay tại chỗ tạm trú. Sau khi
chuyển lời chúc mừng cá nhân của HCM, VNG trang
trọng mời Patti và thuộc hạ đến tham dự một buổi diễn binh đặc
biệt để đón tiếp một số ‘ủy viên trong chính phủ
và phái bộ điều tra Mỹ [của Patti] mới về Hà
Nội.’[14] Ngay chiều đó, HCM tiếp Patti tại Phủ Chủ
tịch.[15] Từ ngày này, Patti thay Thomas trở thành
một cố vấn không chính thức của HCM. Không những chỉ
chuyển các thông điệp của HCM về Oat-shinh-tân, qua
Tòa Đại sứ Mỹ ở Trùng Khánh, hoặc Tòa
Lãnh sự Côn Minh [Vân Nam], Patti còn
dàn xếp cho Pháp và Việt Minh thương thảo, hay can
thiệp với quan Tướng Trung Hoa khi cần. Vai trò của Patti
làm lu mờ hẳn Trung tá A. Peter Dewey, trưởng toán
Embarkment [thu hồi tù binh] của OSS tại Sài Gòn,
dù Dewey cũng thường xuyên liên lạc với các
cán bộ Việt Minh địa phương, trước khi bị giết ngày
26/9/1945.[16] Philippe Devillers cho rằng HCM đã biếu
Patti một số vàng lớn trích ra từ Tuần Lễ Vàng
[18-25/9/1945]. [17]
Tuy nhiên, HCM và rất nhiều người
không biết rằng các nhân viên OSS Mỹ được lệnh
phải hoàn toàn đứng ngoài cuộc tranh chấp quyền
lực tại Đông Dương. Ngày 16/9/1945, toán Thomas rời
Hà Nội. Các đoàn OSS cũng lục tục rời Việt Nam sau
ngày Truman ký nghị định giải tán tổ chức
này. Cái chết của Dewey, trưởng toán Embarkment,
có nhiệm vụ điều tra các tội phạm chiến tranh tại
phía Nam vĩ tuyến 16, khiến giao tình giữa HCM và
OSS phần nào bị suy giảm. Toán Embarkment tới Sài
Gòn ngày 2/9/1945.[18] Ngày Chủ Nhật, 30/9/1945,
hầu hết nhân viên OSS đều đã hồi hương. Ngày
11/10, Bộ trưởng Lục quân Mỹ George C. Marshall cũng thông
báo cho Pháp biết sẽ tập trung tất cả người Mỹ ở
Hà Nội, chờ di tản.
Phần Gallagher, cố vấn của Lư Hán, được
HCM chiếu cố đặc biệt. Ngay sau khi Gallagher vừa đến Hà Nội,
HCM đã đích thân tới chào mừng. Trong một
lá thư gửi Tướng Robert B. McClure, Phó Tư lệnh Lực lượng
Mỹ tại Trung Hoa, Gallagher thuật lại về buổi hội kiến này như
sau:
[HCM] đến thăm tôi và nồng nhiệt
chào mừng phái đoàn, tặng tôi một lá
cờ có tên tôi trên đó và
vài nhận xét về ‘nước Mỹ vĩ đại’, v.. v... HCM
nhìn về nước Mỹ như người cứu nạn của các quốc gia,
và mọi hành động của ông ta đều dựa trên lời
tuyên bố của bản Hiến chương Đại Tây Dương, rằng các
cường quốc sẽ bảo đảm nền độc lập cho các nước nhỏ. Dĩ
nhiên, chúng ta biết rằng Hiến chương trên chẳng
có chữ ký của ai cả.[19] Sự khéo léo
của HCM và thiện cảm của Gallagher với nền độc lập của Việt Nam
tạo nên một liên hệ khá chặt chẽ giữa hai người.
Trong buổi gặp mặt đầu tiên, Gallagher khuyên HCM ‘phải thu
được lòng tin cậy của Lư Hán [tức Tư lệnh đạo quân
Trung Hoa] và tìm cách liên hệ với ông
ta’.[20] Sau khi Patti rời Hà Nội vào cuối tháng
9/1945, Gallagher lại trở thành cố vấn của HCM. Tư liệu văn khố
cho thấy Gallagher đã chuyển các công điện của HCM
ra thế giới bên ngoài qua Tòa Đại sứ Mỹ ở
Trùng Khánh. Gallagher, theo một nguồn tin, còn
tham dự buổi họp thành lập Hội Hữu nghị Việt-Mỹ tại Hà
Nội vào tháng 10/1945, và trong dịp này
còn hát một bài hát tiếng Việt.[21]
Theo tài liệu Việt Nam, vào tháng 10/1945,
hội này gồm 500 người Việt, 20 người Mỹ [22]. David G. Marr
tìm thấy một bản Điều Lệ của Hội này tại Thư viện Quốc
Gia Pháp.
Tuy nhiên, liên hệ tốt giữa HCM
và các quan chức Mỹ tại chỗ không bảo đảm rằng
chính phủ Truman yểm trợ HCM. Gallagher phản ảnh: Cá
nhân tôi muốn người Việt được độc lập, nhưng dĩ
nhiên, chúng tôi chẳng có tiếng nói
nào về vấn đề này. Thật vậy, mặc dù sự hiện diện
của người Mỹ có thể phóng đại như là bằng chứng
HCM liên hệ thân thiết với Liên bang Mỹ, điều tối đa
mà các quan chức Mỹ tại chỗ có thể giúp HCM
là chuyển các điện tín tới Oat-shinh-tân hay
thủ đô một số nước, và giúp HCM sống còn
dưới chế độ quân quản của Trung Hoa.[23]
B. NỖ LỰC VẬN ĐỘNG MỸ THỪA NHẬN:
Từ tháng 4/1945, HCM đã bắt đầu
vận động xin được chính phủ Truman nhìn nhận. Tuy
nhiên, Patti đã nhấn mạnh với HCM rằng liên hệ giữa
hai người chỉ thuần túy có việc tình báo.
Qua tháng 8, khi vai trò HCM và Việt Minh
ngày một lên cao, HCM liên tục kêu gọi sự trợ
giúp của Liên bang Mỹ. Ngày 15/8, một đại diện
‘Đảng Quốc Gia’ của HCM tại Côn Minh tuyên bố như sau về Ủy
Ban Khởi Nghĩa Hà Nội: Ủy Ban Trung ương muốn người Mỹ biết
rõ rằng dân Đông Dương muốn được độc lập, và
hy vọng rằng nước Mỹ, như một nhà vô địch về dân
chủ, sẽ giúp Đông Dương được độc lập. . . Tóm lại,
dân Đông Dương muốn được hưởng tình trạng như
Phi-lip-pin trong một thời gian vô hạn định.[24]
Trong một buổi nói chuyện giữa HCM
và George M. Abbott ngày 11/9/1946 - tức ba ngày
trước khi ký Tạm ước 14/9/1946 ở Paris - HCM trực tiếp xin viện
trợ quân sự và kinh tế. HCM cũng nhắc đến vịnh Cam Ranh ở
Trung Bộ.[25] Cho tới tháng 12/1946, HCM tiếp tục xin viện trợ
Mỹ. Thứ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám [HMG]
còn xin thẳng với Trưởng Sở Đông Nam Á tại Bộ Ngoại
Giao Mỹ là Abbott L. Moffat, trong dịp Moffat đang viếng thăm
các nước Đông Nam Á, là nhờ Mỹ giúp
phát triển căn cứ Cam Ranh và can thiệp để Pháp
ngừng chiếm đóng toàn nước Việt Nam.[26]
Trong giai đoạn từ tháng 9/1945 tới
tháng 3/1946, HCM còn mở nhiều cánh cửa cho việc
phát triển liên hệ Việt-Mỹ. Ngoài việc thành
lập Hội Thân hữu Việt-Mỹ, HCM đề nghị gửi 50 sinh viên qua
Mỹ để thiết lập liên hệ văn hóa giữa hai nước -giống hệt
thủ thuật HCM đã sử dụng hai thập niên trước, với kết quả
là loạt cán bộ Cộng Sản đầu tiên huấn luyện tại
Mat-scơ-va.[27] Tuy nhiên, chính phủ Mỹ quyết định giữ
trung lập, không hề chính thức hồi đáp các
thỉnh nguyện thư của HCM. Oat-shinh-tân chỉ khuyến khích
hai phe Pháp và Việt Minh đạt một giải pháp
chính trị qua thương thuyết. Ngày 29/9/1945, Gallagher
khuyên HCM nên gửi một phái đoàn qua
Trùng Khánh, dù Tướng Marcel Alessandri, đại diện
Pháp ở phía Bắc vĩ tuyến 16, chỉ mời Việt Minh tham dự
với tư cách một đảng mà không phải một chính
quyền.[28] Ngay tới tháng 12/1946, Moffat còn
khuyên HMG nên tránh chiến tranh, đạt một thỏa ước
với Pháp.[29] Quyền Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson còn đề
nghị HCM nên tạm thời bỏ đòi hỏi trưng cầu dân
ý ở miền Nam để quyết định thể chế của Nam Kỳ.[30]
C. ĐƯỜNG DÂY LIÊN
HIỆP QUỐC:
Trong giai đoạn từ tháng 8/1945 tới
tháng 3/1946, HCM cũng tìm chính thống cho chế độ
qua các cơ quan Liên Hiệp Quốc. Một trong những thỉnh
nguyện thư đầu tiên của HCM liên quan đến vấn đề hội
viên của Ủy Ban Tư vấn Viễn Đông, nhóm họp ở
Oat-shinh-tân ngày 30/10/1945. Ngày 17/10, tức gần
hai tuần trước ngày Ủy Ban Tư vấn nhóm họp, HCM gửi cho
Truman một điện văn, chỉ trích việc nhận Pháp làm
hội viên. Theo HCM, ghế hội viên của Pháp thiếu căn
bản pháp lý cũng như thực tế. Việt Nam mới xứng
đáng làm hội viên theo đúng tinh thần Hiến
chương Đại Tây Dương, cũng như do thiện chí và lập
trường dân chủ.[31] Ủy Ban Tư vấn Viễn Đông gồm 9 nước: Mỹ,
Bri-tên, Pháp, Trung Hoa, Nu-zí-lân [New
Zealand], Hâu-lân [Holland], Phi-líp-pin,
Os-trá-li-a [Australia] và In-đi-a [India] Trong thư gửi
Ngoại trưởng Byrnes ngày 22/10/1945, HCM cũng trở lại vấn đề
này. Sau khi bác bỏ lập luận của Bri-tên và
Pháp về những gì diễn ra tại Đông Dương, HCM
yêu cầu cho một đại diện Việt Nam có mặt trong phiên
họp khai mạc để nói lên quan điểm của Việt Nam. HCM cũng
đề nghị Liên Hiệp Quốc gửi một phái đoàn qua
Đông Dương nghiên cứu tình hình, và
yêu cầu LHQ nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam.[32] Sau
khi chẳng nhận được hồi âm về kiến nghị của mình, HCM lại
gửi công điện cho Byrnes, khẳng quyết Pháp không
có quyền đại diện cho dân Việt Nam tại buổi Hội thảo về
Viễn Đông ở Oat-shinh-tân, và kêu gọi quốc tế
can thiệp để chấm dứt việc giết chóc tại Nam Việt Nam.[33]
Các viên chức Mỹ vẫn nghĩ rằng không nên
có hành động gì.[34] Ngoài việc kêu
gọi Liên Hiệp Quốc yểm trợ và nhìn nhận, HCM
còn lợi dụng cả Cơ quan Cứu trợ LHQ [UNRRA] để được sự
nhìn nhận trên thực tế chế độ VNDCCH. HCM khẩn thiết
kêu gọi cơ quan UNRRA lập tức yểm trợ để ngăn chặn nạn đói
tại miền Bắc.[35] Nhưng UNRRA thích làm việc với
Pháp hơn HCM.
D. PHẢN ĐỐI CUỘC TÁI
XÂM LĂNG CỦA PHÁP:
Trong tháng 10/1945, giữa lúc
quân Bri-tên, dưới danh nghĩa giải giới quân Nhật,
hướng dẫn quân Pháp đi chiếm đóng hầu hết
các tỉnh lỵ quan trọng ở phía Nam vĩ tuyến 16, HCM gửi
nhiều điện văn đến các cường quốc -đặc biệt là Mỹ,
Liên Xô và Trung Hoa- yêu cầu can thiệp.
Ngày 21/10/1945, John C. Vincent
công bố chính sách của Mỹ về Đông Dương
và Indonesia. Bài diễn văn này khéo
léo đến độ cả hai phe Pháp và VM đều ca ngợi. Thực
ra, chính phủ Mỹ, hoặc ít nữa một số viên chức
ngoại giao, tình báo và quân sự địa phương
vẫn đặc biệt lưu tâm đến tình hình Việt Nam.
Đã có những nỗ lực khuyến khích hai bên sớm
giải quyết dị biệt bằng đường lối thương thuyết.
Ngày 30/1/1946, chẳng hạn, Thiếu tướng
Gallagher, từng ở Hà Nội từ tháng 8 tới tháng
12/1945, thuyết trình về hiện trạng Đông Dương tại Bộ
Ngoại Giao. Tham dự có Tân Tổng Lãnh sự Charles S.
Reed, Woodruff Wallner, Vụ Tây Âu; Moffat và Richard
L. Sharp của Vụ Đông Nam Á. Theo Gallagher, thái độ
trung lập của Mỹ khiến cả Pháp lẫn Việt Minh đều thất vọng.
Sainteny cho Gallagher biết Pháp sẽ thành công
trong việc thương thuyết. HCM sẽ thủ diễn một vai trò quan trọng
trong những diễn biến ở Việt Nam.[36]
Ngày 28/1/1946, Ngoại trưởng Byrnes chỉ
thị cho Phó vụ trưởng Đông Nam Á Kenneth P. Landon,
lúc này đang ở Sài Gòn, ra Bắc và ở
lại đây bao lâu cũng được để báo cáo về hiện
trạng và diễn tiến cuộc thương thuyết Pháp-Việt Minh.
Theo Byrnes, d'Argenlieu tiết lộ là thương thuyết đã diễn
ra từ cuối tháng 11/1945, và có thể sẽ đạt được
thỏa ước vào cuối tháng 1/1946. Lại có tin cho
biết không hề có thương thuyết. Vẫn theo Byrnes, Linh
mục/Cao ủy Georges Thierry d'Argenlieu từng tiết lộ là có
thể cho Việt Nam tình trạng của Phi-li-pin [Philippines] trong
vòng 30 năm, sau đó trả độc lập. Công điện
này cũng thông báo là Lãnh sự Reed sẽ
tới Sài Gòn vào cuối tháng 2/1946.[37] Thực
tế, Reed tới Sài Gòn vào thượng tuần tháng
2/1946.
Vào tháng 1 và tháng
2/1946, sự kiên nhẫn của HCM bị bào mỏng dần. Đối diện
việc quân Pháp sẽ trở lại miền Bắc Việt Nam, HCM viết cho
Truman ngày 16/2/1946: Sự xâm lăng [của Pháp] đi
ngược lại những nguyên tắc công pháp quốc tế
và những lời hứa của Đồng Minh trong Thế Chiến. . . . Sự
xâm lăng của Pháp với một dân tộc hiếu hoà
là một đe dọa trực tiếp cho nền an ninh thế giới. Nó
hàm ý sự đồng lõa [complicity], hoặc ít
nữa, là mưu đồ [connivance] của những cường quốc dân chủ.
Liên Hiệp Quốc phải giữ lời hứa của mình. Liên Hiệp
Quốc phải can thiệp để ngưng ngay cuộc chiến bất công này,
và để chứng minh rằng họ muốn thực hiện trong thời bình
những nguyên tắc mà vì đó họ đã chiến
đấu trong thời chiến.[38]
Hai ngày sau, 18/2/1946, trong thỉnh
nguyện thư gửi bốn cường quốc Mỹ, Liên Xô, Bri-tên
và Trung Hoa, HCM kêu gọi sự can thiệp tức thời để trước
hết, ngăn chặn cuộc chiến tại Việt Nam và dàn xếp một
giải pháp công bằng; và, thứ hai, đưa vấn đề
Đông Dương ra trước Liên Hiệp Quốc. HCM kết thúc bản
thỉnh nguyện bằng tuyên bố dân tộc Việt ‘đã quyết
tâm chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống lại
sự tái thiết lập chế độ thực dân Pháp’.[39]
Các ‘đại cường dân chủ’ không
can thiệp cấp thời, mà có vẻ cũng chẳng coi trọng lời đe
dọa của HCM. Ngược lại, vì những lý do khác nhau,
tất cả đều coi Đông Dương là vấn đề nội bộ của
Pháp.
Hơn nữa, dĩ vãng Cộng Sản của HCM khiến
các viên chức Mỹ ngần ngại. Ngay đến cố vấn của HCM
là Gallagher cũng khó thể quay mặt trước thành
tích Cộng Sản của HCM. Một trong những báo cáo đầu
tiên của Gallagher ghi nhận HCM là ‘một tay cách
mạng lâu đời, một sản phẩm của Mat-scơ-va, một tên Cộng
Sản’.[40] Trước đó, ngày 22/8/1945, Giám đốc OSS
cùng một ý kiến: ‘The Viet Minh is 100% Communist Party,
with a membership of approximately 20% of the active political
element’.[41] Quan trọng hơn, giới ngoại giao Mỹ biết rõ
liên hệ với Quốc tế CS của HCM. Việc HCM chính thức giải
tán Đảng Cộng Sản Đông Dương ngày 11/11/1945
-hành động có một không hai trước ngày sụp
đổ của Đông Âu và Liên Xô trong thập
niên 1980- chưa đủ khiến các viên chức Mỹ xóa
bỏ thành kiến về HCM. Ngày 5/12/1946, chẳng hạn, trong
khi cho lệnh Moffatt ra Hà Nội gặp HCM, Quyền Ngoại trưởng
Acheson nhấn mạnh: Nhớ kỹ rằng HCM là một cán bộ QTCS,
và chưa có bằng chứng nào về việc HCM đã
cắt đứt liên hệ với Mat-scơ-va. . . và sự yểm trợ của Đảng
Cộng Sản Pháp mà HCM nhận được.[42] Trước đó gần
hai tháng, ngày 9/10/1946, Acheson từng yêu cầu
Tổng lãnh sự Reed ở Sài Gòn giải thích
ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh -cờ của
Liên đoàn chống Nhật của các sắc dân Malay
[Malayan Peoples Anti-Japanese Union, hay MPAJU] cũng màu
đỏ, 3 sao vàng [tượng trưng cho 3 sắc tộc ở Malaya][43]
Mặc dù không được đọc điện văn
trên trước khi gặp HCM tại Hà Nội, Moffat có vẻ
chia xẻ quan điểm trên. Vào giữa tháng 12/1946,
Moffat báo cáo lên Bộ Ngoại Giao Mỹ: [HCM]
nói tiếng Anh, nhưng tôi không hiểu rõ
ý nghĩa của những chữ HCM dùng. Tâm ý
chính của HCM là nụ cười và vẻ thân mật
‘Đừng ngại gì cả!’ -trùng hợp với quan điểm của một thiểu
số người Pháp có khả năng [khác với dư luận của
đám đông] rằng nhóm cầm đầu Việt Nam hiện nay đang
ở giai đoạn đầu là quốc gia, và sử dụng các thủ
thuật cùng kỷ luật đảng để thực hiện mục tiêu cuối
cùng; tình trạng một chế độ quốc gia như thế là
điều kiện cần để thực hiện một chế độ Cộng Sản, mà hiện tại vấn
đề thời gian chỉ là thứ yếu.[44]
Không kém quan trọng, ít nữa
cho tới trước khi áp dụng chính sách bài
Liên Xô tại Mỹ, là sự đồng thuận trong giới chức Mỹ
rằng người Việt thiếu khả năng tự quyết. Vào đầu năm 1946, khi
nói chuyện với Sharp thuộc Phòng Đông Nam Á
thuộc Bộ Ngoại giao, Gallagher bày tỏ quan điểm riêng rằng
mặc dù đòi hỏi độc lập lan tràn trong mọi giới,
‘người An-nam-mít chưa sẵn sàng để tự cai trị và
trong cuộc chen vai với những nước khác, họ sẽ thua’.[45]
Cách nào đi nữa, diễn đàn
quốc tế hoàn toàn đóng cửa với HCM. Vì sự
sinh tồn của chính chế độ và đảng CSĐD, HCM phải đương
đầu với các thế lực trong nội địa Việt Nam. Mặc dù
quân Pháp đã bắt đầu cuộc tái xâm lăng
miền Nam từ tháng 9/1945, và dân quân miền
Nam đã phất cờ kháng chiến sau ngày quân
Bri-tên yểm trợ cho Pháp cướp chính quyền ở
Sài Gòn ngày 22-23/9/1945, đối tượng ngoại giao
khẩn cấp và trực tiếp của HCM là Lư Hán và
hơn 155,000 quân Tưởng Giới Thạch tại phía Bắc vĩ tuyến 16.
II. HỒ
CHÍ MINH VÀ QUÂN TRUNG HOA:
Không rõ vào dịp nào
HCM được biết tin quân Tưởng Giới Thạch sẽ chiếm đóng miền
Bắc Đông Dương. Chỉ biết ngày 26/8/1945 -đúng
ngày HCM về tới Hà Nội, và hai ngày trước
khi Thạch công bố chính sách chiếm đóng-
Patti cho VNG, và rồi HCM biết sự thực này. [46]
Hôm sau, Sainteny cũng báo cho VNG và Dương Đức
Hiền biết tin trên, với sự hiện diện của Patti.[47] VNG
không nhắc đến chi tiết này. HCM và các
thuộc hạ rất bối rối. Sự chiếm đóng của quân Trung Hoa sẽ
tạo nên những khó khăn muôn mặt. Trái ngược
với dư luận và những lời đồn đãi, quan tướng Trung Hoa
biết rất rõ về HCM và mặt trận Việt Minh. Họ đã
từng cầm tù HCM hơn một năm vì tội nhập cảnh bất hợp
pháp, tình nghi Cộng Sản, và vì các
cán bộ của HCM tìm cách phá hoại việc
thành lập các đơn vị tiền tiêu Việt kiều trong kế
hoạch Hoa quân Nhập Việt. Năm 1943, quan tướng Trung Hoa trả tự
do cho HCM, có lẽ vì áp lực Mỹ. Một số Tướng Trung
Hoa tại địa phương, đặc biệt là Trung tướng Tiêu Văn, vốn
không ưa HCM. Thêm vào đó, quân Trung
Hoa sẽ mang về nội địa nhiều tổ chức Việt kiều ở Hoa Nam. Ngoài
hai nhóm nhỏ liên hệ với Đảng CSĐD bên cạnh Chỉ đạo
thất Việt Cách tại Đệ tứ Quân khu [sau đổi thành Đệ
nhất phương diện quân của Trương Phát Khuê], đa số
Việt kiều này cũng chống Cộng hăng say như chống Pháp.
Việt Cách [hay Đồng Minh Hội] là
tổ chức do quan tướng Trung Hoa lập nên từ mùa Thu 1944,
để chuẩn bị cho chiến dịch ‘Hoa quân nhập Việt’ dưới quyền
Tiêu Văn. Tham gia tổ chức này có nhiều nhân
vật tên tuổi ở Hoa Nam như Trương Bội Công [Nguyễn Văn
Chiêu][TBC], Nguyễn Hải Thần[NHT], Vũ Hồng Khanh[VHK], Trương
Trung Phụng, Hoàng Lương, Lê Tùng Sơn [LTS], Bồ
Xuân Luật[BXL], Vũ Kim Thành[VKT], Lương Văn Ý v..
v... Chính HCM cũng là một ủy viên dự khuyết của
Ban Hành Động, và được Văn cho mang 18 cán bộ Việt
Cách [kể cả ‘chị Thuần’ Đỗ Thị Lạc] về nước vào
tháng 9/1944. Tuy nhiên, HCM móc nối được với cơ
quan OSS, và sau tháng 3/1945, làm việc trực tiếp
với OSS dưới bí danh ‘Lucius’. Cho rằng sau khi HCM bắt được
chân cẳng Mỹ không còn kính trọng mình
nữa, Tiêu Văn đã có lần nhắn tin đe dọa sẽ bắt sống
HCM và tiêu diệt Việt Minh.
Tổ chức Việt Cách -ít nhất
trên danh nghĩa dưới sự lãnh đạo của NHT, một nhà
cách mạng đã qua Trung Hoa từ đầu thế kỷ XX, và bị
Pháp kết án tử hình năm 1913 do những hành
động chống Pháp -có một lực lượng quân sự
khá mạnh. Mùa Hè 1945, Việt Cách có
khoảng 500-600 người, với 150 súng. Vào tháng
6/1945, tại Bảo Lạc có 200 binh sĩ Việt Cách, 600
lính đào ngũ của toán Sénégalais, do
Thượng sĩ Loung, thuộc đại đội 11, Tiểu đoàn 9 Cao Bằng chỉ huy.
Tại Pan Cra có 200 quân; và giữa Bảo Lạc-Pan Cra
có 500 dọc theo biên giới. Trong mùa Hè
1945, lực lượng Việt Cách cũng từng hoạt động phá hoại
vùng biên giới Đông Bắc.[48] Phần tổ chức VNQDĐ hải
ngoại được Trung Hoa Quốc Dân Đảng bảo trợ, và sử dụng như
những toán tiền tiêu của các đơn vị Vân Nam.
Trong số các lãnh tụ có VHK, Nghiêm Kế Tổ,
Chu Bá Phượng, NTT v.. v... Lực lượng VNQDĐ có khoảng
2,000 tay súng.
Bất kể sức mạnh của các tổ chức
này ra sao, họ sẽ tạo nhiều rắc rối cho HCM. Tháng
8/1945, Vũ Kim Thành đã về tới Móng Cáy.
Sau đó, khi Việt Minh tuyên bố thành lập
chính phủ, Thành cũng lập một chính phủ lâm
thời, với TBC phụ trách Quân sự vụ; NHT làm
Bí thư; Hoàng Lương, Ngoại vụ; và Nông
Kính Giu, Tài chính.[1A] Vài ngày
sau, NHT cùng Nông Quốc Long mang quân vào
Lạng Sơn. Long là một thổ hào Nùng, từng chạy qua
Hoa Nam sau cuộc nổi dạy năm 1940. Việt Minh cố chống cự, nhưng cuối
cùng phải rút lui.[49]
Trong khi NHT xuôi Hà Nội để gặp Lư
Hán để xin ủng hộ cũng như tiếp xúc các phe
phái trong nước, đặc biệt là các tổ chức Đại Việt
và thanh niên thân Nhật đã bị Việt Minh giải
tán, đặt ra ngoài vòng pháp luật và
tận tình truy diệt, NQL đóng quân ở Kỳ Lừa, một
quận lỵ nhỏ gần biên giới. Tuy nhiên, một số lãnh tụ
Việt Cách thực ra là cán bộ Cộng Sản, như Hồ Đức
Thành, hoặc đã bí mật ngả theo Cộng Sản như
Lê Tùng Sơn và BXL. Sơn, một lãnh tụ trung
ủy Việt Cách, trên thực tế hành xử như một
cán bộ ‘ngoại giao’ giữa Việt Minh và các lực
lượng của Tiêu Văn. Phía Tây Bắc, lực lượng
võ trang Việt Quốc của VHK và NTT theo Quân
đoàn 93 Vân Nam nhập Việt qua ngả Lào Kay.[2A]
Họ chiếm một số thị xã như Lào Kai, Cốc Lếu,
Yên Bái, Phú Thọ, Việt Trì, Bạch Hạc, Vĩnh
Yên, Vĩnh Phú v.. v... Vì tình trạng ngập
lụt, đạo quân Vân Nam di chuyển chậm chạp như một
đoàn châu chấu khổng lồ. Ngoài ra, các đơn
vị Việt Quốc nhiều lần chạm súng với Việt Minh. Mãi tới
giữa tháng 10/1945, mới về tới Hà Nội. Vào thời
điểm này, hầu hết đồng chí của họ trong nội địa đã
bị các ‘đội danh dự’ của VNG tiêu diệt hay xử tử trước
những ‘tòa án nhân dân’ với bản án
‘Việt gian’. [3A] Hàng ngàn người khác bị bắt giữ
và an trí. Nguy hiểm hơn nữa cho chế độ HCM là
quan điểm của quan tướng Trung Hoa đối với Việt Minh. Trong khi ra
nghiêm lệnh cấm các quan tướng không được mở bất cứ
liên hệ chính thức nào với chế độ HCM[50].
Thạch tảng lờ mọi thỉnh nguyện của HCM, kể cả việc xin cử một
phái đoàn thân hữu qua thăm Trùng
Khánh[51]. Mãi tới tháng 3/1946, Thạch mới cho
phép một phái đoàn Việt Nam qua thăm Nam kinh, do
Nghiêm Kế Tổ cầm đầu và lời kêu gọi Trung Hoa can
thiệp để ngăn chặn việc Pháp xâm lăng Nam Việt Nam.[52]
Đối với chính phủ Việt Minh, Hội đồng
Quân quản Trung ương Trung Hoa không nhìn nhận;
nhưng vẫn sử dụng nó như một công cụ hành
chính để thu góp chiến lợi phẩm.
Vì quan tướng Trung Hoa nắm toàn
quyền chỉ huy tại các tỉnh quan trọng miền Bắc, bất cứ buổi hội
họp hay biểu tình nào phải xin giấy phép trước.
HCM và các bộ trưởng phải có giấy phép đi
đường do Ban Cảnh vệ Trung Hoa cấp. Ngay đến Bộ trưởng Nội vụ VNG từng
bị câu lưu vài giờ trên đường đi ra Hà
Đông.[53] Tháng 11/1945, Tướng Chu Phúc
Thành, Tư lệnh Lộ quân 53 Trung ương, từng tra vấn HCM gần
một ngày về việc ám sát một Pháp kiều tại
Hà Nội. Sau khi phóng thích HCM, Thành cho
lệnh câu lưu tài xế và tạm giữ xe của HCM.[54]
Sự dọa nạt của quan Tướng Trung Hoa trầm trọng đến độ đêm
nào HCM cũng phải thay chỗ ở.[55] Là một tay
lão luyện về nghệ thuật mưu sinh thoát hiểm, HCM mau
chóng thay đổi ‘đường kách mệnh’ để làm vui
lòng quan tướng Trung Hoa. Ba thập niên sau, VNG ghi nhận:
Với Bác, chân lý cách mạng là cụ thể.
Vận động sách lược, cũng là cụ thể. Tuy tất cả bọn Tưởng
đều là những tên phản động, nhưng với từng đối tượng cụ
thể, ta cần có cách đối xử cụ thể. . . [56]
Nói một cách vắn tắt, theo VNG,
chiến lược chung của HCM là tránh đụng chạm với quan
tướng Trung Hoa bằng mọi giá.[57] Trong khi đó, HCM cũng
thực hiện một chính sách thực tế và sáng
tạo hơn là hối lộ quan tướng Trung Hoa về cả hai mặt tinh thần
cũng như vật chất. Với những Tướng nhiều uy quyền, đặc biệt là
Lư Hán và Tiêu Văn, cố vấn chính trị của
Hán, HCM đích thân đến chào và xin
chỉ thị, cùng làm cho đầu họ to hơn với những lời ca ngợi
Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên.[58] Ngoài
ra HCM còn khiến ngay cả VNG cũng phải sửng sốt khi thấy HCM
quen biết các quan cấp nhỏ Trung Hoa, nhờ họ mua chuộc
các cấp chỉ huy cần hối lộ.[59] Để có tiền hối lộ
các quan Tướng Trung Hoa, HCM phát động nhiều chiến dịch
quyên góp tiền bạc qua các Quỹ Độc Lập, Tuần lễ
vàng, Tuần lễ Văn hóa, Quĩ Kháng Chiến v... v...
Một số không nhỏ tiền và quí kim này
-lên tới khoảng 20 triệu đồng và 375 [370] cân
Tây vàng [60]- cuối cùng lọt vào tay quan
Tướng Trung Hoa. Nhờ vậy, HCM và chính phủ Việt Minh qua
được nhiều cơn sóng gió. Ngay đến Tiêu Văn cũng ra
sức bênh vực HCM [61], yêu cầu cho một phái
đoàn Việt Nam qua thăm Trùng Khánh [62]. Theo một
tác giả Pháp, HCM biếu Lư Hán cả một bộ bàn
đèn hút thuốc phiện bằng vàng.[63]
Không những chỉ tự do bóc lột tiền
bạc, quí kim, gạo và thuốc phiện, quan Tướng Trung Hoa
còn dàn xếp việc thành lập một chính phủ
liên hiệp giữa HCM với các lãnh tụ lưu vong mới hồi
hương. Từ trung tuần tháng 9/1945 đã có tin đồn ở
Hà Nội về việc thành lập một chính phủ liên
hiệp, thân Trung Hoa. Theo những tin đồn này, NHT sẽ
làm Chủ tịch và HCM làm Phó.[64]
Hàng rào ngăn cản là lập
trường khác biệt giữa hai phe Cộng Sản và chống Cộng,
mà sự hiềm khích đã hiển lộ tại Trung Hoa từ đầu
thập niên 1940, nếu không phải sớm hơn. Việc chế độ HCM
ám sát, thủ tiêu và bắt giữ hàng
ngàn người không Cộng Sản, đặc biệt là đảng
viên Đại Việt và Việt Quốc, tạo nên một cuộc nội
chiến sắt máu tại các vùng nông thôn
và không khí ngột ngạt tại các thành
phố và tỉnh lỵ. Cả hai tổ chức Việt Cách của NHT,
và Việt Quốc của VHK-NTT [tức liên minh Việt Quốc
và Đại Việt] công khai tố cáo gốc gác Cộng
Sản của HCM. Việt Nam Thời Báo, cơ quan ngôn luận của Việt
Quốc, và các báo tư nhân ấn hành sau
tháng 10/1945 công khai đả kích HCM.[65] Từ
khu tự trị Ngũ Xã [tây bắc Hà Nội], những cuộc đấu
khẩu bằng loa phóng thanh ra rả ngày đêm.
Và, dĩ nhiên, cũng có những cuộc biểu tình,
ẩu đả, bắt cóc hầu như mỗi ngày. Sự chống đối của phe
không Cộng Sản mạnh mẽ đến độ HCM không thể tổ chức được
cuộc bầu cử Quốc Hội vào ngày 8/11/1945 như đã hứa
hẹn.[66]
Bị dồn vào thế tiến thoái lưỡng
nan, HCM tung ra một thủ thuật cực kỳ độc đáo: Ngày
5/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSĐD ‘nghị quyết tự
động giải tán Đảng... Những tín đồ của chủ nghĩa CS muốn
tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập Hội
Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Marx] ở Đông
Dương.’ Trường Chinh được cử làm Tổng Thư ký Hội
Nghiên Cứu CNMKT này.[67] Mục đích của
việc này, theo HCM, là đánh tan tất cả những sự
hiểu lầm, ở ngoại quốc cũng như trong nước, có thể khiến cản trở
việc giải phóng tổ quốc.
Thực ra, đây chỉ là màn kịch
của HCM. Từ tháng 10/1945, tất cả các cán bộ Đảng
CSĐD đã được lệnh rút vào bóng tối. Cơ quan
ngôn luận của Đảng CS, tờ Cờ Giải Phóng, được cải danh
thành tờ Sự Thật. Việc giải tán Đảng CS, bởi thế, được
diễn giải như nhắm vào dư luận đám đông, làm
hài lòng các quan tướng Trung Hoa cùng thế
giới. Việc làm của HCM được các quan tướng Trung Hoa
đón nhận nồng nhiệt. Trong những ngày kế tiếp,
nhóm Thiều Bá Xương, Tiêu Văn và rồi Chu
Phúc Thành đứng ra hòa giải giữa HCM và
các đối thủ. Tuy nhiên, HCM phải tạm hoãn cuộc bầu
cử Quốc Hội đến hai lần vì mãi tới ngày 24/12, sau
nhiều đợt thương thảo, HCM và hai phe Việt Cách, Việt
Quốc mới đạt được một thỏa hiệp. Mặt khác, sau khi Thạch
chính thức đồng ý trao trả Bắc Đông Dương cho
Pháp, quan Tướng Trung Hoa còn khuyến khích HCM
phải thương thuyết với Pháp về việc cho phép Pháp
thay thế quân Trung Hoa tại Bắc Đông Dương.
III. THƯƠNG THUYẾT VỚI
PHÁP:
Từ mùa Hè 1945 đã có
những dàn xếp cho Pháp và Việt Minh thương thuyết,
nhưng không thành công.[68] Ngày 25/7,
HCM lại nhờ tình báo Mỹ làm trung gian để
nói chuyện với một nhân vật cao cấp của Pháp. Thiếu
tá Thomas, người cầm đầu Đoàn Con Nai của OSS Mỹ chuyển
ý kiến này về Bách-sắc [Quảng Tây].
Toán AGAS cũng chuyển ý kiến của HCM sang Côn Minh
[Vân Nam].[69] Theo Jean Sainteny, người chỉ huy lực lượng M-5
tại Hoa Nam, thời gian này Việt Minh đồng ý chấp nhận sự
trở lại của Pháp, với điều kiện ‘được độc lập trong vòng
từ 5 tới 10 năm’.[70]
Sau khi Việt Minh giành được chính
quyền, ngày 27/8, Đại úy OSS Patti đã giới thiệu
Sainteny với VNG và Dương Đức Hiền; và chính
Sainteny đã báo cho hai người này biết quyết định
của tam cường tại Potsdam là sẽ chia Đông Dương làm
hai vùng chiếm đóng.[71] Phần HCM chỉ trực tiếp gặp
các đại diện Pháp tại Hà Nội từ hạ tuần
tháng 9/1945, tức gần một tuần lễ sau ngày Pháp
tái chiếm Sài Gòn. Ngày 28/9 -đúng
ngày lễ giải giới Nhật tại Hà-nội- HCM tiếp Tướng
Alessandri cùng Pignon.[72]
Sau đó, Alessandri và Pignon
bí mật thương thuyết với HMG. Từ ngày 15/10, giữa
lúc đường phố Hà Nội như dầu sôi lửa bỏng vì
tin quân Pháp đổ bộ ở miền Nam, và tin đồn về
ám sát, hành hung loan truyền, Sainteny mới
chính thức mật đàm với HCM.[73] Tuy nhiên, những
cuộc mật đàm này không đưa đến kết quả mong muốn.
Có nhiều lý do. Trước hết, lập trường HCM đã thay
đổi, cứng rắn hơn. HCM đòi hỏi Việt Nam phải được độc lập,
và thống nhất lãnh thổ. Những điều kiện trên được
bạch hoá trong buổi họp báo tại Hà Nội ngày
Thứ Bảy, 20/10/1945. Dịp này, HCM nhấn mạnh: Pháp phải
thừa nhận nền độc lập của Việt Nam, bằng không thì
không thể nói chuyện gì được cả.[74]
Phía Pháp, vì de Gaulle vẫn
đặt quân sự lên ưu tiên hàng đầu, các
đại diện của Paris muốn ‘mua thời gian’. Theo họ, Việt Minh chỉ
là một trong những đảng phái cách mạng tại Việt
Nam, và chính phủ Pháp muốn ký hiệp ước với
một chính phủ đại diện mọi thành phần, khuynh hướng. Cũng
với mục đích làm suy yếu Việt Minh, và đặt để
những thành phần thân Trung Hoa vào chính
quyền, nhóm Thiều Bá Xương, Tiêu Văn và rồi
Chu Phúc Thành không ngừng áp lực HCM phải
liên hiệp -hoà giải, hoà hợp - với các lực
lượng không Cộng Sản, đại biểu bằng Việt Nam Cách Mệnh
Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng [VNQDĐ], mới theo
các toán quân chiếm đóng hồi hương. Mặt
khác, quan Tướng Trung Hoa khuyến khích HCM phải thương
thuyết với Pháp về việc cho phép Pháp thay thế
quân Trung Hoa tại Bắc Đông Dương.
Thời gian này, chiến cuộc Nam bộ
đang bùng nổ dữ dội. Ngày 23/10, chẳng hạn, Cứu Quốc, cơ
quan tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh, đi tin 4 cột trang nhất:
‘Chiến sự tại Nam Bộ; Quân ta đương thực hiện khẩu hiệu: Đốt
Sài Gòn ra tro.’[75] Cũng ngày này, HCM
công bố quyết định chọn ngày 5/11/1945 làm
Ngày Kháng chiến Toàn quốc. Trong khi đó,
bạo động diễn ra trên đường phố, vì Ủy ban Hoa kiều treo
cờ Liên Hiệp Quốc, kể cả cờ Pháp, trước một rạp hát
để chào đón quan tướng Trung Hoa mà không
treo cờ Việt Minh. Đám đông xé cờ Pháp, tấn
công Pháp kiều, giết chết 2 sĩ quan Pháp lận
súng ngắn trong người.[76]
Đầu tháng 11/1945, không khí
Hà Nội ngày thêm bốc lửa. Tin đồn về đình
công, bãi thị, hành hung hay bắn giết Pháp
kiều ngày một gia tăng. Quan tướng Trung Hoa phải cho lệnh bắt
giữ cả Trưởng Ty Công An Việt Minh tại Hà Nội. Ngày
3/11, Việt Minh đề nghị nói chuyện với Pháp về vấn đề an
ninh, trật tự ở thủ đô.[77] Qua những cuộc thương thuyết
này, ngày 25/11, d'Argenlieu có thể tuyên bố
với một viên chức cao cấp Mỹ là ‘những cuộc thương thuyết
với dân An-nam-mít để giải quyết những dị biệt tiến triển
rất khả quan, và chúng tôi đã hứa
không xét xử những lãnh tụ An-nam-mít như
tội phạm chiến tranh’.[78] Đầu tháng 12/1945, do sự
dàn xếp của HMG, HCM, VNG và HMG gặp Sainteny, Salan
và Pignon tại Hà Nội, mở đầu một đợt mật đàm
mới.[79]
Thái độ HCM lúc này mềm dẻo
hơn. Ngày 4/12, HMG thúc dục Pignon nên thương thảo
càng nhanh càng tốt, và tiết lộ là HCM muốn
gặp d'Argenlieu. Ngày 7/12, Pignon bí mật giao cho HMG
một bản dự thảo Hiệp ước.[80]
Qua ngày Thứ Bảy 8/12, HMG yêu cầu
gặp Pignon hôm sau; và tiết lộ chính phủ HCM sợ
quân Trung Hoa làm đảo chính.[81] Trong buổi
gặp mặt ngày 9/12 này, HMG tâm sự với Pignon rằng
đây có lẽ là lần cuối cùng mình
thương thuyết với Pháp, vì một chính phủ
Liên Hiệp sẽ thành lập trong một tương lai gần. Một tuần
sau, ngày 16/12, Pignon vào Sài Gòn gặp
d'Argenlieu, báo cáo kết quả những cuộc mật đàm
với HMG. D'Argenlieu đồng ý gặp HCM trên chiến hạm
Richelieu ngoài khơi Đồ Sơn trước cuối tháng 12/1945. Tuy
nhiên, cuộc gặp mặt này không thực hiện được
vì Sainteny sợ Tướng Trung Hoa ngăn cản.[82] Ngày
16/10/1945, Sainteny từng bị lính Trung Hoa bắt giữ ít
giờ; nhưng sau đó được tha do sự can thiệp của Mỹ[83]. Hơn
nữa, tại Paris, giới quân sự khẳng quyết rằng ngoại trừ có
một biến cố đặc biệt nào, vào khoảng đầu Xuân 1946,
quân lực Pháp có thể làm chủ tình
hình Đông Dương [84]. Thời gian này, tưởng cũng
nên thêm, cả Paris lẫn Sài Gòn đều bắt đầu
nghĩ đến việc tìm ‘một nhân vật mới’ có thể dễ thỏa
hiệp hơn HCM. Nhưng khi Paul Mus, đặc sứ của d'Argenlieu về Paris,
‘nhân vật mới’ trên, tức Hoàng tử Vĩnh San
[1900-1945], ‘đã tan biến như một giấc mơ đẹp’. Quan trọng hơn,
ngày 20/1/1946, lãnh tụ lớn của nhóm Gaullist bỗng
đột ngột từ chức. Cùng ra đi với de Gaulle là
chính sách luật kẻ mạnh. Cuối tháng 1/1946, sau
khi chính phủ Félix Gouin thành lập, có sự
thay đổi đáng kể trong chính sách Đông Dương
của Pháp. D'Argenlieu được lệnh phải xúc tiến nhanh việc
thương thuyết. Phía HCM, thời gian này cũng bận rộn
vì sự dàn xếp một chính phủ liên hiệp để
có thể tổ chức bầu cử Quốc Hội như đã loan báo,
và thiết lập vị thế pháp lý hầu thảo luận với
Pháp.
A.
CHÍNH
PHỦ
LIÊN
HIỆP
-
BẦU
CỬ
QUỐC HỘI:
Để bảo đảm sự hợp pháp của chính
phủ VNDCCH, từ ngày Thứ Bảy, 8/9/1945, HCM ký sắc lệnh số
14, quyết định tổ chức bầu ‘Quốc dân đại biểu đại hội’ trong
vòng 60 ngày.[85] Ngày 26/9, HCM lại ký sắc
lệnh số 39, thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử.
Nhưng sau đó, phải dời ngày bầu cử tới 23/12/1945.
Cả Pháp lẫn Trung Hoa đều tìm
cách ngăn chặn việc tổ chức bầu cử chỉ có phần
hình thức này. Do nhu cầu sinh tồn, từ tháng
10/1945, Việt Minh phải thương thuyết với Việt Cách và
VNQDĐ về việc thành lập một chính phủ liên hiệp hầu
có thể tổ chức bầu cử Quốc Hội như đã dự trù.
Ngày 23/10, đúng ngày HCM chọn ngày
5/11/1945 làm ngày Kháng chiến Toàn quốc,
phe HCM tung tin hai phe Việt Minh và Đồng Minh Hội ký
thỏa ước hợp tác lần thứ nhất. Tuy nhiên, đây chỉ
là một màn kịch do VNG và LTS chủ trương.[4A]
Ít ngày sau, VKT rút chân khỏi Hội
liên tịch Đồng Minh Hội và Việt Minh.
Những cuộc bạo động và công
kích trên báo chí giữa Việt Minh và
phe VNQDĐ -Đồng Minh Hội diễn ra hàng ngày. Tại Hà
Nội, phe VNQDĐ -Đồng Minh Hội thành lập được một khu vực tự trị
tại vùng Quan thánh/Ngũ xã, mở trận chiến phản
tuyên truyền chống Việt Minh, tố cáo gốc gác Cộng
Sản của HCM cùng các tay chân thân
tín. Các toán cảm tử VNQDĐ còn ám
sát ‘Ba’ [Đại úy] Viên, một ‘đảng viên’ phản
bội, và mưu sát BXL. Trương Trung Phụng, người cầm đầu
Đồng Minh Hội, cũng bị bắt cóc, nhưng sau đó Tiêu
Văn can thiệp phải thả. Một vài cán bộ Cộng Sản, như Trần
Đình Long -tốt nghiệp Đại học Đông phương [KUTV]
Mat-scơ-va cùng thời với Litvinov Doãn và được
bí mật cử làm người thay Litvinov Doãn trong thời
gian tái tổ chức Đảng CSĐD vào đầu thập niên 1930,
nếu có chuyện bất trắc, lúc ấy đang hoạt động dưới danh
nghĩa Đảng Dân Chủ -bị thủ tiêu. Có lần, phe VNQDĐ
còn bắt cóc được cả VNG.
Theo VNG, trong tháng 11/1945, Tướng Chu
Phúc Thành, Tư lệnh Quân đoàn 53 Trung ương
ở Hà Nội, cũng đã hỏi cung HCM gần một ngày về
cái chết của một người Pháp. Cuối cùng, HCM được
tha, nhưng tài xế và xe riêng bị giữ lại.[86]
Phần LTS cũng bị bắt giữ. Không rõ chi tiết
này có trùng hợp với tin HCM bị bắt ngày
2/2/1946, sau cái chết của Beylin ngày 9/1/1946 hay
chăng]
Để đối phó với những lời tố cáo
Việt Minh là Cộng Sản, từ tháng 9/1945, Trung ương Đảng
CSĐD cho lệnh các đảng viên phải rút vào
bí mật. Rồi, như đã lược nhắc, ngày 5/11/1945, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng CSĐD ‘nghị quyết tự động giải
tán’, hiệu lực từ ngày 11/11/1945.[87] Dưới áp lực
của Tiêu Văn, ngày 24/11, ba phe Việt Minh, Việt
Cách và VNQDĐ ký một thoả ước liên hiệp,
nhưng sớm đổ vỡ.[88] Tại Hà Nội và các địa phương,
phe Việt Minh và các đảng phái khác
tìm đủ cách triệt hạ nhau. Ngày 10/12, chẳng hạn,
Việt Minh tấn công một số căn cứ của VNQDĐ tại Vĩnh Yên.
Phe Đồng Minh Hội cũng chia làm hai. Trương Trung Phụng tiếp tục
hợp tác với HCM; trong khi phe NHT chống đối. Theo Thiều
Bá Xương, sở dĩ việc thương thuyết liên hiệp bị bế tắc
vì phe không Cộng Sản đòi ghế Chủ tịch và 6
ghế Bộ trưởng. HCM thì chỉ chịu nhường 3 ghế Bộ trưởng và
một ủy ban Cố vấn.[89] Do nỗ lực của Tiêu Văn, ngày
19/12, ba phe lại gặp nhau tại Bộ Tư lệnh quân Trung Hoa. Rồi
ngày 24/12, ký một thoả ước ‘hợp tác tinh
thành’ khác tại số 40 Đại lộ Gia Long, dưới sự chủ tọa
của Văn. Thỏa ước này gồm 18 điểm, có những điểm
chính sau:
1. Thành lập ngày 1/1/1946 một
chính phủ liên hiệp với 10 bộ, do HCM làm Chủ tịch,
NHT làm phó. Số ghế được chia 2 ghế cho VM, 2 cho VNQDĐ,
2 cho Đảng Dân Chủ, 2 cho Đồng Minh Hội, 2 cho độc lập.
2. Tổ chức bầu cử ngày 6/1/1946.
3. VNQDĐ được dành 50 ghế, ĐMH, 20 ghế.
4. Các đảng tự nguyện không
gây hấn với nhau.[5A]
Hai ngày sau, 26/12, báo
chí thủ đô đều đăng thông cáo ‘Đoàn
Kết’ của HCM, NHT, và VHK. Nguyên văn thông
cáo này như sau:
Ngày 24-12-1945, chúng tôi
là Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh
thay mặt cho Việt Minh, Quốc Dân Đảng và Cách Mệnh
Đồng Minh Hội, cùng ký tên công nhận những
điều ước sau đây:
1. Độc lập trên hết, đoàn kết
trên hết. Căn cứ vào thái độ thân ái,
tinh thành cùng nhau thảo luận để giải quyết hết thẩy
những vấn đề khó khăn trước mắt. Ai dùng ngang vũ lực
gây nên những cuộc nội loạn sẽ bị quốc dân ruồng bỏ.
2. Kể từ ngày 25-12-1945, đôi
bên phải ủng hộ một cách thiết thực cuộc tổng tuyển cử,
quốc hội và kháng chiến.
3. Bắt đầu từ ngày 25-12-1945, đôi
bên đều đình chỉ hết thẩy những việc công
kích nhau bằng ngôn luận và hành động.
Ký tên: Hồ Chí Minh, Nguyễn
Hải Thần và Vũ Hồng Khanh.[90]
Ngày 26/12, trong một buổi họp
báo, HCM chính thức tuyên bố là từ
ngày 1/1/1946, chính phủ lâm thời sẽ mở rộng, nhưng
chỉ có 10 bộ. VNQDĐ sẽ nắm hai bộ Kinh tế Quốc Gia và Vệ
Sinh. Riêng Quốc Hội sẽ được bầu vào ngày 6/1/1946.
Số nghị sĩ trong Quốc Hội sắp tới sẽ dành riêng 70 ghế cho
phe Quốc Dân Đảng.[91]
Đúng ngày 1/1/1946,
chính phủ Liên Hiệp lâm thời ra mắt tại Nhà
Hát lớn, Hà Nội. HCM vẫn giữ chức Chủ tịch; với NHT
làm Phó. VNG mất chức Bộ trưởng Nội Vụ, nhưng được cử
làm Chủ tịch Hội đồng Quốc Phòng, với VHK [VNQDĐ]
và VKT [ĐMH] là hai trong những thành viên.
Năm ngày sau, cuộc bầu cử Quốc Hội đầu tiên của Việt Nam
được tổ chức. Trong số 356 ghế dân biểu, như đã dàn
xếp sẵn, Việt Cách [tức Đồng Minh Hội] và VNQDĐ được
dành riêng 70 ghế, và Nam Bộ 18 ghế.
Gần hai tháng sau, ngày 23/2, ba
phe VM, VNQDĐ và Việt Cách lại đồng ý đổi
tên Chính phủ Lâm thời thành Chính phủ
Liên Hiệp Kháng Chiến. Hai bộ Canh Nông và
Công Chính dành cho miền Nam. Bộ Quốc Phòng
và Nội Vụ dành cho người trung lập [Phan Anh và
Huỳnh Thúc Kháng]. Việt Minh và Đảng Dân Chủ
được 4 bộ; VNQDĐ và Việt Cách 4 bộ còn lại. Hội
Đồng Quốc Phòng được cải danh thành Ủy ban Kháng
Chiến Toàn quốc. Đoàn Cố vấn quốc gia thì
ngoài Vĩnh Thụy có thêm Lê Hữu Từ,
Giám mục Ki-tô Phát Diệm.[92] Theo VNG, HCM
đã bàn về việc thành lập chính phủ
Liên Hiệp này với Tiêu Văn; vì các
đảng phái chống đối. Cuối cùng, hai bên đồng
ý thành lập một chính phủ Liên Hiệp
Kháng Chiến gồm 10 bộ[93]
Ngày Thứ Bảy, 2/3/1946, Quốc Hội Việt Nam
chính thức khai mạc. Ngày này, chính phủ
HCM từ chức. Quốc Hội ủy HCM thành lập chính phủ mới. Nửa
giờ sau, HCM công bố danh sách ‘Chính Phủ
Liên Hiệp Kháng Chiến’ đã được bí mật
dàn xếp từ trước.[6A]
Ngày Thứ Hai, 4/3, chính phủ
Liên hiệp Kháng chiến họp lần đầu tiên. Tuy
nhiên, NHT vắng mặt. NTT cũng chưa chịu nhận chức. [HCM tiết lộ
với Sainteny ngày 1/3 là NTT đã nhận lời thay
mình nắm chức Bộ trưởng Ngoại Giao[94] Tuy nhiên, NTT chỉ
nhậm chức ngày 12/3/1946[95] Trong khi đó, tin đồn NHT,
và rồi Cố Vấn Vĩnh Thụy, tức Cựu hoàng Bảo Đại, sẽ thay
thế HCM được loan truyền khắp nơi. Theo một tin tình báo
Mỹ, HCM tuyên bố đã đề nghị nhường chức Chủ tịch cho Bảo
Đại, nhưng nhiều lãnh tụ Việt không đồng ý, sợ
làm mất tinh thần dân chúng.[96] Tại Hà Nội
và Hải Phòng, nhiều gia đình giàu có
bắt đầu tản cư vì có tin quân Pháp sắp đổ
bộ. Sự thờ ơ với quyền lực, chức tước của HCM hay nhóm NTT, NHT
này thực ra có hai nguyên ủy chính;
đó là Hoà ước Trung-Pháp ngày
28/2/1946, và một hiệp ước Việt-Pháp đang thành
hình. Cả hai bản hoà ước này có liên
hệ mật thiết với nhau, và là môi sinh tạo nên
những chuỗi diễn biến chính trị vừa lược thuật.
Việc thành lập chính phủ
Liên Hiệp Kháng Chiến, thực ra, chỉ là sản phẩm của
luật kẻ mạnh. Cả Trung Hoa và Pháp đều áp lực để
có được chính phủ này. Các phe phái
Việt Nam phải cách này hay cách khác
cúi đầu tuân phục.
B. HIỆP ƯỚC SƠ BỘ 6/3/1946:
Như đã nhắc ở một đoạn trên, lập
trường hoà đàm đầu tiên của HCM là
Pháp phải chấp nhận nền độc lập và sự thống nhất
lãnh thổ của Việt Nam. Pháp thì chỉ đồng ý
cho Việt Nam tự trị, và Việt Nam chỉ có nghĩa phần
lãnh thổ Bắc bộ và Bắc Trung bộ.[7A]
Một biến cố vào đầu tháng 2/1946
khiến HCM thay đổi hẳn lập trường. Ngày 2/2, tức đúng
ngày mồng một Tết Bính Tuất, HCM bị Chu Phúc
Thành, Tư lệnh Quân đoàn 53 TH, tạm giữ vài
giờ.[8A]
Hai tuần sau, ngày 16/2, HCM đồng
ý bỏ hai tiếng độc lập, chấp nhận trên nguyên tắc
gia nhập Liên Hiệp Pháp, và đồng ý cho
quân Pháp thay thế quân Trung Hoa phía Bắc vĩ
tuyến 16. Một trong những hứa hẹn mật là tương lai Nam Kỳ sẽ
được thảo luận sau; và, chính phủ Pháp phải trả
lời tức khắc.[97] Sự lùi bước của HCM khiến Paris vô
cùng hồ hởi. Thực ra, từ ngày 14/2, chính Tướng
Leclerc -lúc đó đang xử lý thường vụ chức Cao Ủy
vì d'Argenlieu phải về Pháp nhận chỉ thị của chính
phủ Felix Gouin- đã yêu cầu Pháp nên
nhìn nhận tiếng ‘độc lập’ vì trên thực chất chỉ
có nghĩa tự trị.[98] Tướng Juin giao công điện này
cho d'Argenlieu ngày 18/2/1946 tại Paris[99] Bởi thế,
ngày 21/2, từ Paris, d'Argenlieu chấp thuận đề nghị của HCM;
nhưng nhấn mạnh: không bảo đảm rằng Việt Nam sẽ có cả Nam
Kỳ.[100]
Vì đã có dụng
tâm muốn quân Trung Hoa rút khỏi Việt Nam
càng sớm càng tốt, HCM đồng ý. Tuy nhiên,
sau gần một năm độc lập, tinh thần bài Pháp ở miền Bắc
đã lên cao độ. Việc Pháp tái chiếm miền Nam
và những chiến dịch tuyên truyền chống Pháp
đã được Việt Minh phát động một cách tinh xảo
càng như đổ dầu vào lửa. Đơn phương ký kết với
Pháp lúc đó là một hành động tự
sát chính trị. Khi các đối thủ loan tin HCM đang
bí mật thương thuyết với Pháp, dư luận chống đối
đã bắt đầu nổi lên. Ngày 20/2, đối thủ HCM tổ chức
biểu tình đả đảo chính phủ tại Hà Nội, và
yêu cầu Bảo Đại lên cầm quyền.[101] Có lẽ vì
thế đã có lúc HCM ướm hỏi Bảo Đại muốn thay
mình hay chăng. Dẫu vậy, HCM và Sainteny tiếp tục gặp
nhau hầu như mỗi ngày để bàn về tương lai Nam bộ
và Liên Bang Đông Dương trong Khối Liên Hiệp
Pháp. Lúc này HCM chỉ còn muốn được thống
nhất lãnh thổ và quan tâm đến quân số Việt
Minh. Sau khi Salan đã nhượng bộ về vấn đề quân sự, HCM
chịu nhượng bộ về vấn đề lãnh thổ -tức đồng ý cho
dân Nam bộ trưng cầu dân ý để tự quyết định thể chế
tương lai như d'Argenlieu nhấn mạnh.[102]
Phần những lãnh tụ không Cộng Sản
như NHT và NTT, trước một sự thực khó tránh,
đã chọn giải pháp ‘mất tích’ từ sau ngày
ký Hiệp ước Pháp-Trung 28/2/1946. Tuy nhiên, dưới
áp lực của Trung Hoa, họ cuối cùng vẫn phải tham gia
chính phủ Liên Hiệp của HCM. Tối 5/3, sau khi hội kiến với
phái đoàn Trung Hoa, HCM đồng ý chọn một giải
pháp trung dung -chấp thuận ký Hiệp ước với Pháp,
nhưng có một lãnh tụ VNQDĐ là VHK đồng ký.
Sau đó, HCM và Sainteny duyệt lại lần cuối bản Hiệp
ước.[103] Theo VNG, cuộc thương thuyết vẫn còn bế tắc vì
hai chữ độc lập. Điều này không đúng, và VNG
hoặc không rõ nội tình, hoặc không nói
sự thực. Điểm khúc mắc là vấn đề thống nhất, tức Nam
Kỳ-HCM đồng ý bỏ chữ ‘độc lập’ từ nhiều tuần trước. Ngoài
ra, còn có vấn đề tìm ‘người tế thần.’]
Sáng hôm sau, HCM trình bản
dự thảo Hiệp định cho Quốc Hội. 5 giờ chiều cùng ngày,
HCM cùng VHK gặp phái đoàn Sainteny tại số 38
đường Lý Thái Tổ, và ký vào bản
hoà ước chấp nhận cho quân Pháp thay thế quân
Trung Hoa ở phía Bắc vĩ tuyến 16.[104] Theo Hiệp định sơ bộ
này, Pháp nhìn nhận Việt Nam là một ‘quốc
gia tự do’ [L'Etat libre] trong Liên hiệp Pháp [L'Union
francaise]; và dân Việt Nam sẽ tự quyết định sự thống nhất
lãnh thổ của mình qua một cuộc trưng cầu dân
ý [referendum]. Trong bản Phụ ước về quân sự, 10,000
quân Việt Nam và 15,000 quân Pháp sẽ giữ
nhiệm vụ "tiếp phòng" 180,000 quân Trung Hoa. Pháp
còn hứa sẽ rút quân khỏi Việt Nam trong vòng
5 năm.[9A]
Vì chưa biết rõ chi tiết trong
những phụ bản quân sự, Paris cực lực hoan hỉ. Hai ngày
sau, 8/3, Thư ký Ủy ban Đông Dương [Comindo] là
Francois de Langlade viết thư khen ngợi d'Argenlieu. Ngày
hôm sau nữa, 9/3, chính phủ Gouin cũng thông
báo cho d'Argenlieu biết là chấp thuận Hiệp ước
này.[105] Đồng thời hỏi ý kiến về việc tạo một khu vực tự
trị cho người Thượng] Sự vui mừng của các viên chức
Pháp có lý do của nó. Hiệp ước sơ bộ
6/3/1946 là chiếc chìa khoá cuối cùng về
mặt ngoại giao để hợp thức hoá cuộc tái xâm lăng
của Pháp. Hiệp ước, như Moutet nhận định hơn một năm sau,
đã giúp tránh đổ máu cho 20,000 kiều
dân Pháp bị Nhật tập trung ở Hà Nội, và bảo
đảm rằng quân Pháp có thể chiếm lại Bắc Đông
Dương không tốn một giọt máu, khi lực lượng quân sự
hai bên hoàn toàn chênh lệch: Pháp chỉ
có 16,000 quân so với "185,000" quân Trung Hoa, cộng
thêm 30,000 lính Nhật.[106] Thực ra số quân Trung
Hoa chỉ có 152,500 người.
Tuy nhiên, khi nhận được những phụ bản về
quân sự, Paris bắt đầu có ý nghĩ khác.
Moutet không dấu sự bất mãn của mình, yêu cầu
d'Argenlieu giải thích rõ ràng hơn, như ai sẽ chịu
trách nhiệm trả lương bổng cho quân đội Việt Nam.
D'Argenlieu cũng báo cáo là mình
không hay biết gì về phụ bản quân sự này,
và sẽ gửi Salan về Paris để giải thích tường tận hơn.
Đồng thời, d'Argenlieu tìm cách ‘sửa lại’ những điều
khoản không hợp ý.
C. HỘI NGHỊ TRÙ BỊ
ĐÀ LẠT:
Ngày Chủ Nhật, 24/3, HCM, NTT, HMG
cùng Sainteny và Pignon bay ra Vịnh Hạ-long, gặp
d'Argenlieu trên soái hạm L' Emile Berlin. HCM đề nghị sẽ
dẫn một phái đoàn qua Paris để tiếp tục thảo luận hầu đạt
được những hiệp ước chính thức giữa hai quốc gia. Tuy
nhiên, d'Argenlieu chỉ đồng ý họp ở Đà Lạt;
và, cho một phái đoàn thiện chí 10 người
của Quốc Hội Việt Nam qua thăm Quốc Hội Pháp đúng
ngày Hội nghị Đà Lạt khai mạc. Sau đó, hai
bên đồng ý là sẽ gửi một phái đoàn
thiện chí qua Pháp, họp trù bị tại một địa điểm
trên lãnh thổ Đông Dương, và rồi chính
thức ký kết ở Paris. Vì HCM cần trở lại Hà Nội
trước buổi tối, hai bên đồng ý sẽ tiếp tục thảo luận
thêm giữa Sainteny và HCM tại Hà Nội.[107]
Đáng lưu ý là dù Leclerc có mặt
trên soái hạm L'Emile Berlin, d'Argenlieu không cho
Leclerc tham dự vào những buổi mật đàm. Sự rạn nứt giữa
Leclerc và d'Argenlieu từ mùa Thu 1945 đã bộc
phát thành cừu hận sau ngày Leclerc gửi bức điện
tín ngày 14/2/1946 cho Tướng Juin, yêu cầu chấp
thuận hai tiếng "độc lập," trong khi d'Argenlieu đang trên đường
từ Sài Gòn về Paris. Bởi thế, chiều ngày 24/3,
Leclerc phải bỏ về Sài Gòn.
Giữa lúc Sainteny -theo chỉ thị mật của
d'Argenlieu, và với sự trung gian của Louis Caput, một đảng
viên Đảng Xã Hội Pháp tại Đông Dương-đang cố
thuyết phục HCM bỏ ý định thương thuyết ở Paris, thay vào
đó bằng Đà Lạt, tai nạn đầu tiên xảy ra ở Hà
Nội. Ngày 27/3, Valluy cho quân Pháp chiếm Sở
Tài Chính, tháo gỡ cờ đỏ sao vàng, ngăn cấm
công chức vào làm việc.[108] Hôm sau, 28/3,
Valluy gặp VNG và VHK, cho lệnh phải nhường dinh Toàn
quyền cho Cao Ủy. Ngày 29/3, Việt Minh ra lệnh bãi
công, bãi chợ. Valluy phải nhượng bộ, trả lại Sở
Tài Chính. Cũng ngày này, một tiểu
đoàn Pháp chiếm Huế. Sau đó, ngày 3/4, VNG,
VHK cùng Salan và Valluy ký thêm một thoả
ước quân sự tại Hà Nội. Việt Minh đồng ý cho
Pháp trú đóng 5,000 lính tại Hà-nội,
1,750 lính ở Hải-phòng, 825 tại Nam Định và Điện
Biên Phủ; 650 tại Hải Dương, và 1,025 người ở Hòn
Gay.[109] Hai bên thành lập một Ủy ban liên lạc
và kiểm soát trung ương tại Hà Nội để kiểm
soát việc "tiếp phòng" quân Trung Hoa. Hai
bên cũng thoả thuận thành lập một Ủy ban đình chiến
vào Nam Trung Bộ. Đại diện Việt Nam là Hoàng Quốc
Việt [Hạ Bá Cang].
Chính Bộ trưởng Pháp quốc Hải
ngoại Marius Moutet cũng chỉ muốn thương thuyết diễn ra ở Đà
Lạt. Nhưng HCM vẫn cương quyết phải họp tại Paris. Cuối cùng,
hai bên đồng ý sẽ mở một phiên họp trù bị tại
Đà Lạt, rồi ký kết Hiệp ước tại Paris. Ít
ngày sau, d'Argenlieu cử Tướng Jean Valluy làm Ủy
viên Cộng Hoà miền Bắc, thay Sainteny về Paris chuẩn bị
đón tiếp phái đoàn thiện chí của Việt Nam.
Salan được cử vào thành phần của Liên Bang
Đông Dương tham dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, rồi sau
đó hoàn trả cho Bộ Tổng Tham Mưu cùng Leclerc.
Ngày 29/3, Pháp đã ra nghị
định bổ nhiệm thành phần phái đoàn thương thuyết
với Việt Nam. Chủ tịch phái đoàn này là
d'Argenlieu. Các thành viên khác gồm
có Bloch-Lainé, thuộc Bộ Tài Chánh;
Bourgoin, công cán ủy viên thuộc Bộ Kinh tế
và Tài chính; Bousquet, thuộc Nha Kinh tế Bộ
Pháp quốc Hải ngoại; Pierre Gourou, thuộc Đại học Bordeaux; Max
André, Chánh Công cán ủy viên Bộ
Quân lực, Pierre Messmer, Chánh văn phòng của
Moutet; cùng 6 người do Cao Ủy Đông Dương chọn. [Đó
là Clarac, cố vấn ngoại giao; Maurice Gonon, cố vấn tài
chính; Guillanton, cố vấn kinh tế; Pignon, cố vấn chính
trị; Salan, đại biểu quân sự; và Torel, đại diện Tư
pháp[110] Ngày 15/4, Phái đoàn đầu
tiên của Ngoại trưởng NTT tới Đà Lạt dự hội nghị.
Ngày hôm sau, 16/4, VNG mới rời Hà Nội. Bị kẹt ở
Paksé, hôm sau nữa VNG tiếp tục bay qua Đà
Lạt.[111] Một phái đoàn khác từ Hà Nội
vào Nha Trang, rồi từ đây lên Đà Lạt bằng
đường bộ. Ngày 19/4, Hội nghị trù bị khai mạc tại trường
Yersin. Tuy nhiên, ngay từ buổi họp đầu tiên đã bị
bế tắc. Không khí càng trì trọng hơn sau khi
Phạm Ngọc Thạch, đại biểu miền Nam, bị bắt ngày 22/4.[112] Thạch
chỉ được thả sau khi Hội nghị Đà Lạt kết thúc. Thạch
là đại diện chính phủ trung ương tại miền Nam. Sau
này Lê Đức Thọ thay[113] Mãi đến phiên
họp ngày 29/4, hai bên mới đồng ý trên
nguyên tắc về việc quan thuế và buôn
bán.
Không khí hòa nghị được cởi
mở hơn đôi chút khi Tướng Alphonse Juin, đặc sứ của
chính phủ Pháp đi thăm thiện chí Nam Kinh,
ghé Đà Lạt ngày 30/4. [Hoàng Xuân
Hãn, Một vài ký vãng về Hội nghị Đà
Lạt[114] Trong những phiên họp sau đó, cả hai phe chỉ đồng
ý được một điều là bất đồng ý kiến về rất nhiều
vấn đề, từ ‘Liên bang Đông Dương’ tới vấn đề Nam Kỳ.
Và, đồng ý sẽ tiếp tục thương thảo tại Paris. Ngày
13/5, phái đoàn VNDCCH tham dự Hội nghị Đà Lạt về
tới Hà Nội.
D. CHUYẾN VIẾNG THĂM HÀ
NỘI CỦA d'ARGENLIEU:
Để đáp lễ HCM, và cũng để thực
hiện dự định thiết lập một Liên Bang Đông Dương gồm 5 xứ,
ngày 14/5, d'Argenlieu bắt đầu chuyến kinh lý Bắc vĩ
tuyến 16 kéo dài một tuần lễ. Trạm đầu tiên
là Ban Mê [Buôn Ma] Thuột. Tại đây,
d'Argenlieu chủ tọa lễ tuyên hứa trung thành của
các sắc dân miền Cao nguyên Trung bộ, chuẩn bị
thành lập một vùng Cao nguyên tự trị, trung lập.
Đà Lạt sẽ chọn làm thủ đô Liên Bang.
Ngày 17/5, d'Argenlieu ghé
Vientiane để thắt chặt liên hệ với vương quốc Lào. Chiều
hôm sau, 18/5, d'Argenlieu ra tới Hà Nội. Như để
đáp lễ cuộc duyệt binh long trọng ít tuần trước tại Vịnh
Hạ Long, HCM cử cả 6 Bộ trưởng ra tận phi trường Gia Lâm tham dự
phái đoàn quan khách đón tiếp Cao Ủy
Pháp. [Ra đón d'Argenlieu có Valluy, Tân Tư
lệnh miền Bắc kiêm Đại biểu chính phủ miền Bắc; Lư
Hán, Lãnh sự Mỹ và Swit-zơ-lên [Switzerland,
Thụy sĩ].] Tưng bừng hơn nữa, dân Hà Nội đã được
lệnh treo cờ từ sáng ngày 18/5, dưới chiêu
bài mừng ‘sinh nhật 19/5/1890’ của Bác HCM.[10A]
Ngày 19/5, HCM tiếp kiến d'Argenlieu. Nhưng thương thuyết mật
chỉ diễn ra ngày 20/5. HCM cực lực phản đối về việc d'Argenlieu
nhận lời tuyên hứa trung thành của dân Thượng tại
Ban Mê Thuột. Trước khi rời Hà Nội ngày 22/5/1946,
d'Argenlieu bảo HCM: Nếu Nam kỳ tách biệt khỏi HCM thì
‘bạo lực và bất công đã thủ diễn vai trò
quan trọng’. Theo d'Argenlieu, HCM chẳng biết trả lời ra sao [n'a
rien su répondre]. [11A]
IV.
HỒ
CHÍ
MINH
TẠI
PHÁP:
Ngày 31/5/1946, HCM Chí Minh
lên đường qua Pháp. Cùng đi có phái
đoàn VNDCCH dự Hội nghị Fontainebleau, gồm HMG, Phan Anh, Tạ
Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên, Trịnh Văn Bính v... v...
Salan, trên đường hồi hương, tháp tùng phái
đoàn.[115] Ngay trước khi HCM bước lên phi cơ, Valluy cho
HCM biết tin chế độ Cộng Hoà Nam Kỳ [tự trị] sẽ được
thành lập ngày hôm sau. Để HCM có một
ý niệm rõ ràng hơn về lập trường của Pháp,
ngày hôm sau d'Argenlieu còn yêu cầu
tòa đại sứ Pháp ở Egypt chính thức khẳng định tin
trên khi phi cơ HCM ngừng cánh tại đây.
Thời gian này, Pháp đang bị khủng
hoảng chính phủ. Ngày 12/6, HCM được đưa tới Biarritz,
chờ Pháp thành lập chính phủ mới.[116] Đảng CS
Pháp và các nhóm tả phái, kể cả Hội
Pháp-Việt -mới thành lập ngày 14/8, và qui
tụ một số nhân sĩ như Justin Godart, Emmanuel Mounier,
Andrée Violis, Paul Rivet -đòi hỏi phải tiếp HCM ở Paris.
[Chủ tịch: Justin Godart; Phó: Bà Andrée Violis,
Tướng Petit, Georges Paillet. TTK: Francois Jourdain; Thủ quĩ: Charles
Désiret. Ủy viên: Bà Cotton, Mounier, Bs Paul
Rivet[117]
Mãi tới ngày 22/6, sau khi Georges
Bidault được cử lập chính phủ, HCM mới được đưa từ Biarritz
lên Paris. [Chính phủ Bidault gồm những nhân vật
đáng kể sau: Thủ tướng kiêm Ngoại Giao: Bidault, MRP;
Phó Thủ tướng: Maurice Thorez [CS] và Félix Gouin
[Xã hội]; Bộ trưởng Hải ngoại: Marius Moutet [Xã
hội][118] Đảng Cộng Sản Pháp và những nhân vật tả
phái dành cho HCM những nghi lễ khá trọng vọng.
Trong số người ra đón HCM tại phi trường-ngoài Moutet, Bộ
trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại-có ‘bạn gái’ của
Maurice Thorez, Marie-Claude Vaillant-Couturier, Lucien Midel, Albert
Petit [CS Pháp], Justin Godart, Francois Jourdain và đại
diện CGT [Tổng Liên Đoàn Lao Công Pháp]. HCM
còn được ở trong L'Hôtel de Ville như một quốc
khách. Ngày 25/6, HCM tiếp xúc báo
chí Pháp.[119] Ba ngày sau, 29/6, Simone Terry
viết trên L'Humanité bài ‘L'Oncle Ho [Bác
HCM],’ hết lời ca ngợi HCM, và đồng thời chuyển lời thăm hỏi của
HCM tới các cháu thiếu nhi Pháp.
A. HỘI NGHỊ FONTAINEBLEAU:
Ngày Thứ Bảy, 6/7, Hội nghị Fontainebleau
khai mạc. Nỗ lực vận động để d'Argenlieu đọc diễn văn khai mạc
và chủ tọa bị bác bỏ. [D'Argenlieu về Pháp với chủ
định khai mạc Hội nghị Fontainebleau. Ngày 14/6, d'Argenlieu
được Gouin và Bidault tiếp kiến] Max André tự đảm nhiệm
chức chủ tọa, đọc diễn văn chào mừng phái đoàn
Việt Nam. Nhưng ngay trong ngày đầu tiên này,
không khí hội trường đã cực kỳ nặng nề, nếu
không phải bế tắc. Phạm Văn Đồng[PVĐ] tố cáo quân
đội Pháp ở Đông Dương không tôn trọng
các điều ước đã ký kết, theo đuổi chính
sách ‘chuyện đã rồi’ [fait accompli]. Pháp, theo
PVĐ, đang tìm cách cắt xén Việt Nam qua việc
thành lập chế độ Nam Kỳ tự trị. Pháp chỉ dùng
những hoà ước đã ký kết để vào miền Bắc một
cách bình yên. [12A]
Lời tố cáo của PVĐ được các
báo Combat và Le Populaire tường thuật một cách
trung thực. Báo L'Humanité của Đảng CS Pháp
thì nhiệt liệt tán thành. Riêng báo
L'Aube của MRP [Phong trào Cộng hòa Bình
dân] cho rằng thiện chí của Pháp không được
đáp ứng. Tờ L'Ordre thì hàm ý rằng Việt Nam
phải chịu trách nhiệm nếu hội nghị đổ vỡ.[120] Cao ủy
Pháp, dĩ nhiên, tìm đủ cách biện bạch. Ngay
ngày Thứ Hai, 8/7, d'Argenlieu viết thư lên Thủ tướng
Bidault, phản đối những lời cáo buộc của PVĐ. Hôm sau,
9/7, Bidault tiếp kiến d'Argenlieu. Bidault nói sẽ can thiệp với
HCM về những lời cáo buộc của PVĐ, và tiết lộ thêm
là đã bổ nhiệm Pierre Messmer làm Thư ký Ủy
ban Đông Dương [Comindo], cơ quan tại văn phòng Thủ tướng
Pháp do de Gaulle lập nên để đặc trách điều khiển
việc tái chiếm Đông Dương.
Hội nghị Fontainebleau chẳng có tiến
triển nào đáng kể, và rơi vào bế tắc sau
khi d'Argenlieu công bố là sẽ triệu tập một hội nghị tại
Đà Lạt vào ngày 1/8/1946 để thảo luận việc
thành lập Liên Bang Đông Dương.
Đại hội này, tưởng cũng nên lược
nhắc, do Alessandri làm Chủ tọa [bế mạc ngày 13/8].
Phái đoàn Pháp gồm có: De la
Charrière, Chủ tịch; Granval, Ner, Davée, Labbey, Charles
Bonfils, Lami, Thiếu tá Bichon, Thiếu tá Weil.
Ngoài ra, còn các chuyên viên Beauvais
[Chánh văn phòng của Cédile], Valmary [UV Bắc
Lào], Loubet [Chủ tịch Ủy ban Nghiên cứu
Pháp-Miên], Morice và Caratani [Tư Pháp],
Bertrand và de Villodon [Tài chính], Lesca
[Giám đốc Quan thuế], Bernard [Giáo dục], Solier [Y tế],
và Girod [Công chính, Giao thông].
Phái đoàn bản xứ có:
1. Nam Việt: Đại tá Nguyễn Văn Xuân
[Phó Chủ tịch Cộng Hoà Nam Kỳ, kiêm Bộ trưởng Quốc
Phòng, Trưởng đoàn]; Trần Văn Tỷ [Tư Pháp], Nguyễn
Thành Giung [Giáo Dục], Nguyễn Thành Lập
[Tài Chính], và Ung Bảo Toàn [Thương Mại,
Nông Nghiệp và Kỹ Nghệ]. Các chuyên
viên có Huỳnh Văn Chín, Đoàn Quan Tân,
Huỳnh Trọng Tấn, và Thiếu úy Bùi Văn Hai. Quan
sát viên là Bazé.
2. Chàm: Lưu Ái.
3. Thượng: Ma Krong, tù trưởng
Ê-đê vùng Ban-mê-thuột, và Y sĩ Y Djac
Ayun.
4. Miên cử Tiou Long, Bộ trưởng Tài
chính, làm Chủ tịch; và 3 đại biểu là
Sisowath, Sonn Voeunsai, Prak Sarinn. Các chuyên
viên có Penn Nouth, Poc Thoun, Sonn Sann và Huot
Samath.
5. Lào có Thái tử Chao
Savang Vatthana làm trưởng đoàn. Các thành
viên gồm Kham Mao, Boun Oum [Vua Bassac], Chao Singkeo, Thao
Phoui; các chuyên viên có Ourot Souvannavong,
Outhong Souvannavong, Thao Kou Abhay, và Thao Kham Phan.
Đại hội tán thành nguyên tắc
Liên Bang Đông Dương trong Liên Hiệp Pháp; với
thủ đô là Đà Lạt, và tiếng Pháp
làm sinh ngữ chính. Sẽ có một Hội Đồng Liên
Bang, gồm 10 người, và một Toà Án Tối Cao
Liên Bang. Về quân đội, có quân đội quốc gia
và quân đội Liên Hiệp Pháp. Các Tổng
Nha Liên Bang gồm các ngành tư pháp
và kinh tế, vệ sinh, nghiên cứu khoa học và kinh
tế, đại học, thông tin và du lịch, ngoại thương, thống
kê, công chính, bưu điện và giao thông,
di trú và tài chính.[121]
Ngày 2/8, Phái đoàn VNDCCH
tại Fontainebleau từ chối họp để phản đối việc triệu tập Hội nghị
Đà Lạt lần thứ hai nói trên. Cùng
ngày, Hội nghị Đà Lạt cũng chính thức phản đối
chính phủ Việt Nam tại Fontainebleau đã tạo sự hiểu lầm
giữa ý chí của Bắc Kỳ và toàn thể
Đông Dương. Hai ngày sau, 4/8, Liên Hiệp Các
Sắc Dân Vùng Núi Cao Nguyên Trung Kỳ [‘Cộng
Hoà Tây Kỳ’] ra đời.
Một biến cố khác ở miền Bắc khiến
liên hệ giữa hai nước thêm căng thẳng. Ngày 3/8,
Việt Minh và Pháp chạm súng dữ dội ở Bắc Ninh.
Theo Pháp, một đoàn công-voa 40 chiếc của
Pháp bị phục kích; nhiều người chết và bị thương.
Lính Việt Minh cướp nguyên tiền lương tháng của một
số đơn vị Pháp. Theo VNG, đoàn xe này có 20
chiếc, từ Hà Nội đi Lạng Sơn. Qua Cầu Đuống, lính
Pháp bắn ra hai lề đường. Cách Bắc Ninh 2 cây số,
Pháp bắn vào một trạm gác Việt Minh, khiến 1 ‘vệ
quốc quân’ chết. Đoàn xe chạy vào thị xã Bắc
Ninh, tiếp tục nổ súng. Bộ đội và tự vệ Việt Minh bắn
trả. Xung đột kéo dài từ 7 giờ rưỡi sáng tới trưa.
Bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội bèn gửi một toán
tiếp viện, có xe bọc sắt đi kèm. Lính Pháp
bắn cháy nhiều nhà ở Cầu Đuống, Yên Viên
và Từ Sơn. Buổi chiều, Ủy ban Liên kiểm Việt-Pháp
tới nơi can thiệp nhưng không có kết quả. Hôm sau,
4/8, Thiếu Tá chỉ huy đoàn quân Pháp ở Bắc
Ninh đòi vào đóng trong trại lính khố xanh
cũ; nhưng Việt Minh không đồng ý. Pháp bèn
cho 4 phi cơ tới oanh tạc thị xã. Quân Pháp cũng
không chịu rút lui. Ngày 6/8, Đại tá
Crépin, XLTV Ủy viên Cộng Hoà miền Bắc, gặp VNG
phản đối vụ phục kích ở Bắc Ninh. Tình hình chỉ
êm dịu hơn sau khi Tướng Morlière lên chức Ủy
viên Cộng Hoà kiêm Tư lệnh Quân lực
Pháp tại miền Bắc từ ngày 17/8. VNG ra phi trường
đón.[122] Ngày 10/9/1946, Hội nghị Fontainebleau
chính thức tan vỡ. Ba ngày sau, 13/9, phái
đoàn PVĐ rời Paris xuống Toulon. Ngày 14/9, PVĐ rời
Toulon bằng tàu Pasteur, và về tới Hải Phòng
ngày 3/10. [13A]
B. MODUS VIVENDI 14/9/1946
Thực ra, thương thuyết không hoàn
toàn bị đổ vỡ. HCM vẫn nấn ná ở lại Paris cùng HMG
và Bourov Dương Bạch Mai để hoàn tất những cuộc mật
đàm với Bộ trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Moutet cũng như
nhân viên của văn phòng Thủ tướng Bidault.
Nguyên từ ngày 22/7, HCM đã viết thư cho Moutet,
xin thương thảo bí mật. Sau ngày Hội nghị Fontainebleau
hoàn toàn bế tắc, những cuộc mật đàm mới có
những tiến bộ đáng kể. Vấn đề then chốt vẫn là tương lai
Nam Kỳ và Liên Bang Đông Dương.
Thời gian này, lập trường được công
bố của Đảng Xã Hội Pháp nói chung, và
Moutet nói riêng, là mở cửa cho Việt Nam gia nhập
một khối Liên Hiệp Pháp ‘mới,’ trong đó
chính sách kẻ chinh phục và người bị trị sẽ được
thay thế bằng một liên hiệp các nước tự do, và
phái đoàn Việt Nam được tự do thảo luận về những qui ước
kinh tế, tài chính và văn hoá.[123]
Ngày 8/8, sau khi Hội nghị Fontainebleau bị tạm ngưng họp,
báo Le Populaire còn qui trách cho sự gẫy đổ
này ở chính sách của d'Argenlieu. Những tai nạn
xảy ra ở Bắc Ninh, vẫn theo Oreste Rosenfeld, là sự nổi dậy của
dân Việt chống lại những Pháp kiều thực dân
[colons].[124] Tuy nhiên, trong hai buổi họp của Ủy ban
Liên Bộ về Đông Dương ngày 10 và 12
tháng 8, quan điểm của Moutet hoàn toàn
khác biệt với những điều Rosenfeld viết trên Le Populaire.
Moutet khẳng định nước Việt Nam tự do sẽ có ba phần; không
đồng ý cho Việt Nam được theo đuổi một chính sách
ngoại giao độc lập; và, không có trưng cầu
dân ý trong một tương lai gần. Ra điều trần trước Quốc
Hội, ngày 18/8, Moutet tuyên bố Nam Kỳ là một thuộc
địa Pháp cho tới ngày Quốc Hội có quyết định.[125]
Điều ít người biết là thực ra văn
phòng Thủ tướng Bidault đã tìm cách cứu
vãn tình hình. Ngày 14/8, Bidault gửi cho
HCM một đề nghị là hai bên ký một hiệp ước giới
hạn, đánh dấu sự tiến bộ từ Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946, và
cho phép tiến đến việc bình thường hoá liên
hệ giữa hai nước. Ngày 16/8, HCM đồng ý trên
nguyên tắc, với điều kiện sẽ có trưng cầu dân
ý về Nam Kỳ. HCM đề nghị sẽ thành lập một ủy ban tổ chức
trưng cầu dân ý, gồm 30 thành viên. Việt Nam
sẽ cử 15 đại biểu, và Pháp sẽ chọn 15 đại biểu
khác trong số người miền Nam. Ủy ban này có nhiệm
vụ giải quyết những khó khăn về vật chất trong việc tổ chức
trưng cầu dân ý, và nhất là giải quyết những
cuộc chạm súng tại địa phương, với một lực lượng cảnh sát
đặc biệt. Ủy ban này sẽ dưới sự kiểm soát của một Ủy ban
Quốc Hội, với số lượng đồng đều dân biểu Pháp và
Việt.[126] Phần lo ngại những phản ứng bất lợi từ phe Gaullist,
phần không dám liều lĩnh chống lại lời mở đầu của Hiến
Pháp, chính phủ Bidault -đặc biệt là Messmer,
tân Tổng thư ký Comindo, và trưởng phái
đoàn hoà đàm Pháp-đi đến quyết định
là phải bắt buộc HCM hoặc chấp nhận đề nghị ngày 14/8,
hoặc về nước tay không. Hạn kỳ là cuối tháng
8/1946. Để tránh tiếng là hoà đàm đổ vỡ
và trấn an dư luận, HCM và chính phủ Pháp
có thể ký một bản tuyên cáo chung biểu lộ
tình thân hữu.[127] Tuy nhiên, Bidault
còn do dự vì không hiểu rõ ý định của
HCM ra sao. Hai Bộ trưởng Moutet và Michelet, cũng như Pignon,
đều không thể hiểu rõ ý muốn đích thực của
HCM. Bởi thế, ngày 24/8, Bidault và các Bộ trưởng
quyết định hai bên sẽ ra một tuyên cáo chung, được
đúc kết ở buổi họp cuối cùng, hay dưới dạng thức một
lá thư có chữ ký của cả hai phe.[128]
Ngày 2/9, chính phủ Pháp
gửi cho HCM một đề nghị mới với những điểm nêu trên. Một
tuần lễ sau, PVĐ gặp Pignon, tuyên bố Việt Nam chấp nhận đề nghị
của Pháp với vài sửa đổi. Buổi tối, PVĐ chấp thuận bỏ
đòi hỏi có phái đoàn kiểm soát của
Việt Nam. Trong hai ngày 10 và 11, hai phe nỗ lực
làm việc để đạt thoả thuận cuối cùng về một bản
tuyên cáo chung, một thoả ước [protocol], cùng
những ‘notes [ghi nhận quan điểm] hay thư đính kèm với
thoả ước để giải thích một số điểm có thể chưa rõ
ràng.’
Điều đáng lưu ý là
sáng ngày 11/9, HCM bí mật gặp Đại sứ Mỹ Jefferson
Caffery, tại Paris. HCM tiết lộ Hội nghị Fontainebleau đã đổ vỡ.
Nguyên cớ chính là vấn đề Nam Kỳ. HCM khẳng định
muốn ở trong Liên Hiệp Pháp; và cần sự trợ
giúp của ngoại quốc, nhưng không nói rõ muốn
gì. Thêm một lần HCM minh xác không phải
là Cộng Sản.
Buổi tối, HCM gặp George M. Abbott, Đệ nhất Thư
ký sứ quán Mỹ, một lần nữa. Theo HCM, vì
chính phủ Bidault chỉ là chính phủ lâm thời,
HCM đồng ý tạm ngưng Hội nghị Fontainebleau, chờ tái
nhóm vào tháng 1/1947. Về bản dự thảo Hiệp ước tạm
thời trù tính ký vào ngày 10/9, theo
HCM hai bên đã đồng ý về quyền lợi kinh tế
và văn hoá của Pháp, nền quan thuế chung,
và một đơn vị tiền tệ chung. Nhưng khi đúc kết văn bản,
hai bên gặp khó khăn ở chỗ HCM không chấp nhận danh
từ ‘Liên Bang Đông Dương’ vì nó không
hề hiện hữu. Về phía Pháp không chấp thuận
đòi hỏi thực hiện tại Nam Bộ ‘những quyền tự do dân chủ’
mà theo HCM có nghĩa tự do báo chí, tự do
hội họp và trả tự do cho các tù chính trị.
Pháp cũng không đồng ý việc Hà Nội gửi một
phái đoàn vào Nam để kiểm soát việc thực
thi những điều khoản trên, đồng thời giúp chấm dứt cuộc
chiến tranh du kích.
Hồ Chí Minh nhìn nhận rằng
có những phần tử xấu trong phong trào kháng chiến
Nam Bộ, nhưng nếu đại diện của HCM có thể vào Nam giải
thích với những người cầm đầu, sẽ có cơ hội phân
biệt giữa người yêu nước và bọn cường đạo; hầu tận diệt
những phần tử cướp bóc đó. HCM cũng hy vọng sẽ ký
được hiệp ước với Pháp, nhưng đã định sẽ rời Pháp
ngày 14/9, vì xa Việt Nam quá lâu.
Nhiều lần, HCM đề cập đến vấn đề viện trợ kinh
tế của Mỹ. Theo HCM, HCM chống đối chính sách độc quyền
kinh tế của Pháp. Mặc dù HCM dành ưu quyền cho
Pháp trong việc cung cấp chuyên viên và cố
vấn, quyền khai thác tài nguyên, hay cung cấp trang
bị, nhưng nếu Pháp không đủ sức, Việt Nam cần đến những
người bạn khác. HCM cũng đề cập đến vấn đề quân cảng Cam
Ranh, cùng viện trợ quân sự và hàng
hải.[129]
Tưởng cũng nên nhắc, từ ngày 10/9,
Ủy ban Nghiên cứu và Thông Tin về Đông Dương
[Commission d'Etudes et d'Information pour L'Indochine, tức CEII] -gồm
đại diện các công ty Pháp có quyền lợi ở
Đông Dương như Francois Trives [Société
Indochinoise d'Electricité], Angot [Société
Francaise des Charbonnages du Tonkin], Candlot [Société
des Ciments Portland et Artificiels de l'Indochine, và
Société des Chaux Hydroliques du Long Tho], và
Challamel [Société Indochinoise pour les Eaux et
Electricité en Annam] -cũng được chính phủ Pháp
khuyến khích tiếp xúc không chính thức
[officieux] với đại diện của HCM. Trong buổi gặp mặt cuối cùng
ngày 12/9, các đại diện CEII được Đặng Phúc
Thông, Hồ Đắc Liên và Trịnh Văn Bính khẳng
định HCM chỉ muốn độc lập về quốc phòng, còn mọi
lãnh vực khác sẽ hợp tác tinh thành, chặt
chẽ [Liên]. Việt Nam hứa sẽ cung cấp nhân công
và góp vốn [Thông].[14A]
Về phía chính phủ Pháp,
ngày 12/9, Moutet được chính thức thông báo
về ý định của HCM, và tái thương thuyết với HCM.
Buổi sáng ngày 13/9, Moutet đệ trình dự thảo tạm
ước trên trước Hội đồng chính phủ. Ngay chiều đó,
hai bên chính thức ký kết vào những văn kiện
được biết sau này như ‘Modus Vivendi [Tạm ước] 14/9/1946.’
Đại cương, hai bên hứa tôn trọng tinh thần Hiệp ước Sơ bộ
6/3/1946, ngưng chiến vào ngày 30/10/1946, và hội
nghị Fontainebleau sẽ tái họp vào tháng 1/1947.
Đáng lưu ý hơn cả -ngoài những lời hứa hẹn-
là một thoả hiệp về ‘liên hiệp quan thuế’ và thương
mại cho toàn Liên bang Đông Dương [điều thứ
VI].[130] Sự thoả thuận này trở thành tấm
bình phong pháp lý, cho phép Tướng Valluy
và Morlière, Tư lệnh quân Pháp tại Bắc bộ,
gây nên những biến cố đẫm máu tại Hải Phòng
vào hạ tuần tháng 11/1946, dẫn đến cuộc tổng tấn
công của Việt Minh tối ngày 19/12/1946, châm
ngòi một cuộc chiến khốc liệt, toàn diện trên
bán đảo Đông Dương trong nhiều thập niên sắp
tới.
Tạm ước 14/9/1946, thực ra, chỉ là một
cách hoãn chiến của cả hai phe. Theo Moutet, ông ta
chấp thuận ký Tạm ước [Modus vivendi] ngày 14/9/1946 để
chứng tỏ thiện chí của nước Pháp. Moutet đã
nói với HCM: Tôi hiểu rằng khi ông trở lại [VN],
ông sẽ thấy nhiều phần tử oán trách là
ông không đạt được tất cả mọi sự. Tôi không
chống đối [reproche] ý muốn độc lập của quốc gia ông....
Tôi không chống đối ước muốn thống nhất ba miền của
dân tộc An-nam; đó là một đòi hỏi mà
tôi cho rằng chính đáng [légitime]. Nhưng
trong hoàn cảnh hiện tại, có thể nào tôi đưa
ra trước Quốc Hội [Pháp ước muốn độc lập trên] với một
danh sách mà tôi biết, ngày này qua
ngày nọ, làng này qua làng kia, những
hành động khủng bố, những cuộc ám sát các
hào mục [notables], những cuộc thảm sát người Pháp
và bạn bè họ? Có thể nào tôi
yêu cầu Quốc Hội [Pháp] từ bỏ một phần chủ quyền
[lãnh thổ] để thoả mãn nguyện vọng của các
ông mà chỉ thuần dựa vào những lời hứa hẹn thiện
chí? Tôi không có quyền làm điều
đó, tôi sẽ không làm.[131] Moutet cũng
đề nghị triệu tập những ủy ban để bàn về một Liên bang
mà HCM muốn gia nhập, nhưng mỗi lần tiếng ‘Liên bang’ được
nêu lên, HCM chỉ im lặng. Moutet cũng khẳng định với HCM
rằng ‘Việt Nam’ trong bản Hiệp ước sơ bộ chỉ có nghĩa phần
lãnh thổ phía Bắc vĩ tuyến 16. Bởi thế mới có điều
khoản tổ chức trưng cầu dân ý về số phận Nam Kỳ.[132]
Phần HCM, chiều ngày 14/9 rời Paris xuống Toulon, rồi từ
đây đáp tàu [aviso] Dumont d'Urville hồi hương.
[15A]
Một số đồng chí cũ -kể cả Hoàng
Quang Giụ, người từng qua Liên Xô học trường Thợ Thuyền
Đông Phương -tổ chức những cuộc biểu tình phản đối.
Có người nóng giận gọi HCM là Việt Gian. Nhưng bốn
ngày sau, 18/9, chính phủ Bidault phê chuẩn Tạm Ước
‘14/9/1946.’
V. THỰC TẾ VIỆT NAM:
Không ai hiểu tại sao HCM đã chọn
cách hồi hương bằng tàu Dumont d'Urville. Cũng chẳng ai
biết HCM nghĩ gì trong hơn một tháng lênh
đênh trên biển cả. Chỉ biết ngày 18/10, d'Argenlieu
cưỡi chiến hạm [croiseur] Suffren ra tận Cam Ranh để gặp HCM. Hai
bên tỏ ra rất thông cảm và hiểu biết. Xuất hiện
trong một buổi họp báo ngắn ngủi trên soái hạm của
d'Argenlieu, HCM còn công khai lên án việc
dùng bạo lực và khủng bố.[133] Ba ngày sau,
21/10, HCM về tới Hà Nội.[134] Những ngày kế tiếp, HCM
và các thuộc hạ ráo riết chuẩn bị chiến tranh.
Các mật khu thời chiến được tu bổ; các kho tàng
nhu yếu phẩm được tăng cường. Một số cơ sở chính phủ và
đơn vị chính qui được lệnh rút dần khỏi Hà Nội.
Cuộc đảng tranh đã tạm thời giải quyết
xong. VNG và Huỳnh Thúc Kháng [HTK] đã
giúp HCM thanh toán gần hết các đối thủ
chính trị, đặc biệt là Đại Việt và VNQDĐ. Sau vụ
án Ôn Như Hầu ở Hà Nội và rất nhiều
phiên tòa hình sự tại các địa phương, VNG
và HTK đã cô lập hầu hết các phần tử đối lập
trong các trại tập trung mang tên �cải tạo� ở những
vùng ma thiêng, nước độc tại thượng du Bắc Việt hay Khu IV
[Thanh Hoá tới Thừa Thiên], Khu V [Quảng Nam-Quảng
Ngãi-Bình Định]. Ngay đến các Dân biểu đối
lập cũng hoặc bị ‘mò tôm’ hay đi ‘cải tạo’. Nhờ vậy,
ngày 28/10/1946, HCM có thể triệu tập Quốc Hội để
thành lập chính phủ mới. Chính phủ Kháng
chiến ngày 3/11/1946 này vắng bóng hầu hết những
thành phần không Cộng Sản. Những người chịu qui phục HCM
cũng chỉ được giao các chức vụ tương trưng, và trên
thực tế chẳng là gì hơn những tù nhân bị
giam lỏng. Mặt Trận Liên Việt, mới được thành lập
ít tháng trước để thay thế Việt Minh, cũng chìm
dần vào quên lãng, hữu danh vô thực.
Nhiều nỗ lực lôi kéo các
lãnh tụ tôn giáo về phe ‘kháng chiến’ cũng
được phát động. Bởi thế, mặc dù rời Phát Diệm từ
ngày 14/10 để du thuyết một số giáo khu trong lãnh
thổ Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình,
Bùi Chu, Thanh Hóa để vận động dư luận và cải
chính tin ngả theo Việt Minh, ngày 24/10, Giám mục
Từ cũng phải vào Bắc bộ Phủ yết kiến HCM, nhận chức Cố vấn
chính phủ.[135] Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ cương quyết
chống lại khuynh hướng ‘về Tề’ trong giới cộng sự viên thân
cận, thành lập một Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt.
Tuy nhiên, HCM vẫn chưa tuyệt vọng về một
giải pháp chính trị với Pháp. Trong buổi tiếp kiến
Phó lãnh sự Mỹ James O'Sullivan tại Hà Nội
ngày 27/10, HCM tuyên bố việc thực hiện Tạm ước 14/9/1946
tùy thuộc vào thái độ người Pháp. Nếu
Pháp đồng ý thiết lập những quyền ‘tự do dân chủ’,
‘phóng thích tù nhân chính trị’
và ngưng việc tấn công người Việt, mọi sự sẽ tốt đẹp.[136]
Đúng nửa đêm 29 rạng 30/10,
ngưng bắn bắt đầu có hiệu lực trên toàn Nam bộ.
Nhưng cả hai phe không nói chung thứ ngôn ngữ
hoà bình. Thêm nhiều biến cố khác xảy ra.
Chẳng những không phúc đáp việc HCM đề cử Phạm Văn
Bạch, đương kim Chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Kháng
Chiến Nam Bộ, làm đại diện bên cạnh Cao ủy Pháp,
ngày 6/11, d'Argenlieu gửi công điện phản đối hành
động ‘khủng bố’ của Lâm Ủy Hành Chánh Kháng
Chiến Nam Bộ, và yêu cầu phải giải tán tổ chức
này. Ngày 9/11, HCM trả lời rằng Lâm Ủy Hành
Chánh đã hiện hữu từ ngày 25/8/1945; từng
liên lạc với Bri-tên và Pháp. Hai ngày
sau, 11/11/1946, d'Argenlieu cảnh cáo HCM rằng phải ngăn cấm
Lâm Ủy Hành Chánh bạo động; hoặc tố cáo
hành vi của tổ chức ngoài vòng pháp luật
này.
Những ngày kế tiếp, Linh mục/Cao ủy
d'Argenlieu, với sự tiếp tay của Tướng Valluy, Hội truyền giáo
Pháp và các thành phần kiều dân bảo
thủ, tìm cách khiêu khích đẩy HCM vào
thế phải rút khỏi Hà Nội ra bưng. Phe chủ chiến của Việt
Minh, đại diện bằng VNG và Trường Chinh, cũng quyết định răng
đối răng, mắt đối mắt. Ngày 22- 23 tháng 11/1946, xảy ra
biến cố Lạng Sơn-Hải Phòng. Rồi đến cuộc tổng tấn công của
Việt Minh đêm ngày 19/12/1946, mở đầu cho đợt hai của cuộc
chiến Đông Dương lần thứ nhất [1945-54].
Kết
từ:
Vai trò nhà ngoại giao của Hồ
Chí Minh trong giai đoạn 1945-1946 thường bị lãng
quên trong khối văn chương sử học hiện hữu. Khảo sát kỹ
lưỡng các tư liệu đã giải mật, một điểm rõ
ràng khó thoát khỏi sự quan sát của
chúng ta là HCM cực kỳ khôn ngoan, quyền biến
trên trận tuyến ngoại giao. Sự quyền biến hay linh động và
cụ thể này chứng tỏ HCM đã biết tận dụng ‘luật kẻ yếu’ để
sinh tồn và tạo sự chính thống cho chế độ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa.
Việc tuyên bố giải tán Đảng CSĐD
ngày 5/11/1945 cũng phản ảnh khả năng sinh tồn cao độ của HCM.
Tuy nhiên, những chuyên gia về CSVN và những người
viết tiểu sử HCM vẫn chưa có những phân tích tỉ mỉ
và đứng đắn về quyết định có một không hai trước
thập niên 1980 trong khối Quốc tế Cộng Sản này. Cần
có thêm những tra vấn sâu xa hơn về liên hệ
giữa HCM với Quốc tế Cộng Sản từ năm 1920 tới 1943 để hiểu rõ
hơn về cái gọi là ‘chất đỏ’ trong HCM.
VŨ
NGỰ
CHIÊU.
Phụ chú: -HCM Chí Minh: Nhà Ngoại Giao,
1945-1946.
1A. Theo Hsing Shen-chou, chính phủ lâm
thời
này thành lập ngày 1/9/1945; Báo cáo
ngày 15/10/1945; Chen 1969b:123. Giu, hay Du, người Nùng,
sinh năm 1879 tại Động Én, Lạng Sơn; chạy qua Trung Hoa sau binh
biến Lạng Sơn năm 1940. Năm 1945, gia nhập Việt Cách. Tổ chức
Việt Cách có 7 toán võ trang tuyên
truyền: 5 ở Quảng Tây và 2 ở Vân Nam [Côn Minh
& Khai Nguyên]. Tại Liễu Châu có các
báo Việt Hồn, Đồng Minh, Thời sự tuần báo và
Mê kông Nộ trào [La Réveil de Mekong]. Trong
số các cấp chỉ huy, có: Tĩnh Tây [QT], Trần
Báo & Hoàng Quốc Chính; Long Châu [QT],
Lê Nguyên Thọ; Pham Chong [QT], Nông Quoc Hung; Ha
Cai [QT], Ngũ Qui Đông; Luong San [QT], Nông Nhat Thanh.
2A. Vũ Hồng Khanh, tên thực Vũ Văn Giảng
[1907-1993],
trốn thoát qua Trung Hoa năm 1933. Sau khi Nguyễn Thế Nghiệp về
đầu thú Pháp năm 1935, Khanh trở thành một trong
những lãnh tụ VNQDĐ Hải ngoại lừng danh. Phần Nguyễn Tường Tam
[1908-1963], tức nhà văn Nhất Linh, được Nhật giúp trốn
qua Trung Hoa năm 1941. Sau tháng 8/1945, liên kết với Vũ
Hồng Khanh. Xem sơ lược tiểu sử trong Chính Đạo, Việt Nam
Niên Biểu, 1939-1975, tập III: Nhân Vật Chí,
tái bản có bổ sung [Houston: Văn Hóa, 1997], tr.
610-2, 388-9. Về hoạt động của VNQDĐ, xem Idem., HCM, II, 1993:80-1,
104-9, 167-8. Theo một tài liệu CS, nhóm Khanh có
khoảng 200 tay súng; Lê Tùng Sơn, Nhật ký
một chặng đường [Hà-nội: 1978], tr. 180. Theo Nguyễn Hữu Thanh
[Lý Đông A], Khanh, Tam cùng Nguyễn Hải Thần
và Thanh còn bí mật đưa ra thuyết ‘Duy Dân’
và cử Thanh về nước để thiết lập một liên minh chống
Cộng.
3A. Về định nghĩa kỳ lạ của hai tiếng ‘Việt Gian’
này,
xem Vũ Ngự Chiêu, ‘Social and Cultural Change in Viet-Nam Between
1940 and 1946’, Ph.D. dissertation, 1984, University of
Wisconsin-Madison, 1984, chương IX. [Sẽ dẫn: Vũ Ngự Chiêu 1984]]
4A. CQ, 23/10/1945. Theo tài liệu CS, ‘Hội nghị
liên tịch của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội và Việt Nam
Cách Mệnh Đồng Minh Hội’ nhóm họp tại Hà Nội
ngày Chủ Nhật 21/10/1945; sau đó, ra tuyên
ngôn đoàn kết, đặt nước nhà và dân tộc
lên trên hết. Đại biểu VM có Nguyễn Lương Bằng,
Dương Đức Hiền, Nguyễn Văn Ba, Hoàng Hữu Năm, Nguyễn Công
Truyền. Đại biểu Đồng Minh Hội [Việt Cách] gồm có Đinh
Chương Dương, Trương Trung Phụng, Lê Tùng Sơn, Bồ
Xuân Luật, HCM Đức Thành, Vũ Kim Thành, và
Dương Thanh Dân; CGP [Hà Nội], 28, 25/10/1945. Thời gian
này, theo Lê Tùng Sơn, Sơn được Giáp chỉ thị
lập ra một hệ phái Đồng Minh Hội ly khai; cũng xuất bản
báo Đồng Minh, để tấn công nhóm Nguyễn Hải Thần-Vũ
HCMng Khanh; Sơn 1978:189-91.
5A. Tài liệu Mật thám Pháp ghi
ngày ký thoả hiệp là 23/12. Chúng tôi
dùng nhật kỳ 24/12/1945 theo bản Thông cáo
ngày 26/12/1945 trên các báo Hà Nội.
Theo Lê Tùng Sơn, cùng tham dự trong buổi
này có Hoàng Cương, Tham mưu trưởng của Lư
Hán, và Từ Xấu Thu, đại biểu của Tam Dân Chủ Nghĩa
Thanh Niên Đoàn, cơ quan mặt nổi của tình
báo Trung Hoa.
6A. Chủ tịch: HCM Chí Minh; Phó CT:
Nguyễn Hải
Thần [Việt Cách]; Nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng [độc
lập]; Ngoại Giao: Nguyễn Tường Tam [Đại Việt Dân chính];
Quốc Phòng: Phan Anh [độc lập]; Tư Pháp: Vũ Đình
Hoè [Dân Chủ]; Giáo dục: Đặng Thai Mai
[Mác-xít] [tạm thời cho tới khi Ca Văn Thỉnh nắm quyền];
Lao Động: Nguyễn Văn Tạo [Mác xít]; Xã hội-Y tế:
Trương Đình Chi [hay Tri] [Việt Cách]; Tài
chánh: Lê Văn Hiến [Mác xít]; Kinh tế: Chu
Bá Phượng [VNQDĐ]; Canh Nông: Huỳnh Thiện Lộc [Nam];
Công Chính: Trần Đăng Khoa [Nam]. Cố vấn tối cao: Nguyễn
Vĩnh Thụy [Bảo Đại]. Thứ trưởng: Hoàng Minh Giám [Nội
Vụ], Tạ Quang Bửu [Quốc Phòng], Nghiêm Kế Tổ [Ngoại giao],
Nguyễn Văn Hướng [Tư Pháp], Đặng Phúc Thông [Giao
thông, Công Chánh], Trịnh Văn Bính
[Tài Chánh], Đỗ Đức Dục [Giáo Dục], Bồ Xuân
Luật [Canh Nông], Đỗ Tiệp [Xã Hội]; US-Vietnam Relations,
Bk I, B-52.
7A. Tháng 3/1947, tại Quốc Hội Pháp, Bộ
trưởng
Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet cho biết đã nhiều lần
tuyên bố với HCM rằng ‘Việt Nam’ trong bản Hiệp ước sơ bộ chỉ
có nghĩa phần lãnh thổ phía Bắc vĩ tuyến 16. Bởi
thế mới có điều khoản tổ chức trưng cầu dân ý
[referendum] về vấn đề Nam Kỳ; AAN, 1947:878, col 1.
8A. CAOM [Aix], INF, c. 126/1125. Đây có
thể
là là lần thứ hai HCM bị bắt. Theo Võ Nguyên
Giáp, đầu tháng 12/1945, HCM đã bị mời vào
Bộ Tư lệnh quân Trung Hoa mời đến gặp. HCM đến nhà
Tiêu Văn, được người của Chu Phúc Thành đón
đến Bộ Tư lệnh ở nhà thương Đồn Thủy. Bị giữ gần trọn một
ngày mới thả. Sau giữ lại xe và tài xế của HCM.
Lý do là Chu Phúc Thành nghi Lê
Tùng Sơn đi trên xe của HCM, giết chết một Pháp
kiều; Giáp 1974:107-108. Xem supra.
9A. Mãi tới ngày 3/4/1946, Giáp,
Khanh
cùng Valluy, Salan mới chính thức ký Phụ bản
Hoà ước về quân sự; Giáp 1974:224-225. Ngày
này, Tướng Valluy báo cáo rằng VM đồng ý
cho Pháp trú đóng ở Hà Nội, 5,000
lính; Hải-phòng, 1,750; Nam-định, 825; Hải-dương, 650;
Điện-biên-phủ, 825; Hòn-gay, 1,025. Dự định chiếm Nam-định
ngày 7/4/1946.
10A. Chiều ngày 17/8, VM ra lệnh dân treo
cờ
trong 3 ngày mừng sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh
[19/5/1890], kể từ sáng hôm sau; Cứu Quốc, 17/5/1946. Từ
đó, ngày 19/5 này, được kể như sinh nhật HCM. Tuy
nhiên, HCM thường hay vắng mặt trong ngày sinh nhật
này; Giáp 1974:270. Ngưòi ta nghĩ rằng HCM
đã ngụy tạo ngày sinh để bắt dân Hà Nội treo
cờ đón tiếp d'Argenlieu. Có người có rằng 19/5
là kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Việt Minh
[Huỳnh Kim Khánh]. Nhưng ngày 19/5, với HCM, cũng
là ngày ba mươi sáu năm trước, thân phụ HCM
bị kết án bãi bỏ quan chức, phạt đánh 100 trượng,
đầy đi xa vì tội ngộ sát!
11A. Nguyên văn: ‘Si la Cochinchine se
sépare
librement de vous, croyez-bien que vos violences et vos injustices y
auront joué un rôle capital;’ Thư ngày 26/5/1946,
d'Argenlieu gửi Marius Moutet; CAOM [Aix], PA 28, c. 8, d. 173.
12A. L'Humanité, 7 & 8/6/1946; FRUS, 1946;
US-Vietnam Relations, 1971:73. Ngày 21/6/1946, Valluy cũng trao
cho Giáp một công hàm gửi Huỳnh Thúc
Kháng, Quyền Chủ tịch Nhà nước, thông báo
Pháp sẽ chiếm Cao Nguyên Trung Phần. Sau đó,
Pháp tấn công Đại Lãnh, Củng Sơn, Pleimeidden.
13A. Ngày 3/10, phái đoàn Phạm
Văn Đồng
được tiếp đón đông đảo: Nguyễn Văn Tố, thay mặt Quốc Hội;
Lê Văn Hiến, thay mặt chính phủ; và, Nguyễn
Xuân Nguyên [Lê Quang Đạo], Chủ tịch Hải
Phòng. Hôm sau, 4/10, Đồng về tới Hà Nội.
Ngày 5/10, Đồng họp báo ở Hà Nội.
14A. Ngày 13/9, HCM cũng tiếp kiến Francois
Trives,
thuộc CEII, tại Royal Monceau, và yêu cầu Trives viết
thành văn bản những điều đã thảo luận, nhưng sau
đó, ngày 26/9, Trives không thuyết phục được
các ủy viên khác của CEII; CAOM [Aix], INF, c. 158,
d. 1362.
15A. Công điện ngày 17/9/1946, Caffery
gửi Ngoại
Giao; FRUS, 1946, VIII:59. Như thế, rất đáng nghi chuyện HCM nửa
đêm gọi điện thoại cho Moutet xin ký Tạm Ước 14/9/1946.
Đáng lưu ý là thời gian này, báo
L'Humanité, vì một lý do nào đó,
loan tin HCM rời Paris ngày 16/9; L'Humanité [Paris],
17/9/1946.
GHI CHÚ
1- CAOM [Aix], SLOTFOM, II, c. 6 [HCM sơ M.
Jean]; Chính Đạo, Hồ Chí Minh: Con người & Huyền
thoại, 1892-1969, tập I: 1892-1924, tái bản có bổ sung
[Houston: Van Hóa, 1997], tr. 202-3.
2- US Senate, Hearings, 1973:249.
3- Jean Sainteny - Histoire d’une paix
manquée, tr. 68.
4- Ibid., tr. 52-56; Patti 1980:104.
5- Báo cáo ngày
22/8/1945, William J. Donovan gửi Byrnes; Bộ Quốc Phòng,
US-Vietnam Relations, 1947-1967 [Washington, DC: GPO, 1971], Bk I, p. C
67.
6- Public Papers of the President of the
United States [Harry S. Truman, April-December 1945], pp. 433-434;
US-Vietnam Relations, 1971, I:C-60-61.
7- US-Vietnam Relations.
8- Cable No. 4936, 13 Feb 1946, Smith to
Byrnes; US-Vietnam Relations, Bk I, p. C-94.
9- Ho Chi Minh's Note of 18 Feb 1946, to
China, USA, USSR & Britain; US-Vietnam Relations, Bk I, p. C-99.
10- Robert Sharplen - The Lost Revolution,
1965:31. Và US-Vietnam Relations, 1971, Bk I:C-58-59.
11- Fenn - Ho Chi Minh, tr. 83.
12- Fenn - Ho Chi Minh, tr. 83.
13- Porter - Documentation, vol I, tr. 76-77.
14- Cứu Quốc [Hà Nội], 29/8/1945.
15- Patti - Why Viet-Nam, 1980:196.
16- Ibid., tr. 199-200.
17- Philippe Devillers - Histoire du Viet-Nam,
tr. 202.
18- CAOM [Aix], INF, c. 338, d.2717.
19- Thư ngày 20/9/1945, Gallagher gửi
McClure
20- Ibid.
21- Leon B. Blum - The United States and
Vietnam, 1944-1947 [Washington: GPO, 1972], tr. 4-5.
22- Việt Nam Thời Báo [Hà-nội],
số 3 và 4 [24 và 25/10/1945.
23- Xem US-Vietnam Relations, Bk I, C 63-104.
24- Báo cáo ngày
22/8/1945, William J. Donovan gửi Byrnes; US-Vietnam Relations,
1947-1967, Bk I, C 67.
25- US-Vietnam Relations, Bk I, tr. C 95-6
26- Ibid., Bk I, tr. 96-7.
27- Ibid., Bk I, tr. C-103-104.
28- Memorandum of 29 Sept. 1945, Gallagher
Papers; Porter, Documentation, vol I, tr. 80-81.
29- Thư Moffat gửi BNG [12/1945] trong Blum,
United States and Vietnam, Phụ bản II, tr. 40-2.
30- Tel. ngày 5/12/1945, Acheson gửi
Moffat [Sài-gòn]; US-Vietnam Relations, Bk 8, VB2, tr.
85-6.
31- CĐ ngày 17/10/1945, HCM gửi Truman;
US-Vietnam Relations, 1971, Bk I, C 73-4.
32- Ibid., Bk I, C 80-1
33- Tel. No. 820, 26 Nov 1945, Chungking to
Washington; Ibid., Bk I, C 92.
34- Ibid., Bk I, C 71.
35- Ibid., Bk I, C 87-8.
36- FRUS, 1946, VIII:15-20; US-Vietnam
Relations, 1945-1947, Bk 8:53-7.
37- FRUS, 1946, VIII:15.
38- US-Vietnam Relations, Bk I, 1971:C-96.
39- US-Vietnam Relations, Bk I, 1971:C-100.
40- Porter - Documentation, I, tr. 78.
41- US-Vietnam Relations, Bk I, C-66.
42- Tel. ngày 5/12/1945, Acheson gửi
Moffat [Sài-gòn] trong US-Vietnam Relations, Bk VIII,
VB2, tr. 85-6.
43- FRUS, 1946, VIII.
44- Thư Moffat gửi BNG [12/1945]; trong Blum,
United States and Vietnam, Phụ bản II, tr. 40-2.
45- Báo cáo ngày
30/1/1946 của Sharp; US-Vietnam Relations, Bk VIII, tr. 53-7.
46- Patti - Why Viet-Nam, 1980:202; Võ
Nguyên Giáp - Không thể nào quên,
2001:18]
47-Patti - Why Viet-Nam, 1980:209; Sainteny,
sđd, tr. 86-7.
48- [CAOM [Aix], HCI, CP, c. 192; INF, c. 121,
d. 1102. Xem thêm Chính Đạo, HCM, II, 1993:288-304.
49- CMTT, tập I, tr. 111. Xem thêm Hồi
ký của Thượng tướng Phùng Văn Tài, 2001.
50- Chen, 1969:126-7.
51- Thư ngày 22/10/1945, HCM và
Nguyễn Vĩnh Thụy gửi Tưởng Giới Thạch; US-Vietnam Relations, Bk I, C-83.
52-Tel. ngày 28/10/1945, HCM gửi Tưởng;
Ibid., Bk I, tr. C 91.
53- Võ Nguyên Giáp-
Không thể nào quên, 1974:63; 2001:57.
54- Ibid., tr. 107-108; Idem., 2001:96-98;
Sơn, Nhật ký, tr. 200ff .
55- Ibid, 1974:64; Idem, 2001:58
56- Ibid., 1974:99; Idem, 2001:89.
57- Ibid., 1974:94; 2001:85.
58- US-Vietnam Relations, Bk I, C-99; Chen,
1969:84-5.
59-Giáp - Không thể nào
quên, 1974:98; 2001:88-89.
60-Ibid., 1974:98; 2001:71-72] 60-Ibid.,
1974:98; 2001:71-72.
61-US-Vietnam Relations, Bk I, C-82
61-US-Vietnam Relations, Bk I, C-82 .
62- Chen, 1969:127.
63- Devillers, 1952:193.
64- Xem những tin tức về HCM Chí Minh
và Nguyễn Hải Thần trong Department of State, Interim Research
and Intelligence Service, Research and Analysis Branch, RAA No. 3336,
‘Biographical Information on Prominent Nationalist Leaders in French
Indochina [25 Oct 1945]’
65-Việt Nam Thời Báo thường được biết
như báo Việt Nam. Trong thư viện của Văn khố Bộ thuộc địa
Pháp có 20 số báo này [vào năm
1983]
66- Nghị định số 14, ngày 8/9/1945; Cứu
Quốc, 10/9/1945.
67- Cờ Giải Phóng [CGP], số 33,
18/11/1945.
68- Salan, I:353; Chronique 1985:229-241.
69- Giáp, 1974:222.
70- Causes, etc.; Sainteny 1970:68. Xem
thêm chi tiết trong HCM Chí Minh: Con người & huyền
thoại, II, 1993.
71- Sainteny 1953:86-7; Patti 1980:209.
72- Giáp 1974:140; 2001:128.
73- [Sainteny 1970:51.
74- CQ, 23/10/45.
75- CQ, 23/10/45.
76- United States Senate, Committee on Foreign
Relations, The United States and Vietnam: 1944-1947; A Staff Study
Based on the Pentagon Papers, Prepared for the Use of the Committee on
Foreign Relations United States Senate [Washington, DC: GOP, 1972], tr.
24.
77- Hale, 1945:24-5.
78-Hale, 1945:30.
79- Chronique 1985:98.
80-Chronique 1985:99.
81-Chronique 1985:100
82-Chronique 1985:106-7.
83- CAOM [Aix], INF, c. 159, d. 1363.
84-Note ngày 4/12/1945; Papiers
Bidault; Valette 1984:4.
85- CQ, 10/9/45.
86- Giáp, KTNQ, 1974:63; 2001:96-98;
Sơn 1978:200ff.86- Giáp, KTNQ, 1974:63; 2001:96-98; Sơn
1978:200ff.
87- CGP, 33, 18/11/1945.
88 - DPSG, Rapport mensuel, Décembre
1945 [7/1/1946]; CAOM [Aix], CP, c. 125.
89- Thư của Thiều Bá Xương gửi King C.
Chen; Chen 1969b:129]89-Thư của Thiều Bá Xương gửi King C. Chen;
Chen 1969b:129.
90- CQ, 26/12/1945.
91- CQ, 28/12/1945; Giáp, KTNQ,
1974:110-1; 2001:99.
92- La République [Hà Nội],
10/3/1946.
93- Giáp 1974:149-50; 2001:136-137.
94- Chronique 1985:182.
95- Giáp 1974:214; 2001:150-156.
96- Hearings, 1946:330.
97- Tel No. 515/Cab, Cororient gửi EMGDN
Paris, ngày 17/2/1946; SHAT [Vincennes], 10H 143; Chronique
1985:156-157.
98- SHAT [Vincennes], 10H 143.
99- Chronique 1985:155.
100- Tel. số 232/C.I., ngày 21/2/46,
d'Argenlieu gửi Sainteny; SHAT, 10H 143.
101- Giáp 1974:142-4.
102- Xem công điện số 152/E, ngày
3/3/1946, d'Argenlieu gửi Sainteny; số 2960-2962, ngày 5/3/1946,
và số 404-407, ngày 5/3/1946, Comrep [Sainteny] gửi
Hausaire [d'Argenlieu]; SHAT [Vincennes], 10H 143.
103 - Giáp 1974:179-82.
104- SHAT [Vincennes], 10H 143.
105- SHAT [Vincennes], 10H 141.
106- AAN, 1947:876, col 2.
107- VNNB, I:A, 1996:323
108- Giáp 1974:222.
109- SHAT [Vincennes], 10H 141; Giáp
1974:224-5.
110- Chronique 1985:247-8.
111- Giáp, 1974:251-2.
112- Giáp 1974:258.
113- SHAT [Vincennes], 10H 4201; Chính
Đạo, VNNB, I:A, 1996:327]113- SHAT [Vincennes], 10H 4201; Chính
Đạo, VNNB, I:A, 1996:327.
114- Sài Gòn: 1971], 47;
Giáp 1974:263-4.
115- Salan, I:382.
116- L'Humanité [Paris], 13/6/46.
117- L'Humanité [Paris], 14/6/1946.
118- L'Humanité, 23-24/6/1946.
119- L'Humanité, 26/6 & 5/7/1946.
120- FRUS, 1946.
121- CAOM [Aix], AP, c.365. Trong công
điện ngày 30/7/1946, d'Argenlieu biện giải với Paris về
lý do tổ chức Đại hội Đà Lạt: Công điện số 370 CI
1146 ngày 3/4/1946 của Bộ Hải ngoại.
122- Giáp 1974:324-5.
123- Le Populaire [Paris], 23/7/1946; SHAT
[Vincennes], 10H 140.
124- Le Populaire [Paris], 8/8/1946.
125- AAN, 1947:881, col 1.
126- Note ngày 14/8/1946 của
chính phủ Bidault, và thư ngày 21/8/1946, HCM gửi
Bidault; Papiers Bidault [chưa giải mật]
127- Xem Note ngày 21/8/1946, Messmer
gửi Bidault; và báo cáo ngày 22/8/1946 của
trưởng phái đoàn Pháp; Papiers Bidault.
128- Note ngày 24/8/1946 của văn
phòng Thủ tướng; Papiers Bidault.
129- FRUS, 1946, VIII:58-9; US-Vietnam
Relations, 1971, Book 1-C 104.
130- Xem ‘Nguyên văn bản Thoả Hiệp
Án Pháp-Việt làm tại Paris ngày 14/9/1946;’
Nam Kỳ [Sài Gòn], 23/9/1946. Xem nguyên bản
Pháp ngữ trong phần Phụ bản. Tóm lược bằng Anh ngữ
có thể tìm thấy trong FRUS, 1946, VIII:60.
131- AAN, 1947:877, col 3.
132- AAN, 1947:878, col 1.
133- FRUS, 1946, VIII:61; Chronique,
1985:334-6.
134- FRUS, 1946, VIII:61.
135- Lê Hữu Từ, tr. 96ff
136- FRUS, 1946, VIII:62.
Nguồn:
http://www.chuyenluan.net
0 comments
Post a Comment