NGUYỄN CẢNH BÌNH
Ngày 21 tháng Bảy năm 1787
Mặc dù điều khoản thiết
lập nhánh tư pháp liên bang đã được Hội nghị thảo luận từ giữa tháng
Sáu, nhưng sau này, do nhiều thay đổi và biến động, nên Hội nghị đã đưa
ra thảo luận lại, đặc biệt là việc có trao quyền phủ quyết cho các thẩm
phán không.
Thật bất ngờ là các đại biểu chủ chốt nhất của Hội
nghị như Madison, Mason, G. Morris và James Wilson, những người được coi
là khôn ngoan và thông thái nhất, lại hoàn toàn thất bại trong việc
thuyết phục các đại biểu khác chấp nhận cho phép Tòa án Tối cao tham gia
vào quyền phủ quyết của Tổng thống.
Trong những buổi họp này, cách thức bầu chọn thẩm
phán cũng được thảo luận kỹ càng, bởi mục đích của cơ quan này là sự độc
lập và sáng suốt, không chỉ để xét xử dân chúng mà còn để phán xét mọi
sai trái của nhánh hành pháp cũng như nhánh lập pháp. Tuy nhiên, cũng
như nhiều vấn đề phức tạp khác, sau khi đồng ý cho phép Quốc hội chọn
lựa thẩm phán, khi bản dự thảo Hiến pháp được thảo luận lại vào cuối
tháng Tám, Hội nghị lại trao quyền chọn thẩm phán cho Tổng thống.
Ngài WILSON: Đề xuất sửa đổi điều
khoản số 10, nên viết là "nhánh tư pháp quốc gia sẽ cùng với bộ máy hành
pháp giữ quyền phủ quyết các đạo luật do Quốc hội ban hành". Trước đây,
đề xuất này đã được đưa ra nhưng bị bác bỏ. Nhưng ông tin vào tác dụng
tích cực của qui định này, nên ông buộc phải nêu lại. Bộ máy tư pháp cần
có cơ hội khuyên can và ngăn chặn sự tiếm quyền của dân chúng cũng như
của Quốc hội. Các thẩm phán sẽ là những người giải thích Hiến pháp nên
phải có trách nhiệm bảo vệ nó.
Cách thiết lập tòa án hiện nay cho phép cơ quan này có quyền lực lớn,
nhưng như thế vẫn chưa đủ. Luật pháp có thể không công bằng, có thể
không khôn ngoan, có thể nguy hiểm, có thể mang tính phá hoại, nên sẽ
không sáng suốt nếu không trao cho các thẩm phán quyền phủ quyết. Hãy để
họ cùng chia sẻ quyền phủ quyết các đạo luật với Tổng thống. Họ sẽ phân
tích những bộ luật và sẽ sử dụng quyền lực của mình chống lại những
quan điểm sai trái của cơ quan lập pháp.
Ngài MADISON: Ủng hộ quan điểm này.
Ngài GORHAM: Không thấy lợi ích nào
trong việc trao cho các thẩm phán quyền phủ quyết. Bới các thẩm phán
không sở hữu những kiến thức đặc biệt nào về các chính sách của xã hội
nên việc trao cho họ quyền giám sát hợp hiến là không cần thiết. Các
quan tòa ở Anh không có quyền nào như vậy, nhưng sự phán xét của họ cũng
không hề bị nhầm lẫn. Tốt nhất là chỉ cho phép Tổng thống mới có quyền
phủ quyết và cho Tổng thống quyền triệu tập các thẩm phán để tư vấn.
Ngài ELLSWORTH: Rất tán thành đề xuất
của Ngài Wilson. Trao thêm quyền phủ quyết cho các thẩm phán sẽ làm
tăng sự khôn ngoan và vững chắc của nhánh hành pháp bởi họ có kiến thức
hệ thống và chính xác về luật pháp, điều mà Tổng thống không thể có
được. Luật pháp quốc gia thường xuyên bị nghi ngờ và chất vấn nên chỉ
các thẩm phán mới có được các thông tin và kiến thức đầy đủ nhất về vấn
đề này.
Ngài MADISON: Coi đây là vấn đề đặc
biệt quan trọng đối với bản Hiến pháp. Sẽ có ích nếu trao thêm cho nhánh
tư pháp quyền tự vệ, chống lại sự lạm quyền của cơ quan lập pháp. Điều
này cũng có ích cho nhánh hành pháp, vì cơ quan này sẽ có thêm niềm tin
và sự vững chắc trong việc thi hành quyền phủ quyết. Nhờ sự trợ giúp có
giá trị đó, cơ quan lập pháp cũng có lợi vì qui định này sẽ duy trì được
sự kiên định, tính chính xác, sự minh bạch cho các đạo luật, chống lại
những ý muốn và hành động bất thường của nền Cộng hòa.
Điều này cũng có ích cho toàn cộng đồng vì đó là biện
pháp kiểm tra cần thiết chống lại những đạo luật bất công và xấu xa
hiện gây rất nhiều tai họa cho chúng ta. Nếu đề xuất này bị chống đối
thì sẽ phải trao thêm nhiều quyền lực hoặc cho Tổng thống, hoặc cho Tòa
án. Ông không nghĩ rằng ý kiến này là hợp lý. Tuy nhiên, cần phải hiểu
rằng dù có sự hợp tác giữa hai nhánh chính quyền này, thì cơ quan lập
pháp vẫn sẽ áp đảo họ.
Thực tế ở mọi tiểu bang đều khẳng định cơ quan lập
pháp đều có xu hướng muốn giành mọi quyền lực vào tay mình. Đó là mối
nguy hiểm thật sự cho bản Hiến pháp Liên bang.
Vì thế, việc trao mọi thẩm quyền tự vệ cho các nhánh chính quyền khác là hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc cộng hòa.
Ngài MASON: Rất tán thành quan điểm
này. Qui định này sẽ làm Tổng thống có thêm niềm tin. Nếu không, quyền
phủ quyết của Tổng thống sẽ có ít ý nghĩa.
Ngài GERRY: Mục đích của quyền phủ
quyết là giúp Tổng thống có cơ hội chống lại sự lạm quyền của Quốc hội.
Do Tổng thống là người hiểu biết nhất và sẵn sàng nhất bảo vệ quyền lợi
của mình, nên chỉ riêng Tổng thống có quyền này là đủ. Ông phản đối mạnh
mẽ việc trao cho tòa án quyền này, bởi đó là sự kết hợp của nhánh lập
pháp với một nhánh chính quyền khác.
Qui định này sẽ thiết lập sự hợp tác không chính đáng
giữa nhánh hành pháp và tư pháp, và làm cho các thẩm phán trở thành
chính khách và là người bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Những nghị sĩ
đại diện cho dân chúng mới chính là những người bảo vệ quyền và lợi ích
của người dân.
Việc biến những thẩm phán thành những nhà làm luật là
không thể được. Phương pháp chỉnh sửa luật pháp tốt nhất là biện pháp
đang được tiểu bang Pennsylvania tiến hành: bổ nhiệm một hay một vài
người có trình độ và kiến thức để soạn thảo các đạo luật cho cơ quan lập
pháp.
Ngài STRONG: Cũng nghĩ như Ngài Gerry
rằng nguyên tắc đúng đắn nhất là quyền làm luật phải tách riêng với
quyền giải thích luật. Các thẩm phán, khi làm người giải thích luật, vẫn
có thể chịu ảnh hưởng bởi phe phái của mình và sẽ chịu ảnh hưởng này
trong việc làm luật.
Ngài G. MORRIS: Cần phải có những
kiểm soát cần thiết đối với cơ quan lập pháp, nhưng vấn đề là cần trao
chúng vào tay ai. Một mặt, nhiều quý ngài cho rằng chỉ trao quyền này
cho riêng Tổng thống. Nhưng một Tổng thống được bổ nhiệm trong một nhiệm
kỳ nhiều năm và không bị luận tội không thể là sự kiểm soát hiệu quả.
Mặt khác, ông cũng muốn tăng cường sức mạnh của nhánh tư pháp.
Lập luận ủng hộ quan điểm những người giải thích luật
không thể là những người làm luật được rút ra từ hệ thống chính quyền
Anh. Nhưng sự thực là các thẩm phán ở Anh tham gia rất nhiều vào quá
trình lập pháp. Họ được tư vấn trong nhiều trường hợp phức tạp. Các thẩm
phán có thể là thành viên của Nghị viện, hay thành viên của Hội đồng Cơ
mật và có thể khuyên can Thủ tướng Anh. Ảnh hưởng của các thẩm phán Anh
đối với Nghị viện Anh trong việc tăng cường sự kiểm soát của bộ máy
hành pháp không lớn bởi Vua Anh có quyền quyết định cuối cùng đối với
mọi bộ luật.
Sự khác biệt giữa hai trường hợp này làm cho không
thể áp dụng mọi lý giải của mô hình Anh với bản Hiến pháp Mỹ. Bộ máy
hành pháp Anh có những lợi ích và đặc quyền rất lớn và có những biện
pháp rất mạnh để tự vệ, nên chúng ta đừng làm theo mô hình này. Lợi ích
của bộ máy hành pháp chúng ta nhỏ bé và tạm thời với những biện pháp tự
vệ rất yếu nên ông sợ Tổng thống sẽ không đủ uy quyền và sức mạnh chống
lại sự lạm quyền đó mà sự vững chắc và sức mạnh của bộ máy tư pháp cũng
không đủ để bù đắp những thiếu hụt đó. Tự do của dân chúng sẽ nguy hiểm
bởi sự tiếm quyền của cơ quan lập pháp hơn là bởi những nhánh chính
quyền khác.
Ngoài ra, cơ quan lập pháp cũng được coi như những
người bảo vệ tự do. Câu trả lời rất đơn giản và rõ ràng. Nếu các đạo
luật tốt được ban hành thì không cần kiểm soát, nhưng nếu các đạo luật
xấu được ban hành, thì cần sự kiểm soát mạnh và đó là trường hợp này.
Việc ban hành tiền giấy làm dân chúng hoan hỉ vì nó làm giảm nhẹ các
khoản nợ nần nên được dân chúng tán thành, nhưng qui định đó cần phải
được ngăn chặn.
Vào những thời điểm khác, lợi ích của các cơ quan lập
pháp thường giống với lợi ích của dân chúng nên các đạo luật như vậy sẽ
dễ dàng được ban hành.
Thực tế đã dạy chúng ta rằng báo chí thực sự là một công cụ chống lại mọi tội ác, nhưng không đủ khả năng ngăn chặn chúng.
Ngài L. MARTIN: Coi việc kết hợp tòa
án và Tổng thống có chung quyền phủ quyết là một cải cách sai lầm và
nguy hiểm vì không đưa lại ý nghĩa tích cực nào. Kiến thức về các hoạt
động lập pháp không thể coi là thuộc về lĩnh vực chuyên tâm của tòa án
hơn là của Quốc hội vì tòa án chỉ thích hợp trong việc xác định tính hợp
hiến của các đạo luật.
Với chức năng này, họ có quyền phủ quyết đạo luật.
Việc kết hợp với nhánh hành pháp sẽ làm cho họ có một quyền phủ quyết
kép. Điều cần thiết là Tòa án Tối cao phải được dân chúng tin tưởng.
Điều này sẽ nhanh chóng mất đi nếu trao cho họ quyền can gián và ngăn
cản các đạo luật được lòng dân của cơ quan lập pháp. Ngoài ra, đâu là tỷ
lệ và hình thức bỏ phiếu của họ trong Hội đồng phủ quyết?
Ngài MADISON: Việc trao quyền phủ
quyết và kiểm soát cơ quan lập pháp cho các thẩm phán không vi phạm các
nguyên tắc phân quyền. Ngược lại, đó là sự cẩn trọng bổ sung theo đúng
nguyên tắc này. Nếu sự phán xét sáng suốt hợp hiến của mọi nhánh chính
quyền trên lý thuyết là đủ an toàn chống lại sự lạm quyền của các nhánh
khác thì không cần những sự đề phòng tiếp theo.
Nhưng thực tế dạy chúng ta không nên tin tưởng vào sự
bảo vệ đó mà cần phải tạo ra sự cân bằng giữa các quyền lực và các lợi
ích. Nhưng đó cũng chỉ là sự đảm bảo trên lý thuyết. Do đó, ngoài việc
áp dụng đúng lý thuyết mỗi nhánh chính quyền cần tách biệt, cũng cần
phải bổ sung thêm sự kiểm soát khác nữa để duy trì lý thuyết đó trên
thực tế.
Việc kết hợp như vậy không làm pha trộn các nhánh
chính quyền. Chúng ta dựng ra những rào cản có hiệu quả để giữ họ tách
biệt nhau. Minh họa điển hình nhất theo lý thuyết này là thể chế của
nước Anh. Sự thực là các thẩm phán Anh có ghế trong cơ quan lập pháp và
trong cả Hội đồng Hành pháp. Họ nhận được mọi dự luật trước khi ban
hành. Thể chế Anh qui định nhánh hành pháp có quyền phủ quyết mọi đạo
luật. Nhưng thể chế Anh cũng được tính toán để duy trì sự cân bằng của
toàn thể chính quyền.
Những phản đối chống lại việc trao cho nhánh hành
pháp và tư pháp cùng nắm quyền phủ quyết các đạo luật không hề có nền
tảng vững chắc và cũng không phân tích kỹ càng. Nếu sự kết hợp như vậy
là sự pha trộn không đúng đắn các quyền lực, hay quyền kiểm tra tư pháp
đối với các đạo luật là mẫu thuẫn với lý thuyết về một bản Hiến pháp tự
do, thì cũng cần phải coi bất cứ sự can thiệp nào của nhánh hành pháp
vào quá trình ban hành luật, như các quý ngài đã phê chuẩn, cũng vi phạm
lý thuyết này.
Đại tá MASON: Việc bảo vệ nhánh hành pháp không phải là mục đích duy nhất củ
Đại tá MASON: Việc bảo vệ nhánh hành pháp không phải là mục đích duy nhất củ
quyền phủ quyết mà quyền này còn mang lại nhiều lợi
ích hơn nữa. Mặc dù bản Hiến pháp đã có những qui định cẩn trọng về cơ
quan lập pháp, thì cũng giống như các cơ quan lập pháp tiểu bang, Quốc
hội Liên bang có thể thông qua nhiều đạo luật bất công và sai trái, nên
cần phải bị kiềm chế.
Quyền can thiệp của Tòa án không chỉ cản trở việc phê
chuẩn cuối cùng đối với các đạo luật mà còn cảnh báo những kẻ mị dân
đang âm mưu ban hành những đạo luật này. Ngài L. Martin cũng nói rằng
nếu các thẩm phán tham gia vào việc kiểm soát các đạo luật, họ sẽ có
quyền phủ quyết kép, bởi với tư cách là thẩm phán, họ cũng đã có một
quyền phủ quyết rồi. Nhưng năng lực đó chỉ giúp họ ngăn cản trong một
trường hợp mà thôi. Đó là trong quá trình thi hành các đạo luật.
Họ có thể tuyên bố một đạo luật nào đó là trái Hiến
pháp và là vô hiệu. Nhưng đối với mọi đạo luật bị thi hành sai trái và
bất công, thì không thuộc phạm vi quyền hạn của họ.
Ông muốn trao thêm quyền cho các thẩm phán, cho phép
họ tham gia ngăn cản việc ban hành những đạo luật sai trái. Sự trợ giúp
của họ càng có giá trị vì họ rất hiểu luật pháp và rất hiểu hậu quả của
những đạo luật này.
Ngài WILSON: Việc phân chia các nhánh
chính quyền không có nghĩa là các nhánh này phải có các mục đích khác
nhau mà là họ hành động riêng rẽ với cùng một mục đích. Vì thế, việc hai
Viện của Quốc hội hoạt động riêng rẽ là cần thiết, nhưng đều hoạt động
vì một mục đích chung.
Ngài GERRY: Thà trao cho Tổng thống
quyền phủ quyết tuyệt đối còn hơn là sự pha trộn như vậy giữa bộ máy tư
pháp và hành pháp. Qui định này sẽ làm cho họ thiết lập liên minh chống
lại cơ quan lập pháp và làm cho cơ quan lập pháp khó khăn trong cuộc
tranh cãi với hai cơ quan này.
Ngài G. MORRIS: Rất ngạc nhiên khi
thấy bất kỳ điều khoản nào bảo đảm sự tách biệt có hiệu quả các cơ quan
chính quyền đều bị coi là sự pha trộn không đúng đắn. Giả sử trao cho ba
người ba quyền lực khác nhau, với thỏa thuận giữa họ là một người có
quyền làm luật, một người có quyền thi hành và người kia có quyền phán
xét. Vậy bản chất của việc này không phải là hai người sau, ít nhất theo
lý thuyết, cũng hình thành một liên minh giám sát và theo dõi người đầu
tiên phải thi hành đúng đắn nghĩa vụ của mình.
Với quyền lực của mình, hai cơ quan kia có thể dễ
dàng hình thành một sự đảm bảo chống lại các hành động sai trái của cơ
quan lập pháp. Vì thế, hai cơ quan kia phải được trang bị quyền phủ
quyết để tự bảo vệ mình, hay ít nhất cũng phải có cơ hội tuyên bố những
lý lẽ của mình chống lại những hành động vi phạm của cơ quan thứ ba.
Chẳng ai nói rằng việc ba người hàng xóm có ba mảnh ruộng riêng rẽ, mỗi
người có quyền bảo vệ mảnh đất của mình, chống lại những người hàng xóm
khác, sẽ có xu hướng kết hợp cả ba mảnh ruộng này.
Ngài GHORUM: Mọi người đều đồng ý cần
có sự kiểm soát cơ quan lập pháp. Nhưng có hai lý lẽ phản đối việc cho
phép các thẩm phán tham gia vào sự kiểm soát này và khó lòng trả lời
được những phản đối này. Thứ nhất, các thẩm phán vừa giải thích lại vừa
tham gia soạn thảo các đạo luật. Thứ hai, vì số lượng các thẩm phán sẽ
đông đảo hơn, nên quyền phủ quyết của Tổng thống sẽ hoàn toàn tuột khỏi
tay của Tổng thống, nên thay cho việc tự bảo vệ mình, quyền này sẽ làm
các thẩm phán sẵn sàng bán rẻ Tổng thống.
Ngài WILSON: Những ý kiến của Ngài
Ghorum đã đưa ra lập luận bác bỏ lại chính nó. Theo như Ngài Gerry,
quyền này sẽ làm nhánh hành pháp và tư pháp thống nhất thành một liên
minh chống lại cơ quan lập pháp. Theo Ngài Ghorum, quyền này sẽ dẫn tới
sự vượt trội của nhánh tư pháp đối với nhánh hành pháp. Câu trả lời đối
với Ngài Gerry là quyền lực hợp nhất của hai cơ quan này là cần thiết để
đối trọng với cơ quan lập pháp.
Đối với lập luận phản đối đầu tiên của Ngài Ghorum,
có thể thấy rằng quyền soạn thảo sẽ tự kết hợp với quyền giải thích và
ưu điểm thu được lớn hơn nhiều những nhược điểm gặp phải. Đối với phản
đối thứ hai, chỉ cần bổ sung một qui định tỷ lệ hay cách thức bỏ phiếu
sẽ đảm bảo không xảy ra sự áp đảo nhờ số lượng của các thẩm phán đối với
Tổng thống.
Ngài RUTLIDGE: Các thẩm phán là những
người không phù hợp nhất với quyền phủ quyết. Các thẩm phán sẽ không
bao giờ đưa ra ý kiến của mình về một đạo luật cho đến khi có vụ kiện
xảy ra. Ông cho rằng quyền phủ quyết đó không cần thiết phải trao cho
các thẩm phán. Tổng thống có thể nhận lời khuyên từ các quan chức nhà
nước, như Bộ Chiến tranh, Bộ Tài chính… Những thông tin và ý kiến của họ
rất có ích cho Tổng thống.
Đề xuất của Ngài Wilson cho tòa án tham gia quyền phủ quyết bị Hội nghị bỏ phiếu bác bỏ:
MA: phản đối; CT: đồng ý; NJ: không có mặt; PA: chia
rẽ; DE: phản đối; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: phản đối; SC: phản đối;
GA: chia rẽ.
Đề xuất trao cho Tổng thống giữ quyền phủ quyết tuyệt đối được toàn Hội nghị thông qua.
Đề xuất bị hoãn lại của Ngài Madison vào ngày 18
tháng Bảy rằng: "các thẩm phán sẽ do Tổng thống bổ nhiệm, trừ phi bị 2/3
số thành viên của Thượng viện bác bỏ" được đưa ra thảo luận.
Ngài MADISON: Các lý do cho quan điểm của ông là:
1. Điều này sẽ đảm bảo trách nhiệm của Tổng thống,
người nói chung có khả năng và thích hợp chọn ra những cá nhân đúng đắn
hơn cơ quan lập pháp, thậm chí, kể cả Thượng viện, bởi cơ quan này
thường che giấu động cơ ích kỷ của họ trong việc bổ nhiệm.
2. Trong trường hợp sự lựa chọn của Tổng thống rõ ràng là sai lầm và người được đề cử có tư cách kém cỏi, thì 2/3 Thượng viện có quyền phủ quyết sự bổ nhiệm này.
3. Vì mọi tiểu bang đều có quyền bỏ phiếu bình đẳng tại Thượng viện,
nên nguyên tắc thỏa hiệp, rất thích hợp trong nhiều trường hợp khác, thì
lần này cũng đòi phải có sự nhất trí của cả hai thẩm quyền: một thẩm
quyền đại diện cho dân chúng, một thẩm quyền đại diện cho các tiểu bang.
2. Trong trường hợp sự lựa chọn của Tổng thống rõ ràng là sai lầm và người được đề cử có tư cách kém cỏi, thì 2/3 Thượng viện có quyền phủ quyết sự bổ nhiệm này.
Nếu chỉ Thượng viện có quyền chọn lựa thì các thẩm phán có thể được bổ nhiệm bởi thiểu số dân chúng dù bởi đa số các tiểu bang, nên sẽ không công bằng vì công việc của thẩm phán liên quan đến dân chúng, chứ không liên quan đến các tiểu bang. Hơn nữa, qui định này sẽ ném quyền bổ nhiệm hoàn toàn vào tay các bang miền Bắc, gây sự đố kỵ và sự bất bình nặng nề cho các bang miền Nam.
Ngài PINCKNEY: Ủng hộ việc giao toàn
quyền bổ nhiệm cho Thượng viện. Tổng thống không đủ khả năng đánh giá
các cá nhân và cũng không được dân chúng tuyệt đối tin tưởng.
Ngài RANDOLPH: Ưa thích mô hình bổ
nhiệm trước đây của Ngài Gorham, như đã được chấp thuận trong bản Hiến
pháp của Massachusetts. Tổng thống có trách nhiệm bổ nhiệm những người
thích hợp. Sự bổ nhiệm bởi cơ quan lập pháp thường gây ra nhiều mưu đồ.
Quan điểm cá nhân hay những động cơ là điều được xét, chứ không phải là
phẩm chất và tư cách của ứng cử viên. Những nhược điểm tương tự sẽ tăng
tương ứng theo số lượng người tham gia việc bổ nhiệm, dù là Viện nào
trong cơ quan lập pháp hay bất cứ nhóm người nào.
Ngài ELLSWORTH: Đề nghị Thượng viện
sẽ bổ nhiệm và Tổng thống có quyền phủ quyết việc bổ nhiệm này, nhưng
quyền phủ quyết của Tổng thống sẽ không có hiệu lực nếu 2/3 Thượng nghị
sĩ vẫn phê chuẩn việc bổ nhiệm. Nhưng cách tốt nhất là trao quyền bổ
nhiệm tuyệt đối cho Thượng viện.
Dân chúng sẽ nhìn Tổng thống với con mắt đố kỵ và nghi ngờ. Dân chúng sẽ phản đối mọi quyền lực không cần thiết được trao cho Tổng thống, bởi điều này chỉ làm tăng ảnh hưởng của ông ta.
Vì Tổng thống chỉ làm việc ở một nơi, nên ông ta
không đủ thông tin để đánh giá các cá nhân. Tổng thống dễ bị lừa phỉnh
và nhiều mưu đồ hơn cả Thượng viện. Quyền của Tổng thống được bác bỏ sự
bổ nhiệm của Thượng viện chỉ là hình thức bởi sự đề xuất của ông ta
trong bối cảnh như vậy cũng chẳng khác gì sự bổ nhiệm.
Ngài G. MORRIS: Tán thành quan điểm này vì:
1. Các tiểu bang, với khả năng hợp tác của mình,
thường xuyên có mối lợi ích trong những phán quyết của Tòa án. Nếu trao
cho Thượng viện quyền bổ nhiệm thẩm phán, các thẩm phán sẽ phụ thuộc vào
Thượng viện, tức là phụ thuộc vào các tiểu bang.
2. Nói rằng Tổng thống không có thông tin đầy đủ về các ứng cử viên là không đúng mà ngược lại, Thượng viện mới không có đủ thông tin. Họ đánh giá những ứng cử viên thông qua lời lẽ ngọt ngào của những người bạn họ. Vì Tổng thống thường trao đổi và làm việc với tất cả mọi vùng đất của nước Mỹ nên sẽ có thông tin tốt nhất.
3. Các Ngài nói Tổng thống cũng có mối hiềm khích và ghen tị. Nếu
Tổng thống được tin tưởng để trao quyền chỉ huy quân đội, thì chẳng có
lý do nào cho sự hiềm khích trong trường hợp này.2. Nói rằng Tổng thống không có thông tin đầy đủ về các ứng cử viên là không đúng mà ngược lại, Thượng viện mới không có đủ thông tin. Họ đánh giá những ứng cử viên thông qua lời lẽ ngọt ngào của những người bạn họ. Vì Tổng thống thường trao đổi và làm việc với tất cả mọi vùng đất của nước Mỹ nên sẽ có thông tin tốt nhất.
Ông nói thêm, nếu việc trao cho cơ quan lập pháp
quyền bổ nhiệm Tổng thống bị phản đối kịch liệt thì việc cho phép cơ
quan lập pháp hay Thượng viện có quyền bổ nhiệm thẩm phán cũng phải bị
phản đối không kém.
Ngài GERRY: Việc bổ nhiệm thẩm phán
cũng giống như mọi điểm khác của bản hiến pháp phải làm hài lòng cả công
chúng và các tiểu bang, nhưng mô hình được đề xuất này chẳng làm hài
lòng dân chúng, mà cũng chẳng làm hài lòng các tiểu bang. Ông tin chắc
rằng Tổng thống không thể có đầy đủ thông tin về mọi vùng đất của đất
nước như Thượng viện. Ông cũng phản đối kịch liệt việc đòi hỏi phải có
2/3 Thượng viện để bác bỏ sự bổ nhiệm của Tổng thống. Thượng viện được
thiết lập giống như Quốc hội Hợp bang và những bổ nhiệm này của Quốc hội
nói chung là tốt.
Ngài MADISON: Ông không nhất định đòi
phải có 2/3 Thượng viện để phủ quyết sự bổ nhiệm của Tổng thống mà chỉ
muốn thay đổi một chút cách thức đã bị bác bỏ. Ông đồng ý giảm bớt đòi
hỏi này bằng việc chỉ cần đa số (quá nửa) là đủ quyền phủ quyết.
Đại tá MASON: Ông khác quan điểm và
cách lý giải về vấn đề này. Bất kể việc bổ nhiệm thẩm phán thế nào thì
cũng chỉ có hai hình thức, hoặc là Tổng thống hoặc là Thượng viện. Hội
nghị dường như nghiêng về phía trao cho Tổng thống quyền này. Nhưng ông
coi việc bổ nhiệm bởi Tổng thống là một sai lầm nguy hiểm. Bởi thậm chí,
điều này còn làm tăng ảnh hưởng của Tổng thống đối với tòa án. Sự khác
biệt lợi ích giữa các bang miền Bắc và miền Nam không thể sử dụng trong
tranh luận này. Sự khác biệt này đòi hỏi sự cẩn trọng trong các đạo luật
hàng hải, thương mại và nhập khẩu, nhưng ông không thấy vấn đề này liên
quan gì đến nhánh tư pháp.
Về đề xuất rằng: Tổng thống sẽ đề cử thẩm phán và sự
đề cử này sẽ trở thành sự bổ nhiệm trừ phi bị Thượng viện bác bỏ với 2/3
số phiếu:
MA: đồng ý; CT: phản đối; PA: đồng ý; DE: phản đối;
MD: phản đối; VA: đồng ý; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: phản đối. (3
bang đồng ý; 6 bang phản đối)
Về điều khoản thẩm phán sẽ do Thượng viện bổ nhiệm: 6 bang đồng ý; 3 bang phản đối.
Về điều khoản thẩm phán sẽ do Thượng viện bổ nhiệm: 6 bang đồng ý; 3 bang phản đối.
MA: phản đối; CT: đồng ý; PA: phản đối; DE: đồng ý; MD: đồng ý; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý;
Hội nghị dừng họp tại đây.
Tuy nhiên, sau này, khi bản phác thảo Hiến pháp được
hoàn thiện và đưa ra tranh luận, thì Hội nghị lại tán thành cho phép
Tổng thống có quyền bổ nhiệm thẩm phán, nhưng cần sự phê chuẩn của
Thượng viện.
0 comments
Post a Comment