Pages

Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Sống không phải là ký sinh trùng của thế gian, sống để mưu đồ một công cuộc hữu ích gì cho đồng bào tổ quốc. (Phan Chu Trinh )Mở mang dân trí , Chấn động dân khí.Vun trồng nhân tài. Kỳ vọng ở những người làm quan, lấy những sự nghiệp bất hủ khuyên lơn họ được nhiều người xem là có giá trị về phương diện cổ động nhân sĩ và giới cầm quyền có tâm huyết đem tài sức ra giúp nước.(Khi Phan Bội Châu viết tập "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" )"Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn và vô trách nhiệm."“Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc [độc lập, tự do] thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?”“… đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thứ này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.”(Fukuzawa Yukichi) .Tôi tư duy nên tôi hiện hữu; nghĩa là: Vì tôi tư duy nên tôi biết mình hiện hữu.( René Descartes) John Paul II xưng thú tội lỗi tổng quát trong 7 mục sau đây:1. Xưng thú “tội lỗi chung”.2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân lý”.3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại dân Do Thái”.5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”.7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”

My Blog List

Blogger templates

Socrates (Hy Lạp)

Khi bạn giận dữ, hãy ngậm chặt môi, tránh làm tăng nộ khí của bạn. Người thực sự tài giỏi, chính là người có đủ trí tuệ để giúp đỡ người khác, không để mình bị lừa dối. Socrates (Hy Lạp).

Lão Tử

Hễ còn có lòng ham muốn thì chỉ biết trước được cái hẹp hòi biểu hiện ra bên ngoài chứ không biết được cái vi diện sâu ở bên trong..Ai vâng lời liều, hứa liều, tất nhiên khó lòng đúng hẹn.

Khổng Tử

1.Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi.2.Người không có chữ tín sẽ chẳng làm nên việc gì. 3.Sự nghiệp chớ nên cầu mong không có chông gai, trắc trở vì không có chúng thì ý chí sẽ không kiên định. 4.Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi. 5.Đừng mong người khác thuận theo ý mình vì nếu được người khác thuận ý sẽ tất sinh tự kiêu..

Đức Phật

Hãy ngừng phán xét, trên nền trời xanh thẳm, chẳng có sự phân biệt Đông - Tây. Chỉ có tâm trí nhầm lẫn của của con người tạo ra sự phân biệt rồi lại tin rằng đó là thật.

Tục Ngữ

Đối với những người không biết làm chủ đầu óc thì sách liệu có mang lại lợi ích gì? Đưa sách cho họ có khác nào đưa chiếc gương cho người mù.

Tuesday, July 30, 2013

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội


Trong quá trình thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có một số ý kiến xung quanh quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Về vấn đề này, TS Trương Minh Tuấn có một số ý kiến.

1- Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam có cơ sở lịch sử, chính trị - tư tưởng và pháp lý rõ ràng, vững chắc.
Về mặt lịch sử, hơn 80 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là lực lượng duy nhất tổ chức vận động, lãnh đạo, đồng thời là người đi tiên phong, không sợ hy sinh gian khổ trong sự nghiệp cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc, kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo hơn 27 năm qua tạo nên vị thế mới của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập được vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân.
Về chính trị - tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; mục tiêu của Đảng là xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Mục tiêu đó phản ánh chân thực và khách quan khát vọng của đại đa số quần chúng nhân dân và phù hợp với xu thế phát triển lịch sử.
Về pháp lý, vai trò lãnh đạo của Đảng được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1992 được các đại biểu Quốc hội, đại diện cho nhân dân biểu quyết thông qua. Việc Hiến pháp quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là điều hoàn toàn phù hợp quyền dân tộc tự quyết, được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc.
Như vậy, vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng là đương nhiên và hợp pháp.
2- Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là căn cứ xây dựng toàn bộ hệ thống pháp luật, điều chỉnh các mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và công dân. Do đó, việc Hiến pháp khẳng định về mặt nguyên tắc Đảng "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" không phải do Đảng tự đề xướng, mà là có tính chất bắt buộc đối với chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp và pháp luật. Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm pháp luật, phải bị xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. 
Đồng thời, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội không chỉ được quy định trong Hiến pháp, mà còn được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế hoặc điều lệ của các cơ quan, tổ chức tùy theo mối quan hệ cụ thể. Như vậy, có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy định) của các tổ chức có liên quan, không phải do Điều lệ Đảng "đơn phương" quy định. Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính danh đầy đủ của quy định tại Điều 4 Hiến pháp và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội về mối quan hệ của Đảng với các tổ chức khác.
3- Với vai trò là hạt nhân chính trị trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó có Nhà nước. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng được thể hiện thông qua quyền quyết định và quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối chính trị.
Đảng quyết định và chịu trách nhiệm về đường lối chính trị trong tất cả các lĩnh vực hoạt động và phát triển của đất nước. Quyền lực chính trị của Đảng được kết tinh trong cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, chủ trương tạo lập khung chính trị cho sự phát triển của đất nước, của từng lĩnh vực, từng ngành, từng cấp trong mỗi giai đoạn phát triển.
Lý luận và thực tiễn phát triển của các quốc gia trên thế giới ngày nay cho thấy, bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà phụ thuộc ở chỗ, Đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích gì trên thực tế. Về sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay nhiều đảng, mà phụ thuộc vào tính khoa học, sáng tạo của đường lối phát triển đất nước và năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Vì vậy, điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là chế độ đa đảng hay chế độ một đảng và không thể xem là căn cứ để đánh giá tính chất, trình độ của một nền dân chủ và sự năng động của nền kinh tế. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền đối với xã hội và Nhà nước không những không mâu thuẫn với bản chất của nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
Do vậy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN.
4- Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, tuy nhiên, trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, quyền lực của Đảng luôn là quyền lực chính trị. Đảng cầm quyền, không có nghĩa là quyền lực chính trị của Đảng trở thành quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị của Đảng cầm quyền và quyền lực nhà nước là hai phạm trù khác nhau, mặc dù liên quan mật thiết với nhau. Quyền lực chính trị của Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với Nhà nước được thể hiện trên hai phương diện: quyền định hướng chính trị cho tổ chức và hoạt động của nhà nước và quyền sử dụng bộ máy nhà nước để thực hiện các mục tiêu chính trị của mình. Đảng cầm quyền không thực hiện quyền lực nhà nước và phải thông qua bộ máy nhà nước để thực hiện cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối của mình. Đảng không làm thay công việc của Nhà nước. Do vậy để đảm đương sứ mệnh cầm quyền, Đảng phải chăm lo xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước thực hiện đúng các chức năng, nhiệm vụ theo luật định.
Năng lực cầm quyền của Đảng được xác định bởi năng lực xây dựng và quyết định đường lối chính trị; năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên được Đảng giới thiệu để bầu cử (bổ nhiệm) vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong bộ máy nhà nước và bởi năng lực kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối chính trị của Đảng trong hoạt động nhà nước. Vì vậy, để thực hiện được vai trò cầm quyền của mình mà không làm thay công việc Nhà nước, Đảng cần tập trung trí tuệ và bộ máy của mình vào thực hiện tốt ba công tác cơ bản: Xây dựng và quyết định đường lối chính trị; đào tạo, rèn luyện một đội ngũ cán bộ đủ năng lực, trình độ và uy tín để thực hiện có hiệu quả đường lối chính trị của Đảng thông qua các hoạt động của nhà nước; kiểm soát được quá trình thực hiện đường lối chính trị trong thực tiễn. Có thể khái quát rằng, ba nhóm công tác cơ bản này về thực chất hợp thành nội dung cầm quyền của Đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
5- Trong lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập được vị trí cầm quyền của mình thông qua uy tín của Đảng, niềm tin của nhân dân và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Trong bối cảnh mới, Đảng chỉ có thể tiếp tục giữ vững được vị trí cầm quyền của mình khi uy tín của Đảng trong xã hội tiếp tục được khẳng định và không ngừng nâng cao, khi niềm tin của nhân dân đối với Đảng tiếp tục được củng cố, hiệu quả lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội được tăng cường.
Mọi sự lạm dụng vốn uy tín và niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng được xây đắp trong các thời kỳ cách mạng sẽ dẫn đến nguy cơ làm suy giảm uy tín của Đảng, xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: "Nếu Đảng ta không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên"(Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ một số nhiệm vụ trọng tâm đối với công tác xây dựng Đảng. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo...
6- Trong điều kiện hiện nay của nước ta, các thế lực thù địch đang âm mưu "diễn biến hòa bình", sử dụng chiêu bài "dân chủ" và tự do, đa nguyên chính trị, đa đảng, hòng từng bước làm thay đổi chế độ chính trị. Mục tiêu của chúng là từng bước hạn chế, đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương thức hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu đó là thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", là xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 1992.
Kinh nghiệm lịch sử về sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 cho thấy, xóa bỏ quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong Hiến pháp là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm tan rã Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Điều 6 Hiến pháp Liên Xô năm 1977 quy định: "Lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội Xô-viết và hạt nhân của hệ thống chính trị, của tất cả các tổ chức nhà nước và tổ chức xã hội, là Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng là của dân, và vì dân. Đảng Cộng sản, được trang bị bằng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, quyết định mô hình chung cho sự phát triển của xã hội và đường lối đối nội và đối ngoại của Liên Xô, chỉ đạo các kế hoạch lớn của nhân dân Xô-viết, và có vai trò lên kế hoạch, hệ thống hóa và chứng minh lý thuyết trong cuộc đấu tranh của nhân dân vì sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Mọi tổ chức đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp Liên Xô".
Do sự phản bội của ban lãnh đạo Đảng, bằng lập luận "Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua bầu cử, giành lấy và duy trì vị thế của Đảng cầm quyền...", Nghị quyết của Đại hội đại biểu bất thường lần thứ ba của Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức ngày 12/3/1990, đã sửa đổi Lời nói đầu và Điều 6 của Hiến pháp năm 1977 nhằm xóa bỏ cơ sở pháp lý của việc Đảng Cộng sản Liên Xô cầm quyền suốt 73 năm kể từ sau Cách mạng Tháng Mười. Chỉ sau một năm, đã có khoảng 20 chính đảng cấp Liên bang, hơn 500 chính đảng cấp nước cộng hòa là những lực lượng chính trị góp sức làm suy yếu, tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô. Và cuối tháng 8/1991, Đảng Cộng sản Liên Xô bị giải tán, ngày 25/12/1991 là ngày tồn tại cuối cùng của Liên Xô.
7- Với những căn cứ trên đây, chúng tôi cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong dự thảo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
- Hoàn thiện quy định về Đảng theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc".
- Để thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nghiên cứu bổ sung trong Hiến pháp quy định "Tổ chức và hoạt động của Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình trước nhân dân". Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Do vậy, vị trí cầm quyền, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội phải chịu sự giám sát của nhân dân và phải được hiến định để tạo cơ sở luật hóa theo đúng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Theo Nhân dân

Monday, July 29, 2013

TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO VIỆC SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA

 *
          Nguyễn Chí Dũng**
             Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
 
Hiến pháp - Luật nền tảng của nước Cộng hoà nhân dân (CHND) Trung Hoa đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế và định hướng chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Không tính những lần sửa đổi một số điều, tựu trung có thể nói tới ba hiến pháp của CHND Trung Hoa cho tới nay. Hiến pháp đầu tiên của CHND Trung Hoa là Hiến pháp năm 1954 của thời kỳ bắt đầu giai đoạn quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH)[1]. Hiến pháp thứ hai do Đại hội Nhân dân toàn quốc[2] (Quốc hội) thông qua tháng 3/1978 tại kỳ họp thứ nhất, Khoá V trong bối cảnh sau Đại cách mạng văn hoá, sửa đổi một điều vào kỳ họp thứ 3, Khoá V-10/9/1980. Hiến pháp thứ ba được thông qua ngày 4/12/1982, tại kỳ họp thứ 5, Khoá V. Bản hiến pháp này được sửa đổi, bổ sung một số điều trong hai lần, một lần vào Kỳ họp thứ nhất, Khoá VII 12/4/1988 và lần thứ hai vào ngày 29/3/1993, Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá VIII.
 Bài viết nhằm giới thiệu và phân tích khái lược một số tư tưởng, nguyên tắc chỉ đạo cơ bản, với trọng tâm là phần tính chất nhà nước và tổ chức nhà nước trong lần xây dựng  Hiến pháp thứ ba (1982)- Hiến pháp của giai đoạn cải cách kinh tế và mở cửa của nước CHND Trung Hoa đang có hiệu lực áp dụng. Tư tưởng cơ bản của các lần sửa đổi hiến pháp đều xuất phát từ sáng kiến của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và đa số các thành viên trong Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp đều trong Bộ Chính trị hoặc Ban Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tài liệu sử dụng cho bài viết này là Báo cáo của Bành Chân, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khoá V ngày 26/11/1982 và Hiến pháp CHND Trung Hoa năm 1982 và các lần bổ sung cho tới năm 1993.

1. Bối cảnh xây dựng Hiến pháp (1978-1982)

Chín tháng sau khi ban hành Hiến pháp thứ hai (1978), Hội nghị toàn thể lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương (BCHTƯ) 11, Đảng Cộng sản Trung Quốc họp (tháng 12/1978) phát động chủ trương sửa sai qua cuộc đại cách mạng văn hoá (CMVH). Phái cải cách theo hướng Xây dựng mô hình CNXH theo đặc điểm Trung Quốc chú trọng phát triển kinh tế của Đặng Tiểu Bình có xu hướng thắng thế phái phàm là do Chủ tịch Hoa Quốc Phong chủ trương[3]. Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận thấy sự cần thiết phải có định hướng phát triển mới do điều kiện đã thay đổi và trong bối cảnh đó, Hiến pháp 1978 không còn thích hợp nữa và cần phải sửa đổi toàn diện và cơ bản[4]. Trên cơ sở đề nghị của BCHTƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc[5], Quốc hội Khoá V, Kỳ họp thứ 3 (10/9/1980) đã thông qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp[6]. Sau hai năm thảo luận và chỉnh lý, kể cả đưa ra thảo luận rộng rãi trong nhân dân, dự thảo Hiến pháp được trình Quốc hội tại phiên họp tháng 11/1982 xem xét và thông qua.
Các bước làm việc của Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp bắt đầu bằng việc Uỷ ban soạn thảo và Ban thư ký của Uỷ ban lấy ý kiến các địa phương, các ngành và nghiên cứu soạn thảo trên cơ sở kế thừa, tiếp thu và đổi mới. Ở giai đoạn soạn thảo và lấy ý kiến trước khi đưa ra toàn dân thảo luận, có nhiều ý kiến đóng góp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, BCHTƯ Hội nghị hiệp thương chính trị CHND Trung Hoa[7] (Mặt trận Tổ quốc), các uỷ viên BCHTƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc, các đảng phái dân chủ khác, các tổ chức xã hội, các Bộ, ngành, các vị lãnh đạo quân đội và các tỉnh, đơn vị hành chính trực thuộc trung ương và khu vực tự trị. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp đã họp tổng số năm phiên (mỗi phiên chín ngày, phiên cuối cùng năm ngày dành để thông qua Dự thảo ngày 23/11 trình Quốc hội).
Qua thảo luận toàn dân, những vấn đề lớn trong dự thảo hầu như được nhất trí hoàn toàn, nên không có thay đổi lớn trong bản trình Quốc hội; có gần 100 điểm góp ý vào các điều cụ thể được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở tiếp thu ý kiến nhân dân; có nhiều ý kiến không được tiếp thu vì chưa có điều kiện thi hành và chưa đủ kinh nghiệm, cần được nghiên cứu thêm[8].

2. Bốn nguyên tắc chỉ đạo nòng cốt

Hiến pháp 1982 được soạn thảo trên cơ sở các tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Nghị quyết BCHTƯ 11- Hội nghị lần thứ 6 (1980) tổng kết những bài học lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ khi thành lập nước và Văn kiện Đại hội Đảng tháng 12/1982.
Bốn nguyên tắc chỉ đạo soạn thảo hiến pháp là: a) Định hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), b) Thực hiện Chuyên chính dân chủ nhân dân, c) Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và d) Định hướng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông[9].
Bốn nguyên tắc trên đây thực chất là bình cũ nhưng được đựng rượu mới. Bình luận về nội dung mới của bốn nguyên tắc này nói chung và nguyên tắc định hướng con đường XHCN nói riêng, Bành Chân nhấn mạnh đây là những nguyên tắc cũ của Đảng; trong thời kỳ CMVH, Đảng đã mắc phải những sai lầm trong xây dựng CNXH, đó là do áp dụng sai và máy móc các nguyên tắc này chứ không phải vì các nguyên tắc này không phù hợp. Vì vậy, bốn nguyên tắc này cần được thực hiện linh hoạt trong điều kiện và bối cảnh lịch sử mới, với những nội dung phong phú hơn[10]. Điều kiện mới đựợc hiểu là định hướng xây dựng Hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa theo đặc điểm Trung Quốc[11]. Định hướng này đuợc giải thích tập trung vào hiện đại hoá nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Tăng cường củng cố nhà nước, sự phồn vinh của đất nước, sự ổn định và phát triển của xã hội Trung Quốc và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân[12]. Chính vì vậy, Lời nói đầu của Hiến pháp CHND Trung Hoa có đoạn Nhiệm vụ cơ bản của dân tộc trong những năm tới là tập trung sức lực vào hiện đại hoá XHCN... từng bước đưa Trung Quốc thành một nước XHCN ở mức phát triển cao về văn hoá và dân chủ[13].  Do vào năm thông qua Hiến pháp, học thuyết về mô hình CNXH theo đặc điểm Trung Quốc chưa rõ rệt, nên đến năm 1993, đoạn này được sửa lại là ... hiện đại hoá XHCN phù hợp với học thuyết xây dựng CNXH theo đặc điểm Trung Quốctừng bước đưa Trung Quốc thành một nước XHCN phồn vinh, hùng mạnh và tiên tiến về dân chủ và văn hoá[14] (gạch chân phần bổ sung). 
Về tính chất nhà nước và nguyên tắc Chuyên chính dân chủ nhân dân, Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp giải thích bản chất nguyên khainội dung mới của nguyên tắc này như sau: Bản chất nguyên khai của Chuyên chính dân chủ nhân dân (là nền chuyên chính) do giai cấp công nhân lãnh đạo dựa trên liên minh của những người lao động[15] và nông dân. Về cơ bản, Chuyên chính dân chủ nhân dân là Nền chuyên chính vô sản[16]...bởi vì hình thái của Chuyên chính vô sản vốn thể hiện khác nhau ở từng nước khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau... Chuyên chính dân chủ nhân dân do nhân dân Trung Quốc sáng tạo ra... là khái niệm chúng ta đã sử dụng để định nghĩa bản chất nhà nước ta trong Cương lĩnh chung năm 1949 và sau này trong Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta năm 1954 và trong các văn kiện của Đại hội VIII Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956.
Về nội dung mới của bản chất nhà nước theo nguyên tắc trên đây, Bành Chân nhấn mạnh: do những thành tựu xây dựng CNXH ở Trung Quốc và do cơ cấu giai cấp của xã hội đã thay đổi đáng kể (tăng số lượng giai cấp công nhân, giảm nông dân tư hữu thay bằng nông dân tập thể, số lượng trí thức tăng lên), về cơ bản, nhà nước thực hiện dân chủ nhân dân là chính và được thực hiện bởi số đông, còn chuyên chính được thực hiện đối với thiểu số - thiểu số này được Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp nhận định bao gồm những người chống CNXH trong nước và những thế lực thù địch ở nước ngoài, dẫn đến nhận định rằng cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục, lâu dài và có thể tăng về cường độ" (Lời nói đầu, Hiến pháp năm 1982). Khác với Chuyên chính dân chủ nhân dân trong Hiến pháp năm 1954, vốn tập trung vào chuyển chế độ tư hữu sang công hữu và do đó với mức độ chuyên chính cao hơn, thì nội dung mới của bản chất nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân là bảo vệ CNXH và hướng dẫn tổ chức xây dựng CNXH; nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước này qua hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương[17].
Tính chất nhà nước thể hiện ngắn gọn tại Điều 1 (Khẳng định tính chất XHCN, Chuyên chính dân chủ nhân dân) và Điều 2 (Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân), nhưng được giải thích nhiều nhất ở Lời nói đầu.
Lời nói đầu còn dành một phần ba độ dài điểm lại lịch sử và những bài học lịch sử từ thời kỳ nửa phong kiến-thực dân từ năm 1840 và điểm lại bốn mốc lịch sử quan trọng[18]. Lời nói đầu còn dành chỗ để tuyên bố chính sách Một Trung Quốc đối với vấn đề Đài Loan, Chính sách nhà nước đơn nhất nhiều dân tộc, Chính sách đối ngoại độc lập, Chính sách hiệp thương chính trị và vai trò của Hội nghị Hiệp thương chính trị (còn gọi là Chính Hiệp). Năm 1993, Lời nói đầu được bổ sung thêm một đoạn về hệ thống hợp tác đa đảng và hiệp thương chính trị" dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ tiếp tục tồn tại trong thời gian dài.

3. Về hệ thống kinh tế

Chế độ sở hữu
Hiến pháp 1982 khẳng định chế độ sở hữu cơ bản ở Trung Quốc là sở hữu công XHCN đối với tư liệu sản xuất, là nền tảng của hệ thống kinh tế XHCN ở Trung Quốc" (Điều 6). Sở hữu công XHCN được định nghĩa trong điều này gồm hai hình thức: sở hữu của toàn dân và sở hữu tập thể của những người lao động[19].
Tương ứng với chế độ sở hữu và trong điều kiện Trung Quốc, Hiến pháp 1982 ghi nhận và bảo vệ ba loại hình kinh tế: Kinh tế XHCN- còn gọi là kinh tế thuộc sở hữu nhà nước- đóng vai trò dẫn đầu then chốt trong nền kinh tế quốc dân (Điều 7); Kinh tế tập thể ở nông thôn và thành thị(Điều 8) và nền kinh tế cá nhân của người lao động thành thị và nông thôn- với vị trí là một hình thức bổ sung cho kinh tế công XHCN, chủ yếu là kinh tế hộ gia đình, dưới sự hướng dẫn và giám sát hành chính của nhà nước (Điều 11).
Sau hơn năm năm thực hiện, vào tháng 4/1988, Trung Quốc đã sửa đổi, bổ sung Điều 11, bổ sung thêm kinh tế tư nhân với vai trò là hình thức kinh tế bổ trợ cho nền kinh tế công XHCN dưới sự hướng dẫn, giám sát và kiểm tra của nhà nước. Như vậy, hiện nay ở Trung Quốc thừa nhận 4 loại hình kinh tế, nếu không kể đến hai loại hình khác là kinh tế liên doanh - đầu tư nước ngoài (Điều 18 - chỉ quy định khuyến khích mà không xác nhận cụ thể là một loại hình kinh tế như ở các điều khác) và Chế độ trách nhiệm, gần như kinh tế hộ gia đình nói đến sau đây.
"Chế độ trách nhiệm" được Quốc hội Trung Quốc bổ sung vào Điều 8 (các hình thức kinh tế dân doanh ở nông thôn và thành thị), năm 1993, thừa nhận thêm một loại hình kinh tế nữa. Nội dung của chế độ này chính là chế độ khoán cho các hộ gia đình ở nông thôn qua hợp đồng để gắn sản xuất với đầu ra do thị trường yêu cầu (Từ đó, trong các hàng hoá của Trung Quốc sang Việt Nam có các khái niệm hàng gia công do các hộ gia đình lắp ráp/sản xuất, bên cạnh hàng hợp tác xã).
Về sở hữu đất đai, mặc dù Điều 6 của Hiến pháp thừa nhận hình thức sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, nhưng tại các Điều 9 và 10, Hiến pháp 1982 quy định về đất đai, thì có phân biệt đất đai thuộc ba loại sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Lý do của sự phân biệt này là do trong quá trình thảo luận toàn dân về dự thảo Hiến pháp, có nhiều ý kiến cho rằng để khuyến khích sử dụng hiệu quả đất đai trong điều kiện khác biệt rất lớn giữa các loại đất và do đối tượng quản lý khác nhau, cần có chế độ quản lý khác nhau, và do đó chế độ sở hữu khác nhau. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp tiếp thu những góp ý này vào dự thảo trình Quốc hội. Cụ thể, đất đai thuộc sở hữu toàn dân gồm: thảo nguyên, đất chưa khai phá, đất ven biển, trừ trường hợp đất rừng, núi, thảo nguyên, đất chưa khai phá và đất ven biển thuộc quyền sở hữu của tập thể theo quy định của pháp luật (Điều 9); còn lại đất đai ở thành phố thuộc quyền sở hữu của nhà nước (Điều 10); đất nông thôn và ngoại ô thành phố, đất ở và đất canh tác của cá nhân, đất đồi thuộc quyền sở hữu tập thể, trừ trường hợp một phần của đất này thuộc quyền sở hữu nhà nước. Nhà nước dành quyền trưng dụng đất vì mục đích công cộng theo quy định của pháp luật (Điều 10). Đối với những trường hợp đất do cá nhân canh tác, các hộ gia đình được cấp đất xây nhà hoặc trồng cấy thì Nhà nước chỉ thừa nhận quyền sử dụng lâu dài chứ không thừa nhận sở hữu hoặc chuyển giao (Điều 10)[20]. Đến tháng 4/1988, Điều 10 được bổ sung một đoạn cho phép chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật[21]. Như vậy sở hữu đất đai và sở hữu công trình trên đất tách biệt với nhau theo quy định của Hiến pháp.
Công cụ kế hoạch kết hợp với điều tiết của thị trường
Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 thừa nhận vai trò kế hoạch hoá của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế, thực hiện quản lý nhà nước đối với nền kinh tế qua kế hoạch. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp giải thích rằng điểm mới của kế hoạch hoá là kết hợp cân đối nền kinh tế qua công cụ kế hoạch với vai trò bổ sung của cơ chế điều tiết bằng thị trường[22]. Công cụ kế hoạch hoá bao gồm kế hoạch bắt buộc và kế hoạch hướng dẫn. Các doanh nghiệp, tập thể sản xuất được Hiến pháp (các Điều 16 và 17) thừa nhận có một mức độ quyền tự chủ kinh doanh trên cơ sở tuân thủ kế hoạch bắt buộc và tham khảo kế hoạch hướng dẫn của chính quyền trung ương và địa phương.

4. Về tổ chức nhà nước

Hiến pháp năm 1982 của CHND Trung Hoa (sửa đổi năm 1988, 1993) có thể nói là một hiến pháp tập trung đa số các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước. Trong 4 chương, 138 điều, thì riêng Chương III về cấu trúc nhà nước đã chiếm 79 điều (57%). Chương này được thiết kế theo hướng quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn khả thi của các cơ quan và người đứng đầu các cơ quan nhà nước như: Nhân đại toàn quốc (mục 1), Chủ tịch nước (mục 2), Quốc vụ Viện (mục 3), Hội đồng quân sự Trung ương (mục 4), Nhân đại và chính phủ địa phương các cấp (mục 5), Các tổ chức tự trị của các vùng tự trị (mục 6), Toà án nhân dân và Kiểm sát nhân dân (mục 7).
Các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan được phân công cụ thể, không chồng chéo, bổ sung lẫn nhau và được bảo đảm bởi cơ chế hợp tác và sự lãnh đạo của Đảng tại chỗ ở từng cơ quan.
Sự phân công hợp lý giữa các cơ quan nhà nước và các chức vụ lãnh đạo nhà nước giúp tránh tập trung quá nhiều quyền hạn và nhiệm vụ, dẫn đến ôm đồm, không khả thi. Mặc dù vậy, Báo cáo của Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp Trung Quốc vẫn kết luận rằng Những quy định trên đây (về nhà nước) cũng chỉ là một bước vì công cuộc tổ chức lại các cơ quan nhà nước đang được tiếp tục tiến hành, và Dự thảo Hiến pháp chỉ góp phần đưa ra những nguyên tắc lớn giúp cho công cuộc này"[23].
Nguyên tắc chỉ đạo đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Những điểm mới: Theo báo cáo của Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp[24] thì một số quy định mới của Hiến pháp về tổ chức lại cơ cấu nhà nước tập trung vào bảy vấn đề sau đây:  
- Tăng cường hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước (Nhân đại) theo hướng tập trung vào chức năng lập pháp, lập quy và quyết định về một số vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương và bảo đảm việc thi hành pháp luật, chính sách theo điều kiện địa phương, thực hiện dân chủ ở cơ sở và lãnh đạo thống nhất toàn quốc;
- Khôi phục lại chức vụ Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước để phù hợp với thông lệ quốc tế;
- Thành lập Hội đồng Quân sự trung ương và khẳng định vai trò lãnh đạo quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc;
- Quy định rõ chế độ trách nhiệm của Thủ tướng đối với hoạt động của Quốc vụ viện, trách nhiệm cá nhân của các Bộ trưởng đối với các Bộ và của người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ;
- Thành lập cơ quan kiểm toán của Chính phủ để giám sát thu-chi tài chính của các bộ, cơ quan của Chính phủ và của chính quyền địa phương các cấp (hành chính), của các tổ chức tài chính, tiền tệ, các xí nghiệp và tổ chức nhà nước (Điều 91);
- Thay đổi chức năng của hệ thống Công xã nhân dân theo hướng tập trung vào tổ chức thực hiện nhiệm vụ kinh tế, thôi không kết hợp quản lý hành chính mà thực hiện chế độ tự quản của nhân dân;
- Quy định hai nhiệm kỳ tối đa đối với các chức vụ lãnh đạo nhà nước, chấm dứt tình trạng giữ cương vị lãnh đạo nhà nước mãi mãi.
Về tăng cường hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước (Nhân đại): Mục đích nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước qua Nhân đại toàn quốc và Nhân đại địa phương ở các cấp[25] (Điều 2).
Nhân đại toàn quốc (Quốc hội):  Để tăng cường hoạt động của Nhân đại toàn quốc trong điều kiện họp một lần trong năm và mỗi lần không quá 20 ngày, Hiến pháp thành lập Uỷ ban Thường vụ hoạt động thường xuyên, có 21 nhiệm vụ và quyền hạn (Điều 67), trong đó có quyền giải thích hiến pháp và luật, giám sát thực hiện hiến pháp, ban hành và sửa đổi, bổ sung luật (trừ các luật thuộc thẩm quyền của Nhân đại toàn quốc), kể cả quyền sửa đổi, bổ sung một phần luật do Quốc hội ban hành nếu không trái với các nguyên tắc cơ bản của các luật này. Trong khi đó, Hiến pháp quy định Nhân đại toàn quốc có 15 nhiệm vụ, quyền hạn (Điều 62). Quy định của Hiến pháp nhằm tăng hoạt động thực chất của cơ quan quyền lực (qua Uỷ ban thường vụ với 155 đại biểu hoạt động thường xuyên), đồng thời vẫn bảo đảm tính đại diện của cơ quan này (qua số lượng đại biểu Nhân đại toàn quốc vào khoảng 2992 đại biểu- Khoá VIII ). Trong quá trình thảo luận, có ý kiến cho rằng thành lập Uỷ ban Thường vụ, thì đồng thời phải thừa nhận Nhân đại toàn quốc là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Điều 57 Hiến pháp ghi nhận điều này.
Nhân đại địa phương: ở địa phương, xu hướng của Hiến pháp là mở rộng nền tảng dân chủ của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương cho tới cấp cơ sở; giao cụ thể chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này theo hướng tự chủ và chịu trách nhiệm phát triển vùng và địa phương qua quyết định các chính sách lớn ở địa phương và bảo đảm thi hành pháp luật, chính sách của nhà nước và địa phương. Về quyền lập quy, Hiến pháp tại điều 100 quy định Nhân đại cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các Uỷ ban thường trực của mình có thể ban hành pháp quy địa phương nhưng phải báo cáo Uỷ ban Thường vụ của Nhân đại toàn quốc để theo dõi và không được trái hiến pháp, luật và các quy định của cơ quan hành chính cấp trên[26]
Hình thành hệ thống cơ quan quyền lực từ trung ương xuống địa phương để vừa bảo đảm tự chủ địa phương vừa bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất: Hiến pháp tại Điều 96 quy định Nhân đại địa phương là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Cùng với Điều 57 quy định về Nhân đại toàn quốc là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và Điều 2 quy định nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước qua Nhân đại toàn quốc và Nhân đại địa phương các cấp, cho thấy chủ ý của Hiến pháp Trung Quốc là thành lập một hệ thống cơ quan quyền lực có sự phân công cụ thể và chỉ đạo thống nhất bằng pháp luật. Trong các quy định tại các điều 62 và 67 về Nhiệm vụ quyền hạn của Nhân đại toàn quốc và Uỷ ban Thường vụ, không thấy có quy định về việc Nhân đại cấp trên giám sát, chỉ đạo Nhân đại cấp dưới bằng con đường hành chính hoặc can thiệp mà chỉ quy định quyền của Uỷ ban Thường vụ Nhân đại toàn quốc trong việc huỷ bỏ hiệu lực của các pháp quy địa phương.
Về tổ chức cơ quan hành pháp ở trung ương: Như đã trình bày ở phần trên, hai điểm mới trong Hiến pháp liên quan tới cơ quan hành pháp ở trung ương là: a) Việc quy định rõ trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng và các thành viên chính phủ và phân công trách nhiệm giữa chính phủ trung ương với chính phủ địa phương và b) Thành lập kiểm toán chính phủ để thực hiện kiểm tra thu chi hành chính từ ngân sách công.
Hiến pháp xác định tại Điều 85: Quốc vụ viện là Chính phủ trung ương của CHND Trung Hoa (cơ quan hành pháp ở địa phương gọi là chính phủ địa phương), là cơ quan hành pháp của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan cao nhất của hệ thống bộ máy hành chính nhà nước.
Quốc vụ viện gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Uỷ viên Quốc vụ, các Bộ trưởng, Tổng kiểm toán trưởng và Tổng thư ký Quốc vụ viện. Quốc vụ viện được tổ chức như một hội đồng lãnh đạo theo nguyên tắc thủ trưởng chế, có sự phân công phân nhiệm cụ thể, trong đó, Thủ tướng chịu mọi trách nhiệm trước Quốc hội về công việc của Quốc vụ viện; các Phó Thủ tướng và Uỷ viên Quốc vụ viện giúp Thủ tướng điều hành công việc; các Bộ trưởng chịu trách nhiệm về mọi công việc của các bộ hoặc Uỷ ban Nhà nước (Điều 86). Thủ tướng, các Phó Thủ tướng và Uỷ viên Quốc vụ viện không được đảm nhiệm cương vị quá hai nhiệm kỳ liên tục (Điều 87).
Quốc vụ viện có 18 nhiệm vụ và quyền hạn (Điều 89), bao gồm quyền lập quy (quy phạm pháp luật, quy phạm hành chính, biện pháp hành chính); quyền kiến nghị Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; quyền quy định nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của các bộ, các Uỷ ban nhà nước; chỉ đạo hành chính ở tầm quốc gia những công việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, ngành hoặc Uỷ ban nhà nước nào; chỉ đạo thống nhất hoạt động của các cơ quan hành chính địa phương các cấp; phân công chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa chính phủ trung ương với các cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh, các vùng tự trị và thành phố trực thuộc trung ương; dự toán Ngân sách nhà nước và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia; chỉ đạo và quản lý hành chính các hoạt động kinh tế và phát triển thành thị, nông thôn; chỉ đạo và quản lý về văn hoá, đào tạo, giáo dục, khoa học, y tế và kế hoạch hoá gia đình, về nội vụ, an toàn xã hội; quản lý tư pháp; thực hiện các hoạt động đối ngoại, ký kết các điều ước quốc tế và thoả thuận với quốc gia khác; chỉ đạo và quản lý việc xây dựng quốc phòng, các vấn đề dân tộc và quyền tự trị; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân Trung Quốc ở nước ngoài, của những người Trung Quốc hồi hương và thành viên gia đình của họ đang sống ở nước ngoài; thay đổi hoặc huỷ bỏ các quy định và quyết định của bộ trưởng hoặc uỷ ban nhà nước, của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương các cấp; phê chuẩn địa giới tỉnh, khu vực tự trị và các thành phố trực thuộc trung ương và phê chuẩn việc thành lập mới các đơn vị hành chính cấp khu tự trị, quận hạt, hạt tự trị và thành phố; quyết định áp dụng tình trạng khẩn cấp ở một phần của tỉnh, khu vực tự trị và thành phố trực thuộc trung ương; xem xét và quyết định quy mô tổ chức của các cơ quan hành chính và bổ nhiệm hoặc bãi chức các công chức hành chính, đào tạo, bồi dưỡng năng lực, đánh giá thưởng phạt đối với đội ngũ công chức hành chính; và thực hiện các quyền khác mà Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao cho.
Quốc vụ viện chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội và khi Quốc hội không họp thì trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Về tổ chức Toà án và Kiểm sát: Phần 7, Chương III (các Điều từ 123-135) của Hiến pháp quy định về Toà án và Kiểm sát.
Các Toà án của CHND Trung Hoa được Hiến pháp thừa nhận là các cơ quan xét xử của CHND Trung Hoa. Các Toà án ở CHND Trung Hoa gồm Toà án nhân dân tối cao (TANDTC), và các toà án địa phương (tổ chức theo đơn vị hành chính), các toà án quân sự và các toà án đặc biệt khác. Chánh án TANDTC có nhiệm kỳ cùng với nhiệm kỳ của Quốc hội và không được phục vụ trên cương vị này quá hai nhiệm kỳ liên tục.
Các nguyên tắc xét xử được ghi nhận trong Hiến pháp gồm: Nguyên tắc xét xử công khai, Bị cáo có quyền bào chữa; Toà án thực hành quyền lực tư pháp độc lập và không chịu bất cứ ảnh hưởng nào của các cơ quan hành chính, tổ chức công hoặc cá nhân (Điều 126).
Toà án nhân dân tối cao ở CHND Trung Hoa được Hiến pháp thừa nhận là cơ quan xét xử cao nhất và có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý tư pháp của các toà án cấp dưới và các toà án đặc biệt. Toà án cấp trên cũng có quyền giám sát công tác quản lý hành chính tư pháp của toà án cấp dưới. (Điều 127).
Các Viện kiểm sát ở CHND Trung Hoa được Hiến pháp thừa nhận là các cơ quan nhà nước thực hiện giám sát pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao, VKSND địa phương các cấp, Viện kiểm sát quân sự và các Viện kiểm sát đặc biệt khác hình thành hệ thống cơ quan Kiểm sát ở CHND Trung Hoa. Cũng giống như đối với Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSND tối cao có nhiệm kỳ cùng với nhiệm kỳ của Quốc hội và không được phục vụ quá hai nhiệm kỳ liên tục.
Viện kiểm sát chỉ đạo theo hệ thống dọc, cấp trên chỉ đạo cấp dưới, hoạt động độc lập. Chế độ trách nhiệm của Viện kiểm sát là chế độ cá nhân. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND cấp trên và đồng thời trước cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đã bầu ra mình. Viện trưởng VKSND tối cao chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Nhân đại địa phương có nhiệm vụ và quyền hạn giám sát hoạt động của Toà án và Kiểm sát ở địa phương mình.
Tóm lại, Hiến pháp năm 1982 của CHND Trung Hoa (sửa đổi năm 1988, 1993) là một Hiến pháp của thời kỳ cải cách, thể hiện rõ ràng quan điểm thực tiễn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tránh bệnh hình thức mà hướng nhiều vào khả năng thực hiện. Bản Hiến pháp được bố cục gọn, mang tính cương lĩnh cao. Về quan hệ công, Hiến pháp tập trung tuyên bố rõ ràng các vấn đề cốt lõi của chính quyền như: Tính chất nhà nước, Chế độ sở hữu, vai trò và biện pháp quản lý kinh tế của nhà nước, Tổ chức quyền lực, hành chính và tư pháp. Về quan hệ công dân với nhà nước, Hiến pháp cũng bao gồm một Chương tuyên ngôn về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II). Một điều thú vị nữa ở Hiến pháp CHND Trung Hoa là sáng kiến lập hiến bao giờ cũng là sáng kiến chính trị của Đảng cầm quyền, trên cơ sở tổng kết các bài học lịch sử, xem xét lại và sửa đổi chính sách, tăng cường hiệu quả nhà nước đáp ứng nhiệm vụ chính trị mới và hoàn cảnh mới. Hiến pháp CHND Trung Hoa cũng là một ví dụ hay về khả năng vừa bảo đảm cụ thể, khả thi, vừa định hướng mở để thích ứng với điều kiện thay đổi bằng thủ tục sửa đổi nhỏ, (tuy không kém phần quan trọng, ví dụ về sở hữu) liên tục và vào bất cứ lúc nào khi thực tiễn yêu cầu./.
 

 
* Nghiên cứu Lập pháp, Đặc san chuyên đề Hiến pháp và các luật về nhà nước, số 1, tháng 4/2001. 
** Hiện là Bí thư thứ hai Đại sứ quán Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Campuchia.
[1] Báo cáo của Bành Chân, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp tại kỳ họp thứ 5, Đại hội nhân dân toàn quốc khoá 5, 26 tháng 11, 1982- Sưu tập luật của CHND Trung Hoa, T1 (Tiếng Anh, The Laws of the PRC- 1979-1982)- tr. 400, Uỷ ban lập pháp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc sưu tập - Nxb. Ngoại văn Bắc Kinh, 1987.
[2] Trung Quốc gọi tắt là Nhân đại toàn quốc. Trong bài này xin dùng khái niệm tương đương là Quốc hội
[3] Đặng Tiểu Bình được phục hồi vào năm 1973, Xem thêm: Tiêu Thi Mỹ, Đặng Tiểu Bình, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996 (Trần Ngọc Thuận dịch từ Bản Hoa văn, Nxb. Hồng Kỳ, tháng 5.1996), tr. 39.  Phái phàm là cho rằng phàm những gì Chủ tịch Mao đã chỉ thị thì đều là chân lý và cứ thế mà làm.
[4] Bành Chân, đã dẫn, tr. 397.
[5] Theo quy định của Hiến pháp, Điều 64, sửa đổi Hiến pháp do Uỷ ban Thường vụ của Nhân đại toàn quốc đề nghị hoặc trên 1/5 tổng số đại biểu Nhân đại toàn quốc đề nghị; thông qua khi trên 2/3 tổng số đại biểu tán thành.
[6] Nghị quyết kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá V có đoạn: Quốc hội ủng hộ đề nghị của BCHTƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc về sửa đổi Hiến pháp và thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp, thành viên của Uỷ ban do BCHTƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị...  giao Uỷ ban Thường vụ Quốc hội công bố dự thảo để thảo luận trong toàn dân và trình Quốc hội vào năm 1981. Do chưa chuẩn bị xong, Quốc hội đã ra Nghị quyết hoãn xem xét dự thảo thêm một năm. Sưu tập luật Trung Hoa, đã dẫn t1, tr. 207 - 256.
[7] Trung Quốc gọi tắt là Chính Hiệp.
[8] Bành Chân, đã dẫn, tr. 398
[9] Bành Chân, đã dẫn, tr. 398.
[10] Hoàn toàn phù hợp với học thuyết thực tiễn minh chứng cho lý luận của Đặng Tiểu Bình khi phê phán phái phàm là của Hoa Quốc Phong, Xem thêm Tiêu Thi Mỹ, đã dẫn, tr. 39 v v.
[11] Bành Chân, đã dẫn, tr. 399, Xem thêm Tiêu Thi Mỹ đã dẫn về Lý do biện luận của Đặng Tiểu Bình về mô hình CNXH theo đặc điểm Trung Quốc và sự khác biệt với thuyết xây dựng Trung Quốc mới của Mao Trạch Đông.
[12] Bành Chân, đã dẫn, tr. 400.
[13] Hiến pháp CHND Trung Hoa, Sưu tập Luật Trung Hoa, đã dẫn, t 1, tr. 4.
[14] Sưu tập Luật Trung Hoa 1993, t 5, tr. 11.
[15] Bành Chân giải thích rằng những người lao động ở đây bao gồm giới trí thức, vì giới trí thức đóng vai trò rất quan trọng trong giai đoạn lịch sử mới và đã tăng lên đáng kể về số lượng, nhưng do không thể xếp họ vào một giai cấp nên bao hàm họ vào khái niệm những người lao động, khác với trước đây đã có lúc Đảng xếp họ vào giai cấp bóc lột, sđd, tr. 401- 402. 
[16] Giải thích này cũng là nội dung ở đoạn 6 của Lời nói đầu, Hiến pháp 1982, t1 Sưu tập Luật Trung Hoa, tr. 10.
[17] Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội đại biểu nhân dân địa phương-Nhân đại - được coi là một hệ thống cơ quan dân cử có quan hệ chỉ đạo trên-dưới thống nhất. Xem thêm về hệ thống tổ chức chính trị và nhà nước Trung Quốc hiện đại Một số vấn đề về hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước và chính sách của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách- Vũ Mão, Nguyễn Chí Dũng và cộng sự, Báo cáo kết quả nghiên cứu tại Trung Quốc, Văn phòng Quốc hội, tháng 12/1996- Thư viện Quốc hội Việt Nam.
[18] Cách mạng 1991 của Tôn Dật Tiên, Thành lập CHND Trung Hoa năm 1949, Quá độ xây dựng CNXH và giai đoạn hiện nay tiếp tục xây dựng CNXH ở Trung Hoa. Xem Sưu tập Luật Trung Hoa, đã dẫn, 1993, Lời nói đầu.
[19] Về khái niệm Người lao động, xem Chú thích 15.
[20] Bành Chân, đã dẫn, tr. 405.
[21] Sưu tập luật Trung Hoa, đã dẫn, t 5, tr. 11.
[22] Bành Chân, đã dẫn, tr. 406.
[23] Bành Chân, đã dẫn, tr. 414.
[24] Bành Chân, đã dẫn, tr. 410.
[25] Đơn vị hành chính của Trung Quốc: Tỉnh, Vùng tự trị và thành phố trực thuộc trung ương- Tỉnh và các Vùng tự trị chia thành hạt (county), hạt tự trị, khu tự trị và thành phố- Hạt, khu tự trị thuộc tỉnh hoặc vùng tự trị chia thành thị trấn, thị trấn dân tộc và thành phố. Riêng thành phố trực thuộc trung ương và các thành phố lớn thuộc tỉnh có thể chia thành quận và hạt. Khu tự trị thuộc vùng tự trị có thể chia thành hạt, hạt tự trị và thành phố (Điều 30 Hiến pháp năm 1982, sửa đổi năm 1993).
[26] Về thẩm quyền ban hành pháp quy địa phương, xem thêm: Một số vấn đề... , sđd.

Vấn đề Đảng trong Hiến pháp Trung Quốc – Hồ Anh Hải


Hồ Anh Hải
Sử dụng Hiến pháp để củng cố địa vị hợp pháp của chính đảng cầm quyền luôn luôn là cái « phong vũ biểu » của nền chính trị chính đảng ở Trung Quốc kể từ sau Cách mạng Tân Hợi (1911), dù là Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch hay Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) của Mao Trạch Đông.
Sau khi đánh đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh, QDĐ lên cầm quyền, đưa ra lý luận « Nhà nước của Đảng » (Đảng Quốc), dùng Hiến pháp xác lập mô hình « Đảng trị », tức « Dùng Đảng thay chính quyền » . ĐCSTQ, lúc đó đang hoạt động bí mật, đã kịch liệt phản đối mô hình này. Mãi đến năm 1936 và 1946, QDĐ mới tuyên bố « Trả lại chính quyền cho dân », và Hiến pháp mới không trực tiếp đề cập địa vị pháp lý của đảng cầm quyền nữa. Tuy vậy trong thực tế QDĐ vẫn thực hành « Đảng trị », tiếp tục tạo ra đặc quyền đặc lợi cho đảng mình, khiến cho hầu hết đảng viên QDĐ đều tham nhũng vinh thân phì gia, bị nhân dân căm ghét, họ ủng hộ ĐCSTQ lật đổ chính quyền QDĐ. Sau khi chạy ra Đài Loan, Tưởng Giới Thạch mới tỉnh ngộ : QDĐ thua chỉ vì đảng này tham nhũng suy thoái quá nặng, và ông quyết tâm « Thanh đảng ».
Nước CHND Trung Hoa từ ngày lập quốc tới nay đều do ĐCSTQ lãnh đạo, ngoài ra còn 8 chính đảng dân chủ khác hợp tác với ĐCSTQ và chịu sự lãnh đạo của ĐCSTQ. Trong Chính phủ Trung Quốc hiện có một bộ trưởng thuộc Đảng Trí Công không phải ĐCSTQ. Từ một đảng cách mạng, ĐCSTQ đã trở thành đảng cầm quyền duy nhất, hiện có hơn 80 triệu đảng viên, chiếm tỷ lệ lớn trong các cơ quan chính quyền, xí nghiệp, đơn vị sự nghiệp và đoàn thể xã hội và đảm nhiệm các chức vụ quan trọng.
Cho tới nay Trung Quốc đã sử dụng 4 bản Hiến pháp : 1954, 1975, 1978 và 1982. Trong đó các bản Hiến pháp 1975 và 1978 chỉ có tính chuyển tiếp vì thời gian thực thi cực ngắn (3-4 năm). Tiến trình soạn thảo Hiến pháp Trung Quốc là một quá trình không ngừng pháp chế hóa và, về mặt pháp lý, làm suy yếu dần (虚化) sự lãnh đạo của đảng, đưa vai trò đảng lui vào sau sân khấu (后台化) chính trị.
1) Hiến pháp 1954
Hiến pháp này được soạn thảo dưới sự chủ trì trực tiếp của Mao Trạch Đông, dựa trên cơ sở bản Cương lĩnh chung mang tính chất Hiến pháp tạm thời do Hội nghị Hiệp thương chính trị toàn quốc (Chinh Hiệp) làm ra năm 1949, trước ngày lập quốc. Sau hơn 3 tháng soạn thảo, ngày 23-3-1954 Dự thảo Hiến pháp được đưa ra toàn dân thảo luận, hình thành bản Hiến pháp chính thức, được Quốc hội thông qua ngày 20-9-1954.
Nội dung Hiến pháp ngoài Lời Nói Đầu (không thuộc phần chính văn của Hiến pháp nên không phải là quy định pháp luật) ra còn có 4 chương, cộng 106 điều. Hiến pháp tuyên bố Trung Quốc theo chế độ dân chủ nhân dân.
Lời Nói Đầu có xác nhận địa vị lãnh đạo của ĐCSTQ trong Mặt trận Thống nhất nhưng chỉ khẳng định « tính hợp hiến » của đảng cầm quyền chứ không xác nhận địa vị lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, cũng không có quy định chức quyền của Đảng trong đời sống nhà nước. Các điều văn trong Hiến pháp hoàn toàn không nói gì tới ĐCSTQ.
2) Hiến pháp 1975
Được soạn thảo và ban hành trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, khi đường lối tả khuynh đang điên cuồng tác yêu tác quái, Hiến pháp này đề cao lý luận « Tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản » của Mao Trạch Đông, phủ định « công dân nhất luật bình đẳng trước pháp luật », khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và khẳng định thể chế coi sự lãnh đạo ấy cao hơn chính quyền nhà nước. Tóm lại là không tách rời đảng với chính quyền, lấy đảng thay chính quyền, dùng đảng trị nước.
Hiến pháp chỉ có 30 điều thì 10 chỗ đề cập vấn đề liên quan tới ĐCSTQ. Ngoài Lời Nói Đầu ra, các Điều 2, 13, 15 và 16 đều quy định « ĐCSTQ lãnh đạo » . Điều 17 khẳng định Đảng có « quyền đề nghị về nhân sự » người lãnh đạo cơ quan nhà nước. Điều 26 còn viết : « Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân » trước hết là « ủng hộ sự lãnh đạo của ĐCSTQ ». Hiến pháp xác nhận địa vị lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ đời sống nhà nước và có quy định cụ thể về chức quyền của Đảng, như quyền lãnh đạo và quyền thống soái về quân sự, quyền lãnh đạo Quốc hội, quyền đề cử Thủ tướng. Nhưng không có quy định trình tự Đảng phải tuân theo khi hành xử các chức quyền đó, vì thế đã để lại một không gian lớn có tính tùy ý, tạo điều kiện Đảng có thể hành xử quyền lực một cách phi luật pháp.
Do ảnh hưởng của tư tưởng cực tả nên công tác làm Hiến pháp 1975 có xảy ra một chuyện : Ngày 6-9-1970, hội nghị lần hai Trung ương Đảng khóa IX thông qua Dự thảo Hiến pháp này, trong đó có câu « Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân là ủng hộ Chủ tịch Mao Trạch Đông và bạn chiến đấu thân thiết của Người là Phó Chủ tịch Lâm Bưu, ủng hộ ĐCSTQ ». Sau đó ít lâu, Lâm Bưu thất bại trong âm mưu ám sát Mao Trạch Đông, ngày 13-9-1971 trốn sang Liên Xô rồi chết do máy bay rơi khi bay qua Mông Cổ. Vì thế cách đặt vấn đề như trên của Dự thảo Hiến pháp trở thành trò cười lịch sử. Rốt cuộc bản Hiến pháp chính thức phải bỏ đi nửa câu « ủng hộ » Chủ tịch Mao và Lâm Bưu và mãi đến năm 1975 mới ban hành. Sự cố này cho thấy việc đưa vào Hiến pháp những yếu tố bất định và không vĩnh cửu, như vai trò của chính đảng và lãnh tụ có thể mang lại hậu quả bi thảm như thế nào.
3) Hiến pháp 1978
Hiến pháp này được soạn thảo sau khi Cách mạng Văn hóa chấm dứt nhưng người chủ trì soạn thảo là Chủ tịch Đảng Hoa Quốc Phong cố nhấn mạnh tư tưởng « Hai Phàm Là » của mình [Phàm là lời Mao Trạch Đông nói đều đúng ; phàm là chỉ thị của Mao Trạch Đông thì chúng ta phải kiên quyết chấp hành]. Do đó Hiến pháp 1975 cơ bản giữ lại các quy định về địa vị pháp lý của ĐCSTQ như Hiến pháp 1975, chỉ bỏ đi quy định về quyền lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với Quốc hội, và vẫn không có quy định trình tự Đảng phải tuân theo khi hành xử các chức quyền.
4) Hiến pháp 1982
Được soạn thảo rất công phu từ năm 1980, sau khi ĐCSTQ quyết định tiến hành Cải cách mở cửa, Hiến pháp này đã sửa đổi lớn Hiến pháp 1978, đã kế thừa và khôi phục truyền thống tốt đẹp của Hiến pháp 1954. Dự thảo Hiến pháp được đưa ra toàn dân thảo luận, Quốc hội thông qua và ban hành ngày 4-12-1982. Giới lý luận Trung Quốc đánh giá đây là bản Hiến pháp tốt nhất ở nước này từ trước tới nay.
Hiến pháp hiện hành ở Trung Quốc là Hiến pháp 1982 có bổ sung 4 Tu chính án do Quốc hội đưa ra vào các năm 1988, 1993, 1999 và 2004. Lời Nói Đầu (không có tính pháp luật) có thuật lại vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ trong cách mạng và trong xây dựng CNXH.
Tất cả các điều văn (138 điều) trong chính văn Hiến pháp hoàn toàn không có từ « Đảng Cộng sản » và « cộng sản », nghĩa là không có quy định về địa vị lãnh đạo của  ĐCSTQ, và cũng không có tên bất cứ lãnh tụ cộng sản nào.
Phần nói về quân đội có Điều 29 : « Lực lượng vũ trang nước CHNDTH thuộc về nhân dân. Nhiệm vụ của lực lượng này là củng cố quốc phòng, chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân, tham gia sự nghiệp xây dựng quốc gia, nỗ lực phục vụ nhân dân. » Điều 93 Chương « Cơ cấu nhà nước » viết : Ủy ban Quân sự Trung ương nước CHND Trung Hoa lãnh đạo lực lượng vũ trang toàn quốc… Nhiệm kỳ của UBQSTW như nhiệm kỳ của Quốc hội. »
Nhưng Hiến pháp vẫn có quy định : « Tất cả các cơ quan nhà nước và lực lượng vũ trang, các chính đảng và các đoàn thể xã hội, các xí nghiệp, tổ chức sự nghiệp đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật… », « Bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào đều không được có đặc quyền vượt qua Hiến pháp và pháp luật ». Hai quy định này thể hiện tiến bộ rất lớn vì ở đây từ « các chính đảng » dĩ nhiên đã gồm cả ĐCSTQ, từ « tổ chức hoặc cá nhân » dĩ nhiên gồm cả tổ chức các cấp của ĐCSTQ và người lãnh đạo đảng. Một số học giả Trung Quốc cho rằng Hiến pháp 1982 vẫn còn một sơ hở là không nói rõ khi trên thực tế có tình trạng tổ chức hoặc cá nhân nào đó nắm giữ và hành xử « đặc quyền vượt Hiến pháp và pháp luật » thì phải xử lý thế nào.
Vì sao Hiến pháp 1982 không có quy định về địa vị lãnh đạo của  ĐCSTQ, tức không giao bất cứ quyền lực nhà nước nào cho ĐCSTQ ?
Theo giải thích đó là vì Báo cáo chính trị tại Đại hội XII ĐCSTQ (9-1982) đã chỉ rõ : « Đảng không phải là tổ chức quyền lực ra lệnh chỉ huy quần chúng ». Điều lệ mới của Đảng đưa ra quyết định lịch sử : « Đảng phải hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật ». Từ năm 1941 Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố phản đối chủ trương « Dĩ đảng trị quốc » của Quốc Dân Đảng, nay ĐCSTQ cũng không thể lặp lại chủ trương ấy.
Xét về lý luận, quyền lãnh đạo của Đảng thuộc vào phạm trù chính trị ; thực chất nó là một loại uy tín chính trị, tài nguyên chính trị và quyền uy chính trị, chứ không phải là nói việc nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước. Đảng được nhân dân yêu quý, ủng hộ và phục tùng – đây là một loại uy tín chính trị, tài nguyên chính trị và quyền uy chính trị ; nó khác với lực cưỡng chế và lực ràng buộc của quyền lực nhà nước. Biểu hiện chủ yếu của nó là sức thu hút chính trị, sức thuyết phục chính trị và ảnh hưởng chính trị đối với quần chúng nhân dân. Đảng lãnh đạo không phải là Đảng trực tiếp nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước để tiến hành cưỡng chế và chi phối quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước và đời sống chính trị của đất nước. Hiến pháp đã nói « Tất cả mọi quyền lực của nước CHND Trung Hoa thuộc về nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan mà nhân dân dùng để hành xử quyền lực nhà nước ». Vì vậy quyền lãnh đạo chính trị của ĐCSTQ nhất thiết không phải là quyền lực đặc biệt, siêu quyền lực, quyền lực vô hạn được đặt ngang hàng thậm chí lên trên quyền làm chủ của nhân dân và quyền lực của chính quyền nhà nước. Đặng Tiểu Bình nói : có một số đồng chí « hiểu nhầm ưu thế của Đảng, cho rằng đảng viên bao biện là ưu thế tuyệt đối của Đảng mà không hiểu rằng ưu thế tuyệt đối đích thực là ở sự ủng hộ của quần chúng. Ưu thế được xây dựng trên cơ sở quyền lực là ưu thế không bền vững », ông kêu gọi quét sạch mọi di độc của Quốc Dân Đảng « quyền lực của đảng cao hơn tất cả », « dùng đảng để cai trị đất nước ».
Chủ nghĩa Mác cho rằng một chính đảng có địa vị cầm quyền không có nghĩa là tổ chức các cấp của đảng có thể lấn át lên trên các cơ quan chính quyền nhà nước, không có nghĩa là nắm giữ và hành xử quyền lực nhà nước một cách trực tiếp, cụ thể. Cách làm sai lầm không tách rời đảng với chính quyền, lấy đảng thay cho chính quyền, trên thực tế chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho địa vị lãnh đạo của Đảng cộng sản
Tuy Hiến pháp không giao quyền lực nhà nước cho ĐCSTQ, nhưng trên thực tế việc ĐCSTQ là đảng cầm quyền đã được xác định ở chỗ : – Đường lối của Đảng đã thể hiện trong toàn bộ Hiến pháp và các luật pháp khác ; – Những người do Đảng giới thiệu theo trình tự pháp lý đều đảm nhiệm các cương vị lãnh đạo chủ chốt trong Chính phủ.
Vì sao việc Hiến pháp 1982 hủy bỏ Điều nói về vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ lại không gây ra sự phản đối trong ĐCSTQ ?
Theo giải thích đó là do mấy nguyên nhân sau đây :
1) Cái gọi là hủy bỏ ấy chẳng qua chỉ là khôi phục lại bộ mặt vốn có của Hiến pháp 1954 từng được xây dựng trong thời kỳ Chính phủ Trung Quốc còn là Chính phủ liên hợp, có nhiều chính đảng và nhân sĩ ngoài ĐCSTQ tham gia (tương tự Chính phủ Việt Nam năm 1946 ?). Hiến pháp 1982 được soạn thảo khi cả nước đang đau khổ suy ngẫm lại tác hại của tư tưởng cực tả trong ĐCSTQ thời kỳ « Cách mạng Văn hóa » vừa trải qua.
2) Trong Lời Nói Đầu Hiến pháp 1982 vẫn giữ lại những chỗ trình bày về vai trò của ĐCSTQ, chủ nghĩa Mác-Lê, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình … (nhưng Hiến pháp không nói gì về việc Đảng lãnh đạo như thế nào).
Các nhà soạn thảo Hiến pháp 1982 cho biết : hiện nay trong Hiến pháp của 110 quốc gia trên thế giới chỉ có 29 bản Hiến pháp có Lời Nói Đầu, trong đó 5 quốc gia có trình bày về ý thức hệ. Lời Nói Đầu chỉ thuật lại các sự thực lịch sử, vì thế sau này khi sửa đổi Hiến pháp thì các sự thực đó cũng không bị phủ nhận.
3) Điều 1 Hiến pháp đã nói Trung Quốc là quốc gia XHCN chuyên chính vô sản dựa trên cơ sở liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nói chuyên chính vô sản thì mọi người đã hiểu là chuyên chính do ĐCS lãnh đạo. Tư tưởng chỉ đạo ĐCSTQ hiện nay là lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng « Ba đại diện » (ĐCSTQ trước sau đại diện cho yêu cầu phát triển sức sản xuất tiên tiến của Trung Quốc, cho phương hướng tiến lên của văn hóa tiên tiến Trung Quốc, cho lợi ích căn bản của nhân dân rộng rãi nhất của Trung Quốc ).
Tài liệu tham khảo :
1. 中华人民共和国宪法http://www.gov.cn/gongbao/content/2004/content_62714.htm
2. 宪法的变迁与党的领导(2012-10-06)  http://blog.sina.com.cn/s/blog_53835a110101bc01.html

3. 关于党的领导:1982年宪法的重要修正 (2011-8-19)
http://wq.zfwlxt.com/newLawyerSite/BlogShow.aspx?itemid=c0755906-29e2-400c-b4be-9f4400ce1604&user=10420
4. 论执政党在我国宪法文本中地位的演变http://www.law-lib.com/hzsf/lw_view.asp?no=20232