Đó là những lơì tiên tri cảnh báo về chủ nghĩa xã hội của nhiều nhà tư tưởng lỗi lạc cách đây hàng trăm năm trích trong tác phẩm nổi tiếng : Con đường dẫn tới nô lệ của nhà kinh tế và xã hội học F.A. Hayek – (giải thưởng Nobel) viết cách đây 60 năm. Đây là một tác phẩm đề cập tới một đề tài hết sức nhạy cảm và có tính thời sự nóng hổi cho dến tận hôm nay. Chủ đề của cuốn sách là quan hệ giữa tự do cá nhân và vai trò kinh tế của nhà nước, giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể, giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa chuyên chế. Trân trọng cám ơn GS Nguyễn Quang A đã dầy công dịch quyển sách rất khó nhưng vô cùng quý giá này từ nguyên bản : The Road to Serfdom ( nhà xuất bản THE UNIVERSITY OF CHICAGO PRESS -1994) và cung cấp cho mọi người qua mạng Internet.
Chúng tôi không có tham vọng tóm tắt bản luận văn vĩ đại này mà chỉ xin trích dẫn một số lời tiên tri cảnh báo về CNXH mà tác giả đã dầy công nghiên cứu sưu tập để chứng minh cho luận điểm của mình. Thông điệp mà ông muốn nhắn gửi chỉ ngắn gọn ( như tên quyển sách của ông ) như sau
“Chủ nghĩa xã hội có nguy cơ dẫn tới nô lệ”
Điều làm ta kinh ngạc và khâm phục chính là qua quá trình biện luận Hayek lại chứng tỏ là một nhà tiên tri lỗi lạc vì khi viết quyển sách này CNXH vẫn còn một quãng đường một nữa thế kỷ mới kết thúc.Lúc đó chưa có bản báo mật của Khơ rút sốp về những tội ác kinh hoàng của Stalin, chưa có lời xin lỗi kèm theo hồ sơ về vụ hành quyết hơn 2 vạn sĩ quan Ba lan vô tội tại rừng Katyn mà nước Nga đã chuyển cho nhân dân Balan. Chưa có những số liệu khủng khiếp trong bộ hồ sơ tối mật của Liên xô được bạch hoá trong thời kỳ hậu Xôviết. Những nhà CM xã hội chủ nghĩa VN và TQ vẫn chưa cướp được chính quyền .Tuy đã có câu khẩu hiệu ghê người trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ nhưng chưa nổ ra cuộc cải cách ruộng đất man rợ chưa từng thấy ở VN.Chưa có chỉnh đốn tổ chức, chưa có vụ án NVGP và cũng chưa có cải tạo XHCN vv…Chưa có cuộc vượt biển gây chấn động địa cầu, hoảng loạn và kinh khiếp hiếm thấy trong lịch sử để trốn chạy chế độ cộng sản của hàng triệu người thuộc phe thua cuộc sau chiến tranh Việt nam 1975. Đương nhiên chưa có nạn đói ghê rợn ở TQ kèm theo việc ăn thịt người cướp đi sinh mạng háng chục triệu người do hậu quả của cuộc đại nhảy vọt và phong trào toàn dân làm gang thép. Lại càng chưa có cuộc đại CM Văn hoá kinh thiên động địa mà các nhà văn TQ đã đau đớn nghẹn ngào mô tả như sau:
“ Từ khi có lịch sử loài người, chưa từng gặp một cuộc triệt phá nhân tạo lớn đến như vậy. Cách mạng văn hóa là tổng bộc phá của sức mạnh ác tà đã bị tích tụ lâu ngày; tính dã man, hung bạo, xảo trá, đố kị, tàn nhẫn đến tận xương tuỷ bị dồn nén bấy lâu nay, lặn sâu trong lòng người Trung Quốc, nay bộc lộ hết thảy, là một thời kỳ đầy máu, giết chóc, oan hồn bay phiêu linh, tuyệt lương tri, và trắng đen điên đảo.” (nhà văn Bá Dương- tác giả cuốn Người TQ xấu xí )
“Cách mạng văn hóa thực sự là một tai họa chưa từng thấy: là một cuộc đại biểu diễn của bóng ma cộng sản khi nó chiếm hữu toàn bộ Trung Quốc. Năm 1966, một làn sóng bạo lực mới tràn tới vùng đất Trung Quốc, và trận cuồng phong gầm thét của cuộc khủng bố đỏ, như một con rồng yêu nghiệt điên loạn đã thoát khỏi xích trói, làm rung chuyển các ngọn núi và làm đóng băng các dòng sông..”( Nhà văn Tần Mục)
(Theo thống kê thận trọng của các chuyên gia thì con số những người chết bất thường ở Trung Quốc trong Cách Mạng Văn Hóa là 7.73 triệu.)
Khi lương tri nhân loại chưa hết bàng hoàng về Cách mạng văn hóa thì lại nổ ra cuộc diệt chủng đẫm máu ở Cămpuchia. Lại do chính những người theo CNXH gây ra.Thật oái ăm , tại Paris, thủ đô của mọi ngọn nguồn chủ nghĩa XH trong lịch sử, người ta đã choáng váng tìm thấy phương án xây dựng một xã hội ước mơ của các lãnh tụ CS Campuchia trong luận văn của họ khi các nhà CM XHCN châu á này đang nghiền ngẫm học tập tìm đường cứu nước ở đây. Khi đã nắm được chính quyền họ liền biến ước mơ thành hiện thực.Trước hết là đập đầu (theo nghĩa đen) hơn 2 triệu người ( 1/4 dân số ) Đương nhiên trí thức phải chết đầu bảng.Cách thiết lập xã hội mới của những người theo CNXH ở đây cực kỳ đơn giản. Lênin lên án Ngân hàng (tư bản) là bóc lột bình phương thì các học trò Campuchia cho rằng thế thì cần gì phải lý luận rắc rối : cho mìn nổ tung các ngân hàng và kho bạc là tiêu ngay các kiểu bóc lột (kể cả bóc lột bình phương!). Và họ đã thực hành chỉ trong nháy mắt. Một xã hội không cần tiền tệ, không cần trí thức, không cần tôn giáo vv..một xã hội vô văn hoá, một quốc gia vô đạo hay chính xác hơn một trại tập trung khổng lồ theo nghĩa đen đã hình thành.
Vẫn còn nhiều kiểu quốc gia vô đạo khác nhưng chỉ nêu lên một vài ví dụ đủ để chứng minh cho lời tiên tri của Hayek và đương nhiên cho những lời tiên tri tương tự của những chính trị gia lỗi lạc khác phát biểu cách đây hàng trăm năm mà tác giả dầy công sưu tầm, đã lấy cảm hứng từ đó viết nên tuyệt tác: “Con đường dẫn tới nô lệ” mà chúng ta đang đọc hiện nay. Tất cả nhũng lời tiên tri c
ảnh báo của ông và các bậc thầy của ông có thể nói là “chính xác tới từng milimet”! Vĩ đại thay những bộ óc siêu phàm! Hạnh phúc thay bởi trí tuệ tỉnh táo của con người !
Trước khi đi sâu vào những lời tiên tri cũng cần nói ngắn gọn đôi lời về thuật ngữ CNXH. Vì nếu bàn kỹ về đề tài này có lẽ phải cần tới hàng trăm trang giấy cũng chưa đủ. CNXH là một tư tưởng manh nha từ thời cổ đại và tới cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 thì phát triển mạnh mẽ thành phong trào có cơ sở xã hội rộng lớn có lý luận chặt chẽ có chính đảng đại diện và trở thành chủ trương chính sách của rất nhiều quốc gia trên thế giới ( chưa kể tới các nước trong hệ thống CNXH theo chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ nói kỹ ở đoạn sau)
Nội dung cơ bản của tư tưởng XHCN tóm tắt như sau : về đạo đức, đề cao chủ nghĩa tập thể, lên án chủ nghiã cá nhân.Về kinh tế chủ trương công hữu hoá tư liệu SX. Nhà nước điều hành tập trung nền kinh tế quốc gia theo một kế hoạch thống nhất loại bỏ tự do cạnh tranh. Hayek nói nguyên văn : chủ nghĩa xã hội đó có nghĩa không hề mơ hồ là quốc hữu hoá các tư liệu sản xuất và kế hoạch hoá kinh tế tập trung cái mà điều này làm cho có thể và cần thiết. Lênin nói: Cả xã hội sẽ trở thành một cơ quan duy nhất một nhà máy duy nhất với sự bình đẳng về việc làm và về lương. Về bản chất nó là một trong nhiều kiểu lời giải cho bài toán muôn thủa của loài người : phải tìm cách cải biến xã hội đương thời vì nó có nhiều vấn đề quá ! Loài người không bao giờ thoả mãn với hiện tại cho nên mệnh đề được nhấn mạnh này đúng cho mọi thời đại vì đây chính là bản năng phát triển tự nhiên của xã hội loài người văn minh. Điều then chốt và cốt tử nhất là ở chỗ cải biến xã hội như thế nào mà thôi.
Hayek không khẳng định như đinh đóng cột mọi kiểu CNXH đều dẫn tới chuyên chế, ông chỉ cảnh báo nguy cơ này và nhấn mạnh về những hậu quả rất khó chịu ngoài mong muốn sẽ xẩy ra : Có thảm hoạ nào có thể tưởng tượng nổi lớn hơn là, trong nỗ lực có ý thức của chúng ta để tạo hình tương lai của mình cho phù hợp với các lí tưởng cao quí, chúng ta thực ra lại tạo ra một cách không chủ tâm chính cái đối lập với cái mà chúng ta đã hằng phấn đấu.Tuy nhiên chủ nghĩa XH trên thực tế thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau và hệ quả cũng rất khác nhau.Trong khi phân tích quá trình thực hành CNXH ở các quốc gia như Anh, Mỹ, ý, Pháp, Đức…ông đặc biệt nhấn mạnh tới nước Đức vì ở đây CNXH phát triển rất mạnh mẽ, có lý luận chặt chẽ và một đảng hùng mạnh đứng đầu.(Đảng Xã Hội Quốc Gia – Quốc xã : Nazi) Như chúng ta đã thấy CNXH Đức đã phát triển dẫn tới chủ nghĩa dân tộc cực đoan và phát xít với bao thảm hoạ kinh hoàng cho nhân loại. Một phong trào XHCN cực kỳ quan trọng khác đó là chủ nghĩa XH của Mac do Lenin phát triển thêm nói tắt là CN Mac-Lenin hay CNCS đều được. Phong trào này phát triển mạnh mẽ nhất, rộng lớn nhất, triệt để nhất nếu không nói là cực đoan nhất. Với lý tưởng hấp dẫn, lý luận chặt chẽ, được lôi kéo và dẫn dắt bởi vô số những chuyên gia CM lão luyện và tràn trề lòng đam mê cứu rỗi nhân loại nên CNXH của Mac như có một ma lực kỳ bí đã dễ dàng tập hợp đươc hàng triệu, triệu quần chúng, hình thành 1 thế giới XHCN hoành tráng và đầy hấp dẫn. Phần còn lại của thế giới lập tức choáng váng lao đao vì những người CS công khai tuyên bố chủ nghĩa tư bản là thối nát, là nguồn gốc tội lỗi và đau khổ và sẽ đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản để xây dựng một thiên đường mới trên trái đất. Nhưng sau một quãng thời gian vô cùng bé nhỏ so với lịch sử, thế giới kiêu hùng này đã giẫy giụa và chết bẽ bàng như một cỗ xe rệu rã, quá đát và hết khả năng nâng cấp. Khó có thể thể bình luận về cái chết của một thế giới trong một câu văn. Càng không thể phân tích về một thế giới phức tạp chỉ trong một vài đoạn văn. Rất nhiều công trình các kiểu lớn nhỏ phân tích, đánh giá về CNCS đã ra đời. Những người bảo vệ CNCS thì đều cho rằng biết rồi khổ lắm nói mãi đó là luận điệu của kẻ thù đấy mà! Vậy thì xin phép được trích dẫn đánh giá gần đây nhất về CNCS của một định chế quốc tế rất lớn, rất có uy tín hiện nay và chắc chắn không ai dám ngạo mạn đến mức vô liêm sỉ xem là kẻ thù của những người CS được, đó là Nghị quyết 1481 (25-1-2006) của Nghị viện chung Châu Âu (Parliamentary Assembly Council of Europe ). Hãy xem đại diện cao nhất cho gần một tỷ người dân của toàn bộ 46 quốc gia Châu Âu, miền đất hãnh diện đầy ắp tinh hoa nhân văn của thế giới , là ngọn nguồn, là cái nôi vĩ đại từ ngàn xưa cho tới nay của nhiều đỉnh cao văn minh loài người đã đánh giá CNCS như thế nào :
Parliamentary Assembly Council of Europe – (PACE)
Provisional edition Resolution 1481- (2006)1
Need for international condemnation of crimes of totalitarian communist regimes
( Nhu cầu kết án quốc tế về những tội phạm của những chế độ cộng sản toàn trị)
( Trích 4 trong tổng số 14 điều )
NGHỊ QUYẾT 1481, ĐIỀU HAI : “… Những chế độ độc tài toàn trị cộng sản gồm khối Liên xô, Đông Âu trong thế kỷ XX và một số chế độ cộng sản hiện vẫn cũng cầm quyền ở 4 nước trên thế giới, đều là những quốc gia vi phạm nhân quyền. Những vi phạm này tuy khác nhau về cấp độ văn hoá, về ranh giới quốc gia, cũng như tùy giai đoạn lịch sử nhưng đều có chung những cuộc giết người tập thể, ám sát, thủ tiêu cá nhân không cần xét xử, biến đất nước thành trại tập trung với sự đầy đọa con người về thể xác cũng như tinh thần : tra tấn, nô lệ hoá, lao động khổ sai, tù đầy, khủng bố tập thể, ngược đãi, ám sát vì lý do chủng tộc, tôn giáo, chính kiến; vi phạm quyền tự do tư tưởng, xúc phạm lương tâm con người, cấm tự do báo chí, tự do chính trị, độc tôn, độc quyền, độc đảng…”
NGHỊ QUYẾT 1481, ĐIỀU BA : “ Những tội ác được biện minh nhân danh chủ thuyết đấu tranh giai cấ
p, chuyên chế vô sản. Sự bao biện cho hai nguyên lý cai trị cộng sản trên đã hợp thức hoá việc thủ tiêu hàng triệu người bị cho là có hại cho xã hội chủ nghĩa, những người bị gán cho là phản động, kẻ thù giai cấp. Hầu hết nạn nhân chế độ cộng sản chính là công dân của nước đó. Điển hình là những tội ác sát nhân ghê rợn ở Liên Xô, Đông Âu cũ và các quốc gia cộng sản khác…”
NGHỊ QUYẾT 1481, ĐIỀU NĂM : “Sự sụp đổ của khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô chưa được điều tra kỹ lưỡng bằng tổ chức quốc tế để thống kê hết tội ác của cộng sản, đặng đưa tác giả của những tội ác tày trời này ra xét xử trước cộng đồng nhân loại, như từng đưa bọn phát xít quốc xã ra tòa…”
NGHỊ QUYẾT 1481, ĐIỀU CHÍN : “Các chế độ độc tài toàn trị còn lại trên thế giới vẫn tiếp tục gây tội ác. Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia để bao biện, lấp liếm sự lên án của cộng đồng nhân loại với các tội ác của các chế độ toàn trị này. Quốc hội chung châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như là tội ác chống nhân loại ! …”
Những lời tiên tri
Những đoạn văn cảnh báo có tính tiên tri sau đây được trích dẫn nguyên văn trong sách và đều được in nghiêng. Đoạn tô đậm, chữ đứng là do biên tập . Xin phép nêu tên tác giả được trích dẫn lên đầu để dễ ghi nhớ.
F. Helderlin Cái luôn làm cho nhà nước thành địa ngục trên trần gian chính là con người đã cố biến nó thành thiên đường của mình-
De Tocqueville và Lord Acton ( dẫn ra bởi Hayek) Mặc dù chúng ta đã được một vài nhà tư tưởng chính trị vĩ đại nhất của thế kỉ thứ mười chín, De Tocqueville và Lord Acton, cảnh báo rằng chủ nghĩa xã hội có nghĩa là nô lệ, chúng ta vẫn tiến thẳng theo hướng của chủ nghĩa xã hội. Và giờ đây chúng ta đã thấy một dạng mới của cảnh nô lệ nảy sinh trước mắt chúng ta, chúng ta đã hoàn toàn quên mất lời cảnh báo hiếm khi xảy ra với mình rằng hai thứ có thể liên hệ với nhau.
Hilaire Belloc
“tác động của chủ thuyết Xã hội chủ nghĩa lên xã hội Tư bản tạo ra một loại thứ ba khác với cả hai thứ ấy – tức là, Nhà nước Nô lệ” (The Servile State [1913]
W. H. Chamberlin
“chủ nghĩa xã hội chắc chắn chứng tỏ, chí ít bước đầu, là con đường KHÔNG dẫn tới tự do, mà dẫn tới chế độ độc tài và phản-độc tài, dẫn tới nội chiến ác liệt nhất. Chủ nghĩa xã hội được hoàn tất và được duy trì bởi các phương tiện dân chủ xem ra dứt khoát thuộc vào thế giới không tưởng”.
De Tocqueville ( dẫn ra bởi Hayek)
“Dân chủ mở rộng phạm vi của quyền tự do cá nhân”, ông nói năm 1848; “chủ nghĩa xã hội hạn chế nó. Dân chủ gắn mọi giá trị khả dĩ cho mỗi người; chủ nghĩa xã hội biến mỗi người thành một đặc vụ, một con số thuần tuý. Dân chủ và chủ nghĩa xã hội chẳng có gì chung trừ một từ: bình đẳng. Nhưng hãy để ý sự khác biệt: trong khi dân chủ tìm kiếm bình đẳng trong tự do, chủ nghĩa xã hội tìm kiếm bình đẳng trong trạng thái kiềm chế và nô lệ”.
Không ai thấy rõ hơn De Tocqueville rằng nền dân chủ như một định chế cơ bản mang tính cá nhân chủ nghĩa mâu thuẫn không thể hoà giải với chủ nghĩa xã hội
Nếu như rốt cục, tôi tìm thấy được một thể thức chung để diễn đạt cái mà đối với tôi là chủ nghĩa xã hội trong tổng thể của nó thì đó chính là một thể thức nô lệ mới] (“Si, en définitive, j\’avais à trouver une formule générale pour exprimer ce que m\’apparait le socialisme dans son ensemble, je dirais que c\’est une nouvelle formule de la servitude.”)
…sau khi đã tóm lấy mỗi thành viên của cộng đồng dưới quyền lực hùng mạnh của nó, và nhào nặn anh ta một cách tuỳ ý, quyền lực tối cao sau đó giơ tay ra tóm toàn bộ cộng đồng. Nó bao phủ bề mặt của xã hội bằng một mạng lưới các qui tắc nhỏ phức tạp, chi li và cùng một kiểu, qua đó những người có trí tuệ độc đáo nhất và có tính cách năng động nhất cũng không thể xuyên qua để vượt lên trên đám đông. Ý chí của con người không bị phá huỷ hoàn toàn, mà được làm mềm đi, được nắn cong và được hướng dẫn; nó hiếm khi buộc những con người hành động, nhưng họ liên tục bị kiềm chế khỏi hành động. Một quyền lực như vậy không phá huỷ, nhưng nó ngăn cản sự tồn tại; nó không cai trị một cách hung tàn, nhưng nó đè nén, làm kiệt sức, làm lu mờ, và làm u mê một dân tộc, cho đến khi mỗi quốc gia bị sa sút thành chẳng gì hơn một bầy động vật công nghiệp nhút nhát, mà chính phủ là người chăn dắt
Lord Acton ( dẫn ra bởi Hayek)
Như Lord Acton đã chỉ ra lâu lắm rồi: “Bất cứ khi nào một khách thể xác định, đơn lẻ được tôn lên thành mục tiêu tối thượng của Quốc gia, đẩy nó trở thành lợi thế của một tầng lớp, thành vật bảo vệ hay sức mạnh của đất nước, thành niềm hạnh phúc lớn lao nhất cho một số đông nhất hoặc niềm động viên cho bất kỳ một lý tưởng suy biện nào thì Quốc gia đó nhất định sẽ rơi vào tình trạng vô luật trong thời đại đó”
Hayek
Ở đâu có một mục đích chung quan trọng hơn tất cả, thì chẳng có chỗ cho bất kể đạo đức hoặc qui tắc chung nào
Lord Acton
Cơ hội tốt nhất từng được ban tặng cho thế giới đã bị vứt đi bởi vị niềm say mê về bình đẳng đã làm cho hi vọng về tự do trở nên hão huyền.
Các tác giả Pháp ( dẫn ra bởi Hayek)
Bây giờ hiếm khi còn nhớ rằng chủ nghĩa xã hội lúc ban đầu đã là độc tài thẳng thừng Các tác giả Pháp, những người đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội hiện đại đã không hề nghi ngờ rằng các tư tưởng của họ có thể đưa vào thực tiễn chỉ bởi chính phủ độc tài mạnh. Theo họ chủ nghĩa xã hội có nghĩa là một cố gắng để “chấm dứt cách mạng” bằng sự tái tổ chức xã hội một cách có chủ ý theo các đường hướng thứ bậc và bằng cách áp đặt một “quyền lực tinh thần” cưỡng bức.
Saint-Simon ( dẫn ra bởi Hayek) người đầu tiên trong các nhà kế hoạch hoá hiện đại, Saint-Simon, thậm chí đã tiên đoán rằng những người không tuân theo các uỷ ban kế hoạch hoá do ông kiến nghị sẽ được “đối xử như súc vật”.
Hayek
Không thể có nghi ngờ gì, rằng hứa hẹn về quyền tự do lớn hơn đã trở thành một trong những vũ khí hữu hiệu nhất của cơ quan tuyên truyền xã hội chủ nghĩa, rằng lòng tin là chủ nghĩa xã hội sẽ mang lại tự do là lòng tin chân thật và chân thành. Nhưng điều này chỉ tăng thêm thảm kịch nếu chứng tỏ rằng cái được hứa hẹn với chúng ta như Con đường dẫn tới Tự do lại thực ra là Đại Lộ dẫn tới sự Nô lệ. Không thể chối cãi, lời hứa nhiều tự do hơn là cái chịu trách nhiệm về sự cám dỗ nhiều và nhiều hơn những người theo chủ nghĩa tự do theo con đường xã hội chủ nghĩa, về làm mù quáng họ đối với cuộc xung đột tồn tại giữa các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tự do
Cái mà tôi biện luận trong cuốn sách này, và cái mà kinh nghiệm ở Anh thuyết phục tôi lại cũng đúng hơn, là những hậu quả không lường trước nhưng không thể tránh khỏi của kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa tạo ra một trạng thái trong đó, nếu chính sách được theo đuổi, các thế lực chuyên chế sẽ thắng thế
Các nhà độc tài chuyên chế cũng mau chóng phải chọn giữa việc không đếm xỉa đến đạo đức thông thường và sự thất bại. Chính vì lí do này mà những người vô liêm sỉ và không bị cấm đoán chắc là thành công hơn trong một xã hội hướng tới chủ nghĩa chuyên chế.
Kẻ thù, bất luận kẻ thù bên trong, như “người Do Thái” hay “kulak, địa chủ”, hoặc kẻ thù bên ngoài, dường như là một cái tất yếu không thể thiếu được trong kho tàng vũ khí của một thủ lĩnh chuyên chế.
Russell mô tả rất khéo, sự khát khao để tổ chức cuộc sống xã hội theo một kế hoạch nhất thể bắt nguồn chủ yếu từ khát khao quyền lực. để đạt được mục đích của họ, những người theo chủ nghĩa tập thể phải tạo ra quyền lực- quyền lực trên con người được người khác sử dụng- có độ lớn chưa từng biết đến trước đây, và rằng thành công của họ sẽ phụ thuộc vào mức độ mà họ đạt được quyền lực như vậy
Nguyên tắc mục đích biện minh cho phương tiện được coi là sự phủ nhận mọi đạo đức trong đạo lí cá nhân chủ nghĩa. Trong đạo lí tập thể chủ nghĩa nó tất yếu trở thành qui tắc tối cao.
Một khi thừa nhận rằng cá nhân đơn thuần chỉ là một công cụ phục vụ cho các mục đích của thực thể cao hơn được gọi là xã hội hoặc quốc gia, thì hầu hết các nét đặc trưng của các chế độ chuyên chế mà chúng ta kinh tởm tất yếu nảy sinh.
Nhìn từ quan điểm tập thể chủ nghĩa, sự đàn áp không khoan nhượng và tàn bạo sự bất đồng quan điểm, sự coi thường hoàn toàn đời sống và hạnh phúc cá nhân, là những hệ quả thiết yếu và không tránh khỏi của tiền đề này, và người theo chủ nghĩa tập thể có thể chấp nhận điều này và đồng thời cho rằng hệ thống của mình là ưu việt hơn hệ thống trong đó các quyền lợi “ích kỉ” của cá nhân được phép cản trở sự thực hiện đầy đủ các mục đích mà cộng đồng theo đuổi
Ở đâu có một mục đích chung quan trọng hơn tất cả, thì chẳng có chỗ cho bất kể đạo đức hoặc qui tắc chung nào
Nhưng ở nơi một vài mục đích cụ thể ngự trị toàn bộ xã hội, không tránh khỏi là đôi khi sự tàn ác có thể trở thành một nhiệm vụ; và các hành động làm kinh hoàng mọi cảm xúc của chúng ta, như bắn con tin hoặc giết người già hay người ốm yếu, phải được coi đơn thuần như thủ đoạn cần thiết; rằng việc nhổ tận gốc và đày ải cưỡng bách hàng trăm ngàn người phải trở thành một công cụ chính sách được hầu hết mọi người chấp nhận trừ các nạn nhân.
Luôn có trong con mắt của người tập thể chủ nghĩa một mục tiêu lớn hơn mà các hành động này phục vụ và đối với anh ta nó biện minh cho chúng bởi vị theo đuổi mục đích chung của xã hội không thể biết giới hạn nào về bất kể quyền hoặc giá trị
nào của bất kể ai.
Để là một người trợ giúp hữu hiệu trong điều hành một quốc gia chuyên chế, không đủ là một người phải sẵn sàng chấp nhận sự biện hộ bề ngoài của các hành động đê tiện; bản thân anh ta phải sẵn sàng vi phạm mọi qui tắc đạo đức mà anh ta đã từng biết, nếu điều này tỏ ra cần thiết để đạt mục đích đặt ra cho anh ta. Vị lãnh tụ tối cao là người duy nhất xác định các mục đích, các công cụ của ông ta không được có nhận thức tội lỗi đạo đức riêng nào. Họ, trên hết, phải hoàn toàn tận tuỵ với cá nhân lãnh tụ; nhưng ngay sau việc quan trọng nhất này họ phải hoàn toàn vô lương và đúng có khả năng làm mọi thứ. Họ phải không có lí tưởng riêng nào mà họ muốn thực hiện; không có ý tưởng nào về cái đúng cái sai có thể gây trở ngại cho các ý định của lãnh tụ
Tuy trong khi có ít cơ hội để thuyết phục những người tốt theo tiêu chuẩn của chúng ta mong có được các vị trí lãnh đạo trong bộ máy chuyên chế, và có nhiều cơ hội để cản trở họ, thì lại sẽ có các cơ hội đặc biệt cho những kẻ tàn nhẫn và vô liêm sỉ.
Sự sẵn sàng làm việc xấu xa trở thành một con đường để thăng tiến và tới quyền lực. Các vị trí trong một xã hội chuyên chế trong đó nhất thiết phải thực hành tàn bạo và hăm doạ, lừa dối và do thám có chủ tâm, là rất nhiều.
Nhà tuyên truyền tài ba khi đó có năng lực nhào nặn tâm trí của họ theo bất kỳ hướng nào ông ta chọn, và thậm chí những người thông minh nhất và độc lập nhất cũng không thể hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng đó nếu họ từ lâu bị cô lập khỏi tất cả các nguồn thông tin khác.
Tuy vậy các hệ quả đạo đức của tuyên truyền chuyên chế thậm chí còn sâu sắc hơn. Nó phá huỷ mọi đạo đức bởi vị nó làm xói mòn một trong các nền tảng của mọi đạo đức: nhận thức về và tôn trọng sự thật.
Có lẽ sự thực đáng sợ nhất là sự khinh miệt tự do trí tuệ không phải là thứ chỉ nảy sinh khi hệ thống chuyên chế được thiết lập, mà là cái có thể thấy ở mọi nơi giữa các nhà trí thức những người đã có niềm tin tập thể chủ nghĩa và những người coi mình là các thủ lĩnh trí thức ngay cả ở các nước vẫn cũng ở dưới chế độ tự do. Sự đàn áp tồi tệ nhất được tha thứ (nếu nó được tiến hành nhân danh chủ nghĩa xã hội), sự tạo ra một hệ thống chuyên chế được ủng hộ công khai bởi những người tự phụ lên mặt để nói cho các nhà khoa học ở các nước tự do; tính không khoan dung cũng được ca tụng
Thảm hoạ của tư tưởng tập thể chủ nghĩa là, trong khi nó xuất phát để làm cho lí trí là tối thượng, nó kết thúc bằng sự phá huỷ lí trí bởi vì nó nhận thức sai quá trình mà sự phát triển lí trí phụ thuộc vào trong khi chỉ có cách tiếp cận cá nhân chủ nghĩa đối với các hiện tượng xã hội mới làm cho chúng ta nhận ra rằng các lực lượng siêu-cá-nhân là các lực lượng chỉ đạo sự phát triển của lí trí. Cá nhân chủ nghĩa như vậy là một thái độ của nhân tính trước quá trình xã hội này và của sự khoan dung đối với các ý kiến khác và là hoàn toàn trái ngược với thái độ trí thức ngạo mạn nằm ở gốc rễ của đòi hỏi về sự chỉ huy toàn diện quá trình xã hội.
Mặt khác Hayek biện luận rất sắc sảo, quyết liệt và cho rằng chính những nhân tố XHCN đã tạo nên nền chuyên chế tàn bạo của Hitler chứ không phải là đặc điểm riêng, đặc điểm xấu của người Đức tạo nên.
Nhưng sẽ là sai lầm nếu tin rằng đặc điểm Đức chứ không phải nhân tố xã hội chủ nghĩa là cái tạo ra chế độ chuyên chế. Chính sự thịnh hành của các quan điểm xã hội chủ nghĩa chứ không phải chủ nghĩa Phổ là cái nước Đức có chung với Ý và Nga – và Chủ nghĩa xã hội Quốc gia (Quốc xã) nảy sinh chính là từ quần chúng chứ không phải từ các giai cấp trong truyền thống Phổ, và được quần chúng mến mộ.
Vẫn còn có ít dấu hiệu cho thấy chúng ta đã có dũng khí trí tuệ để thú nhận với chính mình rằng có thể chúng ta đã sai.
Ít người sẵn sàng thừa nhận rằng căn nguyên của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa Nazi không phải là một phản ứng chống lại các khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của thời kỳ trước đó mà chính là một kết quả tất yếu của các xu hướng ấy. Đây là một sự thật mà hầu hết người dân không muốn nhận ra ngay cả khi những sự giống nhau của nhiều đặc điểm kinh tởm của các chế độ nội tại ở nước Nga Cộng sản và nước Đức Xã hội chủ nghĩa Quốc gia (Quốc Xã) được thừa nhận rộng rói.
Như một kết quả, nhiều người tự nghĩ là mình ưu việt hơn chủ nghĩa Nazi, và thật lòng căm ghét mọi biểu hiện của nó, lại đồng thời hoạt động cho các lí tưởng mà sự thực hiện chúng sẽ dẫn thẳng đến sự chuyên chế ghê tởm
Đến đây xin phép mượn lời hậu tri của một học giả VN để kết thúc cho bài trich dẫn những lời tiên tri về CNXH này:
“Vấn đề là cần làm sao kịp thời thức tỉnh, đừng biến mình thành nạn nhân của trò chơi lý trí – một kiểu trò chơi ú tim. Lý trí là mặt sáng mà giải lý trí là mặt tối, nhưng mặt sáng nhiều khi là ảo còn mặt tối mới chứa đựng sự thực, cái sự thực của những viên kim cương nằm sâu trong lòng đá. Từ gần hai thế kỷ nay, biết bao định hướng nạm vàng bằng “lý trí thông thái”, Tây cũng như Đông, đã lần lượt làm đá lát đường dẫn con người… xuống địa ngục\” (Huệ Chi)