NGUYỄN CẢNH BÌNH
“Liệu có phải cuộc sống quá đáng yêu và hòa bình quá ngọt ngào tới mức phải mua bằng xiềng xích và nô lệ không? Ơn Chúa tối cao, hãy đừng bao giờ như vậy. Tôi không biết những người khác sẽ chọn con đường nào. Nhưng với tôi, hãy cho tôi tự do hay là chết”. Bài phát biểu của Patrick Henry, tại Đại hội tiểu bang Virgina, Ngày 23 tháng Ba năm 1775.
Hội nghị Lập hiến
Thứ Sáu, ngày 25 tháng Năm năm 1787, một
lớp đất mới được trải lên con đường rải sỏi phía trước tòa nhà Hạ viện
tiểu bang Pennsylvania, trên đường Chestnut , giúp những người đàn ông
đang họp bên trong tránh khỏi những tiếng ồn ào của những chiếc xe ngựa
chạy bên ngoài. Lính gác đứng ở cửa ngăn không cho những đám đông tò mò
vào bên trong và giữ họ ở một khoảng cách xa.
Đây là những đại biểu tham dự Hội nghị
Liên bang, được các tiểu bang cử đến với nhiệm vụ sửa đổi những thiếu
sót của chính quyền đương thời. Hội nghị dự định khai mạc từ ngày 14
tháng Năm, nhưng lúc đó chỉ có mặt các đại biểu của tiểu bang Virginia
và Pennsylvania, nên buộc phải hoãn lại.
Trong
ngày đầu khai mạc Robert Morris, đại biểu tiểu bang Pennsylvania, nhà
"tài chính" của cuộc Cách mạng Mỹ, đã mở đầu Hội nghị bằng việc đề cử
Tướng George Washington cho chức Chủ tịch Hội nghị Lập hiến. Phiếu bầu
hoàn toàn nhất trí. Với sự nghiêm trang và khiêm tốn, vị Tổng tư lệnh đã
thể hiện sự bối rối của mình trong việc làm chủ tọa một Hội nghị trang
trọng như vậy và xin lỗi nếu có bất kỳ sai sót nào mà ông có thể mắc
phải trong quá trình thảo luận kỹ lưỡng này.
Nhiều tháng trước đó, đau ốm vì căn bệnh
thấp khớp, chán nản vì cái chết của người anh trai, mải mê với cuộc sống
yên bình ở khu trang trại Mount Vernon và nghi ngờ sự thành công của
Hội nghị cũng như nghĩ rằng nhiều nhân vật nổi tiếng sẽ vắng mặt,
Washington luôn trì hoãn việc nhận lời mời tham dự. Nhưng rồi bực bội
với nguy cơ trong việc trao uy tín của ông cho một cuộc họp mà rồi có
thể phải thất bại và khả năng công chúng sẽ đánh giá sự tham dự miễn
cưỡng của ông với con mắt hoài nghi, viên tướng cuối cùng đã chấp nhận
công việc này.
Nhiều đại biểu tham dự cuộc họp, đặc biệt
là James Madison, đại biểu trẻ trung mới 36 tuổi của Virginia, cảm thấy
rất hài lòng, vì chỉ riêng sự có mặt của viên tướng Tổng tư lệnh
Washington, cùng với uy tín to lớn của ông cũng đủ để mang lại một không
khí trang nghiêm và bảo đảm sự thành công cho Hội nghị.
Cùng ngày 25 tháng Năm, theo đề nghị của
C. Pinckney, Hội nghị cũng bổ nhiệm Thiếu tá William Jackson của tiểu
bang Nam Caroline, làm Thư ký, với nhiệm vụ ghi chép lại mọi ý kiến
trong quá trình thảo luận, đồng thời cũng bổ nhiệm một ủy ban gồm Wythe,
Hamilton và C. Pinckney có nhiệm vụ soạn thảo những qui tắc cho Hội
nghị. Những buổi họp của Hội nghị được tổ chức kín và không có phóng
viên hay khách mời nào được phép tham dự. Mặc dù nhiều thành viên với
bản chất ba hoa và lắm lời, thường bị kích động trong các quán rượu hay
trên đường phố, thì hầu hết mọi đại biểu đều giữ được bí mật một cách
ngạc nhiên. Ðối với những người hoài nghi về Hội nghị, việc giữ bí mật
đó càng làm tăng mối lo âu của họ. Từ Paris, Thomas Jefferson đã viết
cho John Adams: "Tôi cảm thấy tiếc là họ đã bắt đầu các cuộc tranh luận
bằng một quyết định thật tồi tệ là đóng chặt miệng lưỡi của tất cả mọi
người". Nhưng sau này, đại biểu Luther Martin của tiểu bang Maryland đã
phán xét rằng sứ mạng ở Philadelphia cần một môi trường hoàn toàn yên
tĩnh. Mặc dù viên thư ký Hội nghị là Jackson đã ghi chép lại nội dung
các cuộc họp, nhưng bản ghi chép đầy đủ nhất lại chính là nhờ công sức
của James Madison. Hết ngày này sang ngày khác, người đàn ông đến từ
Virginia này đã ngồi ngay hàng đầu tiên của phòng họp, ghi chép lại tất
cả các cuộc tranh luận, không để lỡ bất cứ một ngày nào, hoặc một bài
phát biểu quan trọng nào. Sau này, Madison kể lại rằng việc tự giam mình
trong cái sảnh nóng bức và ngột ngạt đó suốt mùa hè ở Philadelphia suýt
nữa đã giết chết ông.
Các điều khoản Hợp bang
Hội nghị Lập hiến được triệu tập trong
một bối cảnh được coi là giai đoạn sống còn trong lịch sử nước Mỹ. Những
người dân Mỹ vừa trải qua một cuộc chiến tranh dài, cam go và tàn phá,
chỉ vừa mới bắt đầu giai đoạn phục hồi kinh tế từ đống đổ nát. Nền kinh
tế trong thời kỳ thương mại bình thường với nước Anh và vùng Tây Ấn (các
hòn đảo vùng vịnh Caribê) giờ đây bị ảnh hưởng nghiêm trọng do việc
tách khỏi Vương quốc Anh. Ðó là một nền kinh tế "dị dạng": tiền giấy có ở
khắp mọi nơi gây lạm phát kinh khủng. Các bằng chứng khác cho thấy chủ
nghĩa dân tuý đang hồi sinh mà ví dụ điển hình là cuộc nổi loạn của một
nhóm nông dân trang bị vũ khí. Những kích động chính trị do những khẩu
hiệu từ thời chiến như "bình đẳng và quyền của mọi người" đã trở nên
không thể kiểm soát được. Tư tưởng phe cánh, bè phái và chủ nghĩa địa
phương đang là lời cảnh báo đối với Madison và nhiều người khác. Thái độ
thù địch đối với chính quyền mà biểu hiện là sự chống đối thuế khóa có ở
tất cả mọi tầng lớp. Trong tâm trí nhiều người, cuộc sống, sự tự do và
thịnh vượng không hề được đảm bảo. Ðối mặt với những khó khăn này, chính
quyền Mỹ cố gắng vận hành theo Hiến pháp đương thời là Các điều khoản
Hợp bang, được phê duyệt năm 1781. Thứ hiến pháp mà Hamilton, chính trị
gia xuất sắc thuộc thế hệ thứ hai của cuộc Cách mạng Mỹ, sau này trở
thành một trong những kiến trúc sư cho hệ thống chính quyền và kinh tế
Mỹ, gọi là "một sự khờ dại". 13 tiểu bang thuộc địa tập hợp trong một
thể chế hợp bang lỏng lẻo khi chỉ có một cơ quan chính quyền duy nhất là
Quốc hội Hợp bang điều hành mọi vấn đề của đất nước. Chính phủ Hợp bang
khi đó không điều hành trực tiếp với người dân mà thông qua trung gian
là các chính quyền tiểu bang . Không có nhánh hành pháp, cũng không có
tòa án tối cao, cơ quan này hầu như chẳng có chút quyền hành nào và cũng
chẳng có ngân sách để hoạt động. Khắp nơi tràn ngập sự lộn xộn, không
có một qui định chung về thương mại, thuế khóa và thậm chí, mỗi tiểu
bang lại có một loại tiền riêng. Những món nợ chiến tranh lớn đến mức
hầu như không thể trả nổi. Tiền giấy tràn ngập khắp đất nước tạo ra nạn
lạm phát kinh khủng tới mức nửa cân chè ở một vài vùng có thể phải mua
bằng số tiền lớn là 100 đô la. Tình trạng kinh doanh suy thoái đang lấy
đi sinh mệnh của nhiều nông dân và chủ đất nhỏ. Một số buộc phải vào tù
vì nợ nần, rất nhiều ruộng đất bị tịch thu hay phải bán để trả thuế. Uy
tín nền cộng hòa bị nghi ngờ và công chúng bắt đầu mất niềm tin vào
chính quyền. Hiệp ước Hòa bình với Anh bị cả hai phía phớt lờ và hầu như
không có hiệu lực. Chính quyền Hợp bang cũng chẳng có uy tín trong con
mắt của các quốc gia châu Âu. Đó là một chính thể cộng hòa đang bị tê
liệt và bất kỳ người dân nào cũng có thể suy đoán về một kết cục thảm
hại sẽ xảy ra. Năm 1786, một số nông dân đã nổi dậy chống lại chính
quyền. Cầm đầu bởi Daniel Shays, một cựu Đại úy của quân đội Lục địa,
một nhóm người trang bị vũ khí, cắm những chiếc lông ngỗng màu xanh lên
mũ, ngăn cản tòa án lưu động họp tại Northampton, MA. và đe dọa cướp vũ
khí tại kho súng Springfield. Mặc dù quân đội tiểu bang nhanh chóng dập
tắt cuộc nổi dậy này nhưng cuộc bạo loạn đó đã buộc nhiều người giàu lo
sợ về một tình trạng vô chính phủ đang lấp ló ở chân trời. Ðược thêm mắm
thêm muối hết ngày này sang ngày khác trên các trang báo, cuộc nổi dậy
đã làm cho tầng lớp trên ở Mỹ rùng mình run sợ, khi họ hình dung cái đám
người hung tợn, ngoài vòng luật pháp đó, sẽ xuất hiện ngay trong những
nông dân vô tội. Tình trạng tồi tệ của liên minh 13 tiểu bang đã thách
thức nhiều người Mỹ có tư tưởng cộng hòa về sự cần thiết và cấp bách
phải có những cải cách triệt để. Từ trang trại đồng quê Mount Vernon,
Washington đã viết cho Madison: “Tại thời điểm hiện nay, sự khôn ngoan,
sự hiểu biết và các tấm gương tốt là cần thiết để cứu hệ thống chính trị
này khỏi cơn bão đang treo lơ lửng… Tại mỗi tiểu bang đều có những mầm
cháy mà chỉ cần một tia lửa cũng có thể làm bùng lên đám lửa". Còn đối
với Hamilton, một trong những người vận động mạnh mẽ nhất cho Hội nghị
này, Quốc hội Hợp bang chỉ là một nhóm chính trị gia có tầm nhìn hạn
hẹp, những người dễ dàng hy sinh mạng sống của binh lính và tương lai
của toàn bộ dân tộc khi lãng phí thời gian trong những cuộc tranh cãi
vụn vặt, chứ không phải những nghiên cứu, tranh luận thấu đáo hay suy
xét kỹ càng, có tầm nhìn xa, trông rộng trong quá trình hình thành chính
sách. Chính quyền tổ chức theo bộ luật này đã từng thể hiện sự yếu kém
và thiếu hiệu quả trong thời chiến và đến thời hòa bình, khi những tiểu
bang ngày càng ít phụ thuộc vào nhau, thì liên minh lỏng lẻo của 13 tiểu
bang Bắc Mỹ thật sự gặp nguy hiểm. George Washington từng nhận xét rằng
các bang chỉ được liên kết với nhau "bằng một sợi dây bằng cát". Ðiều
cực kỳ quan trọng trong tư duy của Hamilton là chính phủ liên bang phải
có quyền điều hành vấn đề thương mại, lĩnh vực mà cho đến lúc đó, vẫn
nằm trong tay các chính quyền tiểu bang và nhất thiết phải có quyền thu
thuế lợi tức để tạo dựng nguồn ngân sách cho sự vận hành của một nhà
nước. Ông khẳng định: "… không thể trì hoãn được nữa, chúng ta phải trao
thêm quyền lực cho Quốc hội… Chỉ có việc sử dụng một cách hợp lý những
nguồn tài nguyên của toàn thể liên minh, dưới sự lãnh đạo của một Hội
đồng Tối cao, với những quyền lực và sức mạnh cần thiết mới có thể giải
thoát chúng ta khỏi cảnh áp bức và khốn khó như hiện nay, và đưa chúng
ta trở thành những người hạnh phúc sau này". Để giải quyết những trục
trặc đó, vào tháng Chín năm 1786, Quốc hội Hợp bang đã tổ chức một cuộc
họp các bang tại thành phố Annapolis, bang Maryland, nhằm thảo luận các
bất đồng thương mại, nhưng hầu như chẳng mang lại kết quả cụ thể nào.
Chỉ có 5 tiểu bang tham dự và các đại biểu cũng chẳng có quyền gì, ngoài
việc thảo luận và kiến nghị lên Quốc hội Hợp bang. Tuy nhiên, Hamilton,
Madison và một vài đồng nghiệp đồng ý phải làm được một điều gì đó có ý
nghĩa. Họ đề nghị Quốc hội triệu tập một Hội nghị mới, nhằm xem xét lại
Các điều khoản Hợp bang với sự tham gia của tất cả các tiểu bang. Đối
với Madison, đây là một cơ hội tuyệt vời để lật ngược được xu hướng hiện
tại của đất nước. Còn với nhiều người, điều quan trọng khi họ tập trung
ở Philadelphia là không được thất bại. George Mason, viên điền chủ của
trang trại Gunston Hall, tác giả bản Tuyên ngôn Nhân quyền của tiểu bang
Virginia, đã viết cho con trai: "Mọi con mắt của nước Mỹ đang hướng về
Hội nghị này và niềm trông đợi của họ đã tăng lên rất cao. Ơn Chúa Tối
cao, cha và những người bạn có thể làm họ hài lòng bằng việc thiết lập
một Chính quyền Khôn ngoan và Công bằng". Cũng thời gian đó, nhiều tờ
báo ở Philadelphia đã đăng tải bức thư của một người giấu tên đòi bỏ ý
định thành lập một chính quyền chung cho tất cả các tiểu bang. Người này
đề nghị chia Hợp chúng quốc thành ba nước cộng hòa riêng biệt: Bắc,
Trung và Nam, vĩnh viễn liên minh với nhau vì mục đích phòng thủ chung.
Một khó khăn rất lớn khác của Hội nghị Philadelphia là mục tiêu đề ra
chỉ là nhằm sửa đổi và bổ sung những điều cần thiết cho Các điều khoản
Hợp bang, chứ không phải xây dựng một bản Hiến pháp hoàn toàn mới. Tuy
nhiên, hầu hết các đại biểu đều cho rằng nếu cứ bám vào cái sườn cũ thì
sẽ chẳng dẫn đến điều gì cả. Một chính quyền mới và vững chắc chính là
điều mà Hội nghị mong muốn và quyết tâm đạt được. Như sau này, Hamilton
nhận xét: "những thất bại và trục trặc mà chúng ta trải nghiệm không
phải bắt nguồn từ một vài lỗi nhỏ lẻ nào mà do những sai lầm căn bản, có
tính nguyên tắc trong việc hình thành chính quyền và không thể sửa đổi
nếu không có những thay đổi cơ bản nhất về mô hình chính quyền".
Các đại biểu tham dự Hội nghị
74 đại biểu được các tiểu bang bầu chọn
để tham dự Hội nghị, nhưng chỉ có 55 đại biểu thật sự có mặt tại các
cuộc họp. Đó là những nhà lãnh đạo hàng đầu của đất nước, những con
người thông minh, kiệt xuất và có uy tín lớn lao. Ða số các đại biểu ủng
hộ chế độ tiền giấy, hệ thống thuế thấp và mong muốn thiết lập một
chính quyền mạnh. Một số đại biểu chỉ tin tưởng vào giai cấp quý tộc,
nhưng hầu hết đều tán thành những nguyên tắc dân chủ, dù rất e ngại tính
thất thường của dân chúng và sự thái quá của nền dân chủ. Rhode Island
là tiểu bang duy nhất từ chối cử đại biểu tham dự cuộc họp vì cho đó là
âm mưu nhằm phá bỏ chính quyền đã được thiết lập. Ngoài ra, Hội nghị
cũng gặp phải sự nghi ngờ và chống đối của không ít chính khách hàng
đầu. Patrick Henry , một lãnh tụ cuộc Cách mạng Mỹ, đã từ chối tham dự
với tuyên bố: "Tôi cảm thấy đây là một sự phản bội". Điều này là do xu
hướng của Hội nghị muốn hình thành một chính quyền tập trung mạnh, nhằm
giám sát thẩm quyền của các cơ quan lập pháp tiểu bang, trong khi Henry
và nhiều chính trị gia tên tuổi khác lại tin rằng chính quyền tiểu bang
sẽ bảo đảm tốt nhất những quyền tự do cá nhân. Vì vậy, ông quyết tâm
không góp một chút công sức nào cho Hội nghị. Một vài nhân vật kiệt xuất
khác cũng vắng mặt như Thomas Jefferson , John Adams , John Jay và
Thomas Paine . Ngoài Patrick Henry, một số lãnh tụ hàng đầu khác của
cuộc Cách mạng Mỹ là Samual Adams và Richard Henry Lee cũng từ chối tham
dự. Nhưng về tổng thể, đây là cuộc nhóm họp thật sự gây ấn tượng với
những con người xuất chúng, những người đã làm nên cuộc Cách mạng Mỹ, và
sứ mạng của họ bây giờ là xây dựng một đất nước mới, tốt đẹp hơn. Từ
Paris, khi đang là Công sứ Mỹ tại Pháp, Thomas Jefferson đã viết thư cho
John Adams, khi đó đang là Công sứ Mỹ tại Anh: "Ðó thực sự là cuộc quần
tụ những người con của thánh thần". Nổi bật hơn cả là một cá nhân mà
các đức tính và lòng quả cảm của ông tượng trưng cho nền Ðộc lập Mỹ và
cho cả dân tộc Mỹ. Đó là George Washington, Tổng tư lệnh các quân đội
thuộc địa trong cuộc chiến tranh với người Anh. Ngoài Washington, ở đây
còn có Benjamin Franklin, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp tiểu bang
Pennsylvania, (chức vụ tương đương với Thống đốc ngày nay) và là chủ nhà
của Hội nghị. Ông là người nổi tiếng khắp châu Âu và nước Mỹ hơn bất kỳ
một cá nhân nào khác cùng thời đại. Ði khập khiễng do căn bệnh gút, ông
già Franklin, khi đó đã 81 tuổi, là người đã làm nhiều nghề như thợ in,
bảo vệ cửa hàng, nhà khoa học, viên chức hành chính, nhà triết học, nhà
ngoại giao và rất được phụ nữ hâm mộ. Có James Wilson của tiểu bang
Pennsylvania, một luật sư tài năng và đam mê đầu cơ đất đai một cách khờ
dại, để cuối đời buộc phải trốn chạy từ tiểu bang này sang tiểu bang
khác, để tránh truy tố vì nợ nần. Người đàn ông Scotland này đã mang đến
một trí tuệ phi thường, một thiên hướng về những lý thuyết hiến pháp và
luật pháp. Có George Mason của tiểu bang Virginia, người sau này được
Jefferson gọi là "viên Cato của nước Mỹ mà không có lòng tham lam của
người La Mã". Chính George Mason, vào tháng Năm năm 1776, là người soạn
thảo Tuyên ngôn Nhân quyền cho tiểu bang Virginia là nền tảng cho Thomas
Jefferson soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập Mỹ sau đó hai tháng. Có John
Dickinson của tiểu bang Delaware, tác giả Những bức thư của người nông
dân và là tác giả chính của Các điều khoản Hợp bang. Có Gouverneur
Morris, tiểu bang Pennsylvania, rất thông thạo văn học và ngôn ngữ Pháp,
với sự tinh thông và can đảm hợp với trí tuệ kiệt xuất đã góp phần soạn
thảo Hiến pháp tiểu bang New York. Ngoài ra, nhiều người khác cũng đóng
vai trò quan trọng như Oliver Ellsworth, Edmund Randolph, William
Paterson, John Rutledge, Elbridge Gerry, Roger Sherman, Luther Martin,
Charles và Charles Cotesworth Pinckneys. Mặc dù nhiều đại biểu còn rất
trẻ, như Hamilton chỉ mới 32 tuổi và Madison – 36 tuổi, Edmund Randolph –
34 tuổi, nhưng hầu hết đều đã học luật và là những chính trị gia xuất
sắc. Những kiến thức lý thuyết triết học tuyệt vời về chính quyền của họ
được mở rộng bởi các nhà triết gia về chính trị như James Harrington ,
John Locke , Montesquieu và được tích lũy từ những kinh nghiệm thực tế
thu được trong quá trình hoạt động chính trị ở liên bang hay tiểu bang.
Ba mô hình chính quyền: các Phương án Virginia, New Jersey và Hamilton
Sáng thứ Ba, ngày 29 tháng Năm, Edmund
Randolph, Thống đốc bang Virginia, mở đầu cuộc tranh luận với bài phát
biểu dài, phê phán những điều tồi tệ xảy ra đối với nước Mỹ do những yếu
kém của Các điều khoản Hợp bang. Ông nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải
tạo dựng một chính quyền quốc gia mạnh. Sau đó, Randolph đề xuất những
nét chính về phương án cải tổ bao gồm 15 điểm, thường được biết dưới cái
tên Những giải pháp Randolph, nhưng tên chính thức là Phương án
Virginia do ông và những đồng nghiệp cùng tiểu bang, sau những kỳ họp
dài tại quán rượu Indian Queen, thống nhất quan điểm trước ngày diễn ra
Hội nghị. Nền tảng của mô hình chính quyền này, chủ yếu do James Madison
thiết kế, gồm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi nhánh được
cấu trúc để kiểm soát quyền lực của các nhánh kia. Với quyền lực được
tập trung cao độ, chính quyền theo mô hình này có thể phủ quyết mọi bộ
luật do cơ quan lập pháp tiểu bang ban hành. Về phương án này, Randolph
đã thú nhận "[đó] là một liên minh thống nhất, trong đó ý kiến [riêng]
của các tiểu bang gần như không được đếm xỉa đến". Việc đề xuất Phương
án Virginia tại thời điểm mở đầu Hội nghị là hành động táo bạo nhưng cực
kỳ khôn ngoan và làm nhiều người sửng sốt. Những đại biểu của Virginia
hiểu rằng bản kế hoạch đệ trình lên đầu tiên sẽ giành được lợi thế hơn
bất kỳ kế hoạch nào sau đó. Những người Virginia đã buộc các cuộc tranh
luận phải tiến hành theo các điểm trong mô hình do họ đề ra và theo các
khái niệm của họ. Trong hai tuần tiếp theo, Hội nghị tiến hành thảo luận
và sửa chữa các điểm đề xuất trong Phương án Virginia. Ngày 13 tháng
Sáu, văn bản sửa đổi được đệ trình lên Hội nghị để tất cả các đại biểu
thảo luận. 15 đề xuất ban đầu trong Phương án Virginia đã trở thành nền
tảng cho bản báo cáo 19 điểm về mô hình chính quyền quốc gia, bao gồm ba
nhánh. Nhánh lập pháp, tức Quốc hội Liên bang, sẽ bao gồm hai viện được
chọn theo qui mô dân số. Việc thiết lập hai viện là nhằm đại diện cho
những lợi ích khác nhau và để quá trình làm luật tỉ mỉ và kỹ lưỡng hơn.
Hạ nghị viện do người dân trực tiếp bầu, còn các thành viên của Thượng
nghị viện lại được chính Hạ nghị viện lựa chọn. Nhánh hành pháp, tức là
Tổng thống, sẽ được cả hai viện bầu chọn. Mô hình bộ máy tư pháp quốc
gia cũng được phác thảo, bao gồm Tòa án Tối cao và tòa án các cấp sẽ do
hai cơ quan lập pháp bầu chọn. Có một giai thoại rất thú vị kể rằng sau
khi Hội nghị Lập hiến kết thúc, khi Thomas Jefferson từ Pháp trở về,
trong một bữa ăn tối đã hỏi Washington là tại sao ông bằng lòng có một
viện thứ hai trong Quốc hội, tức là Thượng viện. Khi đó, thấy Thomas
Jefferson đang rót cà phê từ chiếc tách vào đĩa, Washington liền hỏi:
"Thế tại sao Ngài lại đổ cà phê vào đĩa như vậy?"; Jefferson trả lời:
"Để làm cho cà phê nguội đi". Washington mỉm cười "Điều đó cũng giống
như việc chúng ta đổ cơ quan lập pháp ấy vào chiếc đĩa Thượng viện để nó
nguội bớt đi!". Vấn đề mấu chốt nhất được Gouverneur Morris trình bày
rất súc tích ngày 30 tháng Năm là sự khác biệt giữa mô hình chính quyền
của một liên bang và chính quyền của một quốc gia mà "chính quyền liên
bang chỉ thuần túy như một hiệp ước được thiết lập dựa trên sự cam kết
tốt đẹp của các bên. Còn chính quyền quốc gia điều hành một cách toàn
diện và mang tính cưỡng ép". Morris ủng hộ mô hình chính quyền quốc gia
với một quyền lực tuyệt đối, có khả năng thực thi mọi thẩm quyền cần
thiết chứ không chỉ cái thứ chính quyền mờ nhạt, phân rã và thiếu hiệu
quả như chính quyền Hợp bang đương thời. Quan điểm quốc gia chủ nghĩa
này đã làm điên đầu nhiều đại biểu khác. Họ e sợ về khả năng một chính
quyền trung ương mạnh sẽ nuốt chửng chủ quyền của các tiểu bang, đặc
biệt là các bang nhỏ. Ngày 14 tháng Sáu, đại biểu tiểu bang New Jersey
là William Paterson đã yêu cầu Hội nghị dừng họp một ngày vì ông và các
đại biểu từ những bang nhỏ muốn có thêm thời gian để hoàn thành kế hoạch
của họ về một mô hình chính quyền khác với Phương án Virginia. Ngày hôm
sau, Các giải pháp của Paterson, hay còn được gọi là Phương án New
Jersey, được đặt lên bàn Hội nghị. Lo sợ về một chính quyền quốc gia
mạnh, Paterson đề xuất giải pháp bao gồm 9 điểm, kêu gọi tổ chức một cơ
quan lập pháp duy nhất. Trong đó, tất cả các bang đều có phiếu bầu bình
đẳng. Thay cho việc đề xuất một mô hình chính quyền quốc gia mới, phương
án của Paterson thực chất chỉ là một loạt những sửa đổi đối với Các
điều khoản Hợp bang. Các đại biểu từ các bang nhỏ đều tập hợp quanh
phương án này. Ðồng lòng chống lại các mưu đồ nhằm ném các bang nhỏ vào
"mớ hổ lốn", Paterson đã đề nghị một mô hình nhà nước mà "sự liên kết
của các tiểu bang chúng ta chỉ thuần tuý là một Liên minh của các quốc
gia". Phương án New Jersey kêu gọi chỉ thông qua các điều khoản cho phép
Quốc hội có thêm quyền hạn trong việc tăng nguồn thu và điều hành vấn
đề thương mại. Giải pháp này cũng đảm bảo các đạo luật của Quốc hội và
các hiệp ước được thông qua sẽ là luật tối cao của các tiểu bang. Trong
suốt ba ngày, Hội nghị tranh luận về những đề xuất của Paterson và cuối
cùng đã bỏ phiếu bác bỏ. Với sự thất bại của Phương án New Jersey, Hội
nghị nghiêng về hướng xây dựng một chính quyền trung ương mạnh, làm
nhiều đại biểu của các bang nhỏ rất bất bình. Nhưng việc bác bỏ Phương
án New Jersey không dập tắt được nỗ lực của các bang nhỏ. Trong quá
trình thảo luận một tháng sau đó, 15 đề xuất của Phương án Virginia đã
được xem xét từng điểm một và với sự chấp thuận Thỏa hiệp lớn vào ngày
16 tháng Bảy sau đó, các bang nhỏ cũng đạt được sự cân bằng lá phiếu tại
một viện của cơ quan lập pháp: Thượng viện. Ngày 18 tháng Sáu,
Alexander Hamilton đệ trình mô hình chính quyền lý tưởng của riêng ông.
Tuy uyên bác và lịch lãm, nhưng bài phát biểu dài tới 5 giờ đồng hồ của
ông sau đó lại thất bại. Cho rằng chính quyền Anh là "tốt nhất trên thế
giới", Hamilton đề xuất một mô hình chính quyền tương tự: một Tổng thống
phục vụ suốt đời nếu có tư cách đạo đức tốt, có quyền phủ quyết tất cả
các đạo luật; một Thượng viện với các thành viên phục vụ suốt đời và cơ
quan lập pháp có quyền thông qua "bất kỳ đạo luật nào". Nhiều đại biểu
rất bất bình với kế hoạch này vì coi đó sẽ dẫn tới một chính thể quân
chủ lập hiến, một thứ Vua do dân bầu ra. Tuy không thành công với phương
án của mình, nhưng khi Hội nghị kết thúc, người New York uyên thâm này
đã trở thành người bảo vệ hăng hái nhất cho bản Hiến pháp mới theo mô
hình Virginia. Những người dân Mỹ vừa từ bỏ chế độ quân chủ Anh, nên
chẳng thích thú gì một mô hình tương tự, nhưng một số thành viên của Hội
nghị thật sự trông đợi đất nước đi theo hướng này. Ðại biểu Hugh
Williamson của tiểu bang Bắc Carolina, một bác sĩ phẫu thuật giàu có, đã
tuyên bố "khá chắc chắn rằng lúc này hay lúc khác chúng ta đều cần phải
có Vua". Các tờ báo xuất hiện vào mùa hè năm 1787 cũng đồn đại về một
phương án đang được xây dựng nhằm mời con trai thứ hai của Vua George
III là Frederick, Công tước xứ York, một giáo sĩ thế tục ở Osnaburgh,
Phổ, về làm "Vua của Hợp chúng quốc".
Thỏa hiệp lớn
Đến cuối tháng Sáu, cuộc tranh luận giữa
các bang lớn và các bang nhỏ về vấn đề đại diện tại cơ quan lập pháp thứ
nhất ngày càng gay gắt. Các đại biểu của Virginia và các bang lớn khác
khăng khăng yêu cầu số lượng đại biểu trong Quốc hội phải được chọn căn
cứ theo số dân, còn những đại biểu của các bang nhỏ nhất định đòi quyền
đại diện bình đẳng mà họ đã có như qui định của Các điều khoản Hợp bang.
Ngày 29 tháng Sáu, đại biểu của các tiểu bang nhỏ đã thua trong cuộc bỏ
phiếu về quyền đại diện tại Hạ viện. Hội nghị chấp thuận một giải pháp
xác nhận số dân là điều kiện cơ bản để xác định quyền đại diện tại viện
này, như vậy là ưu tiên các bang lớn. Ðối với đề nghị của các bang nhỏ
rằng các tiểu bang phải có quyền đại diện ngang nhau ở Thượng viện, việc
bỏ phiếu đã dẫn đến một kết quả hòa mà không bên nào giành được đa số
phiếu. Khi đại biểu của các bang lớn không sẵn lòng thỏa hiệp về vấn đề
này, Hội nghị trở nên cực kỳ căng thẳng tới mức một số đại biểu cho rằng
Hội nghị "đang ở bên bờ miệng vực của sự giải tán và sự đồng lòng của
Hội nghị này chỉ như ngàn cân treo sợi tóc". Thậm chí Franklin còn đề
nghị Hội nghị nên mời các mục sư tới làm lễ mỗi sáng để cầu nguyện
Thượng đế ban ơn và soi sáng cho cuộc thảo luận, nhưng có đại biểu lại
cho rằng Hội nghị cũng chẳng có tiền để trả cho việc này. Ngày 10 tháng
Bảy, quá tức giận vì Hội nghị hoàn toàn ở thế bế tắc, George Washington
đã phải thốt lên "cần phải làm một điều gì đó" và gọi những người chống
đối một chính quyền trung ương mạnh là "những chính trị gia thiển cận,
hẹp hòi, chịu ảnh hưởng của quan điểm địa phương chủ nghĩa". Luther
Martin, đại biểu bang Maryland, một người mà có lẽ Washington cho là có
đầu óc "thiển cận", lại nghĩ khác. Dù bản tính nóng nảy, nhưng Martin là
nhà hùng biện có hiệu quả nhất của các bang nhỏ. Người đàn ông Maryland
này nhẩy ngay vào cuộc tranh cãi về vấn đề đại diện và tuyên bố: "Các
tiểu bang phải có quyền bình đẳng về đại diện. Ðối với chúng ta, điều
này được đảm bảo bởi Các điều khoản Hợp bang; và ngay lúc này đây, chúng
ta đang được hưởng đặc ân đó". Ðúng thế, Hội nghị Lập hiến được tổ chức
hoàn toàn phù hợp với qui định bình đẳng giữa các bang theo Các điều
khoản Hợp bang . Cuộc tranh cãi phức tạp trong Hội nghị càng căng thẳng
thêm vì mẫu thuẫn giữa các bang miền Bắc với các bang miền Nam về phương
pháp tính nô lệ để xác định thuế và quyền đại diện. Vào thời gian đó,
chế độ sở hữu nô lệ đã được xóa bỏ ở các bang miền Bắc nhưng vẫn còn tồn
tại ở hầu hết các bang miền Nam. Ngày 12 tháng Bảy, Oliver Ellsworth đề
xuất quyền đại diện tại Hạ viện sẽ dựa trên cơ sở số người da trắng tự
do cộng với ba phần năm "những người còn lại", một uyển ngữ chỉ nô lệ.
Trong tuần tiếp theo, cuối cùng các thành viên dự Hội nghị cũng đạt được
thỏa hiệp. Họ đồng ý rằng thuế thu trực tiếp sẽ được xác định theo
quyền đại diện, còn quyền đại diện tại Hạ viện sẽ dựa trên tổng số người
da trắng và ba phần năm "những người khác". Nhờ thỏa hiệp này và với
nhận thức rằng những thỏa hiệp như vậy là cần thiết để tránh sự tan vỡ
hoàn toàn của Hội nghị, các thành viên sau đó chấp thuận việc các tiểu
bang có quyền đại diện bình đẳng tại Thượng viện. Như Roger Sherman đã
nói, mong ước của mọi đại biểu là "một mô hình chung nào đó của chính
quyền cần phải được thiết lập". Với việc thu xếp ổn thỏa cuộc khủng
hoảng về quyền đại diện, Hội nghị đã hài lòng như thể những vấn đề phức
tạp khác cũng đã được giải quyết. Trong những ngày tiếp theo, không khí ở
"Thành phố của tình bằng hữu” (Brotherly Love), tên gọi bóng bẩy của
Philadelphia, dù vẫn ngột ngạt và oi bức, nhưng đã có hương vị trong
trẻo của sự hòa giải. Bây giờ, Hội nghị mong muốn ít ra thì cũng phải có
một cái gì đó trên giấy. Những đề xuất trong Phương án Virginia được
Hội nghị xem xét và thảo luận từng điểm một cho tới khi hoàn tất vào
ngày 26 tháng Bảy. Cùng ngày, các đại biểu quyết định cử ra Ủy ban chi
tiết có nhiệm vụ xây dựng một bản dự thảo Hiến pháp, bao gồm 5 người:
Nathaniel Gorham (Massachusetts), Edmund Randolph (Virginia), James
Wilson (Pensylvania), Oliver Ellsworth (Connecticut) và John Rutledge
(Nam Caroline) là Chủ tịch Ủy ban. Họ có nhiệm vụ lập báo cáo về 15 điểm
của Phương án Virginia, có sửa đổi, kết hợp những điểm của Phương án
New Jersey và những đề xuất của Pinckney. Trong số họ, Edmund Randolph,
tác giả của Phương án Virginia, được chọn để phác thảo những nét chính
yếu cho bản Hiến pháp. Lúc này các đại biểu khác bỏ phiếu tự cho phép
mình có một kỳ nghỉ 10 ngày. Trong những ngày nghỉ này, Gouverneur
Morris và George Washington cùng cưỡi ngựa chạy qua vùng đất ở Thung
lũng Forge, tiểu bang Penssylvania, nơi 10 năm trước đó từng là Tổng
hành dinh của quân đội các thuộc địa. Trong khi Morris mải mê tìm những
chú cá hồi thì Washington lại trầm ngâm nhìn những bụi cây, nơi trước
đây đội quân của ông phải chịu đựng mùa đông buốt giá năm 1777-1778.
Những ngày tháng ở thung lũng Forge đó là thời kỳ suy sụp tệ hại nhất
đối với quân đội thuộc địa của Washington, nhưng đó là thời điểm mang
tính bước ngoặt của cuộc chiến. Kể từ ngày đó, nước Mỹ đã đi được một
chặng đường dài.
Bản phác thảo đầu tiên
Thứ Hai, ngày 6-8-1787, Hội nghị nhóm họp
lại sau kỳ nghỉ và nhận được bản dự thảo Hiến pháp đầu tiên do Ủy ban
chi tiết đệ trình. Ðây là bản được trình bày rất sáng sủa và hơn nữa,
còn bổ sung thêm một số điều như: "Quốc hội không được ban hành bất cứ
loại thuế hay phí nào đối với bất kỳ loại hàng hóa nào từ bất kỳ tiểu
bang nào và tất cả các tiểu bang đều phải chấp thuận sự di cư và định cư
của bất kỳ người dân nào từ tiểu bang này sang tiểu bang khác". Bản dự
thảo với 23 điểm đánh theo số thứ tự La Mã được John Rutledge, Chủ tịch
Ủy ban, trao cho từng đại biểu, bao gồm 7 trang chữ to dễ đọc, có lề
rộng để các đại biểu có những ghi chú cần thiết. Từ bản thảo này sẽ hình
thành bản Hiến pháp chính thức sau đó 5 tuần. Hội nghị dự định hoãn lại
hai ngày để các đại biểu có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng bị bác
bỏ. Các đại biểu chỉ nghỉ ngày hôm đó và hôm sau lại tiếp tục họp. Khi
các thành viên bắt đầu xem xét từng điều khoản, thì sự sẵn lòng thỏa
hiệp trước đó lập tức biến mất. Vấn đề gây tranh cãi mạnh mẽ nhất là các
qui định về thương mại. Các tiểu bang miền Nam, nơi xuất khẩu các sản
phẩm thô, gạo, thuốc nhuộm và thuốc lá, lo sợ Quốc hội do các tiểu bang
vùng New England (các bang miền Bắc) chiếm đa số có thể thông qua thuế
xuất khẩu và sẽ phá hỏng nền kinh tế của họ. Ðại biểu C.C.Pinckney tuyên
bố rằng nếu Quốc hội có quyền lực áp đặt các qui định này, thì các tiểu
bang miền Nam sẽ chẳng làm được gì, ngoài việc đứng nhìn các bang miền
Bắc. Ngày 21 tháng Tám, cuộc tranh cãi về thương mại đã dẫn đến một vấn
đề nóng bỏng khác: nô lệ. Khi đại biểu Luther Martin của tiểu bang
Maryland đề xuất một biểu thuế đối với việc nhập khẩu nô lệ, ngay lập
tức, Hội nghị rơi vào một cuộc tranh cãi rất căng thẳng về thể chế nô
lệ, về tính đạo đức của vấn đề này và về mối quan hệ kinh tế đối với
chính phủ mới. Ðại biểu John Rutledge của tiểu bang Nam Carolina cho
rằng tình trạng nô lệ chẳng liên quan gì đến đạo đức, và tuyên bố "Chỉ
riêng lợi ích mới là nguyên tắc điều hành các tiểu bang". Ðại biểu
Sherman của tiểu bang Connecticut ủng hộ việc từ bỏ vấn đề nhạy cảm này
trước khi nó gây nguy hiểm cho Hội nghị. Ðại biểu George Mason của tiểu
bang Virginia thể hiện mối lo ngại đối với việc nhập khẩu không hạn chế
nô lệ, nhưng sau đó đã nói rằng ông cũng ủng hộ việc liên bang bảo vệ
quyền sở hữu đối với các nô lệ đã có hiện nay. Cái vấn đề lằng nhằng về
khả năng can thiệp của liên bang trong việc buôn bán nô lệ mà Sherman và
các đại biểu khác lo sợ sẽ gây chia rẽ mãi mãi giữa các đại biểu của
các bang miền Nam với các bang miền Bắc đã được thu xếp ổn thỏa trong
"một sự mặc cả", như câu ví von của Mason. Ðể đổi lấy sự ủng hộ của các
bang vùng New England cho việc tiếp tục nhập khẩu nô lệ trong vòng 20
năm, các bang miền Nam đã chấp nhận một điều khoản qui định rằng để phê
chuẩn các dự luật về thương mại và hàng hải chỉ cần sự chấp thuận của đa
số quá bán các phiếu tại Nghị viện. Ðó là thuận lợi lớn đối với các
bang miền Bắc bởi các đạo luật liên quan đến hàng hải và thương mại,
những thế mạnh của miền Bắc, sẽ khó lòng được phê chuẩn nếu Hiến pháp
đòi hỏi phải đủ đa số phiếu tuyệt đối, tức là trên 2/3 phiếu bầu. Sự
thỏa hiệp này là một đòn chí mạng vào những người đòi bãi bỏ chế độ nô
lệ. Sau này, khi kết quả của Hội nghị được công bố, những người đã đấu
tranh không mệt mỏi đòi bãi bỏ chế độ nô lệ trên toàn quốc cảm thấy cực
kỳ thất vọng. Họ coi Hội nghị đã phản bội lại những nguyên tắc tự do cơ
bản nhất của con người từng được hết thảy dân chúng hân hoan trong Tuyên
ngôn Độc lập 11 năm trước đó. Nhiều người coi bản Hiến pháp này như một
thứ văn bản đáng đem đốt đi. Vấn đề Tuyên ngôn Nhân quyền có nên đưa
vào Hiến pháp không cũng gây tranh cãi kịch liệt. Ngày 31 tháng Tám,
George Mason, người trước đó ba tháng đã viết cho con trai đầy hy vọng
về "một công việc kỳ vĩ và lớn lao đang ở ngay trước mắt cha", giờ đây,
trong một tâm trạng cực kỳ mỏi mệt và thất vọng, đã buộc phải kêu lên
đầy cay đắng rằng "cha thà chặt cánh tay phải của cha còn hơn là ký vào
bản Hiến pháp này". Mason cảm thấy cực kỳ thất vọng, khi Hội nghị đang
đổ hết trách nhiệm gánh vác đất nước cho một chính quyền trung ương khờ
khạo, rất dễ dẫn cả nước Mỹ đến sự sụp đổ. Lo ngại Tuyên ngôn Nhân quyền
đảm bảo tự do cá nhân không thể trở thành một phần của bản Hiến pháp,
Mason kêu gọi tổ chức một Hội nghị khác xem xét lại toàn bộ việc hình
thành một chính quyền mới. Mặc dù sự vận động của Mason đã bị Hội nghị
bỏ phiếu hoàn toàn bác bỏ nhưng những người chống đối Hiến pháp vẫn
không từ bỏ ý tưởng về một Hội nghị mới. Trong suốt hai năm sau đó, đề
nghị này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng không đi đến kết quả nào.
Tới những ngày họp cuối cùng, một trong những vấn đề vướng mắc còn lại
vẫn chưa được giải quyết là phương pháp lựa chọn người đứng đầu cơ quan
hành pháp, tức là Tổng thống. Một loạt các đề nghị được đưa ra xem xét
như việc bầu cử trực tiếp bởi người dân, bởi cơ quan lập pháp của tiểu
bang, bởi thống đốc các tiểu bang và bởi cơ quan lập pháp liên bang.
Giải pháp cuối cùng được chấp nhận là một cử tri đoàn, một sự thỏa hiệp
có vẻ kỳ quặc và lạ lùng, nhưng lại là một thủ đoạn chính trị tuyệt vời
khôn ngoan. Các bang lớn đông dân có sức mạnh nhờ số lượng các đại biểu
đông đảo; cơ quan lập pháp tiểu bang có quyền chọn lựa các đại cử tri;
còn Hạ viện có quyền quyết định Tổng thống trong trường hợp không có ứng
cử viên nào chiếm đa số phiếu. Sau đó, Mason đã dự đoán là cứ 20 lần
bầu chọn Tổng thống thì có lẽ tới 19 lần Hạ viện sẽ phải bỏ phiếu quyết
định cuối cùng.
Ký kết bản Hiến pháp
Trong những ngày đầu tháng Chín, khi các
đại biểu đã kiệt sức, chỉ muốn trở về nhà, thỏa hiệp trở nên dễ dàng
hơn. Ngày 8 tháng Chín, Hội nghị bổ nhiệm Ủy ban Văn phong và Bố cục,
gồm 5 người với nhiệm vụ "chỉnh sửa lại văn phong và sắp xếp lại các
điều khoản đã được chấp thuận sau các cuộc tranh luận căng thẳng tại Hội
nghị". Các thành viên của Ủy ban này là: Alexander Hamilton, tiểu bang
New York; William Samuel Johnson, tiểu bang Connecticut; Rufus King,
tiểu bang Massachusetts; James Madison, tiểu bang Virginia và Gouverneur
Morris, tiểu bang Pennsylvania. Gouverneur Morris là kiến trúc sư
trưởng của công trình này. Là nhà hùng biện xuất sắc nhất Hội nghị, với
giọng văn hùng hồn, mạch lạc, ông được các thành viên khác hoàn toàn
nhất trí chọn làm người chắp bút cho văn bản quan trọng này. Một năm
sau, ông tự hào viết cho Timothy Pickering: "[Bản Hiến pháp đó] được
viết bằng chính những ngón tay đang viết bức thư này". Ngày 12 tháng
Chín, bản Hiến pháp được trình lên Hội nghị và các đại biểu lần lượt xem
xét từng điểm. Mặc dù các phiếu sít sao nhau trên nhiều điều khoản
nhưng dù sao công trình nhọc nhằn trong mùa hè lịch sử năm 1787 cuối
cùng cũng đã đạt đến mục tiêu. Ngày 15 tháng Chín, trước lần bỏ phiếu
cuối cùng, dù là người đầu tiên đưa ra đề xuất về mô hình chính quyền,
nhưng Edmund Randolph lại từ chối ký. Ông tuyên bố không thể ký vào văn
bản này nếu Hội nghị phê chuẩn của các tiểu bang không có quyền đề xuất
các điều sửa đổi bổ sung. Nhưng Madison và những người ủng hộ quyết định
rằng các hội nghị phê chuẩn của tiểu bang hoặc là thông qua, hoặc là
bác bỏ toàn bộ chứ không được quyền sửa chữa hay thêm bớt bất cứ điều
gì. Họ cho rằng nếu các tiểu bang có quyền đề xuất những sửa đổi bổ sung
sẽ rất lộn xộn, có thể sẽ phá hỏng những ý đồ thiết kế hoàn hảo của Hội
nghị. Ngoài ra, cách thức phê chuẩn những kiến nghị đó cũng gây ra
nhiều rắc rối, thậm chí có thể phải triệu tập một Hội nghị nữa mà có thể
sẽ chẳng đi tới đâu vì cũng như tại Hội nghị này, các ý kiến sẽ rất đa
dạng và trái ngược. George Mason cũng rất bất bình khi Hội nghị bỏ phiếu
cho phép Quốc hội có quyền ban hành những đạo luật về giao thương đường
thủy bởi điều đó chỉ làm giàu cho các thương gia miền Bắc của New York,
Philadelphia và Boston. Hơn nữa, bản Hiến pháp vừa hoàn thành có một
thiếu sót rất lớn, đó là không có Tuyên ngôn Nhân quyền để đảm bảo các
quyền tự do cho dân chúng. Các đại biểu khác lấy lý do rằng không thể
liệt kê đầy đủ các quyền này. Đại biểu Gerry của tiểu bang Massachusetts
cũng tuyên bố không ký bởi các lý do: Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ quá
dài và lại có quyền được tái cử; Hạ nghị viện có quyền không công bố một
phần các hoạt động của mình nếu coi đó là bí mật; Quốc hội có quyền tự
do định đoạt tiền lương của chính mình. Những đề xuất này cũng được
George Mason ủng hộ, nhưng bị Hội nghị bác bỏ. Vì thế, ba quý ngài cô
lập này dứt khoát từ chối ký vào văn bản này. Đến 6 giờ chiều, sau bẩy
tiếng đồng hồ thảo luận không nghỉ, cuối cùng cuộc biểu quyết đã trở nên
nhanh gọn và đơn giản. Khi các tiểu bang được yêu cầu biểu quyết đối
với bản Hiến pháp, từ mọi đoàn đại biểu đều vang lên "Aye" (Chấp thuận).
Ngày 17 tháng Chín, các đại biểu gặp nhau lần cuối cùng, Charles
Pinckney nói: "những lời tuyên bố của các vị đại biểu đáng kính vào thời
điểm sắp kết thúc một cuộc họp quan trọng như thế này đã khiến những
giờ phút này có ý nghĩa đặc biệt trang nghiêm”. Ông già Franklin đáng
kính đã viết sẵn một bài phát biểu dài và nhờ người đồng nghiệp James
Wilson đọc giùm. Với những lời lẽ được coi là chân thành và xúc động
nhất trong tất cả các bài phát biểu tại Hội nghị, Franklin cầu xin sự
thống nhất đối với bản Hiến pháp. Ông viết: "Tôi thừa nhận rằng lúc này
có nhiều điểm trong bản Hiến pháp tôi không thể chấp nhận, nhưng tôi
không chắc rằng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận nó. Tôi đã sống đủ lâu để
hiểu rằng chúng ta không nên dựa quá nhiều vào sự phán xét của chính
bản thân mình. Tôi thường thấy mình sai lầm ngay tại những điều ưng ý
nhất. Khi tôi càng nhiều tuổi, tôi càng nghi ngờ sự phán xét của chính
mình và quan tâm chú ý hơn đến những nhận xét của người khác. …Với những
suy nghĩ đó, thưa Ngài Chủ tịch, tôi đồng ý với bản Hiến pháp này với
mọi lỗi lẫm của nó, nếu có, bởi tôi nghĩ rằng chúng ta cần một chính
quyền chung… Tôi cũng nghi ngờ rằng không một Hội nghị nào có thể làm ra
được một bản Hiến pháp tốt đẹp hơn. Thưa Ngài, tôi nghĩ bản Hiến pháp
này cũng làm những kẻ thù của chúng ta ngạc nhiên, những kẻ đang tin
tưởng trông chờ rằng chúng ta cũng giống như những người xây dựng Tháp
Babel; rằng các tiểu bang của chúng ta đang ở bên bờ miệng vực của sự
tan rã, gặp nhau tại đây chỉ để cắt cổ họng của người khác." Cuối bài
phát biểu, ông mong ước "mọi Quý Ngài tham dự Hội nghị này, những người
vẫn còn những bất đồng về bản Hiến pháp, theo gương tôi, nhân lúc này,
hãy nghi ngờ một chút về tính không thể nhầm lẫn của chính mình và thể
hiện sự đồng lòng chân thành nhất bằng cách đặt chữ ký của mình vào văn
kiện này". Governeur Morris cũng đứng dậy tuyên bố rằng mình cũng có
nhiều điều không hài lòng với bản Hiến pháp. Nhưng vì cho rằng bản Hiến
pháp này là hoàn hảo nhất có thể đạt được, nên ông chấp thuận văn bản
này dù nó còn một số lỗi lầm. Ông cũng giải thích thêm rằng việc các đại
diện ký tên vào bản Hiến pháp chỉ có nghĩa là tất cả các tiểu bang đều
đồng lòng, chứ không phải là tất cả các đại biểu đều đồng lòng. Dù rất
ít nói trong suốt thời gian hội họp và vắng mặt trong hơn nửa thời gian
Hội nghị, thậm chí bản thân những đề xuất của ông bị bác bỏ, nhưng trong
bài phát biểu cuối cùng, Hamilton cũng kêu gọi các đại biểu ký vào bản
Hiến pháp. Ông nói: "bản Hiến pháp này có thể mang lại sự hỗn loạn vô
chính phủ. Nhưng mặt khác, nếu xem xét một cách tỉ mỉ, nó cũng có thể
đem lại nhiều điều tốt đẹp. Đây là lúc dân chúng đang sốt sắng ủng hộ
Hội nghị, nhưng sự sốt sắng đó có thể giảm bớt, nếu một vài đại biểu
quan trọng từ chối ký vào văn bản này”. Đại biểu Williamson của Bắc
Caroline đưa ra đề nghị là các đại biểu chỉ ký vào bức thư gửi Quốc hội
Hợp bang mà thôi, nhưng C. C. Pinckney tuyên bố là ông không muốn có một
thái độ mập mờ. Ông nghĩ tốt hơn hết là tất cả các đại biểu nên ký vào
văn bản này để chứng tỏ sự ủng hộ của mình và ông nguyện sẽ hành động
đúng như ông nói. Như vậy, trừ Mason, Gerry và Randolph từ chối ký tên
và nhiều người khác đã bỏ ra về, 39 đại biểu còn lại trong sảnh họp lần
lượt đặt chữ ký chính thức vào bản Hiến pháp và Hội nghị kết thúc vào 4
giờ chiều ngày 17 tháng Chín. Kiệt sức vì nhiều tuần lễ làm việc với áp
lực căng thẳng nhưng hài lòng với công trình của mình, các đại biểu đã
chung nhau một bữa tiệc chia tay tại "Quán rượu Thành phố" (City
Tavern). Cách đó hai dãy nhà, trên đường Market, hai thợ in John Dunlap
và David Claypoole làm việc suốt đêm để in văn bản Hiến pháp dài 6
trang. Những bản in này sẽ xuất hiện trên mọi tờ báo ở Philadelphia vào
buổi sáng hôm sau và rồi sau đó được in lại trên mọi tờ báo của 13 tiểu
bang. Giờ đây, cuộc tranh luận về mô hình chính quyền mới đã được đưa
lên một diễn đàn rộng hơn nhiều. Ngày 20 tháng Chín năm 1787, bản Hiến
pháp cùng bức thư do Chủ tịch Hội nghị George Washington viết đã được
gửi lên Quốc hội Hợp bang. Sau một vài ngày tranh luận, Quốc hội liền
gửi bản Hiến pháp này cho các tiểu bang để họ tự quyết định việc phê
chuẩn theo như những gì mà các đại biểu đề nghị và tuyên bố ngay khi có
đủ 9 trong tổng số 13 tiểu bang thông qua, một chính quyền mới như bản
Hiến pháp qui định sẽ được thành lập.
Tác phẩm Người Liên bang
Ký tên vào bản Hiến pháp, các đại biểu
cũng không tin tưởng chắc chắn rằng bản Hiến pháp do họ soạn thảo sẽ
được các tiểu bang thông qua. Ngay bản thân Washington cũng từng viết
trong nhật ký rằng ông không tin bản Hiến pháp này có thể tồn tại được
quá 20 năm. Nhưng Hamilton, sau này trở thành Bộ trưởng Tài chính đầu
tiên của chính quyền Liên bang, lại có những đánh giá khác về khả năng
thông qua Hiến pháp. Ông rất lạc quan tin tưởng bản Hiến pháp sẽ được
thông qua nhờ uy tín lớn lao của Washington, nhờ sự ủng hộ của tầng lớp
giàu có và niềm tin của nhiều người dân Mỹ rằng Các điều khoản Hợp bang
không đáp ứng đầy đủ với yêu cầu cấp thiết của đất nước. Hamilton dự
đoán rằng nếu Hiến pháp không được chấp nhận thì một cuộc nội chiến sẽ
xảy ra, nhưng nếu nó được phê chuẩn thì Washington sẽ trở thành Tổng
thống. Cũng giống như tại Hội nghị, các chính trị gia và dân chúng trên
khắp cả nước cũng chia thành hai phe: phe chống bản Hiến pháp, chống chế
độ Liên bang và phe ủng hộ bản Hiến pháp, ủng hộ chế độ Liên bang. Quan
điểm của những những người ủng hộ cũng như chống đối Hiến pháp được in
đi in lại trên tất cả các tờ báo trong cả nước. Với diện tích lớn, sự
giàu có, nhiều ảnh hưởng và là tiểu bang đầu tiên triệu tập Hội nghị
thông qua Hiến pháp, nên Pennsylvania nhận được sự quan tâm đặc biệt của
cả nước. Tâm trạng những người tán thành và chống đối tại đây cũng rất
căng thẳng. Ngày 29 tháng Chín, khi Quốc hội Pennsylvania – nơi phe Liên
bang chiếm đa số nhóm họp để quyết định triệu tập một Hội nghị phê
chuẩn, nhưng vẫn chưa hội đủ số lượng đại biểu cần thiết, một đám đông
dân chúng Philadelphia – những người ủng hộ bản Hiến pháp – đã lôi hai
người thuộc phe chống Liên bang từ nhà của họ đến trụ sở Hạ viện tiểu
bang và buộc họ phải ngồi lại trong khi Quốc hội tiểu bang bỏ phiếu. Ðó
là một ví dụ kỳ lạ về nền dân chủ đại diện! Ngày 5 tháng Mười, một người
chống liên bang tên là Samuel Bryan đã công bố bài viết đầu tiên của
mình trong loạt bài với tiêu đề "Centinel" trong tờ báo Independent
Gazetteer ở Philadelphia. Ðược in lại trong những tờ báo khác, những bài
viết này công kích mạnh mẽ quyền lực tối cao của chính quyền trung
ương, sự chiếm đoạt chủ quyền của tiểu bang và sự thiếu vắng một Tuyên
ngôn Nhân quyền để đảm bảo các quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận và
tự do tôn giáo. Bryan tuyên bố: "Nước Mỹ đang tan chảy" thành một đế chế
chuyên quyền và độc đoán của những quý tộc dòng dõi. Bryan thể hiện nỗi
sợ hãi của những người chống chủ nghĩa liên bang rằng chính quyền mới
sẽ bị những gia đình danh giá và giàu có lũng đoạn. Bryan tin là những
người dân thường đang gặp nguy hiểm vì phải khuất phục ý muốn của một
chính quyền có rất nhiều quyền hành, nhưng quá xa xôi và không thể tiếp
cận. Ông tin rằng người dân Mỹ phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống
lại chính quyền này như cuộc chiến tranh chống lại nền quân chủ Anh một
vài năm trước đó. Ngày hôm sau, James Wilson, một luật gia xuất chúng,
từng tham gia soạn thảo Hiến pháp, hùng hồn đọc một bài phát biểu bảo vệ
Hiến pháp trước một đám đông lớn tập trung ở trước cổng Hạ viện tiểu
bang. James Wilson ca ngợi chính quyền mới như là "một chính quyền tốt
nhất từng xuất hiện trên thế giới". Quan điểm của người Scotland này đã
thắng thế. Dẫn đầu bởi Wilson, Hội nghị của Pennsylvania, nơi phe Liên
bang chiếm đa số, đã tiến hành bỏ phiếu ngày 12 tháng Mười hai với tỷ lệ
thắng khá cao là 46 phiếu thuận so với 23 phiếu chống. Việc bỏ phiếu
thông qua Hiến pháp mới ở Pennsylvania đã không chấm dứt sự thù hận và
cay đắng. Franklin tuyên bố rằng những bài báo thô bỉ đăng trên báo chí
đã đưa ra cảm tưởng cả Pennsylvania "đầy rẫy những kẻ xấu xa nhất, đểu
giả nhất và là những kẻ vô lại suốt ngày cãi cọ". Ngày 26 tháng Mười
hai, tại Carlisle, một thị trấn nhỏ gần thủ phủ Harrisburg của
Pennsilvania, những người bạo động chống liên bang đã phá hoại lễ kỷ
niệm của những người phe Liên bang, rồi treo cổ hình nộm của Wilson và
Thomas McKean, Chánh án tòa án Pennsylvania, những lãnh tụ phe Liên bang
tại đây. Họ cũng vứt vào lửa một bản dự thảo Hiến pháp chép tay và ném
bị thương một vài người phe Liên bang. Cuộc luận chiến lan tràn khắp
lãnh thổ 13 tiểu bang, từ mùa thu qua mùa đông, từ mùa xuân sang mùa hạ.
Phe chống đối bao gồm một vài nhân vật có ảnh hưởng trong Hội nghị và
một số chính trị gia ở các tiểu bang, e sợ việc thiết lập chính quyền
trung ương sẽ cướp mất quyền lực của họ. Ngoài ra, nhiều người dân cũng
có ác cảm với chính sách thuế khoá. Họ nghi ngờ một chính quyền được tập
trung hóa sẽ phá hỏng những lợi ích địa phương. Những người vay nợ cũng
sợ hãi chính quyền mới sẽ nuôi dưỡng và làm giàu các chủ nợ. Tại New
York, bản Hiến pháp bị công kích trên báo bởi một loạt những bài luận
được ký tên "Cato". Nguy cơ một liên minh bao gồm tất cả các tiểu bang
không được thiết lập làm nhiều lãnh tụ phe Liên bang lo lắng, trong số
đó có Hamilton. Ông hoàn toàn hiểu rằng để một nhà nước liên bang vững
mạnh được thành lập, thì điều cực kỳ quan trọng là tiểu bang New York
phải chấp nhận bản Hiến pháp và tham gia liên bang. Thậm chí ông tin
rằng dù cho tất cả các tiểu bang khác phê chuẩn thì với qui mô dân số,
vị trí địa lý và ảnh hưởng lớn lao của mình, sự từ chối của New York
cũng sẽ phá hỏng quá trình hình thành Liên bang. Nếu Hợp chúng quốc được
thành lập mà không có New York tham gia thì Liên bang khó có thể vững
mạnh, thậm chí khó lòng tồn tại. Nguy cơ trên mảnh đất bên bờ Đại Tây
Dương tồn tại nhiều nhà nước riêng biệt có thể dẫn tới cuộc nội chiến
nếu mỗi quốc gia đi theo một hướng phát triển riêng. Chính vì thế, ngay
sau khi từ Philadelphia trở về, Hamilton đã lập kế hoạch hành động để
đảm bảo bản Hiến pháp được thông qua. Nhằm mục đích này, ông đã bắt đầu
viết những bài luận đầu tiên phân tích một cách có hệ thống những ưu
điểm của bản Hiến pháp mới, đồng thời đưa ra những mối hiểm họa nếu bản
Hiến pháp này không được chấp nhận. Hamilton đề nghị Madison và John Jay
cùng tham gia dự án này. James Madison, "kiến trúc sư trưởng" của bản
Hiến pháp, cũng nhận thức được vai trò quan trọng của New York trong
việc thiết lập chính quyền liên bang. Để lại tiểu bang quê nhà Virginia
lúc này đã an toàn trong tầm kiểm soát của Washington, ông sang New York
theo lời mời của Hamilton. Với sự hợp tác của hai bộ óc thông minh và
xuất chúng nhất thế hệ đó, Hamilton và Madison đã hoàn thành tác phẩm
chính trị đầu tiên và có giá trị vĩnh hằng đối với nước Mỹ . Tổng cộng
có 85 bài luận văn Người Liên bang (Federalist Papers) được xuất bản
trong khoảng thời gian từ ngày 27 tháng Mười năm 1787 đến ngày 28 tháng
Năm năm 1788. Những bài luận văn này xuất hiện trên những tờ báo lớn
nhất của New York và rồi được in lại trong nhiều tờ báo khác trong cả
nước Mỹ. Sau này, tên của những bài luận văn này cũng trở thành tên gọi
phong trào ủng hộ Hiến pháp và là tên của chính đảng do Hamilton lập ra,
Ðảng Liên bang . Những bài luận văn Người Liên bang đã giải thích Hiến
pháp một cách chi tiết và biện minh cho những ưu việt của một thể chế sẽ
được xây dựng. Sau này, Thomas Jefferson ca ngợi cuốn Người Liên bang
là "lời bình luận hay nhất về những nguyên tắc của chính quyền từng được
viết ra". Washington khen Hamilton và Madison rằng họ đã "đem nguồn ánh
sáng mới vào khoa học chính quyền. Đã có sự bàn luận đầy đủ, công bằng
về nhân quyền và những lời giải thích rõ ràng, mạnh mẽ đó nhất định sẽ
để lại ấn tượng lâu dài". Triết gia Anh John Stuart Mill của thế kỷ XIX
cũng cho rằng tác phẩm Người Liên bang là "luận thuyết bổ ích nhất mà
chúng ta hiểu về chính quyền liên bang". Chính trị gia người Pháp, nhà
bình luận sắc sảo, Alexis de Tocqueville, tác giả cuốn sách nổi tiếng
Bàn về nền Dân chủ Mỹ (1860) viết: "Ðó là cuốn sách tuyệt vời và có lẽ
gần gũi và cần thiết nhất đối với các chính khách của tất cả các nước".
Trong thế kỷ XX, những sử gia, những nhà luật học và các nhà khoa học
chính trị đều đồng ý rằng cuốn Người Liên bang là tác phẩm khoa học
chính trị quan trọng nhất bàn về chính quyền từng được viết ra tại Mỹ.
Tầm vóc lớn lao của tác phẩm này được so sánh với cuốn Nền Cộng hòa
(Republic) của Plato , Khoa học chính trị (Politics) của Aristotle và Uy
quyền tối cao (Leviathan) của Hobbes . Trái ngược với lòng quyết tâm và
khả năng lãnh đạo của những người ủng hộ Liên bang, phe đối lập hầu như
không đoàn kết được. Madison đã viết về những người chống Liên bang ở
Massachusetts: "Tại đây không có một cá nhân riêng biệt nào có khả năng
thống nhất ý muốn của họ hoặc chỉ đạo các biện pháp của họ… mà họ cũng
chẳng có kế hoạch nào cả". Phe chống Liên bang tấn công lung tung ở khắp
các lĩnh vực: thiếu một Tuyên ngôn nhân quyền; phân biệt đối xử đối với
các tiểu bang miền Nam trong các đạo luật về hàng hải; chính sách thuế
trực tiếp; sự mất mát chủ quyền của tiểu bang… và coi bản Hiến pháp này
là công trình của những chính trị gia quý tộc nhằm bảo vệ lợi ích của
tầng lớp này. Tại Massachusetts, một người tuyên bố: "Những luật sư đó
và những người có học thức, có tiền bạc làm cho những người nghèo, mù
chữ phải ngậm đắng nuốt cay… Họ sẽ nuốt chửng tất cả chúng ta như con
thủy quái nuốt chửng dân thường nhỏ bé. Đúng thế, như cá mập ăn thịt
người!". Một số bài báo, do những người chống liên bang viết, đưa ra
những dự đoán kỳ khôi về những điều rùng rợn có thể xảy ra dưới Hiến
pháp mới, như việc những kẻ ngoại giáo và những kẻ thần luận sẽ kiểm
soát chính quyền hay để điều tra các tội ác liên bang, người ta sẽ sử
dụng cực hình, hoặc thậm chí cả việc Ðức Giáo hoàng sẽ được bầu chọn làm
Tổng thống. Tuy nhiên, một vài lý lẽ chống liên bang là có cơ sở xác
thực, như tuyên bố rằng lãnh thổ của 13 tiểu bang là quá rộng lớn đối
với một chính quyền cộng hòa đại diện. Phe chống liên bang cho rằng
không thể thiết lập chế độ cộng hòa trong một lãnh thổ quá mênh mông như
thế. Khi đó, chính quyền không thể là những người đại diện cho dân
chúng mà sẽ bị những kẻ giàu có thao túng, sẽ chèn ép người nghèo và
giai cấp lao động. James Madison lật ngược quan điểm này và nhấn mạnh
rằng bản thân sự bao la của quốc gia sẽ là một lý do mạnh mẽ để ủng hộ
một nền cộng hòa. Tuyên bố rằng một nước cộng hòa rộng lớn sẽ làm đối
trọng những nhóm người có quan điểm chính trị khác nhau tranh giành
quyền lực, Madison viết: "Xã hội càng nhỏ thì sự khác biệt của các đảng
phái và những lợi ích cấu thành lại càng ít. Các khác biệt đảng phái và
lợi ích càng ít thì một đa số trong cùng đảng càng dễ hình thành và họ
càng dễ dàng xây dựng và thực thi âm mưu và sự đàn áp của họ". Madison
tranh luận rằng việc mở rộng phạm vi của nền cộng hòa sẽ làm giảm nguy
cơ bị các bè phái hay các phe cánh riêng rẽ gây ảnh hưởng. Như tuyên bố
nổi tiếng nhất của James Madison trong bài luận văn Người Liên bang số
10: "Nhưng chính phủ là gì nếu không phải là biểu hiện lớn lao nhất của
bản chất loài người?”. Ðó chính là nguyên lý căn bản nhất mà họ sử dụng
để bảo vệ thể chế chính quyền Liên bang.
Quá trình phê chuẩn Hiến pháp
Ðến ngày 9 tháng Giêng năm 1788, 5 trong
số 9 tiểu bang cần thiết theo qui định đã chấp thuận Hiến pháp là
Delaware (phê chuẩn ngày 7-12), Pennsylvania (ngày 12-12), New Jersey
(ngày 18-12), Georgia (2-1-1788) và Connecticut (ngày 9-1). Nhưng các
tiểu bang chủ chốt như Massachusetts, New York và Virginia vẫn không
chắc chắn về quyết định cuối cùng. Trong suốt tháng Giêng năm 1788,
phong trào chống Chủ nghĩa Liên bang ở Massachusetts do Samuel Adams
lãnh đạo khăng khăng đòi chỉ thông qua bản Hiến pháp mới nếu các quyền
tự do cá nhân được đảm bảo. Ngày 6 tháng Hai năm 1788, với việc những
người liên bang đồng ý đưa ra một danh mục các tu chính án vào Tuyên
ngôn Nhân quyền để bổ sung vào Hiến pháp, tiểu bang Massachusetts mới
đồng ý thông qua với 187 phiếu thuận và 168 phiếu chống. Nhà lãnh đạo
cách mạng lão thành John Hancock , Chủ tịch Hội nghị phê chuẩn Hiến pháp
ở Massachusetts do không thể quyết định chính kiến của mình đối với bản
Hiến pháp đã giả vờ vắng mặt với lý do bị ốm. Nhưng sau đó, bị những
người Liên bang dụ dỗ về triển vọng trở thành phó tổng thống và thậm chí
là Tổng thống nên Hancock, người bị Madison nhận xét là "một kẻ háo
danh", đột nhiên thay đổi quan điểm vào phút chót. Mặc dù bây giờ
Massachusetts đã an toàn cho phe Liên bang thì việc đề xuất Tuyên ngôn
Nhân quyền cũng là một chiến thắng lớn lao của phe chống Liên bang. Sau
đó, những bang còn lại cũng đòi hỏi các điều kiện tương tự. Khi Hội nghị
phê chuẩn của New Hampshire đang diễn ra nhưng bị sức ép của phe chống
Liên bang buộc phải dừng lại, thì phe Liên bang cảm thấy một thất bại
sắp đến gần. Đến ngày 24 tháng Ba, khi tiểu bang Rhode Island bác bỏ bản
Hiến pháp trong một cuộc trưng cầu dân ý với số phiếu quá áp đảo là 10
trên 1 thì những lãnh tụ phe Liên bang bắt đầu lo sợ thực sự. Trong khi
mong đợi kết quả từ Hội nghị phê chuẩn của tiểu bang Maryland, Madison
đã viết cho Washington: "Sự khác biệt thậm chí chỉ giữa sự trì hoãn và
sự phê chuẩn ở Maryland cũng có thể mang lại lợi thế sống còn đối với
những người chống đối bản Hiến pháp". Madison có một vài lý do để lo
lắng. Nhưng cuộc bỏ phiếu cuối cùng ngày 28 tháng Tư của tiểu bang
Maryland cho kết quả tốt như ông mong đợi với 63 phiếu thuận và 11 phiếu
chống. Tại Baltimore, một cuộc diễu hành khổng lồ được tổ chức để mừng
chiến thắng của phe Liên bang. Một con tàu dài được đặt tên là "Con tàu
Liên bang" được hạ thủy tại cảng Baltimore, rồi chạy dọc con sông
Potomac về vùng đất Mount Vernon, quê hương Washington. Ngày 21 tháng
Sáu, Hội nghị phê chuẩn của New Hampshire nhóm họp lại đã chấp thuận bản
Hiến pháp với một đa số nhỏ nhoi, 57 phiếu thuận và 46 phiếu chống, kèm
theo những tu chính án. Với việc tiểu bang Nam Carolina đã chấp thuận
Hiến pháp ngày 23 tháng Năm, New Hampshire đã trở thành tiểu bang thứ 9
thông qua bản Hiến pháp, đúng như yêu cầu đề ra. Ngày 2 tháng Bảy năm
1788, sau khi nhận được thông báo về việc phê chuẩn Hiến pháp của New
Hampshire, Quốc hội Lục địa, khi đó đang nhóm họp ở New York, đã quyết
định bổ nhiệm một Ủy ban "để đưa tất cả những gì Hiến pháp tuyên bố vào
hành động thực tiễn". Ngày 2 tháng Sáu năm 1788, Hội nghị phê chuẩn của
Virginia được tổ chức với sự có mặt của nhiều chính khách hàng đầu của
đất nước. Sau nhiều ngày họp căng thẳng, tới ngày 25 tháng Sáu, phe Liên
bang do Madison lãnh đạo đã vượt qua sự chống đối của Patrick Henry,
George Mason và Henry Lee. Virginia chính thức phê chuẩn bản Hiến pháp
mới với 89 phiếu thuận và 75 phiếu chống, nhưng cũng đòi hỏi hàng loạt
những tu chính án. Ðiều đó khiến phe chống Liên bang tại New York bắt
đầu dao động. Ngày 26 tháng Bảy năm 1788, sau rất nhiều tranh cãi, nhưng
được sự phê chuẩn của Virginia cổ vũ và những nỗ lực không mệt mỏi của
Hamilton, Hội nghị tiểu bang New York đã phê chuẩn Hiến pháp mới với số
phiếu rất sít sao là 30 phiếu thuận và 27 phiếu chống, nhưng kèm theo
điều kiện phải bao gồm Tuyên ngôn Nhân quyền. Tuy nhiên, sự vượt trội của phe Liên bang ở cả
hai bang chủ chốt này là rất sít sao. Hamilton phỏng đoán đa số dân
chúng ở New York thực sự chống lại Hiến pháp và có thể đa số dân chúng
trong toàn quốc cũng chống lại văn kiện này. Chỉ những lời cam kết và
các tu chính án mới đảm bảo chiến thắng cho phe Liên bang. Ngày 31 tháng
Bảy năm 1788, Bắc Caroline là tiểu bang cuối cùng, trừ Rhode Island,
phê chuẩn Hiến pháp với 183 phiếu thuận và 84 phiếu chống. Ngày 4 tháng
Ba năm 1789, Quốc hội Liên bang họp phiên đầu tiên tại thành phố New
York bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí bầu George Washington làm Tổng thống
đầu tiên của nước Mỹ. Ngày 30 tháng Tư năm 1789, Washington chính thức
tuyên thệ nhậm chức. Sau đó, Quốc hội lần lượt thông qua các đạo luật
thiết lập Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và Bộ Tài chính. Tới năm 1790,
nhận thấy không thể có một chỗ đứng cho một bang nhỏ và quá yếu, bị một
thể chế cộng hòa vững mạnh bao bọc, tiểu bang Rhode Island cũng chính
thức phê chuẩn bản Hiến pháp và gia nhập Hợp chúng quốc. Thế là ước mong
về một chính quyền vững mạnh của rất nhiều người Mỹ cuối cùng đã trở
thành hiện thực.
Tuyên ngôn Nhân quyền
Việc đòi hỏi phải có một tuyên ngôn nhân
quyền (The Bill of Rights) là vũ khí mạnh mẽ nhất của những người chống
chế độ Liên bang. Patrick Henry là một trong những người chỉ trích bản
Hiến pháp kịch liệt nhất khi liệt kê những điểm không rõ ràng và việc
thiếu vắng những công cụ bảo vệ cần thiết chống lại sự chuyên chế của
chính quyền. Trong Hội nghị phê chuẩn của Virginia, ông nhạo báng chủ
trương cân bằng và đối trọng của phe Liên bang rằng "Những trò cân bằng
và đối trọng giả tạo và hào nhoáng kia, cái trò bước đi trên dây đầy mạo
hiểm, những vụ huyên náo ầm ĩ, những toan tính kỳ quặc về kiểm soát và
đối trọng đó để làm gì?". Phe chống liên bang đòi hỏi một bản Hiến pháp
cô đọng hơn, chắc chắn hơn, nêu bật được quyền của dân chúng và những
giới hạn quyền lực của chính quyền. Richard Henry Lee cũng thất vọng về
sự thiếu vắng những điều khoản bảo vệ "những quyền thiết yếu của con
người mà không có tự do thì không thể tồn tại". Lee tranh cãi rằng việc
chuyển một chính quyền cũ thành chính quyền mới mà thiếu một tuyên ngôn
nhân quyền như vậy thì chỉ là việc "tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa". Dù rất
nhiều chính khách đương thời cũng cho rằng những quyền cơ bản của con
người cần phải được bảo đảm trong Hiến pháp, thì ngược lại, Wilson và
Madison, những lãnh tụ phe Liên bang lại khăng khăng giữ quan điểm rằng
một tuyên ngôn nhân quyền là không cần thiết, vì mọi quyền lực không
được trao cho chính quyền đều thuộc về dân chúng. Sau này, ngay cả
Thomas Jefferson cũng viết cho Madison rằng: "Tuyên ngôn nhân quyền là
điều mà dân chúng thường dùng để chống lại tất cả các chính quyền trên
trái đất". Mùa thu năm 1788, Madison bắt đầu tin rằng Tuyên ngôn Nhân
quyền không chỉ cần thiết để có Hiến pháp được thông qua mà sẽ có nhiều
tác dụng tốt khác. Ngày 17 tháng Mười, ông cho rằng "những châm ngôn cơ
bản về chính quyền tự do là một nền tảng tốt để khơi dậy ý thức của cộng
đồng" chống lại sự đàn áp tiềm tàng và sẽ "cân bằng được những nhu cầu
lợi ích và tình cảm của dân chúng". Sự ủng hộ của Madison đối với Tuyên
ngôn Nhân quyền chính là điều cực kỳ quan trọng. Với tư cách là Hạ nghị
sĩ của Virginia tại Quốc hội Liên bang khóa đầu tiên, tổ chức theo Hiến
pháp mới, ông làm việc không mệt mỏi để thuyết phục Hạ viện tiến hành
những bổ sung cần thiết cho bản Hiến pháp. Trong những tháng đầu tiên ở
Quốc hội, Madison đã vận động và xây dựng 17 tu chính án. Danh sách sau
đó được thu gọn lại thành 12 điều để trình lên Thượng viện. Ngày 2 tháng
Mười năm 1789, sau khi đã được Quốc hội Mỹ thông qua trong tháng Chín,
Tổng thống Washington gửi cho các tiểu bang các bản sao của 12 tu chính
án này. Ngày 15 tháng Mười hai năm 1791, ba phần tư các bang đã thông
qua 10 trong số 12 tu chính án đó mà sau này rất quen thuộc với người
dân Mỹ như là Tuyên ngôn Nhân quyền (Bills of Rights).
Giá trị vĩnh hằng của bản Hiến pháp
Bản Hiến pháp Mỹ năm 1787 đã mang đến cho
thế giới một ví dụ đầu tiên về một thể chế cộng hòa liên bang rộng lớn
được thành lập trên nguyên tắc đại diện. Mặc dù đây không phải là mô
hình đầu tiên được thành lập trên nguyên tắc dân chủ, nhưng bản Hiến pháp này đã xây dựng nền tảng cho
một chính quyền dân chủ cộng hòa lớn nhất trên thế giới. Bất chấp cuộc
nội chiến vĩ đại, bất chấp hai cuộc chiến tranh thế giới, bản Hiến pháp
này vẫn đứng vững qua thử thách của thời gian và các biến động. Như Tổng
thống Lincoln, người giải phóng chế độ nô lệ ở Mỹ, đã nói: "Những người
cha của chúng ta đã mang đến lục địa này một quốc gia mới, công nhận sự
tự do và cống hiến cho một mục tiêu cao cả rằng tất cả mọi người được
sinh ra đều bình đẳng. Sự thành công của Hội nghị ở Philadelphia chính
là việc thiết lập một bản Hiến pháp để "hình thành một liên minh hoàn
hảo hơn, thiết lập sự công bằng, đảm bảo một sự an toàn chung, thúc đẩy
sự thịnh vượng chung và bảo đảm tự do cho chính chúng ta và cho sự thịnh
vượng của chúng ta". Năm 1788, Benjamin Franklin nói với một phóng viên
Pháp rằng mô hình chính quyền mới cũng giống như trò chơi súc sắc, quá
nhiều người tham dự với các ý kiến, sở thích và lợi ích rất đa dạng sẽ
không thể mang lại kết quả mà không gây tranh cãi. Sau đó, Franklin đã
viết thư cho những người bạn ở châu Âu: "Tôi gửi tới các bạn bản dự thảo
Hiến pháp liên bang mới cho các vùng đất của nước Mỹ… Nếu chúng tôi
thành công, tôi không hiểu tại sao ở châu Âu, các bạn không thành lập
một liên minh bao gồm tất cả các quốc gia và các vương quốc khác nhau…".
200 năm sau, một Liên minh châu Âu được hình thành với 15 quốc gia và
rồi đây sẽ là một liên bang của 25 quốc gia như ý tưởng của Benjamin
Franklin và cũng là mơ ước đã thành hiện thực của rất nhiều người dân
châu Âu không phải bởi máu và bạo lực, mà bằng niềm tin, trí tuệ và sự
đồng lòng của hết thảy mọi người. Madison từng viết cho Jefferson rằng
sự gắn kết những mối quan tâm trái ngược nhau này thật sự là "một nhiệm
vụ khó khăn hơn cả việc thuyết phục những người không hề liên quan gì để
họ thực hiện nó". Khi các đại biểu rời Philadelphia lúc kết thúc Hội
nghị, nếu có thì cũng chỉ rất ít người tin tưởng vào sự tốt đẹp và sự
tồn tại vĩnh hằng của bản Hiến pháp mà họ vừa soạn thảo. Họ cũng không
biết rằng rồi đây, họ sẽ là những nhân vật chính tham gia tích cực vào
việc xây dựng một chính quyền mới. Vào cuối đời, James Madison, người
cuối cùng trong số 55 người tham gia Hội nghị này còn sống, đã viết
nguệch ngoạc trong một bức thư mà chưa bao giờ được gửi đi. Trong đó,
ông tuyên bố không có chính quyền nào là hoàn hảo và "đây chính là mô
hình ít khiếm khuyết nhất và do vậy sẽ là chính quyền tốt nhất". Nhiều
sử gia Mỹ gọi thành công mà Hội nghị Lập hiến đã làm là "Điều kỳ diệu ở
Philadelphia" và ngày nay, bản Hiến pháp Mỹ cùng với Tuyên ngôn Độc lập
được lưu giữ trang nghiêm và cẩn thận tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Mỹ
như những tài sản quý báu nhất của nhân dân Mỹ.
0 comments
Post a Comment