Hiến Pháp là văn kiện cơ bản xác định những quyền dân chủ và bình đẳng của người dân chung sống trong một Quốc Gia .
Nói đến Anh Quốc, về tổ chức chính trị, là nói đến quê cha đất tổ của
Đại nghị Chế (Parliamentary Government), khuôn mẫu của hầu hết các
phương thức tổ chức Chính Quyền Tây Âu, cũng như Hoa Kỳ là nơi chôn nhau
cắt rốn của Tổng Thống Chế, khuôn mẫu tổ chức hành pháp của một số lớn
quốc gia trên thế giới, chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong bài Tổng
Thống Chế Hoa kỳ .
Nhưng từ ngày Quốc Hội Anh đặt viên đá góc
tường, nền tảng cho Đại nghị Chế với câu Nhà Vua ở trong Quốc Hội ( The
King in Parliament ), chúng tôi đã có dịp nhắc đền trong bài Quốc Hội,
phương thức tổ chức Hành Pháp ở Anh có nhiều diễn biến.
Do đó,
một số nhà chính trị học đề nghị thay từ ngữ Đại Nghị Chế bằng Nội Các
Chế ( Cabinet Government), một số khác bằng Thủ Tướng Chế ( Prime
Government).
Sau đây chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thể thức tổ
chức Hành Pháp tại Anh Quốc cũng như lý do của những từ ngữ được đề
nghị trên.
I . SƠ LƯỢC VỀ QUỐC HỘI LƯỠNG VIỆN.
Năm 1066 hoàng tộc Norman từ lục địa Âu Châu , vượt eo biển Manche qua chiếm hòn đảo Anh Quốc.
Vua đặt quyền bính cai trị và luật lệ trên khắp tân vương quốc.
Các lãnh chúa hàng năm phải nộp thuế cho vua.
Không đầy hai thế kỷ sau đó, năm 1215, các lãnh chúa trong vương quốc,
các nam tước ( baron) hợp nhau tại Runnynmede, gần Windsor, cùng đồng ý
ký Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do ( Magna Charta Libertatum) để đặt
yêu sách đối với vua:
- Nếu vua muốn lấy thuế nhiều hơn đã được
quy định trong những điều khoản được ký kết,vua cần phải được sự thỏa
thuận của Đại Hội Đồng (Magnum Consilium).
- Các nam tước cũng
như những người dân tự do khác ( tức không phải dân nô lệ), vua không
được đem ra xét xử bằng thẩm phám đoàn gồm toàn quan chức của vua, mà
phải được thẩm phán đoàn dân sự xét hỏi, thẩm định và tuyên án.
Nếu chúng ta có thể xem Bản Đại Tuyên ngôn các Quyền Tự Do năm 1215 là
tài liệu đầu tiên được viết ra, khởi điểm cho những điều khoản khác sẽ
được ghi vào Hiến Pháp Anh Quốc, (có người còn đi xa hơn cho rằng Bản
Tuyên Ngôn Tự Do trên dựa vào tinh thần tự do của Bản Tổng Kết Luật Lệ
và Phong Tục của Anh Quốc (Tractatus de legibus et Consuetudinibus
Angliae của Glan Will khoản năm 1189), thì trái lại Đại Hội Đồng không
thể được coi là khởi điểm cho Quốc Hội Anh.
Các thành viên của
Đại Hội Đồng là những nhân vật do vua trực tiếp chỉ định ( gồm những
lãnh chúa cao cấp và những đấng bậc cao trọng trong giáo quyền).Như vậy
Đại Hội Đồng không có tính cách đại diện dân cử của Quốc Hội, một trong
ba điều kiện tiên quyết mà chúng tôi đã có dịp nói đến trong bài Quốc
Hội .
Đại Hội Đồng chỉ là Hội Đồng Tư Vấn của vua, có đặc tính
như các tổ chức của thời các lãnh chúa, kiểu Hội Đồng Thượng Thẩm của
Pháp ( Etats Généraux de Paris) hay các tổ chức Quốc Hội Âu Châu trong
thời Quân Chủ Chuyên Chế lúc đó.
Đại Hội Đồng của Anh Quốc lúc bấy giờ là tổ chức tư vấn của vua, để góp ý kiến với vua trong nhiều việc như:
- Bàn cãi những vấn đề quốc sự như đối ngoại, lập pháp, thuế má hay phụ
cấp, cứu xét các đơn từ thỉnh nguyện, xét xử các vấn đề kiện tụng dân
luật cũng như hình luật.
- Một mặt , kể từ ngày Bản Đại Tuyên
Ngôn các Quyền Tự Do ra đời, quyền hành của vua dần dà bắt đầu bị đặt
điều kiện , mặt khác một vài lãnh chúa uy quyền rất ương ngạnh lắm khi
hành động bất cần được sự chấp thuận của vua, như vụ lãnh chúa Simon de
Monfort, vào năm 1265 bất cần vua đã tự ý đứng ra triệu tập hai kỵ mã và
hai thường dân ở mỗi thôn ấp ( borough) để thành lập Quốc Hội.
Trước tình trạng không mấy sáng sủa đó, nhà vua thấy thay vì mỗi năm
phải thu ngân sách từ các lãnh chúa, vua có thể liên lạc trực tiếp với
các cộng đồng địa phương, có nguồn lợi dồi dào và bảo đảm hơn lãnh chúa .
- Nhưng với sáng kiến vừa kể, một viễn ảnh mới được phát hiện.Các cộng
đồng địa phương, làng xã, thôn ấp một mặt tuyên hứa bảo đảm ngân sách
cho hoàng gia khỏi thiếu hụt, nhưng với điều kiện phải được cử người đại
diện trực tiếp của họ trước hoàng gia để đạo đạt yêu sách và nhu cầu
của họ.Cộng đoàn đại diện của các làng xã , thôn ấp tạo thành Hội Đồng
có tính cách đại diện , được dân cử, khác với Đại Hội Đồng của vua cũng
như nhiều hình thức Quốc Hội thời Trung Cổ .
Như vậy sự liên hệ giữa vua và làng xã thôn ấp đã được bắt đầu vào thế kỷ 13.
Làng xã thôn ấp tại địa phương là những đơn vị động lực phát triển kinh
tế, bảo đảm liên tục cho ngân sách hoàng gia, với tổ chức tự trị về
hành chánh.Và như vậy là đại diện của họ là Hội Đồng Đại Diện bên cạnh
vua ở Westminster. Nói cách khác, từ thế kỷ 13 như vừa nói, họ đã cử
người vào Quốc Hội với ý nghĩa hiện đại của chúng ta .
Còn nữa,
theo gương của Simon de Monfort, năm 1295 vua Edward I, muốn cho Quốc
Hội có nhiều đại diện của mọi tầng lớp quần chúng, đứng ra triệu tập
Quốc Hội Kiểu Mẫu, gồm- thành phần các huân tước ( Lords),- các đấng bậc
cao trọng trong tôn giáo (hai thành phần nầy được vua đứng ra chỉ
định),- hai kỵ mã cho mỗi làng xã,- hai người dân tự do ( không phải dân
nô lệ) cho mỗi thôn xóm hoàng gia và đại diện các giáo sĩ hạ cấp .
Nhưng Quốc Hội Kiểu Mẫu của vua Edward I kéo dài không được bao lâu.Bởi
lẽ từ nửa thế kỷ 14 trở đi, hai nhóm quân tước và đấng bậc cao trọng
giáo sĩ bắt đầu có những cuộc hợp riêng rẽ, vì có nhu cầu và lợi thú
riêng thuộc giai cấp và giới chức của họ, tách rời nhóm đại diện làng xã
thôn ấp, vì quyền lợi và nhu cầu của các nhóm khác biệt nhau.
Như vậy Quốc Hội Kiểu Mẩu tự chia thành hai nhóm, nhóm Thượng Viện và nhóm Hạ Viện.
Sự việc Quốc Hội trở thành Lưỡng Viện do những cuộc nhóm hợp riêng như vừa kể bắt đầu từ năm 1351.
Khác với hình ảnh thông thường mà chúng ta thấy tại Quốc Hội các nước,
Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình bán nguyệt, ở Quốc Hội Anh quốc
Quốc Hội nhóm trong một thính phòng hình chữ nhật.Ở phía cuối phòng
trên bậc cao là bàn của vị Xướng Ngôn Viên ( Speaker), phía dưới, thấp
hơn là bàn của các vị Thư Ký.Bên phải của vị Xướng ngôn Viên là những
dãy bàn của các vị đại biểu phe thân chính phủ.Dãy bàn thứ nhất dành cho
các Bộ Trưởng hay nhân viên chính phủ.
Phía trái của Xướng
Ngôn Viên là những dãy ban dành cho những vị lãnh đạo các chính đảng đối
lập. Theo ngôn ngữ của người Anh, nếu đương kim chính phủ được gọi là
Chính Phủ Hành Quyền ( Executive Government) , thì thành phần đối lập
được gọi là Chính Phủ Trong Bóng Tối ( Shadow Government).
Trong Quốc Hội Chính Phủ Hành Quyền có nhiệm vụ đưa ra đường lối, chương
trình chính trị cho đất nước, thì Chính Phủ Trong Bóng Tối cũng có
nhiệm vụ phê phán và đưa ra những đường lối , dự án mới cho Chính Phủ
trong tương lai để dân chọn lựa trong kỳ bầu cử tới.
Do đó
trong tinh thần dân chủ của người Anh, thành phần đối lập cũng cần thiết
cho dân chủ không kém gì thành phần chính phủ đương nhiệm.
Vì
thế, phe đối lập luôn luôn được phe đương quyền kêu gọi đối thoại một
cách kính cẩn: Các Ngài Phe Đối Lập ( Her Majesty Opposition).
Trước nhiều vấn đề hệ trọng, việc Thủ Tướng Chính Phủ đương quyền tham
khảo ý kiến phe đối lập trước khi quyết định là thể thức hành pháp dường
như bắt buộc.
Trong các phiên họp tranh cãi tại Quốc Hội, vị
đại biểu phát biểu ý kiến không trực tiếp nói thẳng với phía bên kia hay
với một vị đại biểu khác đồng đảng với mình, mà luôn luôn quay về nói
với vị Xướng Ngôn Viên, để vị nầy , sau khi thấu hiểu và thâu thập ý
kiến của Quốc Hội, sẽ đến trình bày lại với vua.
Và có lẽ do vị
trí của phe thân chính phủ và phe đối lập ở bên phải và bên trái vị
Xướng Ngôn Viên, mà từ ngữ hữu phái và tả phái phát xuất từ đó ( vì tầm
hiểu biết về lịch sử của chúng tôi có hạn, mong các bạn độc giả , nhứt
là các bậc đàng anh dạy bảo thêm cho, xin cám ơn).
Theo tục lệ,
kể từ ngày các làng xã, thôn ấp cử người vào Quốc Hội, xác thực hơn kể
từ ngày Simon de Monfort gọi dân chúng ở thôn ấp ngồi vào Quốc Hội năm
1265, hay xác thực hơn nữa từ ngày Hạ Viện bắt đầu hoạt động, giữ vai
trò chính yếu ( tính đến 1965 là đúng 700 năm), mọi dự án được đem ra
bàn thảo trong Quốc Hội phải được đọc đi đọc lại đến 3 lần.Sỡ dĩ phải
đọc lại đến 3 lần là vì các đại diện của Quốc Hội Simon de Monfort phần
lớn là dân quê, nông dân mù chữ được chọn từ các thôn ấp.Thói quen đọc 3
lần đó, Quốc Hội Anh vẫn còn giữ đến ngày nay, mặc dù mục đích cũng như
hoàn cảnh đã thay đổi:
- Lần thứ 1: Tường trình các dự án.
- Lần thứ 2: Quốc Hội bàn thảo chung sau khi nghe đọc lại, sau đó tùy
theo lãnh vực của vấn đề, dự án sẽ được giao cho các Ủy Ban Chuyên Môn
(Select Committees) cứ xét.
- Lần thứ 3: Sau khi Ủy Ban liên hệ
xem xét tường tận các dự án, Quốc Hội sẽ nhóm hợp phiên khoáng đại,
trong đó Ủy Ban Chuyên Môn sẽ đọc lại một lần nữa nguyên bản của dự án
cùng với những ý kiến và phương thức thực hiện để Quốc Hội biểu quyết.
II - QUỐC HỘI, HIẾN PHÁP VÀ BẦU CỬ.
Trong bài nói về Hiến Pháp, có lần chúng tôi đã trình bày : Nếu Anh
Quốc là Quốc Gia tiền phong đặt khuôn mẫu và thể thức cho cả toà nhà
Quốc Hội Dân Chủ cho các nước Tây Âu, thì đối với Hiến Pháp Anh quốc
không phải là mẫu mực để các nước dân chủ Tây Âu bắt chước.Bởi lẽ Anh
Quốc không có một Hiến Pháp được viết ra trên giấy trắng mực đen tất cả
những điều khoản, nguyên tắt nền tảng và thể thức tổ chức cho cơ cấu
quốc gia như Hiến Pháp của các nước Tây Âu , kể cả Hoa Kỳ.
Nói
như vậy không có nghĩa là Anh Quốc không có Hiến Pháp.Nói cách khác, các
điều khoản của Hiến Pháp Anh Quốc không được ghi chép vào một bản văn
duy nhứt, mà hàm chứa trong các văn bản được viết trải qua dòng lịch sữ
thăng trầm của chính trị, xã hội , kinh tế của xứ sở:
- Hàm
chứa trong các điều khoản luật pháp của làng xã, thôn ấp, ngay cả trước
khi hoàng gia Norman đến chiếm hòn đảo Anh, được gọi là Luật Pháp Thông
Thường (Common Law),- hàm chứa trong các lời tuyên án của các vị thẩm
phán ( Cases),- hàm chứa trong các cư xử theo thói quen, tập quán của
dân chúng (consuetudinary law).
Như trên chúng ta đã đề cập là
văn bản đầu tiên được viết ra một cách rõ rệt , khởi đầu cho một vài
nguyên tắc của Hiến Pháp Anh là Bản Đại Tuyên Ngôn các Quyền Tự Do (
Magna Charta Libertatum), từ giữa thế kỷ 13, lúc các làng xã, thôn ấp
bắt đầu có đại diện trực tiếp với vua.Nói cách khác Hạ Viện bắt đầu mặc
cả , đặt điều kiện với vua, biến những lời thỉnh nguyện thành những đòi
hỏi , những dự án luật , những đòi hỏi dân có quyền mà nhà vua phải
nhượng bộ ( Bill of Rights):
..Nếu nhà vua không ra sắc luật cho dân được quyền .., Quốc Hội sẽ không phê chuẩn dự khoản thuế mà vua dự liệu cho ngân sách .
Trong hai thế kỷ 15 và 16, nhiều cuộc chạm trán giữa Quốc Hội và Hoàng
Gia đã đến độ căng thẳng, nhứt kà đối với Hoàng Gia Tudor.Sau cùng, căng
thẳng đến độ các vị vua của Hoàng Gia Stewart nhiều lần định phủ quyết
các quyết định của Quốc Hội, dựa vào truyền thống cố hữu.
- Vua thay Trời trị dân ,- luật của vua là ý muốn của Trời ,- vua không bị luật lệ nào ràng buộc ( legibus solutus).
Cuộc chạm trán còn kéo dài đến thế kỷ 17 - Năm 1628 vua Charles I đã
phải chấp nhận Bản Văn Đòi Hỏi Các Quyền Lợi ( Bill of Rights),
- Và năm 1679 Sắc Luật Bảo Vệ Cơ Thể (Habeas Corpus Act) cũng được vua
phê chuẩn , trong đó có điều khoản luật cấm bắt bớ giam cầm một cách vô
cớ .Ngoài ra trong Bản Văn Đòi Hỏi Các Quyền Lợi được vua William và
Hoàng Hậu Marie d`Orange ấn ký, vua và hoàng gia đều phải tuân giữ luật
lệ như mọi người dân.
Với hai sắc luật vừa kể, chúng ta có thể coi là Quốc Hội chiếm lấy quyền thượng đẳng của Quốc Gia trên cả Vua và Hoàng Hậu.
Với Sắc Luật về Quyền Kế Vị (Act of Settlement) năm 1701, quyền thừa kế
của Hoàng Gia không phải do thần quyền , mà do Quốc Hội quyết định.
Bắt đầu từ thế kỷ 18 trở đi, nhà vua không còn được quyền phủ quyết các
quyết định của Quốc Hội nữa. Các dự án luật được đệ trình lên vua để
vua ấn ký và trở thành luật đều được vua chuẩn y bằng những thành ngữ
theo pháp ngữ cỗ, nói lên nguồn gốc Pháp Quốc Norman của Hoàng Gia:
- Nhà vua đồng ý ( le roi le veut)
- « Hãy thi hành như dự án luật muốn » ( soit fait come il est desiré).
Và nếu những dự án luật về ngân sách cho vua, thì vua sẽ phê chuẩn như sau :
- « Vua cám ơn các con dân tốt lành của Ngài, chấp nhận lòng tốt của họ
và như vậy Ngài chấp nhận »( Le Roi remercie Ses bons sujets, accepte
leur bénévolence, et ainsi le veut).
Ngoài ra những bản văn
được viết ra một cách rỏ rệt như vừa trích dẫn kể trên với ngày tháng,
Hiến Pháp Anh Quốc cũng hàm chứa nhiều bản tuyên án của các phiên tòa (
Cases).
- Bản Tuyên Án về Đặc Quyền của Hoàng Gia ( Case of
Proclamations) năm 1611- hay Bản Tuyên Án Chống Lại Ngân Hàng Anh Quốc (
Bowles v. Bank of England) về vấn đề tài chánh,- cũng như nhiều Bản Án
về dân luật cũng như hình luật được người dân Anh coi là những điều
khoản nguyên tắc của Hiến Pháp. Do đó, một cách nào đó, các vị thẩm phán
được coi là những vị cố vấn cho Quốc Hội Lập Hiến , cũng như Quốc Hội
Thường Nhiệm trong việc soạn thảo ra dự án cũng như trong việc quyết
định luật pháp .
Và sau cùng, những cách hành xử trong dân
chúng theo tập tục, truyền thống cũng được người Anh coi là những điều
khoản của Hiến Pháp để tổ chức xã hội của họ .
Việt Nam chúng ta có câu : Phép vua thua lệ làng hoặc
Quan có cần nhưng dân không vội,Quan có vội, quan lội quan đi .
Ở phần trên, chúng ta có đề cập đến việc các làng xã, thôn ấp ngay từ
thế kỷ 13 đã bắt đầu cử người đại diện trực tiếp và thường trực của mình
trước hoàng gia, nếu vua muốn được dân chúng trả thuế để bảo đảm cho
ngân sách hoàng gia khỏi thiếu hụt.
Điều kiện của dân chúng là:
Không cho dân chúng có đại diện, thì không trả thuế (no taxation
without representation).Và nhà vua vì nhu cầu tài chính đã phải chiều ý
dân.Từ đó làng xã thôn ấp có quyền cử người đại diện trực diện với
vua.Các người đại diện của dân , cùng với các huân tước, các đấng bậc
cao trọng trong tôn giáo ( do vua chỉ định) hợp thành Quốc Hội. Rồi vì
nhu cầu và quyền lợi khác biệt, Quốc Hội duy nhứt lúc đầu đã tách ra
thành Lưỡng Viện Quốc Hội.
Nhưng chúng ta sẽ vấp phải lỗi lầm
lớn, nếu chúng ta nghĩ rằng việc tuyển cử các đại biểu từ làng xã, thôn
ấp có tính cách bầu cử đại chúng ( universal suffrage) như hiện nay.Trên
thực tế, lúc đó các ứng viên cũng như cử tri đều bị giới hạn bởi nhiều
khó khăn.
Theo ước tính, lúc đầu những người có quyền bầu cử và
ứng cử không quá 4% dân số.Để giới hạn quyền bầu cử, vua lật ngược lại
câu đòi hỏi trên của dân: Không đóng thuế thì không có quyền được đại
diện ( no representation without taxation).
Và những ai được coi là bảo đảm có khả năng đóng thuế, là những địa chủ, có đất đai ( theo quan niệm sở hữu thời trung cổ) .
Bởi vì chỉ có địa chủ ( theo quan niệm vừa kể) mới có đất đai, có lợi
tức hàng năm vững chắc, đáng được tin cậy để giao cho việc quản trị hành
chánh địa phương, có khả năng vô tư để xử những vụ kiện tụng nhỏ tại
địa phương ( process by jury) và hành xử quyền đại diện của mình tại
Quốc Hội Wesminster một cách vô vị lợi.
Nhiều người có những
nguồn lợi khác, nhứt là trong thời gian kỹ nghệ Anh Quốc phát triển,
không thiếu người đã trở thành giàu có gấp mấy lần địa chủ nhờ những
nguồn lợi về thương mại và kỹ nghệ, vẫn không được quyền tuyển cữ và còn
bị nghi ngờ là làm giàu bất chính, nếu nguồn tài lực của họ không biến
thành sự giàu có cụ thể bằng việc mua lấy đất đai ( landed property) .
Và cũng vì phát triển kỹ nghệ mà một số thôn ấp bị dân chúng bỏ trống
hay Thôn ấp ( Rotten Boroughs), nhưng vẫn được có đại diện ở Quốc Hội,
trong khi đó thì nhiều khu vực mới, nhứt là những làng mạc đông đúc dân
cư chung quanh khu kỹ nghệ vẫn không được có đại diện.Một trong những
Thôn ấp được huân tước Russell, đại diện cho nhóm cải cách Quốc Hội đưa
ra, đó là trường hợp Old Sarum, chỉ còn có 3 địa chủ , vậy mà cũng có
đại diện ở Quốc Hội.Nhiều trường hợp như vậy đã được đem ra bàn cãi ở
Quốc Hội để sửa đổi.Với Sắc Luật Bảy Năm , năm 1715, rồi đến Sắc Luật về
Quốc Hội năm 1911, nhiệm kỳ Quốc Hội được thu ngắn lại 5 năm .
Với Sắc Luật Cải Tổ Qui Mô ( Great Reform Act) năm 1911, Quốc Hội phân
chia lại lãnh thổ Anh Quốc thành nhiều đơn vị bầu cử mới, sau khi đã
loại bỏ 56 Thôn ấp được kiểm chứng .
Đối với phụ nữ, cho mãi
đến năm 1832, thể chế tuyển cử Anh quốc vẫn còn giữ thái độ nam tôn nữ
ty. Năm 1832, với Sắc Luật Đại Cải Cách trước đó vẫn chưa cho phép phái
nữ Anh Quốc được bỏ phiếu. Phái nữ phải chờ mãi đến năm 1918, với Sắc
Luật Đại Diện Dân Chúng (Representation of the People Act) mới được đi
bỏ phiếu, nếu họ có trên 30 tuổi.
Và năm 1928, với Đạo luật Nội Quy các cô 21 tuổi lần đầu tiên mới được đi bỏ phiếu .
III - HOÀNG GIA, CHÍNH PHỦ VÀ DÂN CHÚNG.
Qua những dòng lịch sử vừa trình bày trên, chúng ta thấy rằng quyền thế
của vua càng ngày càng bị giảm bớt đi song song và ngược chiều với tiến
trình lớn mạnh quyền lực của Quốc Hội.
So với uy quyền của các
Vị Nguyên Thủ Quốc Gia tại các nước theo Đại Nghị Chế, quyền hành của
vua ( hiện nay , của Nữ Hoàng Elisabeth) Anh Quốc bị thu gọn lại rất
nhiều, nhưng uy thế của vua được dân chúng rất kính nể và thương mến.
Nhà vua hiện là biểu tượng cho sự đoàn kết quốc gia, cũng như tượng
trưng cho sự hợp tác trong khối Thịnh Vượng Chung ( Commonwealth).
Đặc quyền mà Hiến Pháp qui định cho vua hiện nay được ghi như sau:
Quyền được hỏi ý kiến, quyền kích lệ, cảnh giác những mối nguy hiểm đối
với bất cứ quyết định nào ( The right to be consulted, the right to
encourage, the right to warn).
Hiện nay Hoàng Gia vẫn có một
Hội Đồng Tư Vấn ( Privacy Council) gồm 300 thành viên.Nhưng trừ những
cuộc Đại Lễ hoặc các cơ hội đặc biệt, ít khi Hội Đồng hội hợp đủ
mặt.Trong các thành viên Hội Đồng Tư Vấn, một số người giữ chức vụ tương
đương với nhiệm vụ của các Bộ Trưởng Chính Phủ.Hội Đồng Tư Vấn đã bắt
đầu làm việc bên cạnh vua từ khoảng năm 1600 trở đi.
Năm 1701
Sắc Luật về Quyền Kế Vị cấm không cho vua chọn thành viên của Hội Đồng
Tư Vấn từ các đại diện dân cử làng xã thôn ấp.Nói cách khác, chọn từ các
đại biểu của Hạ Viện, sợ vua có thể mua chuộc họ để thao túng, lũng
đoạn Quốc Hội.Một tu chính án cho sắc luật trên được biểu quyết năm 1707
đồng thuận cho vua được chọn thành viên của Hội Đồng Tư Vấn giữa các Hạ
Nghị Sĩ, nhưng những người được chọn đương nhiên ( ipso facto) sẽ bị
mất chức Dân Biểu Quốc Hội.
Muốn trở thành Nghị Sĩ lại, họ phải
trãi qua một cuộc bầu cử trở khác.Và những sắc luật tu chính kế tiếp
năm 1919, 1926 và 1936 ( Reelection of Ministers Act) bãi bỏ điều khoản
bó buộc vừa được nêu lên.Các vị Bộ trưởng cũng như các nhân vật trong
Chính Phủ vẫn là Nghị Sĩ của Hạ Viện ( một đặc tính của Đại nghị Chế,
ngược với nguyên tắc phân chia quyền lực trong Tổng Thống Chế Hoa kỳ).
Trong quá khứ, từ ngày bắt đằu có Hội Đồng Tư Vấn ( từ năm 1600 trở
đi), các vị đặc trách cơ quan mình ấn ký các quyết định của cơ quan bên
cạnh con dấu và chữ ký của vua (cùng với những công thức bằng pháp ngữ
cỗ chúng ta đã thấy ở trên) để xác nhận với vua rằng việc thực hiên
quyết định vừa kể, vị Bộ trưởng đặc trách chịu trách nhiệm trước mặt
vua.Bởi lẽ theo truyền thống Anh,
- Nhà Vua không bao giờ sai lầm hay làm sai ( The King can do no wrong),
- Nhà Vua không thể tự mình làm lấy ( The King can not act alone).
Nhưng dần dần với các tiến trình song song và ngược chiều về các lãnh
vực quyền hành giữa vua và Quốc Hội , như đã nói, ấn ký của Vị Bộ Trưởng
có nghĩa là trong trường hợp hành động sai lầm hay bất chính, Bộ trưởng
có thể bị Hạ Viện truy tố và Thượng Viện xét xử.
Từ thế kỷ 18
trở đi, nhà vua càng ngày càng ý thức rằng Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các
Vị Bộ Trưởng có nhiệm vụ hành pháp trực tiếp.Nhưng muốn thực hiện nhiệm
vụ của mình, tức là cai trị đất nước một cách có hiệu quả, cần được sự
đồng thuận và tín nhiệm của quốc Hội.Dần dần Quốc Hội bỏ đi thói quen
truy tố ( Bill of Attainder) sau khi xét hành động của Vị Bộ Trưởng hay
thành viên của Chính Phủ.
Thay vào đó Quốc Hội tỏ thái độ cho
vua biết Vị Bộ trưởng hay thành viên liên hệ có được Quốc Hội tín nhiệm
hay không.Trong trường hợp bị Quốc Hội bất tín nhiệm , vị Bộ trưởng liên
hệ phải từ chức (trường hợp của Lord North, Thủ Tướng Chính Phủ dưới
thời vua George III , năm 1782). Đặc tính của Đại Nghị Chế hiện hành.
Như chúng ta vừa nói, Hội Đồng Tư Vấn của vua gồm khoảng 300 thành viên
để giúp vua trị nước.Nhưng trên thực tế, chỉ có một số thành viên của
Hội Đồng giữ những chức tương đương với các Bộ Trưởng Chính Quyền hiện
hữu.
Những thành viên Bộ trưởng nầy thường được vua gọi riêng
thành một Hội Đồng Thân Tín ( Inner Council).Và vì lý do quan trọng và
bí mật của nhiều vấn đề Hội Đồng Thân Tín thường được vua gọi đến hợp
riêng với vua trong một căn nhỏ phòng dành riêng (Cabinet).Do danh từ
căn phòng nhỏ dành riêng đó , mà những Chính Phủ có thể chế Hành Pháp
gồm các Bộ Trưởng đồng hợp nhau để quyết định, được các nhà chính trị
học tạm gọi là Nội Các Chế .
Sau khi Nữ Hoàng Anne Tudor mất đi, năm 1714 vua George Tudor, dòng dõi người Đức, sinh trưởng ở Hannover, sang Anh kế vị.
Vua George không biết tiếng Anh, chỉ nói được một cách không trôi chảy
tiếng La Tinh, nên dần dần không mấy thích thú chủ toạ các buổi hợp của
Hội Đồng Tư Vấn, nhứt là các buổi hợp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng
Nội Các .
Từ đó, cần có một vị trong các Bộ trưởng tham dự các
buổi họp của Hội Đồng Thân Tín hay Hội Đồng Nội Các, sau các buổi họp ,
đến tường trình lên vua những điều Nội Các quyết định.
Thường
Vị Bộ trưởng được chọn giữ nhiệm vụ nầy là Bộ trưởng Tài Chánh hay ngân
Khố ( Treasure Lord). Việc vua không còn tham dự trực tiếp các phiên họp
của Hội Đồng Nội Các, đưa đến sự kiện trên thực tế chỉ có Nội Các quyết
định và hành xử quyền bính : Vua chỉ có quyền hành theo hình thức (
formalis) trên giấy tờ mà thôi.
Qua hai sự kiện vừa kể, Hội
Đồng Tư Vấn và Hội Đồng Thân Tín hay Nội Các phải được Quốc Hội tín
nhiệm mới hành xử quyền bính giúp vua trị nuớc một cách hữu hiệu và việc
Nội Các tự nhóm họp và quyết định lấy mọi vấn đề hành quyền, quyền Hành
Pháp của thể chế quân chủ độc tôn trong quá khứ dần dà được chuyển qua
Quốc Hội và rồi Quốc Hội, với quyền chuẩn y hay bác bỏ ( xem bài Quốc
Hội ) và qua thể thức tín nhiệm hay bất tín nhiệm , còn cầm giữ cả quyền
hành pháp trong tay.
Nói cách khác Quốc Hội, cơ quan dân cử,
là tiếng nói của dân, đại diện cho lý tưởng, nhu cầu và ước vọng của
dân, là cơ quan định chế, hướng dẫn và kiểm soát cho thực hiện đường lối
chính trị Quốc Gia. Đó là đặc tính then chốt của Đại Nghị Chế.
Nhưng trên thực tế Nội Các hay Hành Pháp mới là cơ quan hành xử quyền
hành để thực hiện, mà Quốc Hội đồng thuận hay bác bỏ đó, theo thể thức
Đại Nghi Chế.
Do đó mà câu hỏi được đặt ra, chúng tôi nêu lên ở
phần đầu bài, thể chế trong đó Quốc Hội có quyền ( thực sự) chuẩn y hay
bác bỏ đối với luật lệ , tín nhiệm hay bất tín nhiệm đối với Chính Phủ,
còn việc hành xử quyền bính trong công việc thường nhật là do Chính Phủ
thi hành, thể chế đó nên gọi là Đại nghị Chế (Parlamentarism
Government) hay Nội Các Chế ( Cabinet Government).
Kế đến, với
sự kiện một trong các Vị Bộ Trưởng của Hội Đồng Nội Các được lựa chọn
với nhiệm vụ thân hành đến tường trình lại với vua những quyết định của
phiên họp, dần dần các Vị Bộ Trưởng trong Nội Các xem Vị Bộ trưởng được
tuyển chọn như là Thủ Lãnh của Nội Các, nhứt là vào năm 1721 Sir Robert
Walpole được tuyển cử như là Vị Lãnh Đạo của Hội Đồng, Vị Bộ Trưởng trên
các Bộ Trưởng hay Vị Thủ Tướng lãnh đạo Hội Đồng Nội Các. Tư tưởng Thủ
Tướng là Vị Lãnh Đạo Tối Cao của Hội Đồng Nội Các được nhà chính trị học
Jenning ghi lại như sau:
Ngài là Vị Thủ Tướng, bởi vì trổi
vượt hơn các Vị Bộ trưởng khác, chứ không phải trổi vượt vì ngài là Thủ
Tướng ( He is Prime Minister , because he is supremen, not supremen
because he is Prime Minister).
Điều đó nói lên tài năng và đức độ của Vị Bộ trưởng sẽ được chọn lên làm Thủ Tướng để hướng dẫn Nội Các.
Hình ảnh của Vị Thủ Tướng thể hiện càng ngày càng rõ rệt cho việc hành
xữ quyền hành và bảo đảm tình trạng vững chắc cho Chính Phủ hay Nội Các
do ông lãnh đạo.Hình ảnh của Vị Thủ Tướng lâu bền , trong Chính Phủ do
Robert Walpole đảm nhiệm ( 1721-1742) vẫn được xem là tiêu biểu cho
Chính Phủ Đại Nghị Chế, Nội Các Chế hay Thủ Tướng Chế của Anh Quốc.Hiện
nay theo thông lệ, Thủ Tướng được vua ( hay Nữ Hoàng) chỉ định là người
lãnh đạo của chính đảng chiếm đa số ghế trong Quốc Hội.Rồi chính Thủ
Tướng đứng ra chọn các Bộ Trưởng cho Nội Các của ông trong số các nghị
Sĩ trong quốc Hội .
Nói cách khác, trong Đại Nghị Chế hiện nay,
Thủ Tướng Chính Phủ là người được Quốc Hội tuyển chọn và Tổng Thống, vị
Nguyên Thủ Quốc Gia bổ nhiệm.
Đó cũng là một đặc tính nữa của Đại Nghị Chế.
Và như trên đã nói, các Bộ Trưởng được chọn giữa các Nghị Sĩ ( nhờ các
Sắc Luật Tu Chính Án năm 1919, 1926 và 1936) vẫn không mất quyền đại
biểu của họ ở Quốc Hội.Họ vừa là Dân Biểu trong Quốc Hội, vừa là Bộ
trưởng trong Chính Phủ ( lằn mức phân quyền trong Đại Nghị Chế không xác
định rỏ rệt như trong Tổng Thống Chế là vậy.Thể thức phân quyền , kiểm
soát và cân bằng trong Đại nghị Chế được tổ chức ngay trong lòng Quốc
Hội, giữa thành phần đa số ủng hộ Chính Phủ đương quyền và thành phần
thiểu số đối lập, một đặc tính nữa của Đại Nghị Chế, mà chúng tôi đã có
dịp đề cập đến trong bài Thiểu Số Đối Lập, Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang
Đức ).
Vị Thủ Tướng được chỉ định là người lãnh đạo chính đảng
chiếm đa số trong Quốc Hội.Để bảo đảm cho Nội Các do mình lãnh đạo được
vững mạnh, ông chọn lựa các Bộ trưởng từ các Dân Biểu cùng đảng phái đa
số của ông để tham gia vào Nội Các Chính Phủ trong suốt nhiệm kỳ hành
pháp do luật pháp quy định. Ngoại trừ vì lý do nào khác, với các Dân
Biểu đồng đảng của Thủ Tướng khó mà xảy ra chuyện giữa đường gảy gánh
tương tư , không ủng hộ ông nữa, bắt buộc ông phải từ chức.
Quốc Hội có quyền bất tín nhiệm bắt buộc Chính Phủ phải từ chức.
Ngược lại Chính Phủ cũng có quyền yêu cầu Tổng Thống ( nhứt là khi có
sự đồng thuận của Tổng Thống và Thượng Viện, như Hiến Pháp Cộng Hoà Liên
Bang Đức xác nhận, chúng tôi sẽ đề cập đến trong bài Chính quyền Cộng
Hoà Liên Bang Đức, cơ chế chống độc tài và bất ổn , giải tán Quốc Hội
trong trường hợp những xung khắc giữa Quốc Hội và Chính Phủ không còn
cách nào giải quyết được.
Như vậy việc Chính Phủ có quyền yêu
cầu giải tán Quốc Hội là việc làm để tránh cho quyền hành của Quốc Gia
bị tê liệt và trao trả quyền quyết định lại cho toàn dân qua cuộc tuyển
cữ mới .
Nhưng việc giải tán Quốc Hội không được các nhà chính
trị học Anh Quốc coi như là quyền hạn của Hành Pháp ( Chính Phủ) đứng ra
thi hành, mà là qua vị Thủ Tướng truất phế Quốc Hội.Thủ Tướng là người
hiểu rỏ tình trạng đất nước, do việc hành xử quyền hành của ông. Đàng
khác ông cũng là thành viên của Quốc Hội ( Thủ Tướng cũng như các Vị Bộ
Trưởng trong Nội Các Chính Phủ là những Dân Biểu Quốc Hội), nhận thấy
thành phần và đường hướng Quốc Hội như hiện thời không thể đáp ứng được
nhu cầu của đất nước. Ông đệ trình lên vua, Vị nguyên Thủ Quốc Gia, để
ngài giải tán Quốc Hội mà luật pháp đã quy định cho ngài .
Nhiều người bi quan cho rằng quyền yêu cầu giải tán Quốc Hội được giao cho Thủ Tướng như vừa kể có thể đi đến lạm dụng.
Thủ Tướng có thể nhận thấy tình hình chính trị, thực trạng xã hội có
thể đem lại cho chính đảng ông nhiều phiếu hơn, nếu Quốc Hội bị giải tán
và tổ chức lại bầu cử sau đó. Tư tưởng không mấy sáng sủa trên bị Thủ
Tướng Disraeli đối chất. Ông đã không nghe theo lời các quân sư quạt mo
xúi bậy giải tán Quốc Hội với mưu đồ vừa kể. Và sau đây là lý do của
ông:
Một vị Thủ Tướng chiếm đa số sự ủng hộ ở Quốc Hội ( Hạ
Viện) không có lợi gì tự nhiên đứng ra giải tán Quốc Hội với mục đích để
đạt được thắng lợi ở những cuộc đấu sức dựa vào những hoàn cảnh tạm bợ
hiện tại ( A Minister with a large majority in the House of Commons has
no business to disolve merely with the object gaining an advantage at
the polls due the transitory circumstances) .
Trong tâm thức và
ngôn ngữ của ngưới Anh, Quốc Hội ( như trong thành ngữ Nhà Vua ở trong
Quốc Hội ) , gồm có Vua và Quốc Hội Lưỡng Viện để quyết định và hành xử
quyền bính quốc gia.Trên thực tế và qua các diển biến lịch sử mà chúng
tôi có dịp nhắc đến ở trên, quyền lực quốc gia được Quốc Hội hành xử chỉ
là Quốc Hội Hạ Viện. Do đó để nói đến Quốc Hội, nhiều lúc thay vì dùng
danh từ Parliament, người Anh thường dùng Tòa Nhà của các Đại Diện Xã Ấp
( House of Commons) .
Như chúng ta đã có dịp đề cập đến, từ
thế kỷ 18 trở đi, dường như nhà vua không bao giờ từ chối chẩn y các
quyết định do Quốc Hội đã biểu quyết ( bằng những thành ngữ của pháp văn
cổ ).Do đó quyền lực quản trị Quốc Gia chỉ còn thu gọn vào Quốc Hội
Lưỡng Viện ( Đại Nghị Chế hay Quốc Hội Chế , Parliamentarism, là vậy).
Thượng Viện ( Chamber of Lords) được đặt dưới quyền chủ toạ của Vị Huân Tước Chưởng Án ( Chanceller of Lords).
Cho đến thế kỷ 18, phần lớn các ghế trong Hạ Viện, được ủy thác cho các
Dân Biểu, đại diện làng xã, thôn ấp và phải được Thượng Viện đồng
thuận.Điều kiện vừa kể, hiện nay, không được Quốc Hội đặt ra nữa. Và
Thượng Viện chỉ còn quyền hành rất hạn hẹp.Nói đúng hơn, Thượng Viện Anh
Quốc hiện nay là viện để các quyết định Quốc Hội được suy nghĩ thêm cặn
kẽ hoặc là cơ quan để trì hoản thêm thời gian để vấn đề được chín mùi
trước khi thực hiện.
Thành viên của Thượng Viện cho đến nay vẫn không thay đổi, có khoảng 1200 người :
- Trong đó có 800 Huân Tước được giữ chức cha truyền con nối,
- 26 của tôn giáo gồm 2 Tổng Giám Mục và 24 Giám Mục.
- Kế đến 21 Huân Tước Luật Pháp, là những Vi Thẩm Phán có nhiều công trạng được vua chỉ định có giá trị suốt đời.
- Và với Sắc Luật Quý Tộc Suốt Đời năm 1958 ( Life Peerage Act ) khoảng
330 nhân vật có công được vua phong lên hàng quý tộc sẽ là thành viên
của Thượng Viện.
Nhiều vấn đề được Thượng Viện đem ra cứu xét,
Hạ Viện và Chính Phủ quan tâm theo dõi. Nhưng trên thực tế, Thượng Viện
không có quyền quyết định để luật lệ có hiêu quả.Với sắc luật về Quốc
Hội năm 1911 và 1944, những đạo luật về ngân sách (Money Bills), một khi
được Hạ Viện chuẩn y và được Xướng Ngôn Viên tuyên bố, sẽ đương nhiên
trở thành luật, sau khi được vua ấn ký, có hay không có sự đồng thuận
của Thượng Viện cũng vậy.Nhiều dự án luật khác cũng vậy, sau khi Hạ Viện
chấp thuận 2 lần trong 2 phiên họp khác nhau và trải qua thời gian một
năm, cho dù Thượng Viện bác bỏ, dự án đương nhiên trở thành luật do hiệu
lực của Sắc Luật về quốc Hội năm 1944.
Ai trong chúng ta có
được trong tay quyển Tự Điển Anh Ngữ Oxford English Dictionary, thử tìm
các danh từ sau đây: Hiến Pháp, Đơn Vị Bầu Cử và Cử Tri. Chúng ta sẽ
ngạc nhiên thấy rằng cả ba danh từ trên đều phát xuất từ một nguyên ngữ
độc nhứt Constituere của La ngữ và có nghĩa là xây dựng, đặt nền tảng.
Không phải vô tình hay do thiếu từ ngữ mà người Anh chỉ dùng một từ ngữ
để chỉ ba thực thể chính trị khác biệt trong nhiều ngôn ngữ khác, kể cả
Việt ngữ. Nếu- Hiến Pháp được người Anh định nghĩa bằng Constitution ,-
thì Đơn Vị Bầu Cử được ho gọi bằng Constituency ( đôi khi họ cũng dùng
College).- Và Cử Tri được họ định nghĩa bằng Constituent ( bên cạnh
những từ ngữ như Voter, Elector ..).
Suy nghĩ chính chắn hơn sự
liên lạc giữa ba danh từ vừa kể, chúng ta sẽ thấy rằng tinh thần dân
chủ của người Anh rất sâu sắc khi họ định nghĩa ba danh từ liên hệ trên
bằng một nguyên ngữ La Tinh duy nhứt Constituere. - Nếu Constitution là
Hiến Pháp, văn kiện cơ bản ghi lại những nguyên tắc nền tảng trên đó một
quốc gia trong tương lai sẽ được xây dựng . Nhứt là đối với một nước
dân chủ, Hiến Pháp là văn kiện cơ bản xác định những quyền dân chủ và
bình đẳng của người dân chung sống trong một Quốc Gia .
- Thì
Cử Tri , Constituent, là người dân đi bỏ phiếu là người đứng ra xây
dựng, đặt nền tảng cho thể chế dân chủ của mình, ghi những quyền, tự do
và nhiệm vụ của mình vào Hiến Pháp ( Constitution) . Bằng lá phiếu mình
chọn lựa những điều khoản mà mình muốn cho mình và đồng bào mình cùng
chung sống hạnh phúc và xứng đáng với nhân phẩm con người trong một Quốc
Gia với mình.
Nới cách khác, cử tri hay người dân đi bỏ phiều
trong thể chế dân chủ là nguyên tố tiên khởi để xây dựng nền dân chủ cho
Quốc Gia. Tư tưởng vừa được đề cập có lẽ còn sâu sắc hơn cả tư tưởng
Demokratía ( Dân Chủ) của Hy Lạp .
Cũng vậy, trong cuộc sống
thường nhật, mặc dầu quyền lực Quốc Gia nằm trong tay Quốc Hội ( Đại
Nghị Chế), hay quyền bính đó được thi hành xử do Hội Đồng Bộ trưởng (
Nội Các Chế ), hay các Bộ Trưởng trong Chính Phủ hành quyền dưới sự
hướng dẩn của Thủ Tướng ( Thủ Tướng Chế ),
Nhưng chính Cử Tri,
người dân đi bầu đứng ra « thiết lập nền tảng » và « xây dựng » ra Quốc
Hội và Chính Phủ dưới những hình thức vừa kể qua lá phiếu của mình trong
kỳ bầu cử Quốc Hội vừa qua. Quốc Hội và Chính Phủ hiện hữu có lẽ đã
được « thiết lập » bằng những vị Đại Biểu khác, cũng như những vị Bộ
Trưởng và Thủ Tướng khác, với đường lối chính trị, kinh tế và xã hội
khác, nếu người Cử Tri đã đứng ra « thiết lập và xây dựng » một cách
khác .
Cùng trong tinh thần vừa kể, Đơn Vị Bầu Cử được người
Anh gọi là Constituency ( đôi khi bằng College ). Với Sắc Luật về thể
thức phân chia lại số ghế trong Hạ Viện ( House of Commons -
Redistribution of Seats Act ) năm 1948, Đơn Vị Bầu Cử được coi là một
lãnh thổ có đại diện riêng biệt tại Hạ Viện ( An area having separate
representation in the House of Commons ).
Với thể thức bầu cử
đơn danh cho mỗi đơn vị, mỗi lãnh thổ được coi là cơ thể của những cử
tri ( Body of voters) kết hợp nhau để xây dựng, thiết lập tòa nhà Quốc
Hội. Mỗi Đơn Vị Bầu Cử sẽ được Vị Đại Diện mình ở toà nhà Quốc Hội nói
lên tiếng nói và nguyện vọng của mình để cùng chung xây dựng nên Quốc
Hội, cơ quan điều khiển Quốc Gia . Hay nói như Gs Blondel,
Đơn Vị Bầu cử là hảng xưởng tại địa phương chế tạo ra nền chính trị cho toàn quốc .
Bởi vì, mặc dầu Vị Dân Biểu của Đơn Vị Bầu Cử do địa phương bầu ra,
nhưng một khi ngồi vào chiếc ghế của Toà Nhà Quốc Hội, Vị Dân Biểu không
còn là kỵ mã xông xáo bênh vực cho quyền lợi phe nhóm, địa phương , mà
là Vị Đại Diện nói lên tiếng nói và ước vọng cho cả Quốc Gia, nói như tư
tưởng lỗi lạc của Edmund Burke, mà có lần chúng tôi đã trích dẩn trong
bài Dân Biểu ( Ayling, Edmund Burke, His Life and Opinions, London, John
Murray, 1988).
So với Tổng Thống Chế Hoa kỳ, trong đó hai mấu
chốt của tổ chức quyền lực Quốc Gia là nguyên tắc phân quyền và nguyên
tắc kiểm soát và cân bằng , trong Đại Nghị Chế của Anh Quốc, nguyên tắc
phân quyền không được nhấn mạnh môt cách tuyệt đối.Thay vì quyền lực
Quốc Gia bị phân chia cách biệt giữa lập pháp và hành pháp, trong Đại
nghị Chế phương thức cộng tác hỗ tương giữa các quyền lực Quốc Gia được
nhấn mạnh một cách nổi bậc hơn.
Mặc dầu khi thực thi, Lập Pháp
và Hành Pháp có thể thức và lãnh vực hành động khác nhau. Nhưng về cơ
cấu quốc gia, Hành Pháp muốn có tư cách chính danh để hành quyền một
cách hữu hiệu , phải được sự tín nhiệm của đa số Nghị Sĩ trong Quốc Hội,
nếu ngược lại một Chính Phủ bị Quốc Hội bất tín nhiệm sẽ mất đi tư cách
danh chính ngôn thuận để tiếp tục cai trị đất nước.
Về phía
Quốc Hội cũng vậy, Quốc Hội hành xử quyền lực Quốc Gia một cách vô trách
nhiệm, có thể bị Chính Phủ đề nghị Vua giải tán.
Trong thể
thức thực thi quyền hành cũng vậy, các dự án luật cũng như chương trình
chính trị để điều khiển Quốc Gia, Chính Phủ phải được Quốc Hội tín nhiệm
và ngược lại, do việc các Bộ trưởng và Thủ Tướng cũng như nhân viên cao
cấp trong Chính quyền là những vị Nghị Sĩ trong Quốc Hội, các dự án
luật cũng như việc hướng dẫn đường lối chính trị của Chính Quyền được
Quốc Hội cùng bàn thảo với sự hiện diện và góp ý của các thành viên
Chính Phủ.
Như vậy kết quả của các cuộc tranh luận ở Quốc Hội
có kết quả và càng theo sát chương trình của Chính Phủ, cũng như chương
trình và đạo luật của Chính Phủ không đi ra ngoài đường hướng của Quốc
Hội hoặc ngược lại ý muốn của dân chúng, mà thành viên của Quốc Hội là
những người đại diện. Đó cũng là ý nghĩa của sự liên hệ giữa ba từ ngữ
Constittution-Constituency-Constituent , cùng phát xuất từ một danh từ
La- ngữ độc nhứt Constituere mà chúng ta đã xét qua ý nghĩa trên.
IV - MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH.
Qua hai bài Tổng Thống Chế Hoa kỳ và Anh Quốc - Đại nghị Chế chúng ta có thể rút được một vài nhận xét sau đây:
Hoa Kỳ :
Đọc lại những Điều Khoản Thỏa Ước Liên Bang cũng như thành quả của Hiến
Pháp Philadelphia, chúng ta đã xác định rằng mặc dầu 13 Tiểu Bang, cựu
thuộc địa Anh Quốc, của Hoa Kỳ đồng ý với nhau hợp thành Quốc Gia Liên
Bang, nhưng mỗi Tiểu bang vẫn giữ quyền tối thượng của mình, mà họ đã
phải trả đắt giá trong cuộc chiến chống lại mẩu quốc Anh để được độc
lập. Tinh thần yêu chuộng tự do đó, chống lại mọi hình thức chuyên chế
độc tài bất cứ từ đâu đến, họ luôn nắm chặt lấy bằng mọi cách.
Anh quốc :
Nhờ hoàn cảnh thuận lợi đưa đẩy, tức là vua cần ngân sách phải nhượng
bộ dân để được dân trả thuế, nhưng cũng nhờ trí óc sáng suốt, người Anh
biết lợi dụng thời thế chiếm lấy dần dần quyền bính từ tay của thể chế
quân chủ chuyên chế, biến Anh quốc thành một quốc gia dân chủ ( mặc dầu
dưới hình thức Quân Chủ Lập Hiến).
Nếu ở Hoa kỳ , người Mỹ đã
biết bảo đảm tự do, dân chủ của họ không những bằng cách phân chia quyền
lực Quốc Gia theo chiều ngang : lập pháp, hành pháp, tư pháp cùng với
hệ thống kiểm soát và cân bằng ,cũng nhu theo chiều dọc : quyền lực được
phân tán từ Chính Phủ và Quốc Hội Liên Bang đến Tiểu Bang, Tỉnh , Quận,
Làng Xã .. .để khỏi rơi vào tay những kẻ bất chính có mưu đồ đen tối
nào đó, thì ở Anh dân chúng chỉ thấy an tâm khi giao quyền lực Quốc Gia
cho Quốc Hội , một cơ chế gồm những vị Đại Diện cho chính dân bầu ra,
hay do chính người dân đứng ra định đoạt, đặt nền tảng, xây dựng, thiết
lập .
Cũng vậy, nếu dân chúng Hoa Kỳ thấy cần có vị lãnh đạo
hành pháp có nhiều quyền lực, để bảo đảm cho sự hợp nhất Quốc Gia Liên
Bang ( gồm các Tiểu Bang độc lập ), cũng như để tổ chức Quốc Gia Liên
bang vững mạnh về chính trị, kinh tế và quân sự đối đầu lại các cường
quốc quân sự khổng lồ lúc bấy giờ, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, nên đã chọn
Tổng Thồng Chế làm tổ chức hành chánh , thì ở Âu Châu , Anh, Pháp, Đức ,
Ý, Tây ban Nha và hầu hết các quốc gia Tây Âu khác, nếu không muốn nói
là tất cả, đều chọn Đại Nghị Chế làm thể chế tổ chức Quốc Gia, sau những
kinh nghiệm ê chề về độc tài của họ.
- Người Anh đã phải dành
lại từ tay vua từng mãnh đất của quyền lực và tự do qua gần 6 thế kỷ (
kể từ thế kỷ 13) với nhiều chiến lợi phẩm được ghi lại trong các Sắc
Luật.
- Người Pháp đã phải trả giá bằng xương máu cho các cuộc khởi xướng tự do dân chủ từ Cuộc Cách Mạng 1789.
- Người Đức với vết thương Đức Quốc Xã .
- Người Ý với kinh nghiệm độc tài đẩm máu của Phát Xít ( Fascismo) còn in đậm trên dưới 50 năm qua với Mussolini.
- Người Tây Ban Nha với quyền lực hét ra lửa của Generalissimo Franco..
Đại Nghị Chế là phương thức các quốc gia Tây Âu ủy thác lối sống dân chủ và tự do của họ.
- Pháp với Bán Tổng Thống Chế;
- Anh, Đức, Ý, Tây ban Nha với Đại nghị Chế .
- Bán Tổng Thống Chế, Thủ Tướng Chế, Nội Các Chế tựu trung cũng chỉ là Đại Nghị Chế hay Đại Nghị Chế biến thể.
Tất cả đều đặt lối sống dân chủ, tự do của mình ở Toà Nhà Quốc Hội để
được ngủ yên giấc, chống lại các cơn ác mộng độc tài , bạo chúa lúc nào
cũng đội lốt dưới mọi hình thức sẳn sàng trở lại.
Nguồn: Diễn đàn LittleHanu
0 comments
Post a Comment