CHƯƠNG 2
ĐỐI ĐẦU THẾ KỶ - CUỘC CHIẾN TRANH GIÀNH ĐỊA VỊ “QUỐC GIA ĐỨNG ĐẦU” GIỮA
TRUNG QUỐC VÀ MỸ
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------Quốc gia đứng đầu là quốc gia giàu có và mạnh nhất xuất hiện trong quá trình cạnh tranh giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu sau khi hình thành hệ thống thế giới cận đại; là quốc gia đi đầu thế giới trong một giai đoạn; là quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Thế kỷ 21 sẽ diễn ra cuộc đối đầu Trung - Mỹ để tranh giành địa vị “quốc gia đứng đầu”
Việc xuất hiện và thay đổi quốc gia đứng đầu có đặc điểm và quy luật
của nó. Quốc gia đứng đầu có loại hình khác nhau thì sẽ có bộ mặt khác nhau. Địa
vị và vai trò của quốc gia đứng đầu được thể hiện ở giá trị của nó đối với thế
giới. Các quốc gia đứng đầu xuất hiện trong 500 năm nay trong thế giới cận đại
điển hiình là Bồ Đào Nha thế kỷ 16, Hà Lan thế kỷ 17, Anh thế kỷ 18 và 19, Mỹ
thế kỷ 20. Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia đứng đầu trong thế kỷ 21.
Động lực chủ yếu để thế giới tiến bộ và phát triển là sự cạnh
tranh giữa các quốc gia. Nếu như nói trong nội bộ một quốc gia, sự cạnh tranh
giữa các giai cấp, các tập đoàn, các tầng lớp là động lực phát triển quốc gia,
thế thì sau khi hình thành hệ thống quốc tế, cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia
chính là động lực phát triển thế giới, chính là động lực trỗi dậy của nước lớn.
Giáo sư viện chính trị học Kennedy thuộc trường Đại học Harvard
Joseph Nye nói “Một số nhà sử học cho rằng tại châu Âu có sự cạnh tranh giữa
các quốc gia, điều này quả thực khiến họ không ngừng tự phát triển. Tại Châu Á,
địa vị của Trung Quốc mang tính chủ đạo, không có bất kỳ quốc gia nào có thể cạnh
tranh được với Trung Quốc, và Trung Quốc cũng chỉ giải quyết nội bộ vấn đề quốc
gia phương Bắc xâm nhập, vì vậy không có động lực bành trướng lãnh thổ ra bên
ngoài” “Trung Quốc 1500 năm trước rõ ràng là siêu cường của Đông Á. Khi đó người
Châu Âu bắt đầu vượt biển thám hiểm, còn người Trung Quốc có ít hoạt động này.
Cho nên bạn sẽ phát hiện thấy những nước lớn của thế giới có thực lực bành trướng
sang các châu lục khác đều bắt nguồn từ Châu Âu”.
Theo sự nhìn nhận của Joseph Nye, thế giới phương Tây sở dĩ phát
triển nhanh là do cạnh tranh giữa các nước phương Tây rất gay gắt, cuộc cạnh
tranh gay gắt giữa các nước phương Tây đang mang lại động lực và sức sống cho
thế giới phương Tây. Còn thế giới phương Đông trong thời kỳ cận đại sở dĩ phát
triển chậm, thậm chí trì trệ, là do không hình thành cục diện cạnh tranh giữa
các quốc gia.
Trong thế giới hiện nay số lượng các nước tham gia cạnh tranh đã
tăng lên so với trước kia. Trong thế kỷ 20, số lượng các nước giành được độc lập
về chính trị và hưởng chủ quyền hợp pháp đã tăng lên. Trong thập kỷ 30 của thế
kỷ 20 chỉ có 60 nước, nhưng đến cuối thế kỷ 20 đã có 190 nước. Cho đến tháng
9/2002, số các nước thành viên của Liên Hợp Quốc đã lên đến 191. Theo tư liệu
có liên quan, tính đến năm 2008, trên thế giới tổng cộng có 225 nước và khu vực,
trong đó có 194 nước và 31 khu vực. Trên thế giới tiến bộ và phát triển trong sự
cạnh tranh giữa các quốc gia. Sức sống, động lực, sức sáng tạo được bắt nguồn từ
sự thúc đẩy cạnh tranh giữa các quốc gia. Cạnh tranh giữa các quốc gia, đặc biệt
là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn là động lực lớn nhất của sự tiến bộ
thế giới.
Mục tiêu cạnh tranh giữa các quốc gia có thể chia thành mục tiêu
thấp nhất và mục tiêu cao nhất. Nhà lý luận quan hệ quốc tế nổi tiếng của Mỹ
KenneN. Walz cho rằng quốc gia là “thể hành vi tương đồng lấy tự bảo tồn làm mục
tiêu thấp nhất, lấy tranh giành quyền chủ đạo thế giới làm mục tiêu cao nhất”
“Mục tiêu thấp nhất trong cạnh tranh giữa các quốc gia là sự sinh tồn của bản
thân quốc gia… Mục tiêu cao nhất trong cạnh tranh giữa cá quốc gia trở thành nước
đứng đầu thế giới, là giành được quyền chủ đạo thế giới. Trở thành nước số một
thế giới, nước đứng đầu thế giới là mục tiêu cao nhất của cạnh tranh quốc gia
và là ranh giới cao nhất của sự phấn đấu quốc gia.
Cuộc đọ sức, cạnh tranh, phấn đấu trên vũ đài quốc tế của các quốc
gia có 4 tầng thứ:
- An ninh: An ninh là mục tiêu chiến lược
cơ bản nhất và cũng là mục tiêu quan trọng nhất. Sự phát triển của lịch sử và sự
tiến bộ của thế giới đạt được đến ngày nay đã khiến lợi ích an ninh của tuyệt đại
đa số các quốc gia dân tộc được đảm bảo. Hiện nay trên thế giới có 194 quốc
gia,về cơ bản không tồn tại nguy cơ bị chinh phục hoặc bị diệt vong. Chủ quyền
quốc gia của các nước về cơ bản được đảm bảo an ninh. Chỉ có mười mấy nước bị
đe doạ bởi chiến tranh.
- Phát triển: Thế giới tuy bước vào thời đại
hoà bình và phát triển đã được nhiều năm, nhưng số nước thực sự thực hiện được
phát triển tương đối nhanh tương đối mạnh không chiếm đa số, số các nước phát
triển và nước công nghiệp hoá mới nổi lên cộng lại cũng chỉ khoảng từ 40 – 50
nước chiếm 1/4 tổng số các nước trên thế giới.
- Trỗi dậy: Trong quần thể các nước đang
phát triển, những quốc gia trỗi dậy có thể ảnh hưởng đến cục diện thế giới cũng
chỉ tồn tại và xuất hiện có vài nước. Số các quốc gia có thể trỗi dậy trong 500
năm qua của thế giới cận đại cũng chỉ có
mười mấy nước. Số các quốc gia hiện nay có cơ hội và điều kiện để trỗi dậy trở
thành cường quốc thế giới cũng chỉ có vài nước.
- Quốc gia đứng đầu: Đây cũng tầng nấc cao
nhất. Quốc gia đứng đầu thường cứ 100 năm xuất hiện một lần. Tuy nhiên trong
500 năm qua của thế giới cận đại, số các quốc gia tranh giành ngôi báu “quốc
gia đứng đầu” chỉ có 7,8 nước; nhưng số quốc gia thực sự tiến tới địa vị “quốc
gia đứng đầu” cũng chỉ có vài nước. Một quốc gia muốn trở thành quốc gia đứng đầu
thế giới phải là quốc gia trỗi dậy, nhưng quốc gia trỗi dậy không nhất thiết trở
thành quốc gia đứng đầu thế giới. Từ quốc gia đang sinh tồn, quốc gia đang phát
triển, quốc gia đang trỗi dậy đến quốc gia đứng đầu thế giới là cả một quá
trình phấn đầu truyền kỳ.
Việc thay đổi các quốc gia đứng đầu: Thể hiện tập trung của
sức sống thế giới.
Giữa các quốc gia có cạnh tranh sẽ có chiến thắng hoặc đào thải. Sự
suy thoái của quốc gia đứng đầu cũ và sự trỗi dậy của quốc gia đứng đầu mới - sự
thay thế này thể hiện sức sống tiến bộ và phát triển của thế giới. Sự xuất hiện một quốc gia đứng đầu mới cũng đánh
dấu một sự tiến bộ mang tính lịch sử và bước nhảy vọt lớn của thế giới.
Trong phần mở đầu của cuốn ‘Ngoại giao lớn” Kissinger đã viết: “Hầu
như tồn tại một quy luật tự nhiên, cứ một thế kỷ lại có một nước lớn trỗi dậy;
nó có sự khích lệ của sức mạnh, của ý chí, của trí tuệ và của đạo đức; dựa vào
hệ thống giá trị của bản thân mình, nó sẽ xây dựng lại toàn bộ hệ thống quốc tế”.
Kỳ thực ngay từ cách đây hơn 2000 năm, nhà sử học vĩ đại cổ Hy Lạp
Herodotus dựa vào quá trình hưng suy của thành cổ Hy Lạp đã đưa ra luận đoán nổi
tiếng: “ Sự suy vong của một đô thị phồn hoa và sự trỗi dậy của một thành phố
bé nhỏ đã minh chứng cho một kết luận, đó là viễn cảnh tốt đẹp không bao giờ tồn
tại lâu dài”. Điều này trên thực tế đã thể hiện một quy luật không cân bằng về
sự phát triển cạnh tranh giữa các quốc gia, cũng là quy luật mang tính chu kỳ của
bá quyền: không thể có việc “phong cảnh ở đó mãi mãi đẹp” Quốc gia đứng đầu cũng
phải thay thế, thế giới không thể bị một quốc gia lũng đoạn lâu dài.
Trong thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nhà chính trị học quốc tế nổi tiếng
của Mỹ George Modelski đã từng đưa ra lý luận về ‘chu kỳ trăm năm” của sự thay
đổi quốc gia bá quyền, cũng có thể gọi là lý luận chu kỳ trăm năm của ‘quyền
lãnh đạo thế giới”. Ông đã chia nền chính trị quốc tế trong 500 năm qua thành 5
chu kỳ mang tính thế kỷ (1495 – 2030), đại thể cứ cách nhau 100 năm thì xuất hiện
một nước lớn trỗi dậy, xuất hiện một quốc gia bá quyền chủ đạo hệ thống thế giới.
Trong thời gian 500 năm này, những nước bá quyền lần lượt xuất hiện là: Bồ Đào
Nha thế kỷ 16, Hà Lan thế kỷ 17, Anh thế kỷ 18 và 19, Mỹ thế kỷ 20.
Cho dù là chu kỳ 100 năm của “quốc gia đứng đầu’, hay chu kỳ 100
năm của ‘quyền lãnh đạo thế giới” thì nó cũng chứng minh một điều đó là trong
quá trình cạnh tranh giữa các quốc gia, không có sự đứng đầu mãi mãi. Nhiệm kỳ
của quốc gia đứng đầu là “nhiệm kỳ thế kỷ” “nhiệm kỳ 100 năm’ Người ta thường
nói “thế kỷ Hà Lan”, “thế kỷ Anh”, “thế kỷ Mỹ”. Nhiệm kỳ đứng đầu của các quốc
gia đứng đầu này.
Cũng là một thế kỷ. Chế độ nhiệm kỳ tự nhiên hình thành nên của
“quốc gia đứng đầu” có lợi ích cho thế giới. Cho dù là muốn duy trì địa vị đứng
đầu hay là muốn vươn tới đứng đầu thì đều mang lại sức sống và động lực cho sự
phát triển của thế giới.
Việc thay đổi quốc gia đứng đầu thể hiện sự nâng cao trình độ vận
hành tổng thể của thế giới. Ví dụ, việc xuất hiện nước Anh đã mang lại cho thế
giới nền công nghiệp hóa. Việc nước Mỹ tiến lên vị trí quốc gia đứng đầu đã
mang lại sự thay đổi mới mể cho thế giới. Quốc gia đứng đầu xuất hiện sau nước
Mỹ tất sẽ mang lại cục diện mới cho thế giới.
Ba bộ mặt của quốc gia đứng đầu.
Quốc gia đứng đầu thế giới đại thể có thể chia thành 3 loại hình
sau:
- Mô
hình thực dân: Quốc gia đứng đầu theo mô hình thực dân chính là quốc gia thực
hiện “chủ nghĩa đế quốc thực dân”. Những nước này thông qua chiếm lĩnh quân sự,
tiến hành thống trị trực tiếp, biến nước yếu thành đất thuộc địa của mình, xây
dựng nên Đại đế quốc thực dân. Mấy nước lớn trỗi dậy trong thời kỳ đầu đều là
quốc gia đứng đầu thuộc mô hình thực dân, bao gồm Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh. Những
nước này dựa vào lôgíc ăn cướp “phát hiện thì chiếm lĩnh”, tiến hành xâm chiếm
bằng vũ lực, xây dựng nên đế quốc thực dân hùng mạnh.
Năm 1549, đất thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ từ Bắc xuống Nam
dài hơn 10 nghìn km, xuyên suốt 67 vĩ độ, với tổng diện tích lên đến 25 triệu
km2
Hà Lan thế kỷ 17 không chỉ là nước lớn thương mại, mà còn là cường
quốc thực dân. Hoạt động thực dân của Hà Lan chủ yếu thông qua Công ty Ấn Độ
Tây để tiến hành. Phạm vi thực dân của Công ty Ấn Độ Đông chủ yếu là ở Châu Á.
Phạm vi thực dân của Công ty Ấn Độ Tây chủ yếu ở Châu Phi và Châu Mỹ. Diện tích
đất thực dân mà hai công ty này xây dựng ở hải ngoại lớn gấp 60 lần diện tích
nước Hà Lan.
Anh là ‘đế quốc thực dân” trong thời kỳ khuyếch trương tư bản đã lấy
chiếm lĩnh thế giới làm mục tiêu. Đất thực dân
mà đế quốc Anh xâm chiếm lên tới hơn 30 triệu km2, gấp hơn
100 lần so với diện tích nước Anh, tức khoảng 1/4 diện tích toàn cầu với gần 400 triệu dân, gấp
9 lần dân số nước Anh khi đó. Trong 50 năm từ 1815 – 1865, nước Anh bình quân mỗi
năm khuyếch trương và mở rộng diện tích thực dân với tốc tộ 100 nghìn km2/năm,
xây dựng nên “Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn”, cũng xây dựng nên hệ thống mậu
dịch quốc tế phục vụ cho lợi ích của “Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn”. Đất
thuộc địa một mặt cung cấp cho nước Anh nhiều nguyên liệu quý giá, mặt khác cũng
cung cấp thị trường tiêu thụ hải ngoại của sản phẩm nước Anh. Tại nước Anh dần
dần hình thành nên “tam giác hỗ trợ nhau” hợp thành bởi đất thực dân hải ngoại,
mậu dịch quốc tế và lực lượng hải quân hùng mạnh. Nước Anh trở thành thế giới
thực dân, thế giới mậu dịch. Anh dùng các tàu chiến để bảo vệ tuyến đường vận
chuyển và kiểm soát thế giới. Nhà kinh tế Anh William Stanley Jevons năm 1865
đã từng nói: “Bình nguyên Bắc Mỹ và Nga là đất trồng ngô của chúng ta, Canada
và vùng Bantích là khu rừng của chúng ta, Oxtrâylia là nơi nuôi cừu của chúng
ta. Peru cung cấp bạc, còn vàng của Nam Phi và Ôxtrâylia chảy về Luân Đôn, người
Ấn Độ và người Trung Quốc trồng chè cho chúng ta, vườn trồng càphê, mía và
hương liệu của chúng ta trải rộng ra khắp quần đảo Ấn Độ Dương. Bông của chúng
ta lâu nay trồng ở miền Nam nước Mỹ, hiện nay trải rộng ra các khu vực ấm áp
trên trái đất”.
- Mô
hình bá quyền: Quốc gia đứng đầu theo “mô hình bá quyền” là quốc gia không
lấy chiếm lĩnh và tôn tính đất đai làm mục tiêu mà là thông qua việc chủ đạo và
kiểm soát thế giới để thực hiện lợi ích bá quyền. Nếu như nói quốc gia đứng đầu
theo “mô hình thực dân” là ‘cường đạo dã man” thế thì quốc gia đứng đầu theo
“mô hình bá quyền” thuộc loại “cường đạo văn minh”. Giữa hai mô hình này tuy có
sự khác biệt, nhưng đều thuộc loại “cường đạo”. Quốc gia đứng đầu theo “mô hình
bá quyền” có Mỹ là điển hình.
Chuyên gia sử ngoại giao của Mỹ Warrant Cohen trong cuốn
“Cambridge Histoty of American foreign Relations” có viết “ Từ năm 1776 đến nay
người Mỹ luôn cố gắng xây dựng một chế độ cho riêng mình để thích ứng với nhu cầu
không ngừng thay đổi của bản thân. Quả thực họ tranh giành quyền lực thế giới với
người Châu Âu. Giống như người Châu Âu, người Mỹ bị khuất phục trước dục vọng
thậm chí là sự hủ bại của quyền lực thế giới. Đây là sự thực: người Philíppin,
người Cu Ba, người Trung Quốc, và người Trung Mỹ có đầy đủ lý do để cho rằng và
các nước đế quốc khác không có gì khác biệt. Đây cũng là sự thực. Nhưng có điều
khác với các nước đế quốc khác là nước Mỹ có vùng đất rộng lớn để khai thác và
phát triển. Mỹ không vì dân số quá nhiều mà khát vọng đất thực dân, cũng không
vì nguyên vật liệu mà khát vọng lãnh địa bảo hộ rộng lớn, đồng thời (giống như
Nga) cũng không vì muốn xây dựng hệ thống vận chuyển quan trọng mà xâm chiếm những
khu vực rộng lớn để có thể xây dựng những hải cảng mới” “Mỹ không muốn đứng vào
hàng của người Anh hoặc người Nhật Bản tìm kiếm đất đai và trở thành đế quốc thực
dân. Các quan chức Mỹ chỉ muốn các vùng đất rời rạc với diện tích tương đối nhỏ
để làm căn cứ khuyếch trương mậu dịch khi cần thiết. Khi sáng tạo và đánh giá
thành tựu công nghiệp, người Mỹ cũng không muốn mô phỏng người châu Âu, cũng
không muốn dùng tiêu chuẩn của người Châu Âu hay người Nhật Bản… Các nhà lãnhđạo
xí nghiệp để liên hợp kiểu Mỹ trên mặt sáng tạo và chế độ hóa xây dựng đã vượt
xa các đối thủ cạnh tranh ở bên ngoài. Mối quan hệ của các nhà lãnh đạo xí nghiệp
với chính phủ và những yêu cầu về chính sách ngoại giao mà họ đề xuất với chính
phủ cũng có sự khác biệt rõ rệt so với các đối thủ”. Nghe nói Mỹ là quốc gia
dân tộc đầu tiên trong thế kỷ 20. Sự sáng tạo khoa học, dây truyền công nghiệp
hợp lý hoá và toàn cầu hoá, các công ty xuyên quốc gia, quyền uy chính trị tập
quyền hoá lấy thông tin hiện đại làm cơ sở, chủ nghĩa can thiệp quân sự, chủ
nghĩa dân tộc cuồng tín, chủ nghĩa sắc tộc cực đoan và cuộc cách mạng mang ý
nghĩa xâu xa - tất cả đã cùng nhau tạo nên tiến trình phát triển trong thế kỷ
20”. Đánh giá này đã miêu tả đặc điểm người Mỹ không dùng thủ đoạn thực dân để
xây dựng bá quyền.
Nước Mỹ cho dù trong thời đại chiến tranh và cách mạng, hay trong
thời đại hòa bình và phát triển đều là ‘đế quốc bá quyền” lấy kiểm soát toàn cầu
làm mục tiêu. Bá quyền của Mỹ thể hiện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự,
văn hoá…
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ xuất hiện với tư cách lãnh tụ
chống chiến tranh phát xít của thế giới, có vốn chính trị to lớn, đã chủ đạo việc
cấu trúc và xây dựng cơ chế quốc tế: xây dựng cơ chế an ninh tập thể Liên Hợp
Quốc, xác lập địa vị chủ đạo trong chính trị quốc tế; xây dựng Ngân hàng thế giới
và quỹ tiền tệ quốc tế, xác lập hệ thống tài chính thế giới lấy đồng đô la Mỹ
làm hạt nhân và địa vị chủ đạo của đồng đô la Mỹ trong nền kinh tế và tài chính
quốc tế; xây dựng hệ thống mậu dịch tự do quốc tế lấy Hiệp định chung về mậu dịch
và thuế quan làm cơ sở; thực hiện kiềm chế chiến lược đã đề xuất chủ nghĩa
Truman, kế hoạch Marshall, xây dựng Tổ chức hiêp ước Bắc Đại Tây Dương. Mỹ là
nước đề xướng sáng lập, đóng góp lớn nhất cho Liên Hợp Quốc, cũng là nước được
lợi nhiều nhất từ tổ chức này. Mỹ luôn thông qua việc thúc đẩy bá quyền chế độ và bá quyền quyền lực để thực
hiện lợi ích quốc gia. Mỹ đã từng gọi Liên Hợp Quốc là ‘bạo chính đa số” thông
qua nguyên tắc nhất trí giữa các nước lớn, đã thiết kế, xây dựng lãnh đạo, kiểm
soát và chi phối Liên Hợp Quốc - tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới.
Trong hoạt động của giai đoạn đầu của Liên Hợp Quốc, Mỹ kiểm soát và chi phối
đa số ổn định trong Liên Hợp Quốc, thông qua cơ chế biểu quyết, để ý chí và
nguyện vọng của mình chuyển sang hành động. Từ 1946 – 1953, Liên Hợp Quốc,
thông qua hơn 8000 nghị quyết, tỷ lệ thành công của Mỹ là 97%, bất kỳ vấn đề an
ninh lớn liên quan đến Mỹ đều chưa từng bị thất bại. Mỹ còn là nước ủng hộ và tổ
chức nhiều tổ chức mang tính khu vực. Nguyên tắc nhất trí giữa các nước lớn, thực
chất là nguyên tắc duy trì sự nhất trí với Mỹ. Sau chiến tranh thế giới thứ
hai, giá trị sản lượng công nghiệp của Mỹ chiếm trên một nửa giá trị sản lượng
công nghiệp của thế giới, phái quân đội đi đóng ở 50 nước và khu vực trên thế
giới. Mỹ dựa vào phương thức của mình chủ đạo trật tự quốc tế. Mỹ cùng Liên Xô
tiến hành cuộc chiến tranh lạnh trong gần nửa thế kỷ lấy tranh giành bá quyền thế
giới làm nội dung. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Mỹ cuối cùng đã xác lập
được địa vị bá quyền của mình và thực hiện chủ nghĩa đơn phương, nhiều lần phát
động chiến tranh, diễu võ dương oai trên toàn thế giới.
Một biểu hiện quan trọng khác của bá quyền Mỹ là dùng mô hình Mỹ để
cải tạo thế giới, muốn phổ biến nền dân chủ theo kiểu Mỹ ra toàn thế giới, muốn
tiến hành Mỹ hóa toàn thế giới. Đây là điều không dân chủ lớn nhất trong quan hệ
quốc tế của bá quyền Mỹ, là sự chuyên quyền và độc đoán của bá quyền Mỹ.
- Mô
hình dẫn dắt: Quốc gia đứng đầu theo mô hình dẫn dắt là quốc gia đứng đầu
không lấy chinh phục làm thủ đoạn để xây dựng văn minh, không thông qua phương
thức bá quyền và chinh phục thế giới để thực hiện lợi ích quốc gia của mình.
Trung Quốc hiện nay vẫn còn chưa là quốc gia đứng đầu, nhưng Trung Quốc - quốc
gia đứng đầu trong tương lai này nhất định sẽ là quốc gia đứng đầu theo “mô
hình dẫn dắt”
Nhà sử học nổi tiếng của Mỹ Brooks Adams cho rằng nền văn minh vĩ
đại đều dùng phương pháp chinh phục để xây dựng nên, trung tâm truyền bá văn
minh thế giới không nước nào khác chính là Mỹ, Mỹ nên nắm lấy cơ hội và bánh
trướng ra bên ngoài, đặc biệt là bành trướng sang Châu Á và khu vực Thái Bình
Dương, thực hiện ưu thế kinh tế Mỹ trên phạm vi toàn thế giới. Trên thực tế đây
là một sự “bành trướng có lý luận’ “chinh phục có lý luận” ‘bá quyền có lý luận”.
Trước hết văn minh của Chủ nghĩa tư bản phương Tây là thông qua phương pháp
chinh phục để xây dựng nên, điều này không đủ để chứng minh mọi nền văn minh vĩ
đại đều là dùng phương pháp chinh phục để
xây dựng nên. Nền văn minh Trung Hoa xây dựng nên mà không thông qua thủ
đoạn chinh phục. Thứ hai, nếu như nói nền văn minh vĩ đại, không có chinh phục
thì không có văn minh, không muốn chinh phục tức là không muốn văn minh, chinh
phục cũng trở thành một bộ phận của văn minh. Điều này hiển nhiê là lôgíc của
cường đạo. Thứ ba, một số nền văn minh vĩ đại trước đây được xây dựng nên thông
qua phương pháp chinh phục, điều này không có nghĩa là nền văn minh vĩ đại sau
này cũng đều phải thông qua phương pháp chinh phục để xây dựng nên.
Nền văn minh trong tương lai là nền văn minh được xây dựng nên
không dùng phương pháp chinh phục. Trung Quốc phải tạo ra nền văn minh được xây
dựng nên không dùng phương pháp chinh phục, tức là phải xây dựng nền văn minh
mang tính chinh phục. Chỉ cần nền văn minh nhân loại hãy còn cần thông qua
phương pháp chinh phục để xây dựng nên, thì nền văn minh đó chính là nền văn
minh dã man, không phải là nền văn minh thực sự cao cấp. Dùng phương pháp mang
tính chinh phục để sáng tạo ra nền văn minh mang tính chinh phục, đây là trách
nhiệm của Trung Quốc, là quá trình phát triển của nền văn minh thế giới và là
yêu cầu của những người yêu chuộng hoà bình, phát triển, tự do và văn minh trên
thế giới đối với Trung Quốc, là một cống hiến mà Trung Quốc cần làm đối với thế
giới văn minh. Cũng chỉ có truyền thống văn minh và nội dung văn minh của Trung
Quốc thì mới có thể đảm nhận được trách nhiệm lịch sử nâng cấp và thay thế nền
văn minh thế giới.
Những quốc gia đứng đầu trước Mỹ (bao gồm cả Mỹ) đều có 2 đặc
tính: một mặt quốc gia đứng đầu là quốc gia đi đầu trong trào lưu phát triển của
thế giới và đứng đầu về sức mạnh tổng hợp quốc gia, mặt khác lại là quốc gia bá
quyền lấy thủ đoạn chiếm lĩnh và chinh phục để thống trị, hoặc kiểm soát nước
khác, xứng bá thế giới, trấn áp người bất đồng chính kiến. Còn quốc gia số một
thế giới mà Trung Quốc muốn cạnh tranh là quốc gia theo mô hình hoàn toàn mới
mà trong lịch sử thế giới chưa từng có.
Brzezinski đã chỉ ra rằng: “Nhìn về lâu dài, nền chính trị thế giới
nhất định sẽ trở nên ngày càng không hài hoà với việc một nước độc chiếm sức mạnh
bá quyền. Vì vậy Mỹ không phải là siêu cường thực sự mang tính toàn cầu số một
và duy nhất, mà rất có thể cũng là cuối cùng”. Nhìn vào xu thế phát triển của
xã hội loài người và thế giới loài người cho thấy Mỹ sẽ là quốc gia bá quyền cuối
cùng của thế giới này.
Thế giới từ nay về sau sẽ không còn có thể lại xuất hiện một quốc
gia bá quyền mới. Nhưng Mỹ không phải là quốc gia đứng đầu cuối cùng. Trong các
vòng cạnh tranh vì sự tiến bộ và phát triển của các quốc gia, luôn sẽ xuất hiện
một quốc gia mới đứng đầu thế giới. Đã không thể không có quốc gia đứng đầu,
thì cũng không thể do một quốc gia mãi mãi lũng đoạn đứng đầu. Cho nên sự cáo
chung của một quốc gia bá quyền không có nghĩa là sự cáo chung của quốc gia đứng
đầu. Trung Quốc không làm quốc gia bá quyền không có nghĩa là không làm quốc
gia đứng đầu. Nhìn từ góc độ thế giới cho thấy, các quốc gia đứng đầu theo mô
hình thực dân đã cáo chung, quốc gia đứng đầu theo mô hình bá quyền cũng nhất định
sẽ cáo chung. Còn quốc gia đứng đầu theo mô hình thứ ba chính là quốc gia đứng
đầu theo mô hình mới, tính chất cơ bản của nó không phải là tranh bá với thế giới,
không phỉa là xưng bá với thế giới, mà là cạnh tranh với thế giới và đi đầu thế
giới.
Giá trị của “quốc gia đứng đầu”
Cho dù trong thời đại nào, cho dù là quốc gia đứng đầu theo mô
hình nào, thì cống hiến của nó đối với lịch sử cũng trên nhiều mặt. Quốc gia đứng
đầu có 7 giá trị.
- Thúc đẩy những tiến bộ mới cho nền văn
minh: Trong lịch sử thế giới cận đại, mỗi khi xuất hiện một quốc gia đứng đầu mới,
đều luôn mang lại cho thế giới một luồng gió mới, thúc đẩy xã hội loài người bước
vào giai đoạn lịch sử mới, mang lại sự tiến hoá cho nền văn minh nhân loại,
mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng các quốc gia đứng đầu theo mô hình thực
dân và bá quyền cũng mang lại cho cộng đồng quốc tế tai họa và bất hạnh. Nhưng
không thể vì điều này mà phủ định những công lao mà những quốc gia đứng đầu xây
dựng cho cộng động quốc tế.
Khi cống hiến của một quốc gia đối với thế giới không còn tiếp tục
đứng đầu thế giới nữa thì quốc gia này cũng không còn có thể tiếp tục giữ địa vị
quốc gia đứng đầu thế giới, phải nhường vòng nguyệt quế quốc gia đứng đầu.
Nhưng việc chuyển giao giữa quốc gia đứng đầu cũ và mới có khi phải thông qua
chiến tranh để hoàn thành.
- Mở ra thời đại mới cho lịch sử: Thế giới
cận đại trải qua mấy thời kỳ phấn chấn lòng người, như thời đại “đại hàng hải”,
thời đại ‘công nghiệp hóa”, thời đại ‘tin học hóa ”… Việc mở ra những thời đại
này luôn gắn liền với tên của những quốc gia đứng đầu. Mỗi một quốc gia đứng đầu
đều đã từng mở ra và cống hiến cho thế giới “một thời đại ”.
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã sáng tạo và cống hiến cho nhân loại
thời đại “đại hàng hải”, thời đại “phát hiện lớn về địa lý”. Nó khiến lịch sử
nhân loại thực sự trở thành lịch sử thế giới, khiến vũ đài hoạt động của nhân
loại mở rộng ra toàn bộ thế giới, tiến hành cuộc cạnh tranh giữa các nước trên
phạm vi toàn thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình lịch sử nhân loại.
Thời đại công nghiệp hóa thế giới do Anh sáng tạo nên ngày
1/5/1851, triển lãm đầu tiên thế giới được mở tại Anh, cuộc triển lãm này đã thể
hiện với thế giới về sự phồn vinh và giàu có của Anh. Trước Anh, trên thế giới
cũng đã xuất hiện những nước mạnh, nước lớn, nước giàu có, nhưng chưa có quốc
gia nào như nước Anh, do đã mở ra nền văn minh công nghiệp mới đã khiến nước
Anh trở nên giàu có đến mức thực lực của các nước khác cộng lại. Nước Anh thời
đại công nghiệp hoá đã đưa tới trào lưu thế giới, khiến toàn bộ thế giới đều phải
đi lên con đường cách mạng công nghiệp. Trong lịch sử nhân loại, nước Anh là nước
đầu tiên chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, Anh là nước
công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Sức mạnh công nghiệp của Anh bằng sức mạnh
công nghiệp của phần còn lại thế giới cộng lại. Năm 1860, dân số nước Anh chỉ
chiếm 2% dân số thế giới, chiếm 10% dân số châu Âu, nhưng sản phẩm công nghiệp
của Anh chiếm từ 40 – 60% tổng lượng sản phẩm công nghiệp thế giới, chiếm từ
55% - 60% tổng lượng sản phẩm công nghiệp châu Âu. Nước Anh thời đại công nghiệp
hóa là công xưởng của thế giới. Đây là cơ sở vật chất để nước Anh đi đầu thế giới,
xưng bá thế giới và cống hiến cho thế giới.
Nước Mỹ có thể trở thành nước đứng đầu thế giới cũng là do có những
cống hiến mang tính sáng tạo đối với kỷ nguyên mới của thế giới. Mác đã đánh
giá cao Mỹ là “nơi đầu tiên sản sinh ra tư tưởng của nước cộng hoà dân chủ vĩ đại”,
ca ngợi “Tuyên ngôn độc lập” mà mảnh đất thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố năm 1776 là
‘Tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên” của nhân loại. Mác còn đánh giá cao “Tuyên
ngôn giải phóng” của Mỹ năm 1863, ông đã từng thay mặt Quốc tế đệ nhất phát đi
lời chúc mừng đầy nhiệt huyết.
Công nhân Châu Âu tin tưởng và vững chắc rằng giống như cuộc chiến
tranh độc lập của Mỹ đã mở ra kỷ nguyên mới với thắng lợi của giai cấp tư bản,
thế thì cuộc chiến tranh phản đối chế độ nô lệ của Mỹ sẽ mở ra kỷ nguyên mới với
thắng lợi của giai cấp công nhân. Công nhân Châu Âu cho rằng cuộc chiến đấu
chưa từng có trong lịch sử do đứa con trung thành của giai cấp công nhân
Abraham Lincoln tiến hành giải phóng nô lệ và cải tạo chế độ xã hội sẽ dự báo
thời đại mới sắp đến.
Mở ra thời đại tin học hóa cho nhân loại, Mỹ cũng đi đầu thế giới
và có những công hiến hàng đầu thế giới. Năm 1992, Clinton sau khi được bầu làm
tổng thống đã thực hiện chiến lược phát triển mà sau này được gọi là “kinh tế học
Clinton” mà một trog những biện pháp chiến lược quan trọng nhất là đưa ra chính
sách thúc đẩy các ngành kỹ thuật, lợi dụng mạnh mẽ ưu thế khoa học kỹ thuật và
đội ngũ nhân tài hùng hậu của Mỹ, dẫn dắt trào lưu mới về phát triển kỹ thuật
điện tử và kỹ thuật tin học thế giới. Điều này không chỉ tăng cạnh tranh toàn cầu
của sản phẩm Mỹ, mà còn khiến Mỹ phát huy tác dụng đi đầu trên lĩnh vực điện tử
tin học trong khi lãnh đạo kinh tế thế giới trăng trưởng và lôi kéo cả thế giới
vào thời đại tin học hóa.
- Xây dựng trật tự thế giới mới: Quốc gia
đứng đầu là nhà thiết kế thế giới. Thiết kế này bao gồm: hình thành một cục diện
quốc tế mới, xác lập nguyên tắc hành vi quốc tế mới, xây dựng chế độ quốc tế mới,
xây dựng trật tự quốc tế mới, xây dựng hệ thống quốc tế mới…
Chuyên gia sử ngoại giao Mỹ Warren Cohen đã chỉ ra rằng:
Khi bắt đầu cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai, người Mỹ đã bắt đầu
thiết kế tổng thể thế giới sau chiến tranh, “nếu như nói bản thân tổng thống
quá chú ý đến những vấn đề quân sự và chiến lược, không nghĩ nhiều đến tình
hình thế giới sau chiến tranh, thế thì những người khác lại càng có nhiều thời
gian để lao vào thiết kế sau chiến tranh. Trong đó đáng chú ý nhất là những cố
gắng của bộ ngoại giao Mỹ, cùng với việc sắp nổ ra chiến tranh, họ đã bắt đầu
chuẩn bị tổ chức các tiểu ban nghiên cứu hai uỷ ban tư vấn nhằm vào công việc của
thế giới trong tương lai. Đã mời các quan chức ngoại giao, nghị sĩ quốc hội,
phóng viên, học giả, quan chức quân đội… cùng tiến hành nghiên cứu và thảo luận
rộng rãi những vấn đề sau chiến tranh. Trong đó bao gồm việc chiếm lĩnh đất nước
kẻ thù, điều chỉnh lãnh thổ, an ninh quốc tế, xây dựng lại mối quan hệ mậu dịch…
Mặc dù những thăm dò thảo luận của các tiểu ban và uỷ ban trên phần lớn chỉ là
sự trao đổi thông tin và quan điểm, nhưng một số quan điểm đặc định đã xuất hiện.
Những quan điểm này một khi Oasinhton bắt đầu tìm kiếm sự chỉ đạo cụ thể đối với
thế giới sau chiến tranh sẽ lập tức trở thành một bộ phận trong chính sách
chính thức của Mỹ. Những quan điểm này rất rõ ràng là theo kiểu Woodrow Wilson,
đa số các thành viên tham gia các tiểu ban và uỷ ban nghiên cứu đều đồng ý cho
rằng khuôn khổ chủ yếu của trật tự và an ninh sau khi đánh bại các nước thuộc
trục trung tâm là nguyên tắc phải khôi phục lại hợp tác quốc tế, chứ không phải
là sự cân bằng thế lực đã lỗi thời ”. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã dựa
theo thiết kế của mình để tiến hành xây dựng một thế giới phù hợp với yêu cầu lợi
ích của nước Mỹ.
Thiết kế tổng thể của những quốc gia đứng đầu đối với thế giới được
thực hiện thông qua xây dựng “hệ thống thế giới”. Hệ thống thế giới này chủ yếu
có 4 nội dung mang tính trụ cột, đó là: hệ thống kinh tế mang tính thế giới, hệ
thống tư tưởng mang tính thế giới, hệ thống quân sự mang tính thế giới và hệ thống
quy tắc chế độ mang tính thế giới.
- Trào lưu mới dẫn dắt toàn cầu: Quốc gia
đứng đầu là quốc gia mô hình, quốc gia tấm gương, quốc gia đi đầu trong trào
lưu thế giới. Quốc gia đứng đầu có ảnh hưởng và sức hấp dẫn mạnh mẽ. Quốc gia đứng
đầu vừa là “quốc gia đặc sắc” có phong cách riêng độc đáo, vừa là quốc gia có
giá trị mô phỏng quốc tế, luôn được đa số các nước ngưỡng mộ học tập và làm
theo. Cho nên việc quốc gia đứng đầu tiến hành “thế giới hóa ” là hiện tượng tất
nhiên.
Khi nước Anh nổi lên trong cao trào công nghiệp hoá, ánh mắt cả thế
giới đều đổ dồn vào nước Anh. Các nước trên thế giới đều ngưỡng mộ nước Anh. Việc
xuất hiện nước Anh đứng đầu thế giới xuất hiện trào lưu “Anh hoá thế giới”. Nước
Anh đã dùng văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần để làm “lễ rửa tội” cho thế
giới, và thế giới cũng chấp nhận “được tắm” trong nền văn minh nước Anh.
Khi Mỹ xuất hiện với tư cách là quốc gia đứng đầu mới, thế giới lại
xuất hiện trào lưu “Mỹ hoá thế giới”. Điều này được biểu hiện trên các mặt chính trị, kinh tế,
văn hoá… Cùng với sự trỗi dậy của nước Mỹ, thế giới đều nhanh chóng Mỹ hoá trên
mặt văn hoá vật chất và văn hoá đại chúng. “Giấc mơ nước Mỹ” đã trở thành nơi mọi
người vươn tới. Phương thức sống kiểu Mỹ đã trở thành phương thức mà mọi người
theo đuổi rộng rãi. Ngay từ lúc giao thời giữa thế kỷ 19 và thế kỷ 20, các nhà
quan sát nước ngoài đã bàn về ảnh hưởng rộng rãi của hàng hoá và phương thức sống
kiểu Mỹ đối với toàn bộ thế giới. Người Mỹ được hưởng tiêu chuẩn sinh hoạt cao
nhất thế giới là đối tượng được các nơi trên thế giới hâm mộ, nó hầu như là
phương thức sống đại diện cho sự phồn vinh vật chất, sự thích hợp và thoát ra
khỏi sự hỗn loạn của thế giới cũ trước chiến tranh thế giới, đa số các nước còn
chưa có các sản phẩm hiện đại như ô tô, thiết bị điện khí, điện thoại… trong
khi đó ở Mỹ đã trở thành những sản phẩm rất thông thường. Điều khiến mọi người
chú ý hơn là hiện tượng này càng được thể hiện rõ hơn sau năm 1919 do sự suy giảm
địa vị của Châu Âu và tư tưởng “Châu Âu
suy thoái” đã nổi lên. Do sự phá hoại của chiến tranh và sự theo đuổi phát triển
công nghiệp và mậu dịch của một số nước phi châu Âu, khiến Châu Âu cảm thấy
mình ở vào thế phòng ngự, không còn là cội nguồn của trí tuệ và trung tâm của
văn minh. Đứng trước việc xây dựng lại toàn bộ thế giới, Châu Âu hầu như chẳng
có gì để có thể đưa ra. Nhiệm vụ xác định hòa bình không chỉ về mặt địa – chính
trị, mà còn cả trên mặt chính trị văn hoá buộc phải giao cho nước khác, và nước
đứng ra nhận lấy nhiệm vụ này chính là Mỹ. Mỹ trên thực tế hầu như không bị tổn
thương bởi chiến tranh đã trở thành tượng trưng của vật chất và văn hoá lưu
hành của thế giới. Không chỉ trong nước Mỹ nảy sinh sự “đồng chất hoá ”, mà
ngay cả trên toàn cầu cũng nảy sinh sự “đồng chất hoá ” văn hoá Mỹ. Ba phát
minh là ô tô, điện ảnh và máy thu thanh gắn kết tất cả người Mỹ ở các khu vực
khác nhau, đồng thời cũng phát huy tác dụng như vậy trên toàn thế giới. Vì về
cơ bản đều là sản phẩm của Mỹ, sau chiến tranh được truyền bá đến mọi nơi trên
thế giới.
- Sáng tạo ra kỳ tích phát triển mới: Quốc
gia đứng đầu là quốc gia tạo nên kỳ tích cho nhân loại, cũng chỉ có quốc gia sáng
tạo nên kỳ tích thế giới mới có thể trở thành quốc gia đứng đầu thế giới. Thế kỷ
17 là thế kỷ của Hà Lan. Hà Lan là nước nhỏ với diện tích chỉ gấp đôi diện tích
thành phố Bắc Kinh, dân số chưa đến 2 triệu dân, nhưng đã viết nên truyền kỳ về
sự trỗi dậy của nước lớn. Ngày 26/7/1581, 7 tỉnh phía Bắc của Netherland tuyên
bố thành lập nước cộng hoà liên tỉnh, thực hiện độc lập tách khỏi Tây Ban Nha,
do Hà Lan là tỉnh lớn nhất, kinh tế phát triển nhất nên cũng gọi là nước cộng
hoà Hà Lan. Trong lịch sử thế giới cộng hoà Hà Lan là nước cộng hoà đầu tiên của
giai cấp tư sản. Hà Lan còn tạo ra danh hiệu “đứng đầu thế giới” về nông nghiệp:
khi đó Hà Lan được gọi là “thánh địa Macca” của nông nghiệp; chế phẩm sữa, cây
công nghiệp, rau tươi hoa quả.. của Hà Lan đều nổi tiếng khắp Châu Âu, Hà Lan
trở thành nơi mà người Châu Âu đổ đến để học tập kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến.
Hà Lan đứng đầu thế giới về vận tải biển: được mệnh danh là “phu xe ngựa trên
biển” của thế giới. Năm 1962, Hà Lan xây dựng công ty cổ phần đầu tiên của thế
giới – Công ty liên hợp Đông Ấn Độ, đã xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu đầu
tiên trên thế giới – Trung tâm giao dịch chứng khoán Amsterdam. Hà Lan cũng xây dựng nên ngân hàng
đầu tiên thế giới – ngân hàng Amsterdam
thành lập năm 1609, sớm hơn ngân hàng Anh 100 năm. Hà Lan được đánh giá là quốc
gia phát triển bền vững. Douglass C North - một trong những nhà kinh tế học được
giải thưởng Nobel đã đánh giá cao sự trỗi dậy của Hà Lan: “Hà Lan trong giai đoạn
đầu thời kỳ cận đại đã trở thành lãnh tụ kinh tế Châu Âu” “Nếu thấy sự thực để
bàn, trên ý nghĩa mà chúng ta hạn định, Hà Lan là quốc gia đầu tiên đạt được sự
tăng trưởng kinh tế bền vững” Cho đến nay đời sống của người Hà Lan vẫn rất
giàu có. Quy mô thương mại mà người Hà Lan sáng tạo ra vẫn ảnh hưởng đến thế giới.
Trong nửa đầu thế kỷ 17, Hà Lan có hơn 16000 tàu buôn, tải trọng
chiếm 3/4 tổng tải trọng châu Âu, tương đương với tổng tải trọng của 4 nước Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha cộng lại,
nếu lấy quốc gia làm đơn vị so sánh, thì gấp từ 4-5 lần Anh, gấp 7 lần Pháp. Hà
Lan hầu như lũng đoạn vận tải biển toàn cầu. Có người bình luận nói: “Hà Lan đi
lấy mật ong từ các nước. Na Uy là rừng của họ, hai bờ sông Rhein là vườn nho của
họ, Ailen là bãi nuôi gia súc của họ, Ba Lan và Boussia là kho thóc của họ, Ấn
Độ và các nước Ả Rập là vườn cây ăn quả của họ”. Thế kỷ 17, Amsterdam là trung tâm thương mại toàn Châu
Âu. Khi ngành công nghiệp và thương mại của Hà Lan phát triển đến đỉnh cao, việc
tích luỹ tư bản (vốn) còn cao hơn tổng số tư bản của Châu Âu cộng lại, đầu tư
nước lớn gấp 15 lần của Anh, trình độ thủ công nghiệp đứng đầu thế giới.
Năm 1664 , học giả nổi tiếng người Anh Thomas Mun đã phải kinh ngạc
nói: “Đây là một kỳ tích thế giới. Một quốc gia nhỏ bé như vậy, không bằng hai
quận lớn nhất của Anh, tài nguyên thiên nhiên, lương thực, gỗ hoặc các phương
tiện sử dụng trong chiến tranh và hoà bình đều ít ỏi, nhưng cuối cùng cái gì họ
cũng đều có” Nhà sử học người Pháp Femand Brandel khi miêu tả tâm lý của người
Châu Âu đối với sự trỗi dậy của Hà Lan khi đó đã nói: “Khi đó mọi người chỉ
nhìn thấy một biểu tượng khiến họ hoa mắt. Nhưng họ không hề chú ý đến quá
trình chuẩn bị lâu dài của Hà Lan, cho đến khi người Hà Lan giành được những
thành tựu rực rỡ, họ mới thực sự bừng tỉnh. Không ai hiểu nổi vì sao một đất nước
nhỏ bé lại có thể làm nên điều kỳ diệu, phát triển một cách nhanh chóng và vô
cùng giàu mạnh. Mọi người lao vào tranh luận về “bí mật” ‘sự thần kỳ” và ‘giàu
có” của Hà Lan.
Mác cũng đã từng ca ngợi kỳ tích về sự trỗi dậy của Mỹ. Trong cuốn
“Hình thái ý thức của Đức Ý Chí”, Mác đã nêu rõ “Ví dụ về quốc gia hiện đại
hoàn thiện nhất chính là Bắc Mỹ”
- Xây dựng mô hình mới ưu việt: Việc một
quốc gia vận dụng mô hình như thế nào để xây dựng, vận hành, phát triển quốc
gia mình là liên quan đến tính chất, sức sống và tiền đồ quốc gia, là sức cạnh
tranh hạt nhân của quốc gia đó. Quốc gia đứng đầu đều là quốc gia theo mô hình
sáng tạo, mô hình cống hiến, là quốc gia có mô hình phát triển tiên tiến nhất
thế giới.
Mô hình chính trị của nước Anh là mô hình tiên tiến nhất trên thế
giới khi đó. Anh là quốc gia sớm nhất xác lập được chế độ quốc gia hiện đại,
xác lập chế độ bao gồm chế độ nội các, chế độ quân chủ lập hiến, chế độ hai đảng,
chế độ trách nhiệm của chính phủ đối với quốc hội… Hệ thống chế độ chính trị
như vậy đã đảm bảo an ninh lâu dài và phát triển ổn định của nước Anh. Cống hiến
của nước Anh trên mặt kinh tế cũng mang tính xuyên thời đại, mô hình công nghiệp
hoá của nước Anh đã có ảnh hưởng to lớn và sâu rộng đối với thế giới.
Mô hình của Mỹ không chỉ đưa tới sự trỗi dậy và bá quyền của Mỹ,
mà cho đến nay ảnh hưởng của nó đối với thế giới vẫn không nước nào có thể so
sánh được. Mỹ là nước lớn có thời gian xây dựng đất nước ngắn nhất thế giới,
nhưng lại là nước lớn có lịch sử chế độ cộng hòa dài nhất. Trong thời gian hơn
200 năm sau khi nước Mỹ thành lập, trên thế giới bình quân mỗi năm cứ hai chính
phủ quốc gia thì có một chính phủ bị các thế lực khác lật độ, nhưng chính phủ Mỹ
vẫn ổn định cho đến ngày nay. Nước Mỹ từ khi thành lập đến nay không có cuộc
chính biến nào. Nước Mỹ sau khi độc lập đã xây dựng một thể chế chính trị đặc sắc
riêng của mình khác với các nước trên thế giới.
“Hiến pháp hợp chủng quốc Hoa Kỳ” là bộ hiến pháp đầu tiên của giai cấp
tư sản trong lịch sử thế giới. Bộ hiến pháp này lấy tư tưởng dân chủ của giai cấp
tư sản và nguyên tắc dân chủ làm cơ sở, lần đầu tiên xây dựng nên hệ thống
chính trị và chế độ nhà nước của giai cấp tư sản, bao gồm chế độ cộng hoà, chế
độ liên bang, chế độ tổng thống, chế độ tam quyền phân lập, chính phủ dân cử,
nhiệm kỳ người lãnh đạo… Bộ máy nhà nước Mỹ được hợp thành từ 3 cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội phụ trách lập pháp nhưng nghị quyết của quốc
hội phải được tổng thống phê chuẩn thì mới có hiệu lực. Tổng thống điều hành
công việc của chính phủ, nhưng các quan chức mà tổng thống bổ nhiểm và việc ký
kết các hiệp ước phải nhận được sự phê chuyển của thượng và hạ viện Mỹ. Quốc hội
còn có quyền chất vấn và bãi miễn tổng thống. Toà án tối cao là cơ quan tư
pháp, phụ trách xử lý mọi vấn đề về hiến pháp và pháp lụât. Thể chế phân quyền
của Mỹ đảm bảo dân chủ hoá trình tự quyết sách, tránh lạm dụng chức quyền. So
sánh “mô hình Mỹ” với mô hình các nước khác, đặc biệt là trong cuộc cạnh tranh
lâu dài với “mô hình Liên Xô’ trong chiến tranh lạnh, đã thể hiện tính ngoan cường
và tính bền bỉ của nó, là cơ sở quan trọng và nguồn vốn để Mỹ luôn duy trì ưu
thế của bản thân và ảnh hưởng rộng rãi đến thế giới.
- Đứng đầu thế giới về tăng trưởng của cải
vật chất: Quốc gia đứng đầu là quốc gia có nhiều của cải vật chất thế giới. Nước
Anh chiếm địa vị bá chủ thế giới trong cuộc cách mạng công nghiệp, năm 1850 đã
sản xuất một nửa sản lượng chế phẩm kim loại và sản phẩm dệt bông, 2/3 sản lượng
than của thế giới, còn ngành đóng tàu biển và xây dựng đường sắt thì đứng đầu
thế giới. Năm 1860, nước Anh đã sản xuất ra 40 – 50% sản phẩm công nghiệp của
thế giới, 55 -60% sản phẩm công nghiệp của châu Âu.
Năm 1850, mậu dịch đối ngoại của nước Anh chiếm 20% tổng lượng mậu
dịch thế giới, đến năm 1860 tỷ lệ này lên đến 40%. Đồng bảng Anh trở thành tiền
tệ quốc tế. nước Anh trong tình hình chiếm 0,2% diện tích thế giới, dân số chỉ
có hơn 10 triệu tức chiếm 2% dân số thế giới, chiếm 10% dân số châu Âu, nhưng
khả năng công nghiệp hiện đại khi đó đứng đầu thế giới chiếm tới 40 – 50%, sức
mạnh của đồng bảng Anh đứng đầu thế giới.
Nước Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai, thực lực hùng mạnh. Nhà
sử học quan hệ quốc tế trường đại học Bắc Kinh Lưu Kim Chất trong cuốn “lịch sử
chiến tranh lạnh” đã viết Mỹ đứng đầu thế giới trong mậu dịch quốc tế; sản phẩm
và phong cách sống của Mỹ bao trùm lên toàn thế giới. Tuy trong chiến tranh thế
giới thứ hai người Mỹ mất đi 410 nghìn người, nhưng Mỹ là nước duy nhất không bị
chiến tranh trực tiếp phá hoại, không những thế nền kinh tế quốc dân mở rộng gấp
đôi. Từ năm 1940 – 1945 lợi nhuận sau khi nộp thuế của các công ty Mỹ lên đến
124,95 tỷ USD, gấp 3,5 lần so với giai đoạn năm 1933 – 1939. Sau chiến tranh, Mỹ
đã tập trung được 3/4 số tư bản (vốn) và 2/3 khả năng công nghiệp của thế giới.
Mỹ chiếm 59% tổng số dự trữ vàng của thế giới tư bản, chiếm trên một nửa tổng tải
trọng tàu thủy của thế giới. Xuất khẩu của Mỹ chiếm 1/3 tổng lượng xuất khẩu của
thế giới. Mỹ trở thành nước xuất khẩu tư bản và chủ nợ lớn nhất thế giới.
0 comments
Post a Comment