Monday, November 4, 2013
PETER NAVARRO và GREG AUTRY - Chết dưới tay Trung Quốc (Kì 4)
Labels:
Phạm Nguyên Trường
Chương 5
Chết bởi thao túng tiền tệ: ngọa hổ, công long
Công nhân Mỹ có thể cạnh tranh hiệu quả trên từng đồng đô-la một với công nhân Trung
Quốc. Họ chỉ không thể cạnh tranh khi tỉ giá đô-la với đồng nhân dân tệ bị thao túng.
- Eric Lotke, Chiến dịch vì tương lai nước Mỹ
Nếu tiền là căn nguyên của mọi xấu xa, thì sự thao túng của Trung Quốc đối với đồng nhân
dân tệ là gốc rễ sâu xa của mọi lệch lạc trong quan hệ thương mại Mỹ-Trung. Trong hơn một
thập kỷ, thâm hụt mậu dịch kinh niên của Mỹ với Trung Quốc đã làm chậm đáng kể tỉ lệ tăng
trưởng kinh tế và đẩy tỉ lệ thất nghiệp Mỹ vọt cao. Trung Quốc đã không thể tiếp tục hút cạn sinh
lực của kinh tế Mỹ nếu như thiếu những chiếc răng nanh của thao túng tiền tệ.
Trung Quốc thao túng tiền tệ bằng cách cố tình “neo” nhân dân tệ với đô-la Mỹ ở một tỉ giá
sâu dưới giá trị thật. Để hiểu tại sao điều này lại phá hoại kinh tế Mỹ, điều cốt yếu cần hiểu là
kinh tế bất kỳ quốc gia nào cũng đều chỉ phụ thuộc vào bốn yếu tố: mức tiêu dùng, mức đầu tư
kinh doanh, chi tiêu chính phủ và “cán cân xuất nhập khẩu”.
Động lực tăng trưởng sau cùng – cán cân xuất nhập khẩu – là quan trọng nhất khi bàn về thao
túng tiền tệ, vì nó đo lường sự chênh lệch khi đem tổng doanh số chúng ta xuất khẩu ra thế giới
trừ đi doanh số nhập khẩu. Nhận xét đặc biệt dưới đây nhấn mạnh vai trò thiết yếu của cán cân
xuất nhập khẩu lên nền kinh tế:
Khi nước Mỹ chịu thâm hụt triền miên với Trung Quốc, một số phần trăm tăng trưởng kinh
tế quan trọng bị bào mòn. Tỉ lệ tăng trưởng bị chậm lại này đến lượt nó lại kéo giảm số
công ăn việc làm được tạo ra.
Dĩ nhiên, khi kinh tế Mỹ chịu đựng mức tăng trưởng kém và thất nghiệp cao thì ở đầu bên
kia, Trung Quốc là người hưởng lợi. Con rồng Trung Quốc tăng trưởng mạnh, trong khi nước
Mỹ suy thoái.
Ngày một già cỗi hơn, chìm sâu hơn trong nợ nần và chậm hơn
trong tăng trưởng
Vậy thì thâm hụt mậu dịch của chúng ta với Trung Quốc lớn đến mức nào? Bao nhiêu việc
làm đã mất vì “sự lệ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc”? Và tại sao thao túng tiền tệ là lý do chính
yếu khiến Hoa Kỳ không thể cải thiện đáng kể thâm hụt mậu dịch? Chỉ có hiểu rõ các câu trả lời
mới giúp chúng ta thoát khỏi cái bẫy của thao túng tiền tệ Trung Quốc. Hãy bắt đầu với quy mô
thâm hụt mậu dịch của Mỹ.
Xét về con số tuyệt đối, Hoa Kỳ nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu với Trung Quốc gần 1 tỷ đôla
mỗi ngày. Đây không phải lỗi đánh máy, hàng tỷ chứ không phải hàng triệu.
Còn xét về con số tương đối, mức thâm thủng cũng đem lại sự kinh ngạc không kém. Trung
Quốc chiếm đến khoảng một nửa mức thâm hụt thương mại về hàng hóa của Mỹ và tròn 75% khi
loại bỏ doanh số nhập khẩu dầu mỏ ra khỏi phép tính. Như vậy, suy luận lô-gích từ các thống kê
này là:
Nếu Hoa Kỳ muốn giảm mức thâm hụt mậu dịch, nhằm cải thiện tỉ lệ tăng trưởng và tạo
thêm công ăn việc làm, nơi tốt nhất để bắt đầu chính là cải cách tiền tệ với Trung Quốc.
Tương tự, tầm ảnh hưởng thực tế của việc lệ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc lên mức tăng
trưởng và tỉ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ cũng làm chúng ta giật mình. Cả thập kỷ vừa qua, mức
thâm thủng với Trung Quốc đã lấy mất gần nửa phần trăm tăng trưởng GDP hàng năm của chúng
ta. Trong khi con số trông có vẻ không lớn, nhưng nửa phần trăm này đã có tác động tích lũy làm
kinh tế nước Mỹ không thể cung cấp hàng triệu việc làm. Giả sử ngay bây giờ, nếu chúng ta có
được số lượng việc làm này, cộng thêm hàng triệu công việc trong khu vực sản xuất không bị
hủy hoại do các thủ đoạn thương mại bất công khác của Trung Quốc, chúng ta sẽ không phải
thấy những hàng người thất nghiệp rồng rắn quanh các tòa nhà chính phủ, những khu nhà khóa
cửa im ỉm chờ bị tịch thu, và những công xưởng trống trơn đầy cỏ dại ở Mỹ. Thay vào đó, chúng
ta hẳn đang bon bon tiến về phía trước.
Như một lưu ý bên lề, những số liệu gây choáng này luôn nhắc chúng ta câu chuyện về
Willie Sutton, tay cướp nhà băng khét tiếng. Khi Sutton được hỏi tại sao lại cướp ngân hàng, hắn
đã có câu trả lời nổi tiếng, “bởi vì ở đó có tiền”. Cũng giống như nhà băng là nơi có tiền, thao
túng tiền tệ của Trung Quốc là nơi chúng ta nên kỳ vọng nhất để giảm thâm hụt thương mại và
lấy lại phong độ tăng trưởng vững chãi cho nền kinh tế.
Những thời khắc khó khăn của Hoa Kỳ do chính sách neo cứng tỉ
giá của Trung Quốc
Như vậy, Trung Quốc đã làm thế nào để thao túng tiền tệ? Họ đã thực hiện điều này hữu hiệu
bằng chính sách neo cứng đồng nhân dân tệ với đồng đô-la ở một tỉ quá thấp dưới giá trị thực:
khoảng 6 tệ ăn 1 đô-la. Đồng tệ siêu rẻ này đến lượt nó trở thành một thứ trợ cấp hấp dẫn cho các
nhà xuất khẩu Trung Quốc, trong khi lại là thứ thuế nặng đánh lên hàng xuất khẩu của Mỹ. Kết
cục của chính sách thao túng đồng tiền này, song hành cùng các thủ đoạn thương mại bất công
khác như đã được đề cập, đã gây nên căn bệnh thâm thủng mậu dịch mãn tính của Hoa Kỳ mà
chúng ta đã mổ xẻ, phân tích ở trên.
Còn đây là chìa khóa cho vấn đề thâm hụt: sự bất cân xứng mậu dịch Mỹ-Trung sẽ không
bao giờ tồn tại trong thế giới thương mại tự do, khi mà Trung Quốc thả nổi tự do đồng tiền của
mình cũng như bao đồng tiền thả nổi khác trên thế giới như yên Nhật, real Bra-xin, franc Thụy
Sỹ, ru-pi Ấn Độ, và đô-la Mỹ.
Trong một thế giới tự do mậu dịch đặc trưng bởi các tỉ giá được thả nổi hoàn toàn, sự bất cân
xứng thương mại Mỹ-Trung sẽ không bao giờ hiện diện, bởi vì khi mức thâm hụt tăng lên, giá trị
đồng đô-la sẽ giảm tương đối với đồng tệ. Khi đô-la rớt giá, hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ sang
Trung Quốc sẽ tăng lên, hàng nhập từ Trung Quốc sẽ giảm, và mậu dịch sẽ quay về vị trí cân
bằng. Tuy nhiên, bằng cách neo đồng tệ vào đồng đô-la, một Trung Quốc bảo hộ đã làm đảo lộn
tiến trình điều chỉnh thương mại tự nhiên này, thậm chí nó còn làm suy yếu cơ cấu mậu dịch tự
do toàn cầu vốn dựa trên triển vọng các bên cùng có lợi.
Con Rồng có móng vuốt hạt nhân tuyên chiến kiểu mới
Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu một chiến dịch hiệp đồng tung ra các răn đe kinh tế chống
lại Hoa Kỳ, ngụ ý rằng họ có thể thanh lý số trái phiếu Mỹ khổng lồ họ đang nắm giữ, nếu
Washington áp đặt các trừng phạt mậu dịch… Được mô tả như là “phương án chiến tranh
hạt nhân” trên báo chí nhà nước của Trung Quốc, hành động đó có thể kích hoạt một cuộc
sụp đổ đồng đô-la… Nó cũng làm lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng vọt, làm chao đảo thị
trường nhà đất và có lẽ sẽ đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ vào suy thoái.
- Báo Bưu điện Luân Đôn
Thật là tồi tệ khi mà chính sách thao túng tiền tệ của Trung Quốc đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ mắc
kẹt ở tốc độ chậm trong khi hủy diệt hàng triệu công ăn việc làm. Còn tồi tệ hơn nữa, “cái chết
đến từ thao túng tiền tệ” này lại đe dọa kéo theo “cái chết của chủ quyền chính trị Hoa Kỳ”. Tâm
điểm của vấn đề là các đe dọa mà những kẻ diều hâu đang điều hành Ngân hàng Trung ương
Trung Quốc đưa ra. Chúng gọi đó là “phương án chiến tranh hạt nhân tài chính”, và nó bao hàm
cả chuyện sử dụng dự trữ ngoại hối khổng lồ của Trung Quốc để làm bất ổn các ngân hàng Mỹ,
thị trường chứng khoán, và thị trường trái phiếu.
Để hiểu mối đe dọa của Trung Quốc “đánh gục gã khổng lồ” trên phương diện hệ thống tài
chính là đáng tin đến mức nào, sẽ có ích nếu chúng tôi mô tả chi tiết hơn cách Trung Quốc thao
túng tiền tệ. Quá trình này bắt đầu khi bạn hay tôi bước vào một cửa hàng như Walmart chẳng
hạn và mua một sản phẩm Trung Quốc, sau đó các đồng đô-la này sẽ được di chuyển vượt đại
dương. Lúc này, để duy trì chính sách neo chặt đô-la với đồng tệ, Trung Quốc phải nhanh chóng
hồi chuyển “số đô-la Walmart” đó của chúng ta quay trở lại Mỹ bằng cách mua tài sản tài chính
như trái phiếu chính phủ Mỹ, bất động sản Mỹ, hay các công ty Mỹ; nếu không, áp lực tăng giá
sẽ được đặt lên đồng tệ.
Bây giờ là câu chuyện đáng quan tâm nhất về thủ thuật thao túng tiền tệ: trước khi chính phủ
Trung Quốc có thể hồi chuyển bất cứ đồng đô-la Walmart nào của chúng ta, họ phải giành quyền
kiểm soát những đô-la này từ tay những nhà xuất khẩu Trung Quốc. Điều này đòi hỏi một quá
trình xoay vòng được gọi là “trung hòa tiền tệ”.
Để trung hòa những đồng đô-la Walmart của chúng ta ra khỏi thị trường nội địa, chính phủ
Trung Quốc ép các nhà xuất khẩu trong nước phải mua trái phiếu chính phủ Trung Quốc định giá
bằng đô-la Mỹ. Đổi lại việc giao nộp những tờ giấy bạc Mỹ, các nhà xuất khẩu được nhận lãi
suất khoảng 4% trên các trái phiếu trung hòa tiền này. Kế tiếp, chính phủ Trung Quốc xoay vòng
và tái đầu tư những tờ đô-la này vào trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ với lãi suất thấp hơn 2%.
Trung Quốc do đó mất 2% hay nhiều hơn về lãi suất cho mỗi đô-la Mỹ được trung hòa, và khoản
lỗ lã này lên đến hàng tỷ đô-la.
Câu hỏi là tại sao Ngân hàng Trung ương Trung Quốc sẵn sàng gánh khoản lỗ khổng lồ như
vậy? Câu trả lời là bởi vì đảng Cộng sản Trung Quốc quan tâm nhiều hơn đến việc tạo công ăn
việc làm để duy trì sự ổn định chính trị và sự toàn trị đất nước so với việc kiếm tiền thực tế. Đó
là một trong những điều khác biệt lớn giữa chủ nghĩa tư bản Mỹ thực dụng và chủ nghĩa tư bản
nhà nước Trung Quốc đã bị bóp méo qua chủ trương “lợi mình – hại người”. Và đừng bao giờ
nghi ngờ rằng trong quá trình thao túng tiền tệ có tổng bằng không này, rất nhiều công ăn việc
làm mà Trung Quốc lấy được sẽ bằng đúng số việc làm bị mất đi tại Hoa Kỳ.
Trên thực tế, quá trình thao túng tiền tệ này đã tích lũy được một quỹ dự trữ ngoại hối trên
hai nghìn tỷ đô-la Mỹ do Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc nắm giữ, mà nay đã nghiễm nhiên
trở thành một ngân hàng cho vay cầm cố của người Mỹ. Để hiểu hết ý nghĩa con số gây sốc này,
chúng ta nên biết nó còn lớn hơn tổng sản phẩm quốc dân của Ấn Độ hay Canada, và gần bằng
nếu so với nước Anh. Nó cũng lớn hơn GDP của cả ba nước Hàn Quốc, Mexico, và Ireland gộp
lại!
Con số khổng lồ này cũng có nghĩa rằng: Trung Quốc có thể đem quỹ dự trữ ngoại hối của
họ mua quyền kiểm soát trong tất cả công ty lớn của Mỹ có niêm yết trên danh sách chỉ số trung
bình công nghiệp Dow Jones, gồm cả những gã khổng lồ như Microsoft, Exxon, và Walmart, rồi
tiền còn dư lại vẫn đủ để mua cổ phần đa số của Apple, Intel, và Ford. Chính xác là sự tích lũy
khổng lồ quỹ dự trữ ngoại hối bằng đô-la Mỹ cho phép đảng Cộng sản Trung Quốc có cơ sở đe
dọa “tấn công hạt nhân” hệ thống tài chính Hoa Kỳ. Như He Fan thuộc Viện Khoa học xã hội
Trung Quốc đã nói khi đe dọa sử dụng “phương án tấn công hạt nhân” về tài chính, rằng nếu giả
sử Trung Quốc bắt đầu bán tháo đô-la, "sự rớt giá thê thảm của đồng đô-la sẽ xảy ra". Và như
trích dẫn ở đầu chương đã khéo léo mô tả, sự sụp đổ đồng đô-la “sẽ làm lãi suất trái phiếu Mỹ
tăng vọt, làm chao đảo thị trường nhà đất và có lẽ sẽ đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ vào suy thoái”.
Trong thực tế đã có bằng chứng rõ cho thấy một chú Sam khúm núm bắt đầu dâng hiến cho
Trung Quốc ít nhất một vài chủ quyền chính trị của Mỹ do nguy cơ có thực của phương án tấn
công hạt nhân tài chính từ phía Trung Quốc. Thực vậy, lúc này bất cứ khi nào mà Nhà Trắng,
Quốc hội hay Đại diện Thương mại Hoa Kỳ lên tiếng đòi xóa bỏ các thủ đoạn thương mại bất
công, Trung Quốc liền bắn một phát hỏa tiễn bằng cách đe dọa bán tháo - và trong vài trường
hợp có bán tháo thật – dự trữ đồng đô-la. Thực tế, sự tồn tại của mối “đe dọa hạt nhân tài chính”
giải thích phần lớn hành vi rụt rè kinh niên đối với Trung Quốc của mấy đời Bộ trưởng Tài chính
thập niên vừa qua, từ Hank Paulson dưới thời Bush cho đến Timothy Geithner dưới thời Obama.
Hãy vui lòng hiểu rõ điều này: với thời gian, sẽ cực kỳ ngây thơ cho bất kỳ người Mỹ nào
nghĩ rằng chính sách “tống tiền đồng bạc xanh” của Trung Quốc chỉ hạn chế trong các vấn đề
mậu dịch. Một lúc nào đó, các quan chức Trung Quốc có thể sử dụng vũ khí này trên bất cứ vấn
đề nào thuộc một số đề tài địa chính trị: từ chuyến thăm Nhà Trắng của Đạt Lai Lạt Ma, thương
vụ bán vũ khí cho Ấn Độ cho đến mối xung đột dai dẳng trên bán đảo Triều Tiên, cũng như
chuyện nhạy cảm Hoa Kỳ ủng hộ Đài Loan.
Trung Quốc, ngài có thể dành cho chúng tôi tỷ tỷ đô?
Sự thao túng tiền tệ của Trung Quốc không chỉ làm mất mát chủ quyền chính trị của Mỹ. Nó
còn làm người Mỹ tự sa vào “cái chết từ sự tiêu hoang”. Hãy nhớ: trong quá trình thao túng tiền
tệ, chính phủ Trung Quốc phải duy trì cái neo giữa đồng tệ và đô-la, chủ yếu bằng cách mua trái
phiếu chính phủ Mỹ. Bằng cách này, người cho vay đến từ Trung Quốc đã giúp các chính khách
Hoa Kỳ tài trợ cho mức thâm hụt ngân sách khổng lồ.
Sự kiện Trung Quốc giúp chúng ta tài trợ các chương trình, như chương trình kích thích tài
chính hàng loạt của Hoa Kỳ, cũng như cám dỗ về việc in tiền dễ dàng của Cục Dự trữ Liên bang
Mỹ không phải là một sự chua chát bình thường. Sau rốt, phần lớn bởi vì mức thâm hụt hút máu
với Trung Quốc mà các chính khách Mỹ cảm thấy họ cần tiếp tục mồi nước cho cỗ máy bơm
kinh tế bằng các chi tiêu thâm thủng, thậm chí cả khi chúng ta tiếp tục lún ngày một sâu vào nợ
nần với một chế độ chuyên chế, bòn rút cạn kiệt từ các nhượng bộ của Mỹ.
Thực tế, toàn bộ quá trình đáng buồn này mà trong đó Trung Quốc đóng vai người cho vay
thế chấp của nước Mỹ, là một phần của cuộc “mặc cả với Quỷ” mà Tổng thống Barrack Obama
đã mắc phải ngay từ lúc nhậm chức và quên lời hứa sẽ mạnh tay với chủ nghĩa con buôn Trung
Quốc. Ở đây, chúng ta cần nhớ rõ rằng trong chiến dịch tranh cử 2008, tại các bang công nghiệp
chủ chốt vẫn còn đang do dự như Illinois, Michigan, Ohio, và Pennsylvania, ứng cử viên tổng
thống Barack Obama đã hứa đi hứa lại rằng sẽ chấm dứt các thủ đoạn thương mại không công
bằng của Trung Quốc.
Nhưng từ khi nhậm chức, Bộ Tài chính của Tổng thống Obama, dẫn đầu bởi Timothy
Geithner như đã đề cập ở trên, đã từ chối nhiều lần việc quy tội Trung Quốc là quốc gia thao
túng tiền tệ. Đáng tiếc là, chính một lời quy tội như vậy sẽ cho phép Hoa Kỳ áp đặt các nghĩa vụ
bồi hoàn thích hợp, nhằm loại bỏ một trong các vũ khí quan trọng nhất của chủ nghĩa con buôn
Trung Quốc. Nhưng thay cho việc thực thi lời hứa khi tranh cử, Tổng thống Obama đã chọn một
cuộc mặc cả nguy hiểm với Quỷ: “Ngài, Trung Quốc, hãy tiếp tục mua trái phiếu của chúng tôi,
đổi lại chúng tôi sẽ không áp dụng bất kỳ hành động nào đáng kể để cải cách mậu dịch”. Bằng
cách này, Tổng thống đã sai lầm khi đặt chính trị và nhu cầu tài chính trước mắt của nội các ông
ta lên trên triển vọng phục hồi kinh tế dài hạn của Hoa Kỳ. Đây là sai lầm chết người, bởi vì cho
dù có mượn bao nhiêu nghìn tỷ “đô-la Walmart” từ Trung Quốc để ném vào nền kinh tế Mỹ,
những đồng tiền kích thích này cũng sẽ không tạo nên khác biệt, cho đến khi nào chúng ta đạt
được cải cách tiền tệ tích cực với Trung Quốc.
Hoa Kỳ mắc kẹt trong thang máy kinh tế toàn cầu
Chúng tôi chán rồi. Chính sách con buôn của Trung Quốc đã làm thương tổn phần còn lại
của thế giới, không chỉ mỗi nước Mỹ. Nó gây nên một cuộc suy thoái toàn cầu. Trung Quốc
muốn được đối xử như một quốc gia đang phát triển, nhưng họ là một gã khổng lồ, là nhà
xuất khẩu hàng đầu của thế giới.
- Thượng Nghị sĩ Lindsay Graham (đảng Cộng hòa – bang Nam Carolina)
Quan sát từ trên cao 10.000 mét, việc thao túng tiền tệ của Trung Quốc không chỉ làm tổn hại
kinh tế Mỹ. Nó đe dọa xé tan toàn bộ cấu trúc kinh tế toàn cầu và cơ cấu tự do mậu dịch. Vấn đề
là ở chỗ: bất cứ khi nào đồng đô-la giảm so với các loại tiền tệ khác như euro, real, won, hay yên
– chuyện bây giờ xảy ra thường xuyên – thì đồng tệ cũng rớt giá theo nó. Đến lượt nó, việc rớt
giá của nhân dân tệ so với các đồng tiền khác lại cung cấp cho con buôn Trung Quốc một mũi
dùi sắc bén hơn chống lại các đối thủ cạnh tranh khắp thế giới, từ châu Âu và Braxin cho đến
Nhật Bản và Hàn Quốc. Hệ lụy là nhu cầu xuất khẩu suy giảm đã dẫn châu Âu vào cơn vật vờ
kinh tế, cũng như kéo dài thêm sự tăng trưởng uể oải của Nhật Bản vốn đã lê thê cả chục năm
nay. Trong khi đó, lạm phát chồm lên ở các quốc gia như Úc và Braxin, do các dòng tiền nóng
đầu cơ đổ vào và do sự tăng giá nguyên liệu cơ bản mà có thể truy ngược trực tiếp là do đồng tệ
được định giá thấp.
Qua tất cả các điều này – và bất chấp các lời kêu gọi lặp đi lặp lại từ các định chế như Quỹ
Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới – Trung Quốc đã áp dụng các biện pháp cứng rắn nhất có
thể để chống lại cải tổ. Đường lối cứng rắn này xuất phát ngay từ cấp lãnh đạo cao nhất của
Trung Quốc; như một câu ngạn ngữ nói: “cá ươn từ đầu xuống”.
Ví dụ, hãy xét câu trả lời đầy ngờ vực của Thủ tướng Ôn Gia Bảo trước áp lực đòi định giá
lại đồng tệ của các thành viên khác trong khối G-20. Thủ tướng Ôn nói: ”Trước tiên, tôi không
nghĩ đồng tệ được định giá thấp”. Đúng đấy, ngài Ôn, cũng như không khí ở Bắc Kinh thì trong
lành, người Tây Tạng mong muốn là một phần của Trung Quốc, người dân được phát biểu tự do
ở Thượng Hải, và phi thuyền thăm dò Mặt Trăng của Trung Quốc cho thấy chị Hằng được tạo ra
từ phó mát Thụy Sĩ.
Trong thực tế, với các kiểu trả lời vô lý như vậy trước áp lực quốc tế của các lãnh đạo đảng
Cộng sản Trung Quốc, thật khó để nói việc chối bỏ mình đang thao túng tiền tệ của Trung Quốc
là giống với bi kịch Shakespear hay hài kịch của Molière. Sau cùng, trong số các quốc gia hưởng
lợi từ một đồng nhân dân tệ mạnh hơn, Trung Quốc là nước hưởng lợi nhất.
Đầu tiên, một đồng tệ mạnh lên sẽ khắc phục lạm phát đang gia tăng nhanh chóng ở Trung
Quốc, vì một đồng tệ mạnh sẽ hạ nhiệt giá dầu, nguyên liệu, và vô số chi phí đầu vào mà Trung
Quốc cần để vận hành các nhà máy. Như một phần thưởng chống lạm phát quan trọng, một đồng
tệ mạnh cũng nhanh chóng chặn đứng các dòng tiền nóng đầu cơ đang thổi phồng cả thị trường
chứng khoán và bong bóng nhà đất Trung Quốc.
Điều quan trọng nhất là đồng tệ mạnh sẽ cải thiện đáng kể sức mua của người tiêu dùng
nghèo khó ở Trung Quốc. Bằng cách này, cải cách tiền tệ sẽ làm Trung Quốc ít phụ thuộc hơn
nhiều vào mức xuất khẩu ra thị trường thế giới – một điểm yếu được mô tả như gót chân Achilles
của mô hình tăng trưởng Trung Quốc.
Không may, các lãnh đạo Trung Quốc từ chối chấp nhận lý lẽ thuyết phục của thông điệp
này. Thay vào đó, họ bảo vệ quan điểm không khoan nhượng bằng tuyên bố rằng đồng tệ mạnh
lên sẽ hủy hoại nền kinh tế Trung Quốc do xuất khẩu sẽ giảm mạnh. Nhưng đó cũng là một cách
khác để nói phương thức duy nhất giữ Trung Quốc tiếp tục phát triển là bằng cách làm nghèo đi
phần còn lại của thế giới. Đây cũng rất có thể là thông điệp cho thấy một trong những mục tiêu
quân sự và chiến lược lâu dài của Trung Quốc chính là làm nghèo phần còn lại của thế giới và
đặc biệt là làm suy nhược nền kinh tế và nền tảng sản xuất của Mỹ.
Chương 6
Chết bởi những doanh nghiệp Mỹ phản bội: Khi màu xanh
đô la che lấp màu cờ Mỹ
General Electric có kế hoạch ném hơn 2 tỉ USD vào Trung Quốc từ nay đến 2012. Tập đoàn
này tiếp tục chuyển các nhà máy từ Mỹ sang Trung Quốc và tạo ra hơn 1000 việc làm mới…
Tháng vừa rồi, GE đã quyết định đóng cửa nhà máy bóng đèn tại Virgina và chuyển 200 việc
làm đó đến Trung Quốc.
—London’s Daily Mail
Không có danh dự trong đám trộm cắp – và không có lòng yêu nước trong các công ty Mỹ.
Đó là thông điệp rất rõ ràng mà các công ty như General Electric, Caterpillar, và Evergreen Solar
đang chuyển đến người dân Mỹ trong những ngày này, bằng hành động đóng cửa các nhà máy
già cỗi tại Hoa Kỳ và khai trương các nhà máy sáng bóng, công nghệ hiện đại nhất tại vùng đất
của Rồng. Bằng cách tháo chạy qua Trung Quốc, những con chuột Lemmut phản bội này không
những đẩy đất nước của họ đến bên bờ vực thẳm mà còn ký vào một bản cáo tử cho chính công
ty họ. Trước kia đâu có vậy.
Đầu thế kỷ này, khi Trung Quốc lần đầu tiên gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và
bắt đầu mang tư tưởng con buôn tấn công vào nền tảng sản xuất của Hoa Kỳ, các giám đốc
doanh nghiệp Hoa Kỳ đã chung vai sát cánh cùng công nhân phản đối mạnh mẽ các điều khoản
thương mại không công bằng của Trung Quốc. Tuy nhiên, những lời cảnh cáo nghiêm khắc đó
của liên minh doanh nghiệp – người lao động đã rơi vào các lỗ tai điếc trong bộ máy Nhà Trắng
có tư tưởng cứng nhắc dưới thời ông Bush, những kẻ không phân biệt được sự khác biệt nghiêm
trọng giữa thương mại tự do có lợi cho tất cả và thương mại bất công chỉ có lợi cho Trung Quốc.
Bây giờ, một thập kỷ sau, liên minh giữa những doanh nghiệp và lao động Hoa Kỳ đã chết
giống như những người đấu tranh vì dân chủ trên quảng trường Thiên An Môn. Trong bài toán
chính trị mới, với mỗi việc làm của người Mỹ và mỗi nhà máy được chuyển sang Trung Quốc,
những tổ chức mệnh danh “Mỹ” như Bàn tròn Kinh doanh, Hiệp hội Quốc gia các nhà chế tạo,
và Phòng Thương mại Hoa Kỳ cũng bị biến từ các nhà phê bình gay gắt thành những kẻ biện hộ
ngoan ngoãn cho một nước Trung Quốc mang tư tưởng con buôn và bảo hộ mặc sức làm gì thì
làm với kinh tế Mỹ và công nhân Mỹ.
Cái trớ trêu trong sự phản bội của các doanh nghiệp Mỹ là ở chỗ: trong quá trình giúp đỡ
Trung Quốc tàn phá nền tảng sản xuất của nước Mỹ, đa số các doanh nghiệp phản bội này cũng
đang tàn phá tương lai của chính công ty mình. Họ đang làm như vậy bằng cách dâng hiến cho
Trung Quốc không chỉ những công nghệ hiện tại mà còn cả khả năng sáng tạo ra công nghệ mới.
Để hiểu vấn đề tại sao lại như vậy, tại sao nhiều giám đốc doanh nghiệp Mỹ sẵn lòng để cho sự
tôn thờ đồng đô la xanh che khuất mầu cờ đỏ trắng xanh của nước Mỹ, trước hết chúng ta phải
hiểu và phân tích “Ba làn sóng chuyển dịch ra nước ngoài” mô tả đặc tính của cuộc di tản hàng
triệu việc làm từ Mỹ sang Trung Quốc.
Làn sóng chuyển dịch thứ nhất: Công xưởng Trung Quốc thức dậy
Làn sóng chuyển dịch ra nước ngoài đầu tiên bắt đầu chậm rãi ngay sau khi Đảng cộng Sản
mở cửa “Thiên Đường Nhân công” của Trung Quốc cho phương Tây vào năm 1978. Nó được
biết đến với tên gọi “Cải cách theo thị trường”, tước bỏ một cách hữu hiệu các lợi ích về y tế và
hưu trí đi cùng quyền lợi về điều kiện an toàn lao động và thu nhập tương đối khá khỏi tay công
nhân – trong khi vẫn duy trì sự thống trị trớ trêu đối với nền kinh tế Trung Quốc của các công ty
nhà nước và các nhà hoạch định trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Không phải ngẫu
nhiên mà trong vài thập kỷ, các công ty phương Tây như Mattel, Reebok, và Schwinn bắt đầu
sản xuất ra ngày càng nhiều các sản phẩm giá trị thấp, thâm dụng lao động như đồ chơi, giày thể
thao, xe đạp – bằng nhân công giá rẻ của Trung Quốc.
Chính trong làn sóng chuyển dịch này, mô hình hợp đồng lao động khắc khổ phổ biến ở
Trung Quốc ngày nay đã được hoàn thiện. Trong các công xưởng, các nam nữ thanh niên trẻ (và
không ít trẻ em) mới từ nông thôn ra, ký các hợp đồng ràng buộc hà khắc mà họ không đủ trình
độ để hiểu. Họ làm việc vai kề vai trong các xưởng máy đông nghẹt, nóng, và dơ bẩn, từ 12 đến
16 giờ một ngày. Họ ăn và ngủ trong các khu ký túc xá chật chội thường bị chắn bởi song sắt cửa
sổ hoặc vây bởi hàng rào trong khu vực công ty. Nếu họ cố trốn thoát, họ sẽ bị đánh đập. Nếu họ
định tổ chức đình công, họ sẽ bị đánh đập và sau đó sa thải.
Đó thật sự là những nô lệ lao động thời hiện đại, làm việc chỉ với 40 xu 1 giờ nhưng vẫn làm
ra các đồ chơi cho trẻ con chúng ta hài lòng, đúc những đế giày đẩy bước chúng ta đang đi, và
may những chiếc áo chúng ta đang mặc. Một sự thật đau khổ trong chuỗi dây xích vô tận ràng
buộc những người nhân công này với “Thế giới Dickens kiểu Trung Quốc”, là nhiều người vẫn
thấy hạnh phúc hơn trong sự nghiệt ngã đó, bởi vì dù các công xưởng của Rồng có tồi tệ đến đâu,
chúng vẫn còn hơn cuộc sống của người nông dân nghèo.
Làn sóng thứ hai: Nếu bạn không thể đánh bại được họ thì hãy theo
họ
Làn sóng thứ hai bắt đầu ngay khi Trung Quốc tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới
năm 2001 và bắt đầu tấn công trực diện vào nền tảng sản xuất Mỹ bằng “Vũ khí hủy diệt việc
làm” như trợ cấp xuất khẩu bất hợp pháp và thao túng tiền tệ. Trong vòng vây của các nhà máy
Trung Quốc, ngày càng nhiều giám đốc doanh nghiệp Mỹ nhận ra rằng: nếu tận dụng ưu thế
mạng lưới trợ cấp bất hợp pháp tinh vi cho hàng xuất khẩu, họ có thể sản xuất giá rẻ hơn trên đất
Trung Quốc so với Mỹ, và nếu họ không làm thì các đối thủ của họ chắc chắn sẽ làm. Các doanh
nghiệp Mỹ nhận ra sự thật trong câu nói nổi tiếng “ Nếu bạn không đánh bại được Trung Quốc,
hãy theo họ”. Ngay sau đó, làn sóng chuyển dịch thứ hai mạnh lên thành Tsunami.
Rất quan trọng để nhấn mạnh rằng trong làn sóng thứ hai này, mục tiêu cơ bản của các nhà
kinh doanh Mỹ không phải là bán hàng cho 1,3 tỉ người tiêu dùng nghèo đói tại thị trường Trung
Quốc. Đó là sản xuất để xuất khẩu ra phần còn lại của thế giới – bao gồm bán ngược lại cho
nước Mỹ. Một điều rõ như pha lê ở đây là, các giám đốc kinh doanh Mỹ tin rằng cái mà họ tận
dụng được trong làn sóng này không chỉ là nhân công rẻ mạt (một vài nước như Bangladesh,
Campuchia và Việt Nam cũng có nhiều lao động rẻ). Mà họ bị cám dỗ bởi những thủ đoạn
thương mại không công bằng, điều khoản môi trường, an toàn lao động lỏng lẻo, và chế độ trợ
cấp xuất khẩu giả tạo. Nếu chính phủ Mỹ không xóa bỏ các thủ đoạn thương mại không công
bằng của Trung Quốc (bộ máy của Bush có những nỗ lực quý giá nhưng nhỏ bé trong trong cuộc
phong tỏa này), thì ít ra là các cổ đông, giám đốc kinh doanh (không phải cả công nhân) của các
công ty này vẫn thấy có lợi khi dịch chuyển sản xuất của họ đến Trung Quốc.
Làn sóng thứ ba: Ảo tưởng lớn về 1,3 tỉ người tiêu dùng
Làn sóng thứ ba và nguy hiểm nhất về quy mô trong chuyển dịch ra nước ngoài của Mỹ hiện
đang xảy ra. Nó được kết hợp bởi một phần nhân công rẻ trong làn sóng thứ nhất và một phần
lòng tham về lợi thế sản xuất tại Trung Quốc trong làn sóng thứ hai. Nhưng xa hơn trong sự thúc
đẩy đầy ma lực trong làn sóng thứ ba là ảo tưởng của các nhà điều hành doanh nghiệp Mỹ về cơ
hội lớn sắp đến với họ trong khả năng tiếp cận 1,3 tỉ người tiêu dùng đang cư ngụ tại nước đông
dân nhất thế giới này. Làn sóng này rõ ràng là nguy hiểm nhất bởi vì nó bị dẫn dắt bởi ảo tưởng
là phần lớn ngưới tiêu dùng Trung Quốc có khả năng mua sắm thích hợp để thúc đẩy thị trường –
trong khi thực tế là rất nhiều người nghèo đói. Làn sóng dịch chuyển nguy hiểm này yêu cầu các
doanh nghiệp Mỹ muốn bán hàng vào Trung Quốc phải chấp nhận ba điều khoản bảo hộ trong
chính sách “Sáng tạo bản địa” của Trung Quốc.
Điều kiện bảo hộ thứ nhất yêu cầu sở hữu thiểu số; các công ty Mỹ phải liên doanh với đối
tác Trung Quốc và sở hữu không quá 49% doanh nghiệp. Rõ ràng là, điều khoản này làm công ty
Mỹ mất quyền kiểm soát doanh nghiệp. Sau đó là, điều kiện này cho phép đối tác sở hữu đa số
(thường là các công ty nhà nước) quyền được truy xuất bất cứ thông tin nào của liên doanh, bao
gồm các bí mật thương mại.
Điều khoản bảo hộ thứ hai là một trong những vi phạm trắng trợn của Trung Quốc về quy
định tự do thương mại; điều khoản này yêu cầu bắt buộc chuyển giao công nghệ. Có nghĩa là các
công ty Mỹ bắt buộc giao nộp sở hữu trí tuệ cho các đối tác Trung Quốc như một điều kiện để
gia nhập thị trường. Hiệu quả thực của điều khoản này là tạo sự thuận tiện cho việc phổ biến
nhiều công nghệ khác nhau không chỉ trực tiếp đến các đối tác Trung Quốc mà còn tới chính phủ
Trung Quốc và các đối thủ Trung Quốc tiềm tàng khác. Với việc đầu hàng chấp nhận điều kiện
này, trong thực tế, các công ty phương Tây đã tự tạo ra các đối thủ cạnh tranh ở Trung Quốc chỉ
trong nháy mắt.
Điều khoản thứ ba là bàn tay con buôn trong trong cái vỏ bọc bảo hộ của điều khoản thứ hai
bắt buộc chuyển giao công nghệ. Nó cũng bắt buộc xuất khẩu các cơ sở nghiên cứu và phát triển
của phương Tây vào Trung Quốc – thêm một vi phạm nghiêm trọng nữa về quy định tự do
thương mại của WTO. Đây là nhát cắt tàn nhẫn nhất, tương đương với bán ngô giống của Mỹ.
Như tất cả các nhà kinh tế nói, chính nghiên cứu và phát triển tạo ra sự sáng tạo công nghệ cần
thiết để tạo ra việc làm mới. Nếu nghiên cứu và phát triển đó và sự sáng tạo đó xảy ra tại mảnh
đất Trung Quốc mà không phải tại Mỹ, bạn đoán xem nước nào sẽ gặt hái được miếng to, ngon
nhất trong cái bánh tạo ra việc làm mới?
Đến đây đã quá rõ tại sao các công ty Mỹ nào đầu hàng ba điều khoản bảo hộ của chính sách
sáng tạo bản địa sẽ đảm bảo hủy hoại chính họ. Một khi mà công ty Mỹ giao nộp quyền kiểm
soát, công nghệ hiện tại, và khả năng phát triển công nghệ tương lai, thì vấn để chỉ còn là thời
gian khi các công ty Trung Quốc “xơi” công nghệ đó và sử dụng nó để tự quay lại cạnh tranh với
công ty Mỹ - không chỉ ngay chính trên đất Trung Quốc mà còn trên thị trường toàn cầu. Bằng
cách này, các công ty Mỹ trả giá đắt cho bài học là sự hấp dẫn của 1,3 tỉ người tiêu dùng Trung
Quốc chỉ là ảo tưởng trong tiếng còi báo động hơn là những đồng đô la thực sự . Cũng bằng cách
này, “ chết bởi các doanh nghiệp phản bội” biến thành sự tự sát của các doanh nghiệp.
Câu chuyện về hai đất nước và bốn công ty
Để cung cấp góc nhìn riêng cá nhân về vấn đề này, chúng ta hãy xem xét các hoạt động của
bốn tập đoàn lớn tại Trung Quốc và tổng giám đốc của họ. Westinghouse, kẻ nghờ nghệch nhất;
General Electric, kẻ tâm thần nhất; Caterpillar, bộ mặt điển hình cho sự cám dỗ của chủ nghĩa
con buôn Trung Quốc; và Evergreen Solar, từng là niềm “Hy vọng Xanh vĩ đại” của chính quyền
Obama và bây giờ là điểm cảm thán cho sự thất bại của các chính khách Hoa kỳ trong việc bảo
vệ cộng đồng doanh nghiệp của chúng ta trước sự xâm lược của Trung Quốc.
Suy nghĩ ảo tưởng phân hạch của Westinghouse
Westinghouse Electric đã chuyển giao hơn 75.000 tài liệu cho khách hàng Trung Quốc theo
cam kết phần khởi đầu của việc chuyển giao công nghệ với hy vọng là bảo toàn được vị trí
trong thị trường hạt nhân phát triển nhanh nhất này. . . Jack Allen, Chủ tịch Westinghouse
tại châu Á [nói] công ty “không có đảm bảo nào”về vai trò của mình tại Trung Quốc khi bốn
lò phản ứng hạt nhân AP 1000 hoàn thành.
--Financial Times
Giống như Frodo[1] không thể chống lại sự cám dỗ của chiếc nhẫn chết người, Westinghouse
rõ ràng là không thể cưỡng lại được thị trường điện hạt nhân Trung Quốc. Chúng ta biết rằng:
Thị trường hạt nhân Trung Quốc là thị trường lớn nhất và phát triển nhanh nhất trên thế giới, với
23 lò phản ứng đang xây dựng và có kế hoạch xây dựng 100 hoặc hơn nữa. Nhưng trong khi cố
gắng đạt được thị phần đáng kể trong cái thị trường phát triển đó về làm phần thưởng to lớn cho
Westinghouse, cách tệ nhất có thể để kiếm phần thưởng đó là làm theo cách mà tổng giám đốc
Jack Allen đã làm: chuyển tất cả đến Trung Quốc những gì cần để có thể xây dựng các lò phản
ứng mà không cần đến sự trợ giúp của Westinghouse.
Tình hình ngày càng mỉa mai và khôi hài hơn. Trên website công ty, Westinghouse Nuclear
đã khoác lác thông tin rằng “gần 50% các nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động trên thế giới …
đều dựa vào công nghệ của Westinghouse.” Ồ, có dễ dàng đoán ra ai là nhà kinh doanh trung
thực? Với cách chuyển hơn 75.000 tài liệu đến Trung Quốc, thì gần 50% hoặc hơn thế nữa các lò
phản ứng hạt nhân ở Trung Quốc chắc chắn dựa trên công nghệ Westinghouse; nó chỉ là copy
công nghệ của Westinghouse.
Sự ngây thơ của Westinghouse thật là ngạc nhiên bởi vì, trong khi nó là công ty của Mỹ,
nhưng thực chất do công ty Toshiba của Nhật Bản quản lý. Và rất nhiều công ty Nhật bản đã bị
tàn lụi bởi các điều kiện bắt buộc chuyển giao công nghệ và đã có kinh nghiệm với khả năng
kinh ngạc của các nhà sản xuất Trung Quốc trong việc học hỏi công nghệ nước ngoài và sử dụng
chúng để biến mình thành các đối thủ cạnh tranh nặng ký. Cần xem lại tại sao một nhóm các
giám đốc Nhật Bản và châu Âu tự bắn vào đầu mình bằng cách chuyển giao công nghệ tầu cao
tốc, tờ The Wall Street Journal đã hài hước viết:
Khi các công ty Nhật Bản và Châu Âu tiên phong trong việc xây dựng đường sắt cao tốc
đồng ý sản xuất toa tàu tại Trung Quốc, họ đã nghĩ đến việc tiếp cận vào thị trường mới
đang bùng nổ, những hợp đồng đáng giá hàng tỉ đô-la và tạo dấu ấn trong hệ thống đường
sắt tham vọng nhất trong lịch sử. Những gì họ không lường được là họ phải cạnh tranh với
các công ty Trung Quốc lục địa đã tiếp nhận công nghệ và quay trở lại cạnh tranh với họ chỉ
vài năm sau.
Mãnh hổ Caterpillar khấu đầu trước con Rồng đỏ
Bây giờ hãy xem hai mẩu tin gần đây. Đặt chúng cạnh nhau cho ta thấy tóm tắt chiến lược
toàn cầu Caterpillar: Đóng cửa nhà máy tại Mỹ và mở cửa nhà máy tại Trung Quốc.
Caterpillar vào hôm Thứ ba đã thông báo có kế hoạch sa thải hơn 2.400 công nhân tại năm
nhà máy tại Illinois, Indiana, và Georgia khi công ty chế tạo thiết bị hạng nặng này tiếp tục
cắt giảm chi phí do nền kinh tế thế giới suy giảm…. Vì tình hình xấu đi, Caterpillar trong
tháng giêng đã tuyên bố sẽ cắt giảm 20.000 việc làm.
—Huffington Post
Trong suốt ba thập kỷ qua, Caterpillar phát triển từ một văn phòng bán hàng tại Bắc Kinh
thành công ty có mặt mọi nơi trong nước như ngày nay – bao gồm mười một cơ sở sản xuất,
ba trung tâm nghiên cứu và phát triển, chín văn phòng, và hai trung tâm hậu cần và kho vận.
—Jiming Zhu, Phó Chủ tịch, Caterpillar
Chiến lược của mãnh hổ Caterpillar bị cuốn theo dòng chảy ngược mạnh mẽ của các thủ
đoạn thương mại không công bằng, lôi theo các công ty như Caterpillar ra khỏi lãnh thổ Mỹ. Để
thấy sức hút bẩn thỉu của dòng chảy ngược này, hãy xem quyết định công ty sản xuất máy xúc cỡ
nhỏ bán vào thị trường Trung Quốc ở Ngô Giang, thay vì ở Peoria, Illinois. Caterpillar chọn
mảnh đất và công nhân Trung Quốc bởi vì nếu sản xuất máy xúc cỡ nhỏ trong nội địa Mỹ và
xuất khẩu sang Trung Quốc, họ sẽ đối mặt với mức thuế bảo hộ cao tới 30%.
Nhưng đó không phải là tất cả. Mãnh hổ Caterpillar sẽ còn đối mặt một vật cản nữa, mức
thuế con buôn dưới dạng định giá thấp đồng nội tệ ở mức khoảng 40% so với giá trị thực. Hai
mức phí và thuế của con buôn ăn xin này làm cho nhiều công ty Mỹ không thể tính đến việc sản
xuất ở Mỹ rồi xuất khẩu vào Trung Quốc.
Tổn thương lớn nhất trong quyết định di chuyển này là Caterpillar không chỉ là biểu tượng
của nước Mỹ. Nó đã từng là nguồn chính tạo ra việc làm và thu nhập cho các bang miền trungtây
nước Mỹ hơn một thế kỷ qua. Sự chấm dứt sản xuất của nhà khổng lồ tại Peoria thực sự là
thảm họa của nước Mỹ.
Và bây giờ đây là mẩu tin đáng để cười hết cỡ: Ngay cả khi Caterpillar đã sẵn sàng tạo ra
nhiều việc làm tại Trung Quốc để sản xuất máy xúc cỡ nhỏ và đẩy hàng ngàn người Mỹ vào
danh sách thất nghiệp, nó đã giang hai tay nắm lấy lợi ích của chương trình kích thích tài chính
của bộ máy Obama. Ôi! Điều đó làm ta buồn nôn.
Evergreen Solar chuyển năng lượng tương lai của chúng ta đi để lấy mấy thỏi
bạc
Nếu chúng ta không thể đánh bại Trung Quốc và không thể thuyết phục chính phủ Mỹ hiểu
chúng ta đang đối đầu với cái gì, tốt hơn hết hãy theo họ. Đó là những gì Evergrenn Solar đã
quyết định thực hiện: di chuyển nhà máy chế tạo và lắp ráp pin năng lượng mặt trời tại
Devens – Massachusetts sang Vũ Hán – Trung Quốc
—Manufacturing & Technology News
Hãng Evergreen Solar là hãng sản xuất ra một số tấm pin năng lượng mặt trời có hiệu suất
cao nhất thế giới. Nếu chúng ta phải tin tổng thống Barack Obama, thì chắc chắn là các công ty
như Evergreen Solar được coi là nguồn tạo ra việc làm mới tốt nhất của nước Mỹ. Trong thời đại
suy giảm nguồn cung cấp dầu mỏ và sự nóng lên toàn cầu, chẳng phải ngành "công nghiệp xanh"
là một trong những ngành tạo ra tăng trưởng việc làm mạnh nhất hay sao?
Tuy nhiên, nếu chúng ta tin vào ngài Rick Feldt Tổng giám đốc Evergreen thì công ty của
ông ta đã làm hết sức có thể để thuyết phục bộ máy Obama giúp Evergreen giữ lại các dây
chuyền sản xuất tại Massachussets. Ông Feldt đã làm đến mức phải đến Washinton để van nài
các quan chức cao cấp như Bộ trưởng Năng lượng Steven Chu và Bộ trưởng Thương mại Gary
Locke làm gì đó chống lại các biện pháp trợ cấp bất hợp pháp mà chính phủ Trung Quốc đang đổ
vào ngành công nghiệp năng lượng mặt trời của họ. Nhưng những van xin của Evergreen chỉ rơi
vào các lỗ tai điếc.
Vì vậy, khi chính phủ Trung Quốc đề nghị cấp cho Evergreen các khoản vay lãi suất thấp
chiếm 65% của chi phí xây dựng nhà máy mới tại Trung Quốc thay vì tại Massachusetts, Tổng
giám đốc của Evergreen tin rằng ông đã không có sự lựa chọn khác hơn là chấp nhận 30 thỏi bạc
của Trung Quốc và chuyển dây chuyền sản xuất của công ty ra nước ngoài. Ngài Feldt bực tức
nói, "Hoa Kỳ vẫn tiếp tục kêu gọi về việc giữ việc làm. Bạn nghe Thông điệp Liên bang của
Tổng thống Hoa Kỳ và ông ta nói, 'Tôi muốn giữ lại việc làm tại Hoa Kỳ.' Nói thật là dễ, nhưng
làm gì để hiện thực hóa." Điều đó là chính xác, thưa ông Feldt, nhưng Mỹ chắc chắn sẽ tiếc nuối
các nhà máy mới của ông đang chuyển sang Trung Quốc.
Trong thực tế, Mỹ, và đặc biệt là bang Massachusetts, sẽ tiếc nuối nhà máy tại Mỹ cùng với
800 công nhân đã từng làm việc trong đó. Vì ngay sau khi hứa hẹn để duy trì sự hiện diện của
nhà máy ở Massachusetts, Evergreen thông báo sẽ đóng cửa nhà máy ở bang này. Và đó đúng là
nhà máy hiện đại xây dựng 2007, mà người nộp thuế tiểu bang Massachusetts đã bỏ ra 52 triệu
USD để hỗ trợ. Và đây là sự xúc phạm cuối cùng: Evergreen cũng sẽ buộc người nộp thuế Mỹ
trả tiền cho việc đóng cửa với chi phí 340 triệu USD theo thỏa thuận về việc đóng cửa nhà máy.
Không thể nào làm lộn xộn hơn thế nữa.
General Electric: Bạn có thích cái muỗng với cái lưỡi chẻ đôi dối trá không?
Một kiểu làm ăn đang phát triển. Một công ty [nước ngoài] nhượng quyền sở hữu trí tuệ cho
doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc, và sau đó tất cả bị ép bật ra rìa của thị trường trong
nước Trung Quốc và đối mặt với một đối thủ cạnh tranh mới . Không có gì là ngẫu nhiên
hoặc là trường hợp các doanh nghiệp nhà nước quá hăm hở và vượt qua giới hạn. Trung
Quốc muốn chuyển đổi từ công xưởng quốc tế sang một nền kinh tế tiên tiến, và đang sử
dụng sức mạnh thị trường của mình để rút ngắn giai đoạn bằng cách "xơi" sở hữu trí tuệ của
người khác.
—John Gapper, Financial Times
Trong ánh đèn pha rọi thẳng vào những Công ty Mỹ phản bội, rất cần thiết để nhìn lại chính
công ty đã mở đầu chương này: General Electric. Ít nhất là về mặt ngoài, vũ điệu GE cùng với
Rồng không bị chê là canh bạc tệ. GE hiện có hơn 15,000 công nhân (chủ yếu là người Hoa) tại
hơn 50 địa điểm ở Trung Quốc, và mỗi năm, nó góp phần tạo ra doanh thu ngày càng tăng từ các
hoạt động của mình ở Trung Quốc. Tuy nhiên, GE tiếp tục chịu thiếu hụt doanh thu so với mấy
cái hũ vàng mà sự mở rộng ở Trung Quốc đáng ra phải đem lại cho công ty.
Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn với GE là hành vi kỳ cục của tổng giám đốc Jeffrey Immelt. Một
mặt, Immelt đã buộc tội chủ nghĩa bảo hộ của Trung Quốc đã đi quá xa qua phát biểu "Tôi thực
sự lo lắng về Trung Quốc. Tôi không chắc chắn rằng cuối cùng họ muốn bất cứ ai trong chúng ta
chiến thắng, hoặc bất cứ ai trong chúng ta thành công."
Mặt khác, Immelt làm tất cả để gây ấn tượng so sánh với Thống soái Pétain của nước Pháp
đầu hàng, đã dâng nộp một cách đáng kinh ngạc một loạt các mảng lớn công nghệ mới cho
Trung Quốc, để đổi lấy những gì Immelt coi như là sự tôn vinh cao quí và đặc quyền kinh doanh
trong nước Cộng hòa Nhân dân. Điển hình cho một trong những thứ đáng lo ngại nhất mà
Immelt từ bỏ, là GE chuyển giao toàn bộ phần kinh doanh hệ thống điện tử hàng không toàn cầu
của mình chỉ để có thể tham gia vào sản xuất một máy bay chở khách của Trung Quốc. GE cũng
đã bàn giao những phần quan trọng của công nghệ công nghiệp quan trọng khác như đầu máy xe
lửa, năng lượng gió và các thiết bị chống ô nhiễm môi trường.
Điều này quá thiển cận, như John Gapper của tờ Financial Times đã khẳng định trước đây,
bởi vì khi các công ty Trung Quốc nắm bắt được công nghệ hiện tại và công nghệ đang phát triển
của GE lại được thực hiện tại các phòng nghiên cứu phát triển đặt trên đất Trung Quốc, GE sẽ bị
"đẩy ra rìa" ở thị trường Trung Quốc và thậm chí phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn của
Trung Quốc trên thị trường quốc tế.
Bài toán chính trị chia để trị
Thay mặt các tổ chức và thành viên ký dưới đây, chúng tôi viết thư này để phản đối mạnh mẽ
điều khoản cải cách tiền tệ của Đạo luật Mậu dịch Công bằng HR 2378.
- Thư gửi cho Quốc hội của 36 công ty và tập đoàn
Không chỉ các nhà sản xuất chế tạo như Caterpillar, General Electric và Westinghouse đã
phản bội nước Mỹ. Như trích đoạn trong thư gửi đến Quốc hội ở trên đã minh họa, nhiều công ty
khác của Mỹ và các ngành công nghiệp được hưởng lợi ngắn hạn từ mối quan hệ ký sinh giữa
Trung Quốc với Hoa Kỳ đã đổi lập trường trong cuộc tranh luận về Trung Quốc. Trong thực tế,
mỗi khi chủ đề cải cách thương mại với Trung Quốc được đưa ra, các công ty này đều ló mặt ra
phản đối ngay.
Chỉ cần xem xét các hiệp hội nông nghiệp có quyền lực như Hiệp hội Đậu tương Mỹ, Viện
Thịt Hoa Kỳ, Hiệp hội Tinh chế Ngô, và Hội đồng xuất khẩu Gia cầm và Trứng Hoa Kỳ. Họ
thường xuyên phản đối các cải cách thương mại mang tính xây dựng với Trung Quốc bởi vì họ
lo sợ mức thuế trả đũa. Trong khi sợ hãi như vậy có thể xem là chính đáng, nó không phải là lý
do để tiến hành vận động hành lang gây tổn hại vật chất đến lợi ích rộng hơn của Hoa Kỳ và các
công nhân khi Mỹ đang cố gắng đương đầu với một trong những tình huống kinh tế khó xử tồi tệ
nhất mà đất nước này đã từng phải đối mặt.
Một phần quan trọng thứ hai của liên minh ủng hộ Trung Quốc "chia để trị" ngay trên đất Mỹ
bao gồm các hội bán lẻ như Hiệp hội May và Giày Mỹ, Liên đoàn Bán lẻ Quốc gia, và Hiệp hội
Sản xuất đồ Thể thao. Họ lo ngại giá cả sẽ tăng và gây thiệt hại nặng cho lợi nhuận của họ nếu
Trung Quốc phải thực hiện các bước như nâng giá đồng tiền và loại bỏ trợ cấp xuất khẩu bất hợp
pháp của mình. Những gì các nhóm này không hiểu và nhiều công dân Mỹ vẫn chưa nắm bắt là:
cơn lũ hàng hóa giá rẻ giả tạo của Trung Quốc mà hiện đang đẩy nước Mỹ ra khỏi thị trường mới
chỉ là khoản đặt cọc cho nạn thất nghiệp hiện tại và tương lai của đất nước này. Hơn nữa, nhiều
người Mỹ thất nghiệp hơn có nghĩa là sức mua của người tiêu dùng giảm và ít doanh thu hơn cho
các nhà bán lẻ Mỹ trong dài hạn.
Và đây là một nhóm vận động hành lang đặc biệt gây phiền hà: Phòng Thương mại Mỹ tại
Thượng Hải. Nhóm này lần gần đây nhất được biết là vận động hành lang chống lại các quy định
quan trọng trong một dự luật về Trung Quốc. Dự luật này đề xuất tăng cường quyền được bảo vệ
an toàn của công nhân Trung Quốc và do đó cho người lao động Mỹ một cơ hội tốt hơn để cạnh
tranh.
Tất cả các nhóm kinh doanh Mỹ và giám đốc công ty hiện nay đang có hoạt động kinh doanh
với Trung Quốc cần phải đọc biến thể bài thơ nổi tiếng của John Donne: Không có doanh nghiệp
Mỹ nào là một hòn đảo riêng của họ; mỗi doanh nghiệp là một phần của đất nước này, một phần
của nền kinh tế rộng hơn. Nếu một công việc bị xóa đi bởi chủ nghĩa con buôn Trung Quốc,
nước Mỹ sẽ nhỏ đi một ít . . . Và anh đừng bao giờ hỏi chuông nguyện hồn ai; chuông nguyện
hồn anh đấy!
[1] Frodo Baggins là nhân vật trong phim nổi tiếng “Chúa Tể Của Những Chiếc Nhẫn” được đạo diễn bởi Peter
Jackson, ra mắt năm 2001. ND
0 comments
Post a Comment